27/2/09

Phạm Xuân Nguyên : Những đoản khúc Lê Đạt

Những đoản khúc Lê Đạt


Đám tang nhà thơ Lê Đạt đã cử hành sáng thứ sáu 25.4.2008 tại Hà Nội. Chúng tôi giới thiệu dưới đây một loạt bài về Lê Đạt của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên.


Những đoản khúc Lê Đạt

Phạm Xuân Nguyên

Người “phu chữ” Lê Đạt đã dừng chân trên công trường chữ sản xuất thơ ca. Trong “bộ tứ” nhà thơ thường được nhắc đến của thời Nhân Văn – Giai Phẩm, ông là người ra đi thứ ba, sau Phùng Quán, Trần Dần. Cả bốn ông rồi ra đều được trao tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhưng hơn hết, Lê Đạt, cùng với Hoàng Cầm, tuổi trời còn cho sống để được sống lại đời thơ của mình trong dòng chảy văn học chung của dân tộc, để được phát lộ mình dẫu muộn màng trong sự vận động mới của văn học nước nhà.

Lê Đạt trở lại với thi đàn sau gần ba mươi năm im tiếng là khắc ghi ngay ấn tượng của mình đối với giới thơ và công chúng yêu thơ. Lê Đạt của thời Cha tôi (1956) đã biết không cam chịu cảnh sống “Rũ đầu chết ngạt trong bùn / Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng”. Lê Đạt của thời Bài thơ trên ghế đá (1957) đã biết yêu tự do cho mỗi cảm xúc, tư tưởng. Khi ấy, Lê Đạt đang là một nhà thơ trẻ với tất cả sự hăng say và mạnh mẽ của tuổi trẻ cùng với một lòng tin chân thành và lãng mạn của một thế hệ vừa làm xong một cuộc kháng chiến thần thánh giải phóng đất nước. Ba mươi năm sau, khi đất nước làm một cuộc đổi mới, Lê Đạt đã ở tuổi lên lão, nhưng thơ ông nấu nung trong lò cừ tâm trí văn hóa của một người biết sống và biết đọc đã làm bất ngờ cả những người vốn chờ đợi. Không kể lớp trẻ như ông, hoặc trẻ hơn ông thời trước, họ đã bị kinh ngạc. Tập thơ Bóng chữ (1994) của Lê Đạt như một tuyên ngôn, như một thách thức người làm thơ và người đọc thơ.

Tuổi lú lẫn
ngược nhầm ga trẻ dại
Hay ngây ngô không biết lối về già
Thơ thẩn chữ ngã ba

Những câu thơ không dễ đọc do sự phối trí khác lạ âm và thanh, chữ và nghĩa, cùng với một tuyên bố nhà thơ là “phu chữ”, người làm thơ không thể chỉ biết tiêu thụ cái nghĩa tự vị của từ như trong từ điển, đã khiến nhiều người hoang mang, lo lắng. Chữ hay là bóng chữ mới là cốt yếu của thơ. Có người đọc thơ Lê Đạt ngộ ra những khả năng, những chân trời mới của thơ. Có người, trái lại, đọc thơ ông mà thấy như lạc lối. Một cuộc tranh luận đã bùng ra quanh Bóng chữ. Nhiều người đọc, và khá nhiều người làm thơ, đã phải nghe giảng giải thơ là gì, thơ là thế nào, như để có một chiếc chìa khóa mở cửa vào thơ Lê Đạt. Trong khi gây đột biến đó cho làng thơ, Lê Đạt vẫn âm thầm, miệt mài sự lao động chữ như khổ sai mà lại như khoái cảm của mình cho thơ. Mặc ai bàn tán, khen chê, ông cứ thẳng một đường mình đi. Làm thơ không thôi, ông còn viết truyện mượn những câu chuyện có thực trong đời các văn nhân thi sĩ cổ kim đông tây muôn đời để lật trở những vấn đề luôn là mối bận tâm hàng đầu của những ai đã trót dan díu với chữ, với thơ, đã nguyện làm phu chữ đến trọn đời. Ngay cả khi có những bạn trẻ gần đây đem ý “phu chữ” của ông đối lập một cách trật hệ thống với ý “máu chữ” của một nhà thơ khác để trách móc, phỉ báng ông, ông không chấp nê, không lấy làm điều. Với ông, được làm thơ, được sống với thơ, được cùng thơ thoả khát vọng phiêu lưu cùng chữ và nghĩa, thế là đã đủ mãn nguyện, đã sung sướng được sinh ra đời làm một người sáng tạo.

Đọc Lê Đạt ở bất cứ cái gì ông viết ra nói ra, dù đó là thơ, là truyện, là bài tản mạn hay bài trò chuyện, tôi luôn bị ấn tượng bởi cách nói, cũng tức là phản ánh cách tư duy, của ông. Một cách tư duy và một cách nói ra thành lời những điều tư duy in đậm cái nét riêng không thể lẫn trộn của Lê Đạt. Nó khiến người đọc không thể thờ ơ những điều ông nghĩ, ông nói. Nó khiến Lê Đạt vẫn hiện đại đồng hành cùng lớp trẻ đầu thế kỷ XXI. Nó khiến người ta phải nhìn lại thơ bằng con mắt duy lý, ngoài sự thành kính, đam mê, và cảm xúc. Ông không ngừng sục sạo các ngõ ngách của từ và tiếng, của chữ và lời, không ngại làm mới và không sợ bị coi là khác lạ. Cho nên mới có thơ Haikâu mang thi hiệu Lê Đạt. Có phải nhờ thế những bài thơ ông viết ở buổi mới khi thành công đã lập tức được thừa nhận và trở thành như cổ điển. Thơ Lê Đạt cổ điển trong vẻ hiện đại, đẹp trong sự tân kỳ. Tưởng nhớ ông, hãy cùng đọc lại một bài thơ thành công nhất của ông.

Bóng chữ

Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu

bóng chữ động chân cầu


Cái mùi hoa đi vắng mà vẫn làm thức vườn, cái sự em ở đâu khi em vẫn ở đây – đó chính là bóng chữ của Lê Đạt, chính là thơ ông.

Người “phu chữ” đã nằm xuống


Hai tiếng “phu chữ” từ khi được Lê Đạt nói ra đã trở thành thông dụng, thành một thứ câu cửa miệng trong giới thơ và cả trong công chúng. Không dễ được như vậy nếu nó không được đảm bảo bằng chính cả cuộc đời lao động nghệ thuật thơ, lao động chữ của ông. Đối với Lê Đạt, cũng như với các thân hữu văn chương của ông Hoàng Cầm, Trần Dần, Dương Tường, làm thơ là làm chữ, là phải khổ công luyện chữ để bắt những con chữ bình thường, đơn giản với nghĩa tiêu dùng hàng ngày bật ra những nghĩa mới, những vẻ đẹp bất ngờ từ sự tương cận, cọ sát, va chạm của chúng khi đứng cạnh nhau trong một trường liên kết và liên tưởng do chính nhà thơ đưa chúng vào. Từ những bài thơ mang nặng tính hiện thực thời kỳ đầu, trải hơn ba mươi năm âm thầm đọc và học, tìm và thử trong thế giới con chữ Việt, khi hoàn cảnh lịch sử mở cửa cho ông trở lại thi đàn vào thập niên 1980, Lê Đạt đã có vàng luyện từ quặng của mình đem ra trình trước thơ. Hai tập Bóng chữ (1994) và Ngó lời (1997) của ông thực sự đã gây bất ngờ đột phá. Người đọc bước vào thơ ông với tâm trạng vừa thích thú, tò mò, vừa e dè, hoang mang. Nhưng có một điều chắc là họ đã được nhận một khoái cảm khác lạ từ những phá cách kết cấu câu chữ đưa lại những kết hợp mới của từ mà người “phu chữ” Lê Đạt đã dày công tìm tòi, thử nghiệm. Này là mùa thu “Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ”. Này là sông quê “nắng mười tám má bờ đê con gái”. Này là mới tuổi “mùa xuân phăn phăn lòng đường”. Này là tỏ tình “liễu đầu cành độc thoại đoạn trường xanh”. Ông có hẳn một kiểu thơ Haikâu, chỉ từng cặp thơ thôi nhưng mỗi lần đọc là đưa lại một khám phá, mỗi lần nhìn con chữ là lại thấy một công phu sáng tạo. Tưởng như ông gò mình vào giới hạn tối thiểu của hai dòng thơ, nhưng đấy là cách ông tự thử thách năng lực thơ của mình thông qua thử thách các khả năng biến hoá, thay đổi của chữ, để trong một diện tích tối thiểu chữ đạt được tối đa năng lượng cảm xúc thơ.

Xuân bắt đầu tàu nhanh
xanh thức ngủ
Tình tăng bo toa đỗ đoạn bạc đầu

Ngực dự hương thơm đêm mùi tuổi chín
Mắt lá tre đằng ngâm mộng ba giăng

Máy nhắn chim tin tìm mê lộ số
Lòng khác tình tìm đổi số lặng thinh


Thế hệ nhà thơ của Lê Đạt càng cao tuổi càng trẻ, trẻ trong tư duy, cảm xúc, trẻ trong cách sống. Có lẽ cái trẻ ấy của Lê Đạt đến từ tri thức ông thu nhận và tích lũy được qua sách vở tự học và từ những trải nghiệm đường đời nhiều gian truân và khổ nạn. Ông chơi nhiều với các nhà thơ trẻ, cổ vũ họ tìm tòi, khám phá, thách thức họ khẳng định mình, với ông trước thơ tất cả đều bình đẳng trong những nỗ lực sáng tạo không ngừng.

Hai tập sách gần đây nhưng đã thành ra là cuối cùng của Lê Đạt : tập truyện Mi là người bình thường và tập thơ U75 từ tình vẫn rừng rực một nỗi khát vọng sống, khát vọng thơ, vẫn nguyên khí chất Lê Đạt. “Trong tình yêu người ta thường tiêu hai thứ tiền. Và nhà thơ bao giờ tim cũng chỉ tệ mạnh. Riêng có từ vốn nặng lòng. Thơ chính là từ tình, cũng có nghĩa tự tình tức là yêu đơn thương, yêu thất tình, yêu bóng. Đó là nỗi sầu vạn cổ cũng là thách thức và niềm lạc quan ngoan cố của nhà thơ”. Lê Đạt có nhiều câu nói với nhiều cách nói khác lạ và ấn tượng như vậy về thơ, nghề thơ và về nhà thơ.

Bây giờ Lê Đạt, người “phu chữ”, đã nằm xuống, sau “một đời lao lực, một đời thơ”. Những người đọc từ nay chỉ còn gặp ông trong “bóng chữ”, và nghe ông trong “ngó lời”. Và họ biết ơn ông đã làm cho họ biết quý yêu chữ, trân trọng chữ, không chỉ là để làm thơ. Nhưng đặc biệt là nhà thơ, như Lê Đạt: “Nhà thơ là người lao động ở môi trường tâm áp cao mà không có bồi dưỡng độc hại để sản xuất giống đặc chủng cho những mùa tình bội thu”. Đó là niềm kiêu hãnh của Lê Đạt.


Bay cho cao, bay cho xa


Đó là tiếng kêu mạnh mẽ, tin tưởng của người thơ trẻ Lê Đạt hơn năm mươi năm trước, vào giữa thập niên 1950, khi đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh lần thứ nhất phân chia hai miền, nửa miền Bắc bắt tay vào công cuộc kiến thiết mới cuộc sống và tâm hồn con người. Cái mới là đòi hỏi thường trực của kiếp nhân sinh, càng là đòi hỏi lớn của thơ ca nghệ thuật, và càng là đòi hỏi cấp thiết của tuổi trẻ. Tuổi hai mươi phải dũng cảm phá bỏ ràng buộc của những lề quen thói cũ, phải không cam chịu kiếp sống an phận thủ thường làm thui chột mọi khả năng sáng tạo. Những kiếp người sống lâu trăm tuổi / Y như một chiếc bình vôi / Càng sống càng tồi / Càng sống càng bé lại. Trong bản hòa tấu những tiếng thơ khao khát làm mới mình, làm mới thơ để dâng hiến cho cuộc đời và đất nước từ giai phẩm mùa xuân 1956, Lê Đạt đã cất tiếng kêu gọi :

Mới ! Mới !
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi…

Tiếng kêu ấy đã theo ông đi trọn cuộc đời làm người và làm thơ. Bị hoạn nạn, gặp khó khăn, nhưng ông không bao giờ bỏ tiếng kêu ấy lại phía sau. Đó chính là tiếng thơ của Lê Đạt. Ông, cùng với Trần Dần, Đặng Đình Hưng, là ba nhà thơ trong phong trào Nhân Văn cách tân mạnh mẽ, quyết liệt nhất của thơ Việt nửa sau thế kỷ XX.

Cách tân thơ của Lê Đạt là ở Chữ. Ông có thể mượn câu nói của một nhà thơ Pháp để nói về mình: Hãy đập vào chữ anh dùng, thiên tài là ở đấy ! (“Hãy đập vào trái tim anh, thiên tài là ở đấy” – A. Musset). Khi văn chương là ngôn ngữ, mà thơ lại là sự tập trung xoáy sâu vào ngôn ngữ, và ngôn ngữ hiện hình trên trang giấy bằng chữ, thì sao người làm thơ lại không trăn trở, vần xoay sống chết với chữ để bắt từng con chữ biểu phát ra những ánh chiếu khác lạ về âm sắc, nghĩa lý. Lao động chữ là một thứ lao động khổ sai nhưng tự nguyện, đau đớn nhưng khoái cảm. Lê Đạt không tự gọi mình và không cho gọi mình là thi sĩ. Ông chỉ nhận mình là “phu chữ”. Nội hai chữ này thôi đã nổi lên cái chất Lê Đạt. Sự lắp ghép, kết hợp “phu” và “chữ” đã tạo ra một từ mới, một khái niệm mới, một hình dung mới, biểu đạt được công phu tử vì thơ của người thơ. Nói tới Lê Đạt, vì vậy, trước hết và trên hết, là nói tới một người lao động chữ và nghĩa. Ông đã từng viết như một tuyên ngôn: “Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa “tiêu dùng”, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu thơ, bài thơ”. Ông quan niệm : Mọi câu thơ hay đều kỳ ngộ / Hẳn phải siêng năng, có lòng thành / và nhất là biết chờ / người đẹp vỏ chữ bước ra / giờ các con phe đi ngủ.

Bóng chữ (1994) tập thơ đưa ông tái xuất văn đàn là kết quả của mấy chục năm im lặng đọc, và nghĩ, và viết, vượt lên trên những hệ lụy khó nhọc của đời sống khốn khó vây níu mình. Lê Đạt trở lại đã không tụt hậu, đã vẫn mới, vẫn đủ năng lượng đốt cháy mình cho thơ, vẫn ở hàng đầu những người khổ sai và hạnh phúc vì chữ. Tập thơ lập tức gây dư luận, tạo dư chấn, và để dư âm.

Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nổi heo may từ đó

Mưa đêm tuổi nổi ao đầy
Đồi cốm đường thon ngõ cỏ
Bướm lượn bay hoa ngày
Tin phấn vàng hay thuở gió

Tóc hong mùi ca dao
Thu rất em
và xanh rất cao

Mùa thu đã được nói quá nhiều trong thơ ca dân tộc và nhân loại, nhưng bài thơ hay này của Lê Đạt là minh chứng cho một chân lý trong công việc sáng tạo: không có đề tài cũ, chỉ có người thơ không biết làm mới đề tài. Lê Đạt đã sử dụng và sai khiến các con chữ một cách sáng tạo tài tình để đưa tặng người đọc một bức tranh thu tình tứ vừa rất ca dao truyền thống vừa rất tân thời, hiện đại. Có thể tìm được trong tập Bóng chữ nhiều câu hay và khác lạ mang đúng “thi hiệu” Lê Đạt như vậy. Sớm hạ búp sen đôi gió / Sóng đòng buồm nhấp nhô thơm / Tóc liễu trường tân thơ cổ / Trời xanh côban rất Đường (Vào hè). Chữ khép lối đồi chim non câu ngủ / Trang tầm xuân cau chưa mở nụ ngà / Bến cửa ngực đèn lòng ga trăng rõi / Ngõ trắng bời bời mây nổi / U ú thiên hà tàu nhả khói ngã ba (Mới tuổi).

Tác phẩm giờ đây trở thành cuối cùng của Lê Đạt là tập U75 từ tình. Một tập sách như tổng kết cả một đời thơ lao lực đam mê của Lê Đạt khi tập hợp trong đó có những phần của các tập thơ trước và đặc biệt có những “Đoản ngôn” là những suy nghĩ, nhận xét của riêng ông, những câu truyện ông lấy ra từ cuộc đời các danh nhân đông tây kim cổ, tất cả đều xoáy vào chủ đề thơ ca và cuộc sống. Đó như một kiểu di chúc nghệ thuật của Lê Đạt. Ông đã ra đi sau khi vừa hoàn thành một cuộc hành trình dọc ngang đất nước hào sảng và thanh thản. Đọng lại với đời một hình ảnh Lê Đạt có tiếng cười to, đôi mắt hóm hỉnh, và khuất sau đó những âm thầm vật lộn trên trang viết. Tưởng nhớ Lê Đạt, cách tốt nhất là hãy học theo tinh thần của ông : “Cái mới thường vượt biên không có giấy thông hành”.

“Phó thường dân” nhà thơ

Lê Đạt xuất hiện trong các tập sáng tác giai phẩm mùa xuân, mùa thu năm 1956 bằng những bài thơ đầy nhiệt huyết công dân, đầy tinh thần cống hiến cho đất nước, cho thơ ca, khi đất nước vừa tắt khói lửa một cuộc chiến tranh và nửa nước đang trong cơn say lãng mạn. Mang tinh thần hừng hực như nhà thơ Nga V. Mayakovsky – một kiểu mẫu thơ hồi ấy ông và các bạn ông noi theo – Lê Đạt viết thơ Gửi kế hoạch nhà nước 1956 để thúc giục phải nhanh hơn, mạnh hơn, quyết liệt hơn cho sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.

Thực dân làm mười hai năm
Ta hoàn thành trong bốn tháng
Mỗi ngày thi đua cách mạng
Bằng mấy chục ngày thường
Ta nắm cổ thời gian
Quất cho phi nước đại.
Kéo ngày mai gần lại
Thúc vào lưng cuộc đời
Mở máy đến chân trời cộng sản

Ông thấy sứ mệnh của thơ là phải tham gia trực tiếp vào cuộc sống, phải đào luyện những con người là chủ nhân mới của đất nước. Làm thơ đối với người thơ Lê Đạt hồi tuổi thanh niên ấy cũng là một thứ lao động vinh quang. Nhà thơ tự nguyện được điều động, phân công để thơ có ích cho đời.

Em ơi !
Anh thức thâu đêm suốt sáng
Moi óc làm thơ
Moi tim làm thơ
Như người thợ
Chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
Đốt sáng cuộc đời

Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
Hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào Bộ Tâm hồn quần chúng
Giúp Trung ương
Xây dựng
Những con người

Con người mang sẵn trong mình ý chí và khát vọng cái mới như vậy đã bị đặt vào một hoàn cảnh sống nghiệt ngã, cùng với các bạn hữu cầm bút của mình, trong suốt hơn ba chục năm. Nhưng chính ý chí và khát vọng đó đã tôi luyện ông, đã giúp ông nghĩ suy bằng cái đầu của mình và đứng vững trên đôi chân của mình, vượt qua thử thách, hoạn nạn, và chiến thắng bằng Thơ. Lê Đạt là Lê Đạt ở thơ, một thứ thơ đã được chưng cất qua lò lửa văn hoá đông tây kim cổ mà ông nhóm lên từ trong gian khổ, mà ông đã kiên trì giữ lửa không để lụi tắt qua gió mưa cuộc đời, để khi được đưa ra ánh sáng thứ thơ đó đã tỏa một mùi hương thơ của người thơ Lê Đạt. Bóng chữ, Ngó lời, U75 từ tình – những tập thơ của ông, là thành quả của một đời lao động thơ cật lực của một người tự nguyện làm “phu chữ” để đưa đến cho người đọc những âm nghĩa mới lạ, tinh ròng của tiếng Việt. Hai chục năm trở lại đời sống bình thường của văn học, Lê Đạt đã để lại một dấu ấn riêng của mình trong sáng tác thơ, trong quan niệm thơ, trong hành xử thơ. Thơ Lê Đạt – ba tiếng này đã là một dấu chỉ, một “thi hiệu”, một mời gọi và thách thức. “Tôi tôn trọng những nhà thơ sinh sự với văn phạm để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ” – Lê Đạt phát ra nhiều những châm ngôn như vậy để người đọc có cái chỉ hiệu bước vào thế giới thơ ông.

Đường về nhà em
ba mươi sáu ngõ
Nêông liễu hồ tóc gió ngã tư
Xuân lưa mưa mini mùa én đỏ
Khăn bay cờ
lòng phố cổ
lay mơ

Lê Đạt và những người đồng hội đồng thuyền với ông từ giữa thế kỷ XX đã kiên quyết khởi lên một cuộc cách tân thơ Việt, đoạn tuyệt với Thơ Mới (“thành tựu của họ đòi hỏi ta phải thử những thành tựu khác” – ông nói), đi tìm những cách biểu hiện mới cho thơ, tạo lập những giá trị chuẩn mực mới của thơ. Những tháng năm chìm trong bóng tối và im lặng ông đã cưỡng chống lại số phận bằng cách vùi mình vào những con chữ đến từ nhiều ngõ ngách văn hoá để tích hợp, hội tụ, hấp thụ và biến cải chúng thành một vốn văn hoá lớn của mình, và trên nền tảng đó ông xây cất một ngôi nhà thơ riêng. Những sáng tạo đổi mới thơ của Lê Đạt, cũng như của Trần Dần, Đặng Đình Hưng, đã đóng góp quan trọng cho tiến trình hiện đại của thơ Việt, và nói riêng đó là dấu chỉ giá trị của một phong trào văn học đã dấy lên cách nay hơn nửa thế kỷ.

Ông vừa làm một cuộc hành trình lên Tây Nguyên, xuyên miền Trung, vào Sài Gòn và bay ra Hà Nội. Chuyến đi kết thúc bằng sự yên nghỉ đời đời như một sắp đặt của số phận. Nhưng có lẽ ở bên kia thế giới ông sẽ cám ơn số phận, vì nào ta có chọn được số phận của ta đâu. Số phận đã cho ông trở thành nhà thơ Lê Đạt chứ không phải thành một nhà nào khác như lẽ ra có thể. Để ông có thể “xưng danh” một cách bình thường và kiêu hãnh rất Lê Đạt:

Phó thường dân
phố nhỏ vô danh
vô giai thoại
Thành tích
mấy trang giấy sờn
mấy câu thơ bụi
núi Vô Sơn

Thế là đủ, với ông – nhà thơ Lê Đạt.


Tiễn đưa


Trước mặt chúng ta ở đây, lúc này, nhà thơ Lê Đạt đang ở ga cuối của một hành trình.
vonghoa
Vòng hoa viếng nhà thơ Lê Đạt của Diễn Đàn
do hai nhà văn Nguyên Ngọc và Phạm Xuân Nguyên
thay mặt.

Ông đã dừng lại, sau một chuyến đi thực tế ngờ đâu là cuối đời, lên Tây Nguyên, về miền Trung, vào Sài Gòn. Chuyến đi của một đoàn các văn nghệ sĩ, trí thức tới một vùng đất cao nguyên đang là mối trăn trở, bận tâm lớn của đất nước hôm nay. Lê Đạt tham gia đoàn hăm hở, vui vẻ, nhiệt huyết, mặc dù sức khỏe ông đã sút kém. Ông đi chuyến đi này như một cuộc hành hương, một cuộc hành trình, để ngấm và ngẫm thêm về kiếp sống, kiếp người.

Ông đã dừng lại, sau một chuyến đi cuộc đời trải nhiều khúc quanh. Lê Đạt đã từng làm việc ở Ban tuyên huấn trung ương đảng cộng sản Việt Nam, ở bộ phận thư ký cho tổng bí thư đảng Trường Chinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Lê Đạt khi hoà bình về trên nửa nước đã biết nhận ra rất sớm những kiếp người “Hai vai nhô lên / Đầu lún xuống / Như không mang nổi cuộc đời” để rồi đánh mất mình trong “mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt”, từ đó ông kêu gọi giải phóng con người, giải phóng thơ ca. Từng từng giọt mồ hôi / Đẫm bản đồ chính sách / Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách / Óc anh là một công trường / Mỗi dòng thơ là một cây số mới / Trên con đường đi tới Xã hội / Ngày mai / Một tiếng súng tương lai / Nổ vào đầu dĩ vãng. Lê Đạt đã lâm tình thế sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm ba mươi năm có lẻ chìm trong bóng tối và im lặng, khi đó chỉ có thơ cứu chuộc được ông.

Ông đã dừng lại, sau một chuyến đi thơ ca khổ ải như vác cây thánh giá lên đồi Sọ và vinh quang như được phục sinh. Thơ đã cho ông tiếng nói làm một công dân chính trực, làm một con người đứng thẳng, và làm một nhà thơ “phu chữ”. Thơ đã chứng tỏ và trình bày ông cho Công Lý, cho Chân Lý, cho cái Đẹp. Thơ đã đưa ông đồng hành cùng dân tộc và tuổi trẻ ở thời buổi mới nhiều vận hội nhưng cũng lắm bất trắc, cam go. Với chữ và thơ Lê Đạt là người tình chung, là kẻ tận hiến.

Ông đã dừng lại, sau những chuyến đi, sau một hành trình có quanh co, khúc khuỷu nhưng nhất quán, để bây giờ trước mặt chúng ta là một Lê Đạt – con người, một Lê Đạt – nhà thơ, với nghĩa đầy đủ của từ này.

Giờ phút chia tay ông ở ga cuối cuộc hành trình này, chúng tôi – những người cùng thế hệ ông, những người bạn vong niên của ông, những người đồng tâm đồng chí cùng ông, những người đọc thơ ông, như hãy còn nghe rõ tiếng ông cười sảng khoái và giọng ông vang to khi nói ra những điều gan ruột cho thơ, cho cuộc sống, cho con người. Ông đã sống trọn một cuộc đời nhân văn nghệ thuật. Ông đã khép mắt lại, nhưng chúng tôi ghi nhớ điều khác biệt ông đã chỉ ra : “Người quân tử dùng mắt để nhìn / Kẻ tiểu nhân dùng mắt để nhòm”.

Hà Nội 21 – 22 - 23 /4/ 2008
Phạm Xuân Nguyên

Trần Hữu Dũng :Thư cho một bạn trẻ

Thư cho một bạn trẻ
Trần Hữu Dũng

Thư cho một bạn trẻ


Trần Hữu Dũng

Bạn quý mến,

Rất tiếc là tôi chưa được quen thân với bạn, nhưng tôi đã thấy bạn từ bục giảng của tôi, nghe bạn tâm tình qua những bức thư đầy bức xúc về đất nước, về tương lai, và về nhân loại nữa. Qua đó tôi cảm nhận một nghịch lý: bạn vừa có niềm tin ở một tương lại xán lạn hơn, nhưng niềm tin ấy lại bị xao xuyến do cái hiện tại này. Bởi vậy, nhân dịp xuân về, Tết đến, trước hết tôi cầu mong bạn giữ vững niềm tin ấy, và có ít dòng tâm sự.

Trước tiên, một lời tạ lỗi...

Tôi không có “kinh nghiệm” hay lời dặn dò gì để truyền lại cho bạn, bởi vì tôi nghĩ mỗi thế hệ phải tìm một tương lai cho mình. Hơn nữa, dù nghĩ rằng chúng tôi (thế hệ trước các bạn) đã có nhiều cống hiến nhất định cho đất nước (chúng ta không bao giờ quên hàng triệu người thế hệ tôi, và trước nữa, đã hi sinh để mang lại độc lập, thanh bình và thống nhất cho tổ quốc), chúng tôi cũng đã có rất nhiều lỗi lầm, yếu kém... Các bạn đang tiếp nhận một xã hội và một đất nước còn nhiều mảng tối, thậm chí có người sẽ nói là, về vài mặt, chúng có chiều đi xuống. Cụ thể, không ai có thể thành thực mà nói rằng nước ta có một nền giáo dục đáng hãnh diện. Và sông núi, ruộng đồng! Có ai dám nói rằng tất cả đều đẹp đẽ như xưa? Để lại cho các bạn một nền giáo dục như thế, núi sông như thế, có lẽ là “tội” lớn nhất của những người mà trách nhiệm là chuẩn bị cho tương lai các bạn, là bảo quản giang sơn cho các bạn. Những người ấy là chúng tôi.

Tôi phải nhìn nhận rằng trong những năm gần đây, khi cơn lốc “thị trường” bao phủ lên đất nước ta thì (cùng với sự phồn vinh vật chất mà nó đem lại) một bộ phận không nhỏ chúng tôi, nhất là giới được xem là “trí thức”, đã tha hóa. Chúng tôi đã góp phần không nhỏ vào sự “chụp giật” của cuộc sống ngày nay, một số không ít chúng tôi đã co cụm lại, chỉ lo cho gia đình, con cháu mình mà không nghĩ đến các bạn, thái độ đạo đức giả của một số chúng tôi hẳn đã làm nhiều bạn chán ngán, buồn phiền. Một số chúng tôi đã có quyền, có lợi, nhưng chưa làm đầy đủ bổn phận với các bạn. Bởi vậy, trước hết, tôi có lời xin lỗi bạn, thế hệ trẻ. Tôi không dám thay mặt ai để xin lỗi, chỉ xin lỗi cho cá nhân tôi, song tôi nghĩ nhiều người ở thế hệ tôi cũng cùng một tâm trạng.

Nhưng dù hiện tại có thế nào thì tương lai cũng sẽ đến, và tương lai đó sẽ trong tay các bạn. Chẳng những tôi không biết hình tượng vật chất, cơ cấu xã hội hay thể chế kinh tế của tương lai ấy sẽ thế nào, tôi còn ngờ rằng bạn sẽ phải đương đầu với những vấn đề triết lý cực kỳ cơ bản mà tôi chưa thể hình dung. (Ví dụ như với sự tíến bộ của y sinh học, nhất là công nghệ nháy (cloning), đông lạnh thân xác... , tất sẽ có những câu hỏi: “con người là gì?”, “sự sống là gì?”) Mỗi thế hệ phải đi vào một tương lai hoàn toàn mới mà không thế hệ nào trước đó hình dung được. Dù vậy, có vài vấn đề mà tôi nghĩ sẽ là cái trục mà tương lai sẽ xoay quanh. Tôi xin chia sẻ với các bạn.

Toàn cầu hóa và dân tộc tính

Chúng ta đang vào một kỷ nguyên trong đó thế giới thay đổi với một nhịp độ và tầm mức chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, vùn vụt và sâu rộng. Đó là tiến trình vũ bão của cái gọi là “toàn cầu hóa” (gọi cho gọn, dù tôi không thích cho lắm cụm từ thời thượng này). Tin tức từ khắp nơi trên thế giới đến với mọi người từng phút, từng giờ. Các bạn đi du học, du lịch, gặp gỡ bạn bè, thân nhân, từ các nước về thăm nhà. Toàn cầu hóa đem lại cho bạn vô vàn cơ hội, và bạn nên sẵn sàng (trong tư duy cũng như trong kỹ năng) để tận dụng những cơ hội ấy (một việc cụ thể là trau dồi ngoại ngữ), nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mà tôi mong các bạn cùng suy nghĩ.

Thứ nhất là sự giữ gìn dân tộc tính. Tôi không khẳng định là bạn phải bảo tồn dân tộc tính (cũng xin lưu ý các bạn rằng không phải mọi người đều nhất trí “dân tộc tính” là gì) nhưng tôi muốn chúng ta (bạn lẫn tôi) cùng suy nghĩ có nên “giữ gìn bản sắc dân tộc”, theo nghĩa nào đó, và nếu nên thì nên giữ phần nào, đến mức độ nào. Chọn lựa ấy đòi hỏi những cân nhắc khách quan (không để những sô-vanh phi lý chi phối) song cũng khó thể không chủ quan, bởi vì nó sẽ phản ảnh tình cảm (nào đó) đối với quê hương đất nước, nguồn cội của mình. Vươn ra với thế giới không có nghĩa là chúng ta sẽ xóa nhòa những đặc thù của văn hóa, của ngôn ngữ chúng ta, nhưng với những cơ hội tràn vào từ ngoài là xu thế đồng hóa (tưởng tượng xem: đời sống sẽ dễ dàng biết bao nếu mọi người trên thế giới đều sử dụng... tiếng Anh!). Trong lúc đó, “dân tộc tính” (tạm gọi như vậy) là cái đặc thù. Làm sao để khai thác mọi cơ hội của toàn cầu hóa trong lúc giữ đến một chừng mực nào đó tính đặc thù, cái cá biệt của chúng ta, là một bài toán cho các bạn

Thứ hai, toàn cầu hóa không có nghĩa là bạn không còn là một công dân của một nước. Nói cách khác, dù bạn có trở thành một “công dân quốc tế” thì bạn cũng vẫn là thành viên của một “địa phương” nào đó. Dù bạn có sang Âu, sang Mỹ sống thì bạn cũng phải đối diện với những vấn đề của cộng đồng, địa phương ấy ... Đó không nhất thiết là một ràng buộc đạo đức nhưng là một yêu cầu xã hội thiết thân (và thiết yếu!). Chọn lựa sự dung hòa, kết hợp những trách nhiệm ấy, chính là đóng góp cụ thể vào sự xích gần nhau giữa người và người, xuyên qua lằn ranh quốc gia và chủng tộc. Nói như nhà xã hội học Ted Ward, bạn sẽ là thành viên của một nền “văn hóa thứ ba”.

Nếu bạn đã có dịp du học, hoặc đang du học, thì bạn thật là may mắn, và một quyết định mà bạn phải đối đầu là có nên về nước hay không. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe ý kiến tôi: điều đó không thật sự là quan trọng! Tôi tin rằng bạn đủ sáng suốt để quyết định cho chính bạn, bởi nó tùy vào hoàn cảnh, ngành nghề, của mỗi người, và nhất là – trong kỷ nguyên đi đi về về dễ dãi như nay – nó không còn là một quyết định cho suốt đời bạn, không thể thay đổi sau này. Nhưng tôi nghĩ rằng nhu cầu “làm cái gì đó” cho đồng bào mình, nhất là khi đại đa số những người ruột thịt ấy vẫn còn cực kỳ nghèo khổ, là một ước muốn cơ bản nhất của con người. Cũng không nên xem hồi hương là “cống hiến” một chiều của bạn cho đất nước, bởi vì sống giữa lòng dân tộc bạn còn nhận được những tình cảm yêu thương, những ý nghĩa của sự sống, mà bạn không tìm được nơi nào khác.

Nhìn rộng ra, tôi nghĩ rằng khi mà sự tương phản giữa dân tộc và quốc tế mờ nhạt đi (vì sự di chuyển dễ dàng) thì những vấn đề tài nguyên, môi trường – nói cách khác là sự phát triển bền vững – sẽ trở thành sâu sắc, bức xúc hơn. Toàn cầu hóa, nhìn theo góc cạnh này, không có nghĩa là không còn biên giới quốc gia, cụ thể là không còn những tranh chấp giữa các quốc gia, dân tộc. Chỉ là, trong kỷ nguyên mới này những xung khắc cũ sẽ tái hiện qua những phương diện khác: tranh chấp về tài nguyên (nhất là năng lượng) và môi trường. Chúng ta phải tỉnh táo, không thể ngây thơ. Chúng ta chia sẻ những quan tâm của quốc tế, hợp tác để tìm những giải pháp chung cho nhân loại, nhưng cũng không quên những quyền lợi thực tế mà mỗi quốc gia đều phải bảo vệ cho mình, toàn cầu hóa hay không.

“Hai văn hóa” và những giá trị nhân văn

Trên đây tôi đã nói về sự giằng co giữa cái đặc thù của dân tộc và cái chung của thế giới, một sự giằng co mà tiến trình toàn cầu hóa làm nổi bật, thậm chí căng hơn. Nhưng còn một bộ mặt nữa trong đời sống của chúng ta – và sẽ rõ hơn trong tương lai các bạn – đó là sự quan trọng của công nghệ trong sinh hoạt hàng ngày. Bộ mặt này sẽ gây ra một sự giằng co nữa, giữa một nền văn hóa dựa vào công nghệ, vào kinh tế thị trường, và một nền văn hóa nhân văn, đi sâu hơn vào con người, mà tượng hình là văn chương và nghệ thuật.

Gần nửa thế kỷ trước, tác giả C.P. Snow (người Anh) đã báo động về cái mà ông gọi là sự xung khắc của “hai văn hóa”: văn hóa nhân văn và văn hóa công nghệ. Dù cảnh báo này của C.P. Snow đã bị nhiều người cho là một báo động lầm, chí ít cũng là phóng đại (hai tư duy nhân văn và tư duy công nghệ tuy hơi khác nhau nhưng không tương phản như Snow nghĩ), nó là tiền thân của một bức xúc thời thượng: “liệu thị trường có xói mòn đạo đức?”. Cũng vậy, sự tranh chấp giữa hai “văn hóa” (theo cách nói của C.P. Snow): khoa học và nhân văn sẽ làm nổi bật sự xung khắc giữa văn hóa thương mại và văn hóa “ưu tú” (tạm gọi như thế). Nhiệm vụ của bạn sẽ không đơn thuần là bảo tồn những “giá trị cổ truyền”, nhưng là khuếch trương văn hoá nhân văn – một phần đó sẽ là văn hóa dân tộc, nhưng một phần nào nó sẽ đòi hỏi sự sáng tạo của các bạn, cố nhiên là với cái tố chất của dân tộc mình.

Sự hội nhập vào thế giới mang theo nhiều nguy cơ tiềm ẩn, và có vẻ ngày càng trầm trọng. Cuộc sống hối hả, vội vàng, để lại cho chúng ta ngày càng ít thời giờ để suy nghĩ, nhìn lại nội tâm. Đó là thế giới của CNN, của Google, của Wikipedia... Chúng ta có thể tưởng là mình “biết” nhiều, nhưng đó là một thứ kiến thức manh mún, rộng mà không sâu. Thông tin tràn ngập song hầu hết là vô ích. Bạn nên nhín chút thời gian để lắng đọng, ngồi lại một nơi cô tịch để trầm tư.

Với sự tiến bộ của công nghệ thì vai trò của văn chương, nghệ thuật có phần bị lu mờ. Đây là một xu hướng toàn cầu mà nhiều trí thức khắp nơi đã báo động, than phiền. Tôi vẫn biết rằng không phải tất cả các bạn đều “kiếm cơm” trong lãnh vực văn hóa. Các bạn sẽ là nhà kinh doanh, là kỹ sư, là nhà nông... nhưng tôi mong các bạn lưu tâm, và khuyến khích – ít nhất là trong cương vị một người “tiêu dùng” văn hóa – sinh hoạt ấy, bởi vì một xã hội không thể là “phát triển” nếu nó thiếu vắng những sinh hoạt văn hóa sống động, những người thẩm định văn hóa có trình độ, và những người đó là bạn, chính là bạn, dù công việc kiếm cơm hàng ngày của bạn nằm trong lãnh vực nào.

Thay lời kết

Trên đây tôi đã thử đưa một cái nhìn khách quan về những vấn đề mà bạn sẽ đương đầu, và tôi đã hứa sẽ không dám “dạy” bạn điều gì. Thế hệ đi trước bao giờ cũng có nhiều kinh nghiệm nhưng tôi xin để những người khác, sống nhiều hơn và hiểu biết hơn tôi, truyền lại các bạn những kinh nghiệm ấy, và tất nhiên, sẽ có nhiều điều mà chính các bạn, cũng như những thế hệ trước, phải tự trải nghiệm. Tôi chỉ xin chia sẻ với bạn một số linh cảm của tôi về tương lai và gửi gắm vài hoài vọng.

Ở nước ta sự chênh lệch giàu nghèo, những bất công trong xã hội, còn quá nhiều (và có vẻ ngày càng sâu đậm hơn!). Nếu bạn được may mắn là người khá giả ở thành thị thì thỉnh thoảng cũng nên nhìn đến những người mà đời sống vật chất khó khăn hơn mình (tôi không nói là “bất hạnh”, vì chắc chắn là họ không cần thương hại, và cũng chưa chắc là bạn hơn họ về trí thức, về những đức tính khác của con người). Phải nghĩ rằng chỉ vì một tình cờ nào đó của lịch sử mà bạn được như ngày nay. Tôi luôn nghĩ rằng một xã hội tươi đẹp – một xã hội đáng sống – là một xã hội mà mọi người đều có cơ hội tiến thân, một xã hội mà mọi người “tử tế” với nhau... Đối với những bạn đang có đời sống chật vật thì tôi chỉ xin bạn nhẫn nại và cố gắng, và hãy tin rằng không gì là không có thể...

Nhưng, bạn còn trẻ, trước mặt bạn còn là những ngày nồng ấm của yêu đương, hãy dìu nhau đi trong những buổi chiều hồng, hãy dành nhiều thời giờ cho những đứa con còn đang lớn, với người vợ trẻ, ông chồng chưa ... già. Tuổi trẻ không chỉ là chặng đường chuẩn bị cho tương lai. Tuổi trẻ còn là một khoảng hiện thực của chính cuộc đời bạn, với những sướng vui mà bạn sẽ chẳng bao giờ tìm lại được. Bạn hãy tận hưởng tuổi trẻ ấy. Và ngay những lúc bạn ... thất tình (hay ve vuốt thú đau thương?), bạn nên nhớ một điều: rồi tất cả cũng qua đi. Điều cần nhất là phải luôn luôn giữ gìn sức khỏe, và tránh những gì mà hậu quả sẽ làm bạn hối tiếc sau này.

Tôi mong rằng trong số các bạn đọc thư này hôm nay, rồi đây sẽ có người viết một bức thư như thế này cho một bạn trẻ khác, và nước Việt Nam – không, cả thế giới này – lúc ấy sẽ đẹp đẽ hơn, và bạn sẽ mãn nguyện về những đóng góp của bạn cho cuộc đời này, trong bất cứ lãnh vực nào mà bạn chọn lựa.

Cái nguy hiểm là chúng ta sẽ nản chí, chua cay, cho là mình không thể làm gì được nữa... Dù hiện tại có vẻ ảm đạm như thế nào (và thực sự thì nó không ảm đạm như bạn tưởng!), khó khăn ra sao, chúng ta phải giữ niềm tin, và tích cực cùng nhau thực hiện niềm tin ấy, vì đó là bổn phận của chúng ta đối với chính mình...

Xin chúc bạn và gia đình một năm Kỷ Sửu đầy thành công và may mắn.

Trần Hữu Dũng

Tết Kỷ Sửu, 2009


Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, báo Xuân Kỷ Sửu

Maxime Gorki : những ý tưởng không hợp thời

Dịch thuật
o
Maxime Gorki : những ý tưởng không hợp thời
Nguyễn Xuân Xanh chọn lọc và chuyển ngữ Cập nhật : 24/01/2009 10:31

Những ý tưởng không hợp thời
về Văn hoá và Cách mạng


MAXIM GORKI (*)

Để kỷ niệm sinh nhật thứ 140 của Ông
(1868-2008)




Dân tộc này phải còn nỗ lực rất nhiều đế đạt đến ý thức về bản sắc và nhân phẩm của nó. Dân tộc này còn phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi. MAXIM GORKI








Lời nói đầu


Trong bài này tôi không có ý định nói về cuộc đời của Gorki, mà chỉ muốn trình bày một số ý tưởng của ông trong những bài viết do chính ông đặt tên là Những ý tưởng không hợp thời, được đăng trên nhật báo Novaja Zizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918, trong bối cảnh của cách mạng tháng mười 1917. Không nghi ngờ, Gorki là người ủng hộ một cuộc cách mạng triệt để để giải phóng nước Nga khỏi ách thống trị của chế độ quân chủ đã kìm hãm sự phát triển của xã hội hằng nhiều thế kỷ, đã làm cho đất nước què quặt về khoa học, văn hóa và nghệ thuật. Ông là “con chim báo bão” của một cuộc cách mạng không tránh khỏi tại đất nước cùng khổ dưới ách thống trị độc tài của nền quân chủ chuyên chính bóp nghẹt phát triển. Vở kịch “Dưới đáy” (Nadne) của ông năm 1902 được diễn tại nước Nga vài trăm lần và chiếm lĩnh các sân khấu tây Âu, làm cho ông nhanh chóng nổi tiếng thế giới. Vở kịch gợi ra rằng chỉ có một cuộc thay đổi xã hội triệt để mới đem lại khúc quanh tốt hơn cho nước Nga. Sân khấu đối với ông đã thay đổi từ trường học đạo đức (Schiller) sang sân khấu của cách mạng.

Không nghi ngờ, Gorki ủng hộ cách mạng tháng Mười, ủng hộ Lênin. Nhưng sự ủng hộ đó không diễn ra theo đường thẳng, hay một chiều ngay từ buổi đầu. Lịch sử còn nhiều dấu hỏi. Những bài viết Những ý tưởng không hợp thời cho thấy hơn bao giờ hết những suy nghĩ rất độc lập của Gorki, rất ‘Gorki’ và vô cùng sâu sắc về những vấn đề văn hóa, xã hội, lịch sử của nước Nga, sự am hiểu của ông về dân tộc Nga và những con người của nó đến tận ‘tâm can’ của dân tộc đau khổ này. Những bài viết Những ý tưởng không hợp thời mãi đến khi chế độ Xô-viết sụp đổ mới được phép phổ biến chính thức tại Nga.

Khi Những ý tưởng không hợp thời (về văn hóa và cách mạng) được xuất bản ở CHLB Đức1 năm 1974, thì một bình luận gia của một tờ báo ở Đức viết “Tôi đã cầm lên tay cuốn sách trong mấy tuần qua có lẽ đến hai chục, nếu không phải ba chục lần và đọc ngấu nghiến. Mỗi lần nó đều cháy bỏng trên tay tôi. Một nhà báo, một chiến sĩ tuyệt vời! Đó là những câu nói về người Nga, gây lên ấn tượng rằng một quốc gia đang tiến lên bàn xưng tội. …”

Một tờ báo khác tên tuổi của Thụy Sĩ (Neue Zürcher Zeitung) cũng đã bình luận về Những ý tưởng không hợp thời: “Điều làm say mê của sự tập hợp lại các lời phê bình của Gorki nằm ở chỗ, đây một nhà nhân bản và xã hội chủ nghĩa, mặc cho sự đổi thay của bối cảnh chính trị, đã không biết sợ hãi để cho tiếng nói của lương tâm vang lên.”

Cuộc đời của Gorki trong chừng mực nào không thoát khỏi hẳn di sản nặng nề mà chế độ chuyên chính đã để lại. Ông là một con người rất mạnh mẽ nhưng cũng không thoát khỏi hẳn hậu quả của di sản đó. Nhận định sau đây của ông dường như cũng đúng phần nào cho chính bản thân ông: “Người ta không yêu mến những con người mạnh mẽ trên đất nước Nga, cho nên những con người đó không sống lâu được trong đất nước chúng ta. Cuộc đời không yêu anh ta, văn chương cũng thế; nó tìm mọi cách có thể được để làm liên lụy ý chí mạnh mẽ của anh ta vào những mâu thuẫn, đẩy nó vào cái xó đen tối của ngõ cụt, hạ thấp nó xuống ngang bằng các điều kiện sống ô nhục để rồi hạ thủ nó. Người ta không đi tìm và yêu mến người chiến đấu, người kiến trúc của những hình thái mới của cuộc sống, mà yêu người ngoan ngoãn để nhận vào mình những tội nhẹ đáng ghét của những người tầm thường.” Vâng, ông không thoát khỏi hẳn những mâu thuẫn và ngõ cụt của xã hội trong thời đại ông, và luôn chực bị hạ thủ theo nghĩa này hay nghĩa khác, như những ai đã biết về cuộc đời ông.

Maxim Gorki sinh ra năm 1868 tại Niznij Novgorod, tên thật là Alexej Maximovitsch Peschkov, và mất năm 1936 tại Moscow, hưởng thọ 68 tuổi. Ông là con trai của một người bố thợ mộc, lớn lên hầu như không được học hành, sau đó làm công nhân, và làm một cuộc hành trình xuyên nước Nga. Là con người của tự học từ trường đời: “Người thầy đầu tiên của tôi một người lính – đầu bếp Sumuryj; người thầy thứ hai là luật sư Lanin, và người thứ ba là Korolenko (văn hào)”. Ông bắt đầu sự nghiệp văn học với một tác phẩm đầu tiên năm 1882 (Makar Tuschdra). Vở kịch “Dưới đáy” năm 1902 nhanh chóng đưa tên tuổi ông tới thế giới. Năm 1905 ông quen với Lênin. Sau chuyến đi Mỹ năm 1906 ông sống nhiều năm tại châu Âu, trở về Nga 1913. Trong những năm 1919 và 1921 ông ủng hộ những người Bolschevik. Năm 1921 ông lại ra nước ngoài. 1928 trở lại Nga, 1932 trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội văn học Xô-viết vừa được thành lập. Cái chết của ông còn nhiều bí ẩn.

Từ 1917 đến tháng 6.1918 Gorki viết một cách hệ thống cho công chúng: diễn văn, bình luận, kêu gọi, phác thảo v.v. Ông ủng hộ một cuộc cách mạng nhưng nghi ngờ chiến thắng của giai cấp vô sản, xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng, viết lời kêu gọi cho các dân tộc mỏi mệt vì chiến tranh cho năm 1918, và đóng vai trò người quan sát không thiên vị của lịch sử.

Đọc Gorki, thật là một thiếu sót lớn nếu bỏ qua Những ý tưởng không hợp thời, và sẽ không hiểu được chân thật Gorki. Chúng tôi muốn kỷ niệm sinh nhật thứ 140 của ông bằng sự giới thiệu Những ý tưởng không hợp thời qua một số chọn lọc. Trong chừng mực nào, đó cũng chính là những ý tưởng không hợp thời về những vấn đề của Việt Nam. Chúng ta đọc Những ý tưởng không hợp thời mà không khỏi không liên tưởng đến những vấn đề vẫn còn rất thời sự của Việt Nam đang tiềm ẩn xung quanh day dứt. Khoả hết đi những mắc mứu đau khổ của lịch sử, chúng ta sẽ thấy Những ý tưởng không hợp thời của Gorky sẽ toả sáng trên những miền đất tăm tối của lịch sử, và một ‘góc khuất’ của Gorki được sáng ra, giúp ta nhìn thấy những vấn đề dai dẳng của cá nhân và xã hội quanh ta đã được tích tụ thành những lớp địa chất lịch sử tối tăm từ bao đời, và cũng gợi ra một cuộc thay đổi toàn diện.

Cám ơn Gorki.
Nguyễn Xuân Xanh

Chọn lọc và chuyển ngữ
TP Hồ Chí Minh, cuối 2008



THƯ GỬI BẠN ĐỌC 2

Dân tộc Nga đã kết hôn với Tự do. Chúng ta hãy tin rằng từ mối liên kết này những con người mới mạnh mẽ sẽ hình thành trên đất nước đã bị đoạ đày về tinh thần và thể xác của chúng ta.

Chúng ta hãy tin vững chắc rằng các sức mạnh của lý trí và của ý chí, những cái đã bị đè nén và dập tắt qua hằng trăm năm áp bức, sẽ bùng cháy như ngọn lửa sáng trong con người Nga.

Chúng ta không được phép quên rằng tất cả chúng ta là những con người của ngày hôm qua, và tác phẩm vĩ đại của sự tái sinh của đất nước chính là nằm trong tay của những con người, do những ấn tượng nặng nề của quá khứ, đã bị giáo dục trong tinh thần đố kỵ lẫn nhau, không tôn trọng người đồng loại và trong tinh thần của chủ nghĩa vị kỷ đáng ghét.

Chúng ta đã được dạy dỗ lớn lên trong một không khí của “thế giới ngầm”. Điều mà chúng ta gọi là hoạt động hợp pháp xét theo bản chất của nó thì hoặc là sự tự hào vào khoảng chân không, hay là tính bè phái chính trị thiển cận của các phe nhóm hay cá nhân; một cuộc chiến tranh huynh đệ giữa con người với nhau mà ở đó cảm giác về nhân phẩm đã bị biến chất thành sự háo danh bệnh hoạn.

Chúng ta đã sống giữa những sự đểu giả đầu độc tâm hồn từ chế độ cũ, giữa sự vô chính phủ mà nó đã sinh ra; chúng ta đã thấy sức mạnh quyền uy của những kẻ phiêu lưu là vô độ như thế nào, những kẻ đã cai trị chúng ta; cho nên chúng ta bị tiêm nhiễm với tất cả những tính chất, tất cả các thói quen và cách hành xử của những con người đã khinh bỉ và nhạo báng chúng ta.

Chẳng lúc nào và bằng cách gì chúng ta có thể phát triển trong bản thân chúng ta cảm giác của trách nhiệm cá nhân cho cái tai hoạ của đất nước, cho cuộc đời nhục nhã; chúng ta đã bị tiêm nhiễm chất độc từ xác chết của nền quân chủ dẫy chết.

[…]

Bẩn thỉu, hỗn độn và độc hại đủ loại vẫn còn đầy đủ đó, tất cả không dễ biến mất nhanh chóng đâu; trật tự cũ tuy bị xóa sổ về thể xác, nhưng về tinh thần nó vẫn còn sống tiếp tục xung quanh ta, trong chính chúng ta. Con rắn Hydra nhiều đầu của Thất học, Man dã, Ngu dốt, Đểu cáng và Thô bạo đã không bị giết chết; nó đã giấu mình nhưng không mất đi khả năng nuốt chửng những linh hồn sống.

Người ta không được phép quên rằng chúng ta đang sống trong một cánh rừng của một khối người tính đến hàng triệu, những người dốt nát về chính trị và không được giáo dục về xã hội. Những người không biết họ muốn gì chính là những người nguy hiểm về xã hội và chính trị. Khối dân cư này sẽ không bị phân hóa nhanh chóng theo giai cấp và theo những quyền lợi được ý thức rõ ràng, họ sẽ không tự tổ chức được nhanh chóng và có năng lực cho cuộc tranh đấu xã hội một cách có ý thức và sáng tạo. Bao lâu họ không được tổ chức, thì họ sẽ nuôi dưỡng các con quái vật của quá khứ bằng nước cốt dơ bẩn và không lành mạnh của họ, những cái quái thai của chế độ cảnh sát trị mà người dân trung bình đã quen thuộc...

[…]

Chúng ta chứng kiến một khoảnh khắc cực kỳ khó khăn, buộc đòi hỏi phải động viên tất các lực lượng của chúng ta, lao động kiên trì và sự thận trọng cao nhất trong quyết định. Chúng ta không được quên những lầm lỗi có hậu quả nặng nề của 1905 và 1906; sự thanh toán dã man theo sau những lầm lỗi đó đã làm chúng ta kiệt quệ một thập niên, và đánh mất đi sự lãnh đạo. Trong thời gian này chúng ta đã suy sụp về chính trị và xã hội; cuộc chiến tranh huỷ diệt hàng trăm nghìn con người trẻ tuổi đã làm tiêu hao sức mạnh của chúng ta nhiều hơn nữa, bởi vì nó phá hoại đời sống kinh tế của đất nước đến tận gốc rễ.

Thế hệ đầu tiên nhận lãnh trật tự của cuộc sống mới đã đương nhiên hưởng được Tự do một cách ‘bất chiến tự nhiên thành’; thế hệ này hầu như không biết gì về những nỗ lực kinh khủng của những con người đã phá huỷ từng mảng thành trì đen tối của chủ nghĩa quân chủ Nga. Người dân thường không biết gì về hoạt động gậm nhấm khủng khiếp này, vì lợi ích cho anh ta; công việc khổ sai này không hề đi vào ý thức của người dân nào của khoảng 1000 quận huyện của nước Nga.


Bút tích của Maxim Gorki 1909

[…]

Nền dân chủ cách mạng bản thân nó phải thấu hiểu và thực hiện những nhiệm vụ nhà nước phổ thông; nó phải tham gia tích cực vào tổ chức các lực lượng kinh tế của đất nước, vào sự phát triển năng lực sáng tạo, và việc bảo vệ tự do của nước Nga chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài và bên trong.

Chỉ mới có một chiến thắng duy nhất – đó là sự chiếm lĩnh quyền lực chính trị; nhiều cuộc thắng lợi khó khăn hơn nhiều còn cần phải được giành lấy, nhưng trên hết chúng ta có nghĩa vụ phải chiến thắng các bệnh ảo tưởng của chính mình.

[…]

Sự nhận thức một cách can đảm những chỗ yếu của mình là sự thúc đẩy tốt nhất cho một ý chí lành mạnh và cho cách tự đánh giá đúng đắn chính mình.

Các năm chiến tranh đã cho chúng ta thấy rõ một cách khủng khiếp chúng ta bệnh hoạn như thế nào về văn hóa, yếu kém ra sao về mặt tổ chức. Sự tổ chức các lực lượng sáng tạo của đất nước là quan trọng cho chúng ta như bánh mì và không khí.

Chúng ta đã khao khát tự do cao độ. Với thái độ thiên về chủ nghĩa vô chính phủ, chúng ta sẽ dễ dàng đánh mất tự do – khả năng đó là hiện thực.

Không ít nguy cơ đang đe doạ chúng ta. Chúng ta chỉ có thể đối phó và khuất phục chúng nếu chúng ta lao động âm thầm và đoàn kết cho sự củng cố trật tự của cuộc sống mới.

Sức mạnh sáng tạo và quý báu nhất chính là con người; con người càng phát triển về tinh thần, và càng được trang bị về kiến thức kỹ thuật tốt hơn, lao động của nó càng vững chắc và quý báu hơn, và chính nó càng trở thành có văn hóa và có tính cách thời đại hơn.

Điều đó chúng ta chưa hiểu; giai cấp tư sản không quan tâm đúng mức đến việc tăng trưởng năng suất lao động; con người, đối với họ vẫn giống như con ngựa, là nguồn sức kéo thô thiển.

Quyền lợi của tất cả con người có một cơ sở chung mà trên đó họ đoàn kết lại mặc cho sự đối kháng giai cấp không thể loại bỏ: sự phát triển và tích lũy tri thức. Tri thức là một vũ khí cần thiết trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đang ngự trị trong trật tự thế giới hiện hành. Cuộc chiến đấu này là một thời khắc bi thảm của giai đoạn lịch sử này đã có sẵn, một sức mạnh tất yếu trong sự phát triển văn hóa, - và nó không thể tránh khỏi được.

Tri thức là sức mạnh cuối cùng sẽ phải đưa con người đến chiến thắng các sức mạnh thô thiển của thiên nhiên, và sẽ tạo điều kiện để chế ngự các sức mạnh này theo các lợi ích của con người và của nhân loại.

Tri thức phải được đại chúng hóa, người ta phải làm cho nó trở thành công việc của cả dân tộc; tri thức chính là nguồn gốc của lao động hiệu quả, là cơ sở của văn hóa. Và chỉ có tri thức mới làm cho chúng có năng lực tự nhận thức, giúp chúng ta đánh giá đúng sức lực và nhiệm vụ của chúng ta, và chỉ ra cho chúng ta con đường rộng lớn đến những thắng lợi tương lai.

Lao động âm thầm là lao động hiệu quả nhất.

Sức mạnh, cái đã củng cố tôi trong suốt cuộc đời và vẫn còn luôn củng cố như thế trên quả đất này, đã và vẫn còn là niềm tin của tôi vào lý tính của con người. Cho đến hôm nay, cuộc cách mạng Nga trong mắt tôi là một chuỗi những diễn biến hân hoan và sáng sủa của lý tính. Một dấu hiệu mạnh mẽ đặc biệt của lý tính thầm lặng là ngày 23 tháng Ba, ngày của những mai táng tại Marsfeld3.

Lần đầu tiên và gần như trực tiếp tôi cảm nhận được tại cuộc diễu hành này của cả hằng trăm ngàn người: Vâng, nhân dân Nga đã hoàn tất cuộc cách mạng, những người chết đã sống lại, và nhân dân bây giờ hướng về tác phẩm cao cả của hòa bình – đó là cuộc xây dựng các hình thức mới của cuộc sống tự do hơn.

Thật là hạnh phúc biết bao được chứng kiến ngày này!

Và từ trái tim mình tôi cầu chúc cho nhân dân Nga rằng nó luôn luôn tiếp tục đi như thế, một cách thầm lặng và mạnh mẽ, tiến lên và cao hơn, cho đến cuộc Đại lễ của Tự do của toàn thế giới, của Bình đẳng và Huynh đệ của tất cả con người!

***


Nếu chúng ta nhìn tổng quát về hoạt động toàn diện và nhiều mặt của chế độ quân chủ, thì ý nghĩa của hoạt động này sẽ hiện rõ ra trước chúng ta, rằng bộ máy quan liêu làm tất cả mọi thứ để ngăn chặn sự phát triển về chất lượng và số lượng của giới trí thức.

Chế độ cũ đã bất lực, nhưng bản năng sống còn đã chỉ ra cho nó rất đúng, rằng kẻ thù nguy hiểm nhất của nó chính là bộ óc con người, và do đó nó tìm mọi cách có được để ngăn cản sự tăng trưởng của các lực lượng trí thức của đất nước, và làm cho nó què quặt đi. Trong hoạt động tội ác này, (một) nhà thờ đã giúp sức nó một cách hiệu quả, cái đã bị bộ máy quan lại của nó nô dịch, và một xã hội đã bị lung lay về tâm lý cũng tiếp tay cho nó không kém, một xã hội trong những năm qua đã hoàn toàn để nó cưỡng bức.

Chiến tranh đã phơi bày ra một cách khủng khiếp những hệ quả của tình trạng bệnh hoạn tinh thần lâu đời này, bởi vì đứng trước một kẻ thù có trình độ văn hóa cao và được tổ chức tuyệt hảo, nước Nga đã tỏ ra yếu ớt và bất lực.[…]

Trong một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với tất cả tài nguyên và tài năng thì, như hệ quả của sự bất lực về tinh thần của nó, tình trạng vô chính phủ trên tất cả các lãnh vực đã bộc lộ rõ ra. Công nghệ và kỹ thuật ở trong trạng thái phôi thai, và không có mối liên hệ với khoa học; khoa học tự nó nằm ở đâu đó trong những sân sau, trong bóng tối, và dưới sự giám sát thù địch của một quan chức; nghệ thuật, do bị giới hạn và biến dạng bởi kiểm duyệt, đã tách ra khỏi cái chung để đánh mất mình trên đường đi tìm các dạng thể mới và một nội dung sống động, thúc đẩy và nâng cao nhân phẩm.

Khắp nơi, trong nội tâm của con người cũng như xung quanh nó, chúng ta thấy sự tàn phá, đổ nát, hỗn loạn và những dấu vết của một trận đánh kéo dài, như trận đánh chống lại Chan Mamaj4. Di sản mà chế độ quân chủ đã để lại là khủng khiếp.

Dù chúng ta muốn nói một lời an ủi thế nào đi nữa, chân lý của thực tại không thể cho phép một sự an ủi, và người ta phải nói với tất cả sự thẳng thắn: Chế độ quân chủ, trong nỗ lực bóp nghẹt nước Nga về tinh thần, đã đạt đến sự thành công gần như tuyệt hảo.

Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần. Một câu tục ngữ cổ nhưng không phải dở nói rằng: “Căn bệnh đến bằng một lạng, nhưng nó đi bằng một cả một cục chì”. Quá trình mở mang trí thức của đất nước diễn ra vô cùng chậm chạp; nhưng chính vì thế lại càng cần thiết hơn bao giờ hết cho chúng ta, và cuộc cách mạng bây giờ, thông qua những lực lượng lãnh đạo của nó, nhất định phải tự nhận lãnh tránh nhiệm lập ra những tổ chức và định chế lo cho việc phát triển các lực lượng trí thức của đất nước một cách kiên trì và tức khắc.

Lực lượng trí thức là lực lượng sản xuất quan trọng nhất về mặt chất lượng. Sự ưu tư về một sự tăng trưởng nhanh như có thể phải là sự ưu tư nóng bỏng của tất cả mọi giai cấp.

Chúng ta cùng đảm đương công việc của một sự phát triển toàn diện về văn hóa; cách mạng đã đánh đổ những trở ngại trên con đường dẫn đến một sự sáng tạo tự do. Và giờ đây chính ý chí của chúng ta phải chứng minh tài năng và thiên phú cho chính mình và thế giới thấy. Sự cứu rỗi chúng ta là lao động, vâng chúng ta hãy tìm thấy trong đó một niềm vui.

“Không phải lời nói mà là hành động đã tạo ra thế giới”, đó là một sự diễn tả rất hay, và cũng là một chân lý không thể nghi ngờ được.

Cách mạng và Văn hóa
18.4.1917


***


Cấu trúc mới của đời sống chính trị đòi hỏi ở chúng ta một cấu trúc mới của tâm hồn.

Trong hai tháng dĩ nhiên người ta không thay đổi được hoàn toàn, nhưng chúng ta càng rũ sạch mình khỏi bụi bẩn của quá khứ, thì sức khỏe tinh thần chúng ta càng tốt hơn, lao động sáng tạo ra các hình thức mới của sự tồn tại xã hội càng có năng suất cao hơn.

Chúng ta sống trong một cơn bão của các xúc cảm chính trị, trong sự hỗn độn của một cuộc chiến đấu giành quyền lực; cuộc chiến đấu này đánh thức bên cạnh các tình cảm tốt đẹp còn cả những bản năng đen tối. Điều đó là tự nhiên, nhưng lại đe doạ bẻ cong đi tính cách của chúng ta, và làm cho nó phát triển một cách giả tạo theo một hướng nhất định. Chính trị là miếng đất trên đó các loại cây gai của sự thù địch độc hại, các nghi kỵ xấu xa, các sự lừa dối trơ trẽn, vu khống, các thói háo danh bệnh hoạn và sự khinh thường nhân cách phát triển nhanh chóng và um tùm. Nếu đếm hết những cái xấu chứa trong con người – thì tất cả những thứ đó đều phát triển đặc biệt rất nhanh trên miếng đất của cuộc đấu tranh chính trị. […]

Sự thù địch giữa con người là một hiện tượng không bình thường; những tình cảm tốt đẹp nhất của chúng ta, những ý tưởng lớn nhất của chúng ta được hướng đến việc loại bỏ sự thù địch xã hội trên thế giới. Những tình cảm và ý tưởng này tôi sẽ gọi là “chủ nghĩa lý tưởng xã hội”, bởi vì sức mạnh của nó cho phép chúng ta khuất phục được tất cả những cái kinh tởm trong cuộc sống, và một cách dẻo dai và bền bỉ, hướng về sự công bằng và cái đẹp của cuộc sống, hướng về tự do. Trên con đường này chúng ta đã sinh ra các anh hùng, những người dám chết vì tự do, những con người đẹp nhất trên trái đất; tất cả những cái đẹp trong ta sẽ tuôn ra từ sự phấn đấu này. Những nhân tố tốt đẹp nhất của tâm hồn chúng ta sẽ được đánh thức một cách thành công nhất, mạnh mẽ nhất bằng sức mạnh của nghệ thuật. Khoa học là lý trí của thế giới, nghệ thuật là linh hồn. Chính trị và tôn giáo chia con người thành các nhóm lẻ; nghệ thuật khám phá cái nhân tính chung trong con người, và thống nhất chúng ta lại. Không có gì uốn nắn tâm hồn con người một cách dịu dàng và nhanh chóng như thế, như là ảnh hưởng của nghệ thuật và khoa học.

Quyền thù địch của giai cấp vô sản đối với các giai cấp khác có thể được biện giải. Nhưng đồng thời chính giai cấp vô sản mang ý tưởng vĩ đại và đem lại hạnh phúc của một nền văn hóa mới, ý tưởng của một tính huynh đệ phổ quát vào cuộc sống chúng ta.

Vì thế, chính giai cấp vô sản phải từ bỏ các phương pháp cũ trong cách đối xử con người bởi chúng không thích hợp.

Chính giai cấp vô sản phải phấn đấu bền bỉ mở rộng và làm cho thêm thâm sâu tâm hồn, cái khung chứa tồn tại của chúng ta. Đối với giai cấp vô sản, những tài năng của nghệ thuật và khoa học có một giá trị cao – đối với gian cấp vô sản, những thứ đó không phải là sự giết chết thời gian nhàn rỗi, mà là những phương tiện để thâm nhập vào những bí mật của cuộc đời.

Tôi cảm thấy xa lạ khi nhìn thấy giai cấp vô sản, được đại diện bởi cơ quan thừa hành và tư duy của nó, hội đồng binh sĩ và công nhân, tỏ ra dửng dưng và bàng quan khi các nhà âm nhạc, nghệ sĩ và diễn viên, và những người khác, những người không thể thiếu cho tâm hồn của giai cấp vô sản, lại được gửi ra mặt trận như bia đỡ đạn. Nếu dân tộc chúng ta gửi những con người tài năng nhất của nó ra chỗ sát sinh, chẳng phải nó làm suy yếu trái tim của nó và rứt đi những phần thịt tốt nhất ra khỏi cơ thể hay sao?

Có lẽ chỉ để một người Nga tài năng giết chết một người Đức tài năng về nghệ thuật sao? […]

Hãy suy nghĩ nhân dân đã tốn bao nhiêu công sức để đào tạo nên những con người tài năng, những người để diễn tả được cảm xúc và ý tưởng của tâm hồn nó?

Sự sợ hãi trước ý tưởng, đó chính là sự sợ hãi trước hoạt động tự do của lý tính. Sự sợ hãi này của người dân là chỗ dựa của tòa nhà mục nát của chế độ quân chủ, chế độ đã gần như thủ tiêu đất nước chúng ta. […]

20.4.1917

***



Maxim Gorki 1903

[…]

Cái hạnh phúc lớn của tự do không được phép làm ảm đạm đi bằng tội ác đối với con người, vì nếu không, chúng ta sẽ đánh chết tự do bằng chính bàn tay của chúng ta.

Chúng ta phải hiểu, và cuối cùng phải hiểu, rằng kẻ thù khủng khiếp nhất của tự do và của công lý nằm trong chính chúng ta; đó là sự ngu muội của chúng ta, sự tàn bạo của chúng ta, và cả cái hỗn độn của những cảm giác đen tối vô chính phủ đã được nuôi dưỡng bởi sự đàn áp không chùn tay của chế độ cũ ở mọi thời, bởi sự hung ác vô liêm sỉ của nó trong tâm hồn chúng ta.

Chúng ta có hiểu được điều đó?

Nếu chúng ta không khả năng hiểu được, chúng ta sẽ không từ bỏ các hành động bạo lực hung ác nhất chống lại con người, như thế sẽ không có tự do cho chúng ta. Nếu thế thì tự do chỉ là một ngôn từ mà chúng ta không có sức mạnh để mang lại cho nó một nội dung cần thiết. Tôi nói, những kẻ thù chính của chúng ta là ngu dốt và tàn bạo.

Chúng ta có chống lại chúng, có muốn chống lại hay không?

Đó không phải là câu hỏi hoa mỹ, mà một câu hỏi về chiều sâu và tính đúng sự thật của hiểu biết của chúng ta về các điều kiện mới của đời sống chính trị, câu hỏi của một sự đánh giá mới của con người và vai trò của nó trên thế giới.[…]

Và bây giờ, được giải phóng khỏi sự nô lệ bề ngoài, chúng ta lại tiếp tục sống với những cảm xúc của những người nô lệ.

Một lần nữa: kẻ thù không thương tiếc của chúng ta chính là quá khứ chúng ta.

Hỡi các công dân! Chúng ta không tìm được trong chúng ta sức mạnh để giải phóng mình ngay lập tức khỏi quá khứ này hay sao, vứt bỏ đi sự dơ bẩn và quên đi những cái vô liêm sỉ đẫm máu của nó hay sao? Hãy trưởng thành hơn, hãy ưu tư hơn và cẩn thận hơn trong cách đối xử với chính chúng ta. Và đó là điều bức thiết!

Về giết người
23.4.1917


***


Tổ quốc sẽ ít bị đe doạ hơn, nếu có nhiều văn hóa hơn.

Rất tiếc dường như chúng ta không đạt đến các quyết định rõ ràng văn hóa nào là cần thiết cho chúng ta, và loại văn hóa nào chúng ta cần đến. Trong thời gian đầu của cuộc chiến, khi các nhà triết học Moscow so sánh Kant và Krupp5 rất sâu sắc và hoàn toàn thành thật, thì những quyết định này đối với chúng ta là không rõ ràng. […]

Nói thế nào đi nữa, chúng ta đã quan tâm ít ỏi nhất đến sự phát triển của văn hóa phương Tây – của khoa học thực nghiệm, nghệ thuật tự do và của một nền công nghiệp hùng mạnh. Và cho nên một cách tự nhiên, quần chúng của chúng ta không hiểu được ba nền tảng của văn hóa. […]

Kể cả các khoa học nhân văn lẫn tự nhiên có thể có một vai trò trọng đại vào việc nâng cao phẩm chất của các bản năng, nhưng một sự tham gia của các nhà khoa học vào cuộc sống trong lúc này hãy còn ít.

Tôi chưa biết trong thể loại văn hóa đại chúng có một quyển sách nào được viết đàng hoàng và thuyết phục nói về tầm quan trọng của vai trò tích cực của công nghiệp trong quá trình phát triển văn hóa hay không. Dân tộc Nga cần lắm một quyển sách như thế từ lâu. […]

Đối với tôi, lời kêu gọi “Tổ quốc bị lâm nguy” là không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”

9.5.1917


***

Tôi biết rằng tương lai của dân tộc là không có ý nghĩa gì đối với những nhà giáo điều điên rồ: họ xem dân tộc như chất liệu cho các cuộc thử nghiệm xã hội; tôi biết rằng tất cả những tình cảm và suy nghĩ, những thứ có thể xé nát trái tim của những người dân chủ chân thật, lại đều là xa lạ đối với họ.

8.11.1917


***

Giới trí thức Nga còn phải nhận lãnh sứ mạng to lớn là chữa trị dân tộc về mặt tinh thần. Họ có nhiều tự do hơn cho nhiệm vụ này, và không có nghi ngờ gì họ cùng với phần phát triển nhất của giới tri thức lao động vô sản hôm nay còn đang chìm đắm và nghẹt thở trong khối người không được giáo dục sẽ hoạt động cho sự đổi mới tinh thần của đất nước.

Giới trí thức vô sản và dân chủ có nhiệm vụ đoàn kết tất cả cá lực lượng trí thức của đất nước trên cơ sở của lao động văn hóa. Nhưng công việc này chỉ có thể thành công nếu chúng ta từ bỏ chủ nghĩa bè phái của các đảng phái và hiểu rằng người ta không những xây dựng nên ‘con người mới’ và chúng ta không phục vụ cho chân lý nếu chúng ta để các phương pháp đông cứng lại thành giáo điều, mà chúng ta còn làm tăng lên số các sai lầm nguy hại làm cho lực lượng chúng ta phân tán đi.[…]

Đất nước chúng ta cần hai cơ quan với những nhiệm vụ khác nhau: một cái cần báo cáo về công việc của khoa học thuần túy và ứng dụng, cái kia về công việc văn hóa và giáo dục; các cơ quan này có thể sẽ rất hữu ích cho việc giáo dục ý tưởng và tình cảm. Chúng ta phải lao động, các công dân quý mến, chúng ta phải lao động! Chỉ có lao động mới có thể cứu rỗi chúng ta, không gì khác!

1.5.1918


***

Cuộc cách mạng, thoát thai từ một cuộc chiến tranh, chắc chắn sẽ tỏ ra bất lực khi giai cấp vô sản không đem cả sức lực lao động vào cuộc xây dựng xã hội, mà chỉ biết nghe lời các người lãnh đạo của nó, phá huỷ đến cùng các cơ sở kỹ thuật của “giai cấp tư sản” thay vị học hỏi để nắm vững chức năng vận hành của chúng và kiểm tra lao động như cần thiết.

Cuộc cách mạng sẽ tiêu vong bởi sự kiệt quệ bên trong nội tâm nếu giai cấp vô sản chỉ biết khép mình vào tính không khoan nhượng cuồng tín của các ‘uỷ viên nhân dân’ và ngày càng xa dần dân chủ. Ý thức hệ của giai cấp vô sản không phải là ý thức hệ của chủ nghĩa ích kỷ giai cấp; các bậc thầy của nó, Mác và những người khác, đã đặt lên vai những lực lượng tốt của nó nhiệm vụ giải phóng con người khỏi sự nô dịch về xã hội và kinh tế.

13.1.1918


***


Một cảnh trong vở “Dưới đáy”. Sân khấu đối với Gorki không còn là trường học đạo lý mà đã trở thành sân khấu của cách mạng

Bản chất đích thực của văn hóa và ý nghĩa của nó nằm ở chỗ biết kinh tởm đích thực mọi cái dơ bẩn, đê tiện, dối trá và thô bạo làm hèn hạ đi con người và làm cho nó đau khổ. Chúng ta phải học ghét cái đau khổ; chỉ như thế chúng ta mới thanh toán nó được. Chúng ta phải học yêu thương con người như nó trong hiện tại, và cũng phải yêu thương nó một cách nhiệt tình, như nó trong tương lai.

Cái gì chữa trị chúng ta và làm sống lại sức mạnh của chúng ta? Cái gì có thể làm mới lại chúng ta từ bên trong?

Chỉ có lòng tin vào chính chúng ta, không có gì khác. Chúng ta phải nhớ lại nhiều điều, bởi vì trong cuộc chiến đấu giành lấy quyền lực và một miếng bánh mì chúng ta đã bỏ quên đi quá nhiều.[…]

Đối với phần lớn trong họ, chủ nghĩa xã hội chỉ là một học thuyết kinh tế được xây dựng trên sự ích kỷ của giai cấp công nhân, cũng giống như các học thuyết khác dựa lên sự ích kỷ của giai cấp tư hữu.[…]

Người ta chỉ có thể thật sự cảm xúc và hiểu văn hóa nếu người ta kinh tởm sâu sắc tất cả những gì tàn bạo, thô lỗ và đê tiện trong chính bản thân và trong môi trường xung quanh.[…]

Việc chúng ta không hiểu hay đánh giá thấp các sức mạnh của tri thức là một sự cản trở nghiêm trọng ‘trên con đường tiến lên văn hóa’. Không có tri thức và ý thức về chính mình, chúng ta sẽ không bao giờ ra khỏi vũng bùn dơ bẩn của hiện tại.

16.5.1918


***

[…]

Những dày vò, đau khổ khiến dân tộc Nga phải gầm rú và lăn lộn như con thú. Phải thay đổi diện mạo tâm lý của nó, các thành kiến và định kiến, bản chất tinh thần của nó. Nó phải nhanh chóng hiểu một điều: dù kẻ thù bên ngoài có dũng mãnh và tham lam đến đâu, dân tộc Nga có một kẻ thù bên trong nguy hiểm hơn nhiều – đó là thái độ của nó đối với chính nó và với con người mà nó đã không được dạy dỗ để biết tôn trọng và quý trọng; đó là quan hệ của nó đối với tổ quốc mà anh ta không có cảm xúc, thái độ của anh ta đối với lý tính và tri thức mà anh ta không biết sức mạnh của nó và cũng không biết quý trọng. Anh ta gán hai thứ đó như một loại phát minh của giai cấp địa chủ chỉ có thể gây hại cho người nông dân.

Dân tộc Nga sống vô thức trong sự khôn vặt cũ kỹ của châu Á mà không nghĩ đến ngày mai, và để mình điều khiển bởi câu tục ngữ: “Rồi một ngày qua mau - Cám ơn Chúa!”. Bây giờ kẻ thù bên ngoài đã chứng minh cho nó rằng sự khôn vặt của một con cọp bị săn đuổi không là gì cả trước ý chí thép của lý tính được tổ chức. […]

Chúng ta không quen sống với tất cả sức mạnh của trái tim và lý trí của chúng ta. Cho nên chúng ta mệt mỏi với cách mạng – Đó là một sự mệt mỏi đến sớm và nguy hiểm cho tất cả chúng ta. Tôi không tin vào sự mệt mỏi sâu xa, tôi muốn nói, nó sẽ biến mất nếu có một tiếng nói gây hy vọng và phấn chấn vang lên – tiếng nói này phải được đánh lên!

Trong một trận đánh ở phương Tây một vị chỉ huy người Pháp dẫn một đội quân của mình tiến công vào các vị trí địch. Anh ta nhìn thấy một cách tuyệt vọng các binh lính của mình lần lượt ngã xuống. Có những người bị giết bởi đạn, nhưng phần lớn ngã xuống đơn giản chỉ vì sợ hãi, họ không tin vào sức chiến đấu của chính mình và tuyệt vọng trước nhiệm vụ dường như không thể hoàn thành được đối với họ. Lúc đó vị chỉ huy thét lên như một người Pháp đã được lịch sử anh hùng giáo dục:

“Hãy đứng dậy, hỡi những con người đã chết kia!”

Những chiến sĩ bán sống bán chết vì sợ hãi kia liền đứng dậy, và kẻ thù bị đánh bại. Tôi tin với cả tâm hồn rằng ngày kia sẽ đến khi có một người yêu thương chúng ta, hiểu được tất cả và có thể tha thứ sẽ kêu lên:

“Hãy đứng dậy, hỡi những con người đã chết kia!”

Và chúng ta sẽ đứng dậy, và sẽ chiến thắng kẻ thù chúng ta.

Tôi tin điều đó.

17.5.1918


***


Tôi nghĩ, một chủ nghĩa lý tưởng xã hội là vô cùng cần thiết chính trong giai đoạn cách mạng. Dĩ nhiên tôi muốn nói một chủ nghĩa lý tưởng lành mạnh để tinh luyện tình cảm, một chủ nghĩa lý tưởng mà nếu không có nó cuộc cách mạng sẽ mất đi sức mạnh để làm cho con người ý thức về xã hội hơn so với giai đoạn trước cách mạng, một chủ nghĩa lý tưởng mà nếu không có nó cách mạng sẽ mất đi sự biện minh đạo đức và mỹ học của nó. Không có chủ nghĩa lý tưởng, cách mạng và cả cuộc sống sẽ biến thành một bài toán thuần toán học khô khan, thành sự phân phối hàng hóa vật chất. Đấy là một bài toán mà giải pháp của nó đòi hỏi sự tàn bạo mù quáng và những bể máu, một nhiệm vụ đánh thức các thú tính và qua đó giết chết tinh thần xã hội của con người như chúng ta chứng kiến trong thời đại chúng ta.

26.5.1918


***


Bằng sự chiếm lĩnh quyền lực chính trị nhân dân đã có được cơ hội để tạo ra trong tự do các hình thái mới của cuộc sống xã hội; nhưng dân tộc vẫn còn, trong nội tâm và bên ngoài, sống dưới ảnh hưởng của meo mốc và rỉ sét của các hình thái sống cũ. Trong các tầng lớp dân chúng không có những dấu hiệu của một sự phấn đấu có ý thức thay đổi một cách cơ bản quan niệm lỗi thời của con người về chính mình, về đồng loại và về cuộc sống.

Cuộc sống giàu có những ý tưởng quý báu đối với quần chúng hoàn toàn mới, nhưng những ý tưởng này thâm nhập vào phạm vi các bản năng và cảm xúc thô thiển và chật hẹp. Trong phạm vi này các ý tưởng chỉ được tiếp thu một cách khó nhọc, nếu chúng có thể được tiếp thu, điều rất tiếc đáng nghi ngờ.

Cuộc cách mạng, được tạo ra bởi sức mạnh của những con người kiên quyết, tiêu hao và ngốn hết sức mạnh rất quý báu này, và quá trình tập trung và tổ chức sức mạnh mới diễn ra chậm chạp một cách nguy hiểm.[…]

Rõ ràng rằng tuyên truyền chính trị thôi không đủ để tạo ra con ngưới mới. Không đủ nếu chỉ tổ chức tư duy, mà người ta còn phải tổ chức ý chí, và giáo dục, phát triển và đào sâu thêm tình cảm.

Chúng ta phải làm sao cho sự giáo dục đạo đức và thẩm mỹ cho nhân dân cùng phát triển liên tục với giáo dục chính trị; chỉ dưới điều kiện này nhân dân ta mới được giải phóng hoàn toàn khỏi gánh nặng của lịch sử bất hạnh của nó; chỉ như thế nhân dân mới thoát khỏi ngục tù của các hình thái sống cũ. […]

Người ta phải nhớ rằng nhân dân được giáo dục hàng trăm năm bởi giáo lý cứng nhắc, khe khắt và tẻ nhạt về sự vô nghĩa của con người trước một quyền lực huyền bí điều khiển vận mệnh, và rằng giáo lý này được chứng minh rất ư là rõ ràng và nghiêm khắc qua tất cả những điều kiện sống xã hội là hệ quả của sự áp bức vô nghĩa trong thời gian của nền quân chủ Nga.[…]

Cuộc cách mạng, để có thể giải phóng và tinh luyện được con người, phải diễn ra trong nội tâm của nó và chỉ đạt được khi con người được rũ sạch khỏi meo mốc và bụi bẩn của những ý tưởng lỗi thời.[…]

Sương mù độc hại của cuộc sống hằng ngày, một cuộc sống bị làm hoen ố bởi cuộc chiến đấu kiếm cơm thường xuyên, được soi sáng lên và giảm bớt cường độ trong mọi thời đại và ở mọi dân tộc, - chỉ có khoa học và nghệ thuật mới tinh luyện được các hình thức sống man dã của chúng ta. Đã đến lúc khẩn thiết phải đưa những thành tựu vĩ đại nhất của những nhà khoa học và nghệ sĩ vào hiện tại hoang dã không thể tưởng của chúng ta – tất cả những cái quý nhất của thế giới, tất cả tài sản tinh thần của nó, tất cả cái gì có được năng lực và sức mạnh để giáo dục lại con người và nâng nó – kẻ sáng tạo ra những thực tế, vượt lên khỏi những thực tế.

Nhân loại đã sáng tạo ra nhiều cái đẹp, nhưng hằng ngày con người cũng tạo ra vô số những cái xấu xa và giấy lộn, và dưới đống của những cái nhỏ nhoi này tất yếu cái đẹp đã bị che lấp đi.

Chúng ta phải sống sao để chúng ta luôn thấy cái đẹp trước mắt, lúc đó nó sẽ đánh thức trong ta những cảm xúc và hành động xứng đáng với nhân phẩm con người.

Còn nếu người ta đem nhốt một người vào chuồng heo thì sẽ là một sự điên rồ nếu đòi hỏi nó phải trở thành một thiên thần.

4.6.1918


***


Hôm nay chúng ta thấy rõ hơn bao giờ hết dân tộc Nga bị lây nhiễm bệnh thất học thế nào, các quyền lợi của chính đất nước là xa lạ với họ ở mức độ khủng khiếp nào, dân tộc hành xử thô thiển làm sao trên lãnh vực văn minh, và ý thức của nó về lịch sử và hiểu biết về chỗ đứng của mình trong quá trình phát triển lịch sử non kém thế nào.

Nếu nói ‘dân tộc Nga’, tôi hiểu không chỉ các giới công nhân và nông nhân; không, tôi nói cả dân tộc nói chung, tất cả các giai cấp, bởi vì bệnh thất học và bệnh thiếu văn hóa là tiêu biểu cho cả quốc gia Nga. Từ khối lượng hàng triệu những người thất học này, những người không có quan niệm nào về giá trị của cuộc sống, người ta chỉ có thể tách ra số lượng vài ngàn người không đáng kể của giới được gọi là trí thức, nghĩa là những người ý thức được tầm quan trọng của nhân tố trí thức trong quá trình lịch sử. Những người này, mặc cho những sai lầm của họ, là phần quan trọng nhất mà nước Nga đã tạo ra được trong cả quá trình lịch sử khó khăn và gớm ghiếc của nó; những con người này vẫn đã là và vẫn là trái tim và khối óc của đất nước chúng ta. Những lầm lỗi của họ được cắt nghĩa bởi miếng đất của nước Nga không mầu mỡ cho những tài năng tri thức. Chúng ta tất cả đều là tài năng về cảm xúc, là tài năng trong nhân hậu, trong sự tàn bạo và nỗi bất hạnh; trong chúng ta có nhiều anh hùng, nhưng chỉ một ít con người khôn ngoan và mạnh mẽ có thể làm tròn được nhiệm vụ công dân của họ một cách can đảm – một nghĩa vụ khó khăn trong những điều kiện của nước Nga. Chúng ta yêu các anh hùng, nếu họ không chống đối chúng ta, và chúng ta không rõ rằng chủ nghĩa anh hùng chỉ đòi hỏi một giờ hay một ngày sự nỗ lực cảm xúc, trong khi sự can đảm đòi hỏi cả cuộc đời.[…]

Tôi không tin rằng người ta có thể gọi khối người vô sản là một lực lượng tri thức và có văn hóa. Nhưng có lẽ điều đó (ca ngợi vô sản) tiện lợi hơn cho cuộc bút chiến với giới tư sản dễ dàng hơn, để doạ nạt họ và làm cho mình can đảm hơn; nhưng tại đây nơi con người họp mặt lại, như tôi tin, những người chân thật và lo lắng sâu sắc về tương lai của đất nước, thì điều (ca ngợi) đó là thừa. Giai cấp vô sản như khối người chỉ là một lực lượng vật chất, không hơn; cũng như thế với giai cấp nông dân. Nhưng với giới trí thức công nhân và nông dân thì khác; họ dĩ nhiên là lực lượng sáng tạo về trí tuệ, và với tư cách như thế họ đã tách ra khỏi giai cấp của họ và họ cũng cô đơn, như giai cấp tri thức chúng ta lâu đời và bị áp bức, cô đơn và bị tách ra khỏi khối người lao động – bị áp bức không phải chỉ vì một phần của họ bị đưa vào các trại lao động, mà vì các điều kiện sống của họ ở nước Nga, vì cả cuộc sống của họ và công việc của họ. […]

Trong hoàn cảnh của nước Nga công việc văn hóa không đòi hỏi chủ nghĩa anh hùng mà là sự can đảm, sự thích nghi thường xuyên và bền bỉ của tất cả sức mạnh tâm hồn. ‘Gieo cái hợp lý, cái thiện và cái vĩnh cửu trên các miếng đất đầm lầy của nước Nga’, đó là một công việc vô cùng khó khăn, và chúng ta biết rồi các hạt giống của giòng máu tốt nhất của chúng ta, của cái tinh tuý của thần kinh chúng ta, sẽ chỉ nở ít ỏi và tiều tuỵ trên những cánh đồng của nước Nga. Mặc dù thế chúng ta vẫn phải gieo, và đó là nhiệm vụ của những người trí thức, những người hôm nay bị loại ra khỏi cuộc sống bằng bạo lực, và ngay cả bị liệt vào những kẻ thù dân tộc. Nhưng chính họ phải tiếp tục công việc đã được bắt đầu lâu rồi, công việc tẩy sạch và đổi mới về tinh thần cho đất nước, bởi vì chúng ta không có lực lượng trí thức nào khác ngoài họ.[…]

Nếu chúng ta trải lên cả đất nước một mạng lưới các tổ chức hoạt động văn hóa và giáo dục, và qua đó tập hợp lại tất cả các lực lượng tinh thần của đất nước, chúng ta có thể nhóm lửa lên khắp nơi để đem lại đất nước ánh sáng và sự ấm áp để giúp đất nước lành mạnh lại và đứng vững được trên đôi chân mình – khỏe mạnh, cứng cáp và có năng lực xây dựng và sáng tạo. Tôi không nói một sự liên kết hình thức và cứng nhắc của con người, mà một sự liên kết nội tâm và sống động của tất cả những ai cùng có cảm nhận như nhau. Chỉ như thế và chỉ bằng cách đó chúng ta mới tìm được lại văn hóa và tự do đích thực.[…]

Chính trị luôn luôn gớm ghiếc, bất kể ai làm nó, bởi vì nó tất yếu phải đi đôi với nói dối, vu khống và bạo lực. Và bởi vì đó là một chân lý đen tối, mọi người cần biết chân lý này, và chân lý này phải giúp ta nhận thức rằng công việc văn hóa là quan trọng hơn công việc chính trị.[…]

Đáng lẽ tốt hơn nếu người ta không để mình bị mê hoặc trong quá khứ, vì trong dân tộc Nga chắc không bao giờ có cái gì là mê hoặc, nhưng người ta để mình bị lôi cuốn và thất vọng – điều đó không thay đổi được. Mê hoặc là công việc của lòng tin, và thất vọng là một sự trừng phạt cho lòng tin mù quáng. Tri thức giúp chống lại thất vọng và là cái duy nhất người ta có thể khuyên cho những kẻ bị thất vọng. Cả đời tôi, trong những cảm xúc, ý tưởng và hành động tôi đều xuất phát từ con người, bởi vì tôi luôn tin tưởng không suy suyển rằng chỉ con người tồn tại, rằng tất cả những cái còn lại đều là ý kiến và hành động của nó.

Và trong giai đoạn này, giai đoạn khủng khiếp cho chúng ta, khủng khiếp cho đất nước chúng ta, đất nước đã được lập nên bởi nhiều thế hệ, những thế hệ đã làm cho chúng ta hôm nay như thế, trong giai đoạn của điên loạn, kinh hoàng, của chiến thắng sự ngu muội và đê tiện, trong giai đoạn đó tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất: tất cả những cái đó đều do con người mà ra, là sản phẩm của nó.

Con người đã tạo ra tất cả cái đẹp trên trái đất, tất cả thi ca, tất cả những hành động to lớn của lòng can đảm và danh dự, tất cả niềm vui và lễ hội của cuộc sống, tất cả vẻ quyến rũ, sự khôi hài và vĩ đại, tất cả những giấc mơ đẹp và khoa học tuyệt vời. Con người tạo ra trí tuệ táo bạo và ý chí không lay chuyển để vươn lên hạnh phúc.

Đó là con người, trong những ngày bi thảm, những ngày của đau khổ và dày vò, luôn kiên trì tin vào sự chiến thắng của các nguyên lý tốt đẹp mới mẽ đối với những cái cũ kỹ và xấu xa; đó là con người bất khuất đã mang chúng ta đến cuộc nói chuyện hòa hợp và đầy nhân tính ở đây. Chúng ta hãy đến với con người đã gây ra nhiều tội lỗi, nhưng sám hối sự dơ bẩn và tội lỗi bằng những đau khổ lớn lao và cùng cực. Chúng ta có thể tạo ra một không khí để con người có thể dễ thở hơn được chăng? Chúng ta phải và có thể được làm điều đó!

Diễn văn trước buổi họp công khai
của Hội ‘Văn hóa và Tự do’ ở Moscow
30.6.1918


(*) Có nơi viết Maksim Gorkij, hay Maxim Gorky tiếng Anh.

1 NXB Surkamp taschenbuch, 350 trang.

2 Lá thư này được đăng lần đầu tiên trong nguyệt san văn hóa Letopis (Niên giám) tại Petersburg tháng 5, 1917; sau đó được đăng lại trong nhiều tạp chí khác. Các đề tài trong lá thư được Gorki tiếp tục đề cập nhiều lần trong những bài báo của tờ báo Novaja Zizn (Đời Mới) cho đến tháng 7, 1918 khi nó bị cấm.

3 Công trường diễu hành tại St. Petersburg. Ngày 9.1.1905 Gorki chứng kiến công nhân của Petersburg bị vệ binh của Nga hoàng bắn chết thế nào tại Marsfeld (Ngày thứ hai đẫm máu). Ngày 23.3.1917 một buổi lễ mai táng các nạn nhân của cuộc cách mạng tháng Hai được tổ chức mai táng tại Marsfeld. Lễ mai táng biến thành cuộc biểu tình lớn của công nhân Petersburg.

4 Đội quân của người Tatar Chan Mamaj bị quân Nga đánh tan tành trong trận chiến tại Kulikovo năm 1380. Trong tiếng Nga trận đánh này đã trở thành đồng nghĩa với một cuộc chiến đấu hỗn loạn, ác liệt.

5 Krupp là vua sắt thép và chế súng đạn của Đức thế kỷ 19 và 20.

TRAN BINH : Việt Nam trong bão dông kinh tế

Hồ sơ - Tài liệu
Các hành động Việt Nam trong bão dông kinh tế
Trần Bình Cập nhật : 20/02/2009 18:04
Liệu rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục từ cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra từ đầu năm 2008, và vượt qua được những khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra, hầu có thể giữ được sự ổn định và đà phát triển?




Việt Nam trong bão dông kinh tế




Trần Bình



Cơn sốt lạm phát vừa tạm hạ nhiệt, thì nền kinh tế Việt Nam lại phải đối đầu với bão dông kinh tế thế giới. Những nét tương đồng về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế lần này và cuộc khủng kinh tế Á châu năm 1997-1998 đối với nền kinh tế Việt Nam đã được một số nhà nghiên cứu nêu lên. Song, sự khác biệt cũng rất sâu sắc, không những vì độ mở của nền kinh tế Việt Nam hiện nay khiến nền kinh tế bị chấn động mạnh từ các biến động bên ngoài, mà còn vì qui mô của cuộc khủng hoảng. Các cường quốc kinh tế vốn đã từng góp phần cứu vãn cuộc khủng hoảng kinh tế Á châu trước đây, nay chính bản thân họ cũng đang phải khốn đốn đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Liệu rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục từ cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra từ đầu năm 2008, và vượt qua được những khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra, hầu có thể giữ được sự ổn định và đà phát triển là câu hỏi mà các tổ chức tài trợ quốc tế và các nhà nghiên cứu đang rốt ráo tìm câu trả lời. Những dữ kiện cập nhật và các phân tích gần đây của Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), báo chí trong nước, và gần đây nhất là Bài Thảo luận Chính sách số 4 của nhóm Harvard, cho ta một bức tranh toàn cảnh về hiện trạng và viễn cảnh của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới đầy biến động. Các luận điểm tương đồng hay dị biệt giữa các phân tích soi rọi các góc cạnh khác nhau, làm sáng tỏ thêm những vấn đề cốt lõi của nền kinh tế Việt Nam hôm nay.



*


I. Sự ổn định vĩ mô và sự phát triển trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế:


1. Các biện pháp thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt cung tiền tệ qua các nỗ lực giảm tín dụng và đầu tư công đã có tác dụng tạm thời kiềm chế lạm phát. Song một nguyên nhân quan trọng khác đã giúp giảm áp lực lạm phát là giá cả hàng hóa trên thế giới giảm mạnh, hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế. “Trong nửa cuối năm, tình hình mang tính chất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Trên thực tế, các số liệu lạm phát đã cho thấy có cải thiện đáng kể trong thời gian cuối năm do giá cả hàng hóa toàn cầu giảm xuống vì khủng hoảng kinh tế toàn cầu” (1) (ADB). Mức lạm phát năm 2008 khép lại với con số 19,89% (2), thấp hơn đáng kể so với các dự báo đưa ra vào các thời điểm mà mức lạm phát tăng vọt trong sáu tháng đầu năm. Theo dự báo của IMF, lạm phát vào cuối năm 2009 sẽ giảm xuống còn 1 con số, chủ yếu là do giảm giá hàng hóa trên thế giới (3) (IMF).

Tuy nhiên, các phân tích của nhóm Harvard lại nhấn mạnh đến những nguyên nhân sâu xa mang tính cơ cấu của lạm phát, và do đó cho rằng việc giảm cung tiền tệ và tiết chế đầu tư công mới là nguyên nhân chính đưa đến giảm phát. Quan điểm này dựa trên luận cứ rằng, trong khi các nước khác trong vùng cùng chịu tác động giá cả bên ngoài như Việt Nam, nhưng lại có mức lạm phát thấp hơn nhiều. Nhóm cũng đưa ra con số đầu tư của khu vực nhà nước giảm 45 ngàn tỷ VND (tương với 2.6 tỷ USD) trong cuối nửa năm 2008, và tỷ lệ giảm tín dụng rất cao vào những tháng cuối năm, qua biểu đồ dưới đây (4) (Harvard). Đây cũng là luận cứ cơ bản làm nền cho các phân tích và đề xuất về sau của nhóm.




Nguồn - Harvard:
Số liệu lạm phát và tăng trưởng tín dụng của Ngân hành Nhà nước
và số liệu giá dầu thô của Global Financial Data.
Ghi chú: số liệu tháng 12/2008 là ước tính.



2. Giá cả hàng hoá giảm do kinh tế toàn cầu suy thoái giúp hạ nhiệt lạm phát, song đồng thời cũng làm chậm đà phát triển của các nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa như Việt Nam, hiện là quốc gia có tỷ lệ xuất khẩu vượt quá 70% GDP. Vì vậy, “cán cân rủi ro đang chuyển từ lạm phát sang phát triển” (IMF). Theo dự báo của IMF, năm 2009, nền kinh tế của các nước phát triển sẽ bị suy thoái (- %), mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 5%, giảm từ 6.23% của năm 2008. Mức tăng truởng 6.23% của năm 2008 thấp hơn đáng kể so với 8.5% của năm 2007, và là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1999 (5).

Tuy nhiên, với nhận định rằng các nguyên nhân sâu xa bên trong gây ra lạm phát vẫn chưa được giải quyết đến ngọn ngành, nhóm Harvard cho rằng cán cân rủi ro về lạm phát vẫn còn rất đáng ngại vì “gói kích thích tiền tệ và tài khoá do chính phủ đề xuất ”. Luận điểm này sẽ được khai triển ở phần II.

3. Trong đoản kỳ, nền kinh tế Việt Nam còn phải vượt qua nhiều thử thách: “Đây là những thách đố phức tạp, vì chính phủ phải đồng thời đối phó với mức thâm hụt lớn của cán cân thanh toán (tài khoản vãng lai), lẫn tình trạng yếu kém của các khu vực ngân hàng và doanh nghiệp, đặc biệt khu vực doanh nghiệp nhà nước”. Mặt dù dự báo rằng cán cân thanh toán năm 2009 sẽ được cải thiện – mức thâm hụt dự kiến sẽ giảm từ 12% GDP năm 2008 xuống 9% – do nhập khẩu có khả năng giảm nhiều hơn mức giảm của xuất khẩu và kiều hối – song IMF cảnh báo rằng: 9% GDP vẫn là một con số thâm hụt lớn, và khi kết hợp với mức dự trữ quốc tế tương đối thấp (tương đương với ba tháng nhập khẩu), có khả năng gây tổn hại đến nền kinh tế (IMF).

Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán luôn là một trong những vấn đề hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Song, từ nhiều năm qua, khi nền kinh tế phát triển thuận lợi, cán cân thanh toán tương đối ổn định, nhờ vào sự bù đắp của các nguồn thu ngoại tệ (cán cân vốn), bao gồm FDI, kiều hối, ODA, đầu tư gián tiếp (FII – chứng khoán), và du lịch. Tuy nhiên, sự mất cân đối đã trở nên nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây, nhất là từ khi xảy ra những biến động kinh tế trong và ngoài nước hồi đầu năm 2008.





Nguồn: IMF; lãi suất cho vay bình quân 2008 là ước tính của Harvard.



4. Sự thâm hụt cán cân thương mại (nhập siêu) do nhập khẩu tăng nhanh và cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu, thể hiện rõ qua biểu đồ dưới đây, là nguyên nhân chính của sự mất cân đối của cán cân thanh toán từ nhiều năm qua, đặc biệt trong hai năm 2007, 2008. Tỷ lệ nguyên vật liệu nhập trên thành phẩm cao, đầu tư công kém hiệu quả, và thâm hụt ngân sách là những nguyên nhân thường được đề cập, song Ayumi Konishi, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam, còn cho rằng “Thực tế, một phần lớn trong thâm hụt thương mại ở giai đoạn đầu năm là do nhập khẩu mang tính đầu cơ và đề phòng vì nhiều người đã cố gắng bảo toàn giá trị tài sản của mình hoặc kiếm lợi nhuận bằng cách mua hàng hóa từ nước ngoài, cho dù đó là vàng, xe hơi đắt tiền, các nguyên vật liệu thô như thép, phân bón, bông, hay chỉ đơn giản là ngoại tệ như USD” (ADB). Thứ nữa, đồng tiền được định giá cao từ nhiều năm qua, khiến giá nhập cảng trở nên rẻ hơn và xuất khẩu đắt hơn, dẫn đến việc khuyến khích nhập cảng tăng, lợi nhuận xuất khẩu giảm, làm tăng thâm hụt thương mại (Hardvard).

Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, lên đến mức báo động, 14,4 tỷ USD, nhưng được kiềm chế ở mức thấp trong những tháng sau đó, một phần do giá hàng trên thị trường thế giới giảm mạnh, và khép lại với con số 17.5 tỷ USD cho năm 2008 (20% GDP), tăng đáng kể so với 12.45 tỷ, năm 2007 (6).







5. Hai thành tố quan trọng khác của cán cân thanh toán, được IMF nêu lên trong số những yếu tố rủi ro mà Việt Nam sẽ phải đối phó trong đoản kỳ, là xuất khẩu và kiều hối: “Là một nền kinh tế mở và nhỏ, sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu sâu sắc hơn – đặc biệt tại các nước phát triển, nơi tiêu thụ phần lớn sản phẩm xuất khẩu, và là nguồn kiều hối chính yếu – sẽ tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam” (IMF).

Kim ngạch Xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng rất khả quan trong nhiều năm qua, như biểu đồ trên đây cho thấy. Theo số liệu ước tính của Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam đạt gần 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này sẽ phải chậm lại vì sự suy thoái kinh tế của các nước phát triển. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu bằng 70% GDP, và hơn 50% nhu cầu xuất khẩu đến từ Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, là ba quốc mà dự báo tăng trưởng năm 2009 đều mang số âm (- 0.7%, - 0.5, - 0.2) (Harvard).

Từ tháng 9, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh. Trong hai tháng cuối năm, lượng đơn hàng từ đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị hủy bỏ hoặc sụt giảm, tiêu biểu như dệt may giảm khoảng 20% - 30% về số đơn hàng và giá, thủy sản giảm khoảng 30% đơn hàng (6). Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1/2009 ước tính chỉ đạt 3,8 tỷ USD, giảm 18,6% so với tháng 12/2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước (7).


6. Kiều hối tăng nhanh trong thập niên qua, đặc biệt những năm gần đây khi lực lượng lao động xuất khẩu gia tăng mỗi năm. Kiều hối năm 2008 đạt 8 tỷ USD, tăng đáng kể từ 5.5 tỷ của năm 2007. Dựa trên số liệu kiều hối trung bình hàng năm do xuất khẩu lao động mang lại trong hai năm 2006, 2007 là 1.7 tỷ USD (8), và số lượng lao động xuất khẩu tăng 85 ngàn trong năm 2008, đưa tổng số lao động xuất khẩu hiện nay lên 500 ngàn (9), có thể ước tính kiều hối từ lao động xuất khẩu năm 2008 xấp xỉ 2 tỷ USD, hay ¼ tổng kiều hối của năm.

Tuy nhiên, kiều hối năm 2009 dự kiến sẽ giảm vì sự suy thoái kinh tế toàn cầu, đặc biệt từ các quốc gia phát triển, là nguồn kiều hối chủ yếu. Lấy trường hợp Hoa Kỳ chẳng hạn, nơi số lượng việt kiều chiếm gần phân nửa (1.3 tỷ) trên tổng số việt kiều của thế giới (10) và là quốc gia đang bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng, con số thất nghiệp tính đến cuối tháng 1/2009 đã tới đến 3.6 triệu lao động. Thứ nữa, một số quốc gia tiếp nhận nguồn lao động lớn nhất từ Việt Nam cũng đã có những biện pháp hạn chế tiếp nhận lao động xuất khẩu. Điển hình như: báo chí Đài Loan mới đây đưa tin Ủy ban Các vấn đề lao động (CLA) của vùng lãnh thổ này đã thông báo kế hoạch cắt giảm 30.000 lao động nước ngoài trong năm 2009 ở các ngành nghề công nghệ, xây dựng và sản xuất (11). Hãng truyền thông BBC hôm 22/1 cho biết, Chính phủ Malaysia đã chính thức ban hành lệnh cấm các doanh nghiệp tuyển̉ dụng mới nhân công nước ngoài. Theo đó, các doanh nghiệp Malaysia cũng nhận được khuyến cáo rằng nếu họ có kế hoạch sa thải công nhân thì trước hết người ra đi phải là công nhân nước ngoài (12). Nhóm Harvard cho rằng “tình trạng này có thể làm dòng kiều hối giảm hàng tỷ USD”.

7. “Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn vốn nước ngoài khác rất cần thiết để tài trợ các cân thanh toán có thể bị giảm khi nền tài chánh thế giới thắt chặt lại “ (IMF). Vốn đầu tư thực hiện sau nhiều năm tăng trưởng ì ạch, đã bắt đầu tăng mạnh trong hai năm qua, từ 2.3 tỷ USD năm 2006 lên 5.5 tỷ USD năm 2007, qua số liệu của UNCTAD (13). FDI thực hiện năm 2008 đạt 11.5 tỷ theo công bố của chính phủ. Tuy nhiên, theo cách tính của UNCTAD, sau khi phần vốn trong nước, FDI ròng của năm 2008 ước tính khoảng 8 tỷ, tăng từ 5.5 của 2007 (14).






Dự báo về nguồn FDI sẽ gặp nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế, Ayumi Konishi nhận định rằng: “Chúng tôi cũng tin rằng việc thực hiện một số dự án FDI cũng sẽ gặp khó khăn, vì nhiều nhà đầu tư khó có thể thu xếp tài chính cho các dự án của họ do tính thanh khoản tài chính toàn cầu trở nên rất thấp (ADB).” Nhóm Harvard phân tích thêm: “Tạp chí Financial Times hồi đầu tháng 12/2008 đã đưa tin về dự báo dòng vốn FDI toàn cầu sẽ giảm 15% trong năm 2009… Không những thế, do tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong các dự án mới đăng ký trong năm 2008 rất thấp, chỉ khoảng 28% (so với 43% của giai đoạn 1988-2007) và hơn 70% còn lại là vốn vay, nên tình trạng khan hiếm vốn tín dụng toàn cầu sẽ khiến nhiều dự án bị chậm tiến độ, thậm chí không thực hiện được”

Trên thực tế, đã có những tín hiệu của đà giảm này, thể hiện qua các con số FDI từ tháng 9/2008. FDI đăng ký bình quân 6.35 tỷ USD/tháng trong 9 tháng đầu năm đã giảm xuống còn 2.3 tỷ USD trong 3 tháng cuối năm (15). Đến tháng 1/2009, con số công bố vốn đăng ký, tính gộp chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, chỉ đạt 185 triệu USD, bằng 12,5% con số tương ứng của tháng 12/2008 là 1,47 tỷ USD. Cũng theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư thực hiện trong tháng 1/2009 giảm khá lớn, chỉ đạt 300 triệu USD, bằng 78,9% so với tháng 1/2008, và giảm mạnh khi so sánh với con số 1,45 tỷ USD của tháng 12/2008 (16).

8. Với các nguồn vốn nước ngoài khác, bao gồm vốn Hỗ trợ Viện trợ Chính thức (ODA) và vốn đầu tư gián tiếp, Shogo Ichii, Trợ lý Vụ trưởng Vụ châu Á - Thái Bình Dương của IMF, cho rằng: số lượng nợ nước ngoài ngắn hạn và vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài là thấp, nên không đáng quan ngại (3 IMF). Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện khoảng 18 tỷ USD (17), vẫn ở mức an toàn, vì phần lớn là nợ dài hạn với lãi xuất thấp, và tỷ lệ nợ trên xuất khẩu và trên GDP tương đối còn thấp.

Vốn ODA cam kết năm 2009 đạt con số 5,015 tỷ USD, thấp hơn 8% so với năm ngoái (5,426 tỉ USD), nhưng chưa bao gồm ngân khoản của nhà tài trợ ODA lớn nhất là Nhật Bản, do còn chờ làm sáng tỏ vụ tham nhũng liên quan đến dự án đại lộ Đông-Tây. Tổng số Vốn ODA giải ngân từ khi chương trình này bắt đầu hoạt động tại Viêt Nam, 1993-2008, là 22 tỷ trên tổng số 42,5 tỷ USD vốn cam kết (18). Mặc dù vốn ODA cam kết năm 2009 vẫn còn cao, song một số phân tích cho rằng vốn ODA giải ngân năm 2009 sẽ giảm xuống còn khoảng 1.5 tỷ, thấp hơn vốn giải ngân của năm 2008 là 2.1 tỷ USD.



9. Năm 2007 là năm tăng trưởng nhanh của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) trên thị trường chứng khoán. Đến tháng 6/2008, qua cuộc trao đổi với David Fernandez, Kinh tế trưởng Tập đoàn JP Morgan Chase, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã công bố vốn đầu gián tiếp nước ngoài là 8 tỷ USD (19). Vào cao điểm của nạn lạm phát lúc bấy giờ, mối quan ngại về khả năng các nhà đầu tư nước ngoài đột ngột rút vốn có thể làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát. Tuy nhiên, hiện nay, vốn FII giảm chỉ còn khoản 3.5 tỷ USD (20), do các nhà đầu tư rút dần vốn và giá cổ phiếu giảm, nên rủi ro do nguồn vốn có thể gây ra cho các cân thanh toán cũng đã giảm thiểu. Một số phân tích cho rằng vốn FII sẽ tiếp tục giảm thêm khoản 1.5 tỷ USD trong năm 2009.

10. Với lượng ngoại tệ thu từ du khách nước ngoài mang lại từ dịch vụ du dịch gia tăng đáng kể trong những năm gần đây, thể hiện qua số liệu tổng hợp từ VietNamNet (21), Hiệp hội Du lịch Việt Nam (22) và VnEconomy (23) trên biểu đồ dưới đây. Tuy nhiên, trước tình thế mới, Ông Ayumi Konishi đã tỏ ra hết sức quan ngại rằng sự sút giảm của ngành hoạt động này không những làm giảm nguồn thu ngoại tệ mà còn ảnh hưởng đến đầu tư phát triển các khu nghỉ cao cấp, và cơ hội tạo ra nhiều công ăn việc làm (ADB). Nhóm Harvard còn e rằng “Các ngân hàng đã cho các dự án khách sạn vay hàng tỷ USD và sẽ không thể đứng vững được nếu như những dự án này thất bại”.

Song, cũng như các hoạt động kinh tế có liên hệ đến nước ngoài khác, sự giảm sút của nguồn ngoại tệ du lịch trong năm 2009 sẽ khó có thể tránh khỏi, vì tác động của cuộc khủng hoảng. Số liệu từ Tổng cục Du lịch mới đây cho thấy lượng khách du lịch quốc tế tới Việt Nam tháng 1/2009 là trên 370 ngàn lượt, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm 2008 (24)





Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư (ODA) – VietNamNet,
Hiệp hội Du lịch VN, VnEconomy (du lịch)



11. Sau cùng, theo sự phân tích của nhóm Harvard, giá hàng hóa cơ bản giảm sẽ tác động tiêu cực tới ngân sách chính phủ. Thâm hụt ngân sách lên đến 5% và 4.5% và trong các năm 2007, 2008 (IMF); một con số rất đáng lo ngại, và là một trong những nguyên nhân quan trọng đã gây ra lạm phát. Theo ước tính của nhóm, “mức thiệt hại nhân sách 2009 do sự suy giảm giá dầu có thể lên tới 2 tỷ USD. Thêm vào đó, những nguồn thu khác như thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu, và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh trên hành nhập khẩu – chiếm 16% tổng ngân sách – cũng sẽ giảm đắng kể” (Harvard).



II Phương hướng và khuyến nghị:


Quan điểm của các nhà nghiên cứu đều đồng thuận trên một số nhận định cơ bản và quan trọng:

12. Việc nới lỏng chính sách kinh tế vĩ mô cần tiến hành thận trọng, bởi vì khác với các nước trong khu vực, vị trí kinh tế đối ngoại tương đối yếu kém của Việt Nam sẽ hạn chế khả năng theo đuổi chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng (IMF). Cụ thể hơn, với cán cân thanh toán thâm hụt lớn, dữ trữ ngoại hối thấp, chỉ số lạm phát 2 con số, và ngân sách thâm thủng cao, việc nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khoá dẫn đến tăng cung tiền tệ, có nguy cơ làm cho lạm phát bột phát trở lại (Harvard).

13. Chính sách nới rộng biên độ của tỷ giá gần đây là đúng hướng, cần được tiếp tục theo phát triển xa hơn nhằm tiến tới một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn trong điều kiện cho phép (IMF) . Đây cũng là một trong hai kế sách chính yếu của nhóm Harvard, sẽ được trình bày chi tiết hơn ở phần sau.

14. Trong trung hạn, Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với sức ép lạm phát trừ khi có thể giải quyết dứt điểm những hạn chế cơ bản đối với tổng cung – năng lực sản xuất của nền kinh tế bị kìm hãm bởi cơ sở hạ tầng kém phát triển, những qui định kiềm chế, hệ thống trung gian tài chính kém hiệu quả và thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng phù hợp (ADB).

15. Nền kinh tế suy giảm vì tác động của khủng hoảng kinh tế có thể làm tăng thêm độ rủi ro của các doanh nghiệp trong nước và hệ thống ngân hàng. Do đó, chính sách tài khóa cần phải được tiết chế, tập trung vào các dự án hạ tầng thiết yếu, cắt giảm các dự án hiệu quả thấp, bao gồm các dự án khu vực công, và xây dựng cơ chế kịp thời phát hiện những vấn đề phát sinh từ các khu vực doanh nghiệp và ngân hàng, đặc biệt cần giám sát các doanh nghiệp lớn quốc doanh (IMF)

Mặc dù cùng chia xẻ với các nhận định và phân tích với IMF và ADB về những vấn đề cơ bản của nền kinh tế nêu trên, song, quan điểm nhóm Harvard cũng có những điểm khác biệt quan trọng:

16. MF khá lạc quan về tình trạng lạm phát và đặt trọng tâm chính sách vào nỗ lực phát triển: “cán cân rủi ro đang chuyển từ lạm phát sang phát triển, thì chính phủ sẽ cần phải tiến hành nới lỏng chính sách vĩ mô một cách thận trọng”. Song, nhóm Harvard vẫn lo ngại về nguy cơ của lạm phát, không tán thành các biện pháp tiền tệ và tài khóa “kích cầu” của chính phủ, và đặt trọng tâm vào chính sách cải cách cơ cấu: “Tình trạng bất ổn vĩ mô xuất phát từ những nguyên nhân xâu xa bên trong và do vậy, phản ứng chính sách thích hợp phải là những thay đổi cơ cấu. Trong bối cảnh suy giảm kinh tế quốc tế ngày một sâu sắc thì nhu cầu cải cách cơ cấu lại càng trở nên cấp thiết. Hơn nữa chúng tôi ngại rằng gói kích cầu tiền tệ và tài khóa do chính phủ đề xuất không những không đem lại tác động mong muốn mà còn có nguy cơ làm tăng gia lạm phát và rủi ro hệ thống cho khu vực tài chính”

17. Các phản bác của nhóm Harvard về gói kích thích kích cầu tiền tệ và tài khoá của chính phủ – qua kế hoạch sử dụng 6 tỷ USD nhằm hạ lãi xuất và tăng chi tiêu – dựa trên các luận cứ sau đây. Thứ nhất, Việt Nam không có những thế mạnh tài chánh khi đưa ra gói kích thích lớn như Trung Quốc đã thực hiện khi xét về thặng dư thương mại, dự trữ ngoại hối, và chỉ số lạm phát. Thứ hai, nền kinh tế Trung Quốc, cũng như các nền kinh tế lớn khác, có tỷ lệ nhập khẩu nhỏ hơn nhiều khi so với Việt Nam, và do đó gói kích thích sẽ chủ yếu đi thẳng vào nền kinh tế nội địa. Thứ ba, với nền kinh tế nhỏ có tỷ lệ nhập khẩu trong tổng tiêu dùng cao, không thể kích cầu đơn giản bằng cách tăng chi tiêu công và hạ lãi xuất, vì khi ấy, nhu cầu tăng thêm sẽ được thỏa mãn bởi hàng nhập khẩu, và việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới lạm phát. Thứ tư, ở những nước có chế độ tỷ giá cố định như Việt Nam, khi lãi xuất giảm, doanh nghiệp và người dân sẽ không tiêu tiền, mà thay vào đó sẽ tích trữ vàng và ngoại tệ mạnh. Thứ năm, một trong những mục tiêu của gói kích cầu là tạo thanh khoản cho khu vực ngân hàng, nhưng phần lớn ngân hàng Việt Nam không thiếu thanh khoản và thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản tốt và hoạt động bình thường. Sau cùng, các thông tin truyền thông cho thấy chính phủ dự định tài trợ cho các dự án đầu tư công, bảo lãnh tín dụng cho một số tập đoàn lớn của nhà nước. Chính sách này không những không giúp cho nỗ lực cải thiện tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, là những mục tiêu chiến lược, mà còn tăng thâm hụt ngân sách, và có thể phát sinh tình trạng cho vay theo quan hệ và nợ xấu sẽ trở nên thêm trầm trọng.

18. Do đó cải cách đầu tư công là một trong hai chính sách ưu tiên hàng đầu trong sách lược kinh tế do nhóm Harvard đề đạt, và có thể tóm tắt như sau. Thứ nhất, xét lại ưu tiên của đầu tư công, bằng cách tạm dừng các công trình hoành tráng nhưng kém hiệu quả kinh tế, thâm dụng vốn và phải nhập khẩu nhiều, như các dự án lọc dầu, cảng, tuyến xe lửa cao tốc Bắc Nam…và đặt ưu tiên vào các dự án thâm dụng lao động, ít nhập khẩu, tạo nhiều việc làm. Thứ hai, thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công nhằm chấn chỉnh quá trình hoạch định, xét duyệt, thực hiện và đánh giá dự án. Thứ ba, ngừng cấp giấy phép thành lập ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm, và đánh giá lại các cơ cấu tài chính hiện hữu, nhầm loại trừ việc tập trung quyền lực tài chính.

19. Sau cùng là biện pháp cải cách chế độ tỷ giá, cũng do nhóm Harvard đề xuất. Nhóm nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam dựa rất nhiều vào xuất khẩu, ngày càng mở cửa đối với nhập khẩu, và có chế độ tỷ giá cố định, qua đó đồng tiền được giá cao trong nhiều năm qua. Khi VND được định giá quá cao, hàng nhập rẻ, khuyến khích nhập cảng tăng. Đồng thời, giá hàng xuất khẩu đắt hơn, làm giảm tính cạnh trạnh trên thị trường quốc tế, hạn chế mức tăng trưởng xuất khẩu. Hệ quả là thâm hụt của cán cân thương mại gia tăng, doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn vì thu lợi nhuận thấp hơn và phải cạnh tranh với hàng nhập rẻ hơn.

Vì vậy, nhóm Harvard đề xuất từng bước giảm giá VND, tức là tăng tỷ xuất. Biện pháp này cần phải tiến hành song song với giám sát chặt chẽ thâm hụt ngân sách và lãi xuất tiết kiệm. Việc thực hiện giảm giá này cũng phải có những biện pháp tránh các rủi ro, thứ nhất, vì khoảng 25% số nợ vay ngân hàng ở Việt Nam là bằng USD, và nếu các doanh nghiệp này có nguồn thu chính bằng VND, song phải trả nợ bằng USD khi đồng tiền mất giá, sẽ phải găp khó khăn hơn. Rủi ro thứ hai là khi hàng nhập nhập đắt lên, và hàng trong nước không thay thế được, buộc nhập khẩu phải tăng mạnh, dẫn đến tình trạng “nhập khẩu” lạm phát.



*


Mặc dù có những dị biệt trong việc đánh giá trọng tâm của lĩnh vực rủi ro và ưu tiên của các chính sách, song các nhà nghiên cứu điều đồng thuận trên quan điểm rằng tình trạng bất ổn vĩ mô của nền kinh tế việt nam bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa có tính cơ cấu, và nổi cộm hơn hết là cơ cấu hệ thống ngân hàng và đầu tư công. Những khuyết tật của của nền kinh tế đã tồn tại từ nhiều năm qua, song bộc lộ rõ hơn khi cánh cửa đầu tư và ngoại thương mở rộng dần từ hai thập niên qua, và khi cơn dông bão khủng hoảng kinh tế thế giới tràn vào. Các phân tích của các nhà nghiên cứu cũng cùng dẫn đến kết luận rằng, sự ổn định vĩ mô và sự phát triển của nền kinh tế không thể bền vững chừng nào Việt Nam chưa thực hiện các thay đổi có tính cơ cấu. Sự thiết yếu của cuộc cải cách sâu rộng này không những cần thiết để duy trì đà tăng trưởng, mà còn củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trong giai đoạn khó khăn này.

Tuy nhiên, những cải cách liên quan đến các doanh nghiệp quốc doanh, đầu tư công, và hệ thống ngân hàng là những địa hạt nhạy cảm, địa hạt của quyền và lợi. Mặc dù các tổ chức tài trợ quốc tế đã tốn không biết bao tâm huyết, công sức và tiền bạc trong nỗ lực thúc đẫy cuộc cải cách trong các lĩnh vực này, song, cho đến nay, kết quả đạt được vẫn chỉ là những bước nhỏ nhoi. Vậy, có thể kỳ vọng gì về một cuộc cải cách cơ cấu có ý nghĩa, như nhóm Harvard đã đề xuất, sẽ sớm xảy ra?



Trần Bình – Tháng 2/2009




(1) Một năm của những tin đồn - ADB - Ayumi Konishi

(2) Lạm phát, từ bất thường đến dễ đoán – Anh Quân

(3) IMF Statements at Donor Meetings - Shogo Ishii

(4) Thay đổi cơ cấu: giải pháp kích thích có hiệu lực duy nhất - Harvard

(5) GDP năm 2008 chỉ tăng 6.23% - BBC

(6) Những điểm nổi bật của xuất nhập khẩu 2008 - Mạnh Chung

(7) Kinh tế tháng 1/2009 báo hiệu những giảm sút – Anh Quân

(8) Lao động xuất khẩu gửi về nước 1,7 tỷ USD/năm – VietNamNet

(9) Mục tiêu xuất khẩu lao động 2009: “Nếu quyết tâm thì vẫn hoàn thành” Lý Hà

(10) Tư liệu tham khảo: Người Việt Nam ở nước ngoài đầu thế kỷ XXI: số liệu và bình luận

(11) Đài Loan tìm cách cắt giảm lao động nước ngoài – Thanh Tùng

(12) Xuất khẩu lao động: Đóng cửa thị trường Malaysia? - Quỳnh Lam

(13) Country Fact Sheets - UNCTAD

(14) Tính toán vốn FDI: “Cứ theo như nước ngoài thì rất khó!” - Anh Quân

(15) FDI năm 2008 không chỉ có màu hồng – Anh Quân
(16) FDI tháng 1/2009: Kỷ lục ngược! – Anh Quân

(17) UPDATE 1-No need to devalue dong - Vietnam's PM – reuters
(18) Vốn ODA cam kết đạt hơn 5 tỉ đô la Mỹ - KinhteSaigonOnline

(19) Chúng tôi đủ khả năng giữ ổn định VND - Nguyễn Hoài

(20) Triển vọng thị trường vốn 2009: Đối diện nhiều khó khăn – Lao Động
(21) Vận hội mới của du lịch – VietNamNet

(22) Du lịch Việt Nam: "Ăn" gì để "đẻ trứng vàng"? - Hiệp hội Du lịch Viet Nam
(23) Tỷ giá VND/USD cuối năm nay ở mức nào? Dưong Ngọc
(24) Du khách đến Việt Nam giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước – Thúy Nhung



--------------------------------------------------------------------------------

Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org