27/8/11

Phan Mộng Hoàn - Trâu xanh có cánh


Trâu xanh có cánh

Phan Mộng Hoàn

Cô gái nhỏ diện áo dài gấm hồng quần lụa trắng, chân mang hài lục có thêu cườm lấm tấm màu vàng anh. Mẹ sáng nay chải tóc cho con gái, trên đỉnh đầu cô nhỏ không còn xoắn kiểu bánh bèo nữa mà thay vào đó là chia hai mái tóc đen mượt và đánh thành hai con rít có thắt mỗi bên chân rít một cánh nơ hồng. Trông cô bé xinh xắn như con búp bê vẫn thấy chưng trong tủ kính tiệm Morin. Tết năm nay Mai Hồng đã 10 tuổi, nghỉ Tết dài ngày từ trường nội trú Sainte Marie trên Kim Long, me đón cô bé về nhà cho thỏa thuê vui thú với gia đình.

Đầu con hẽm gần sát nhà ba me và xóm Ao hồ, mới sáng tửng bưng đã mọc lên hai ba tụm “cờ bạc”. Bầy con nít xúm xít vòng trong vòng ngoài hưởng ứng mấy trò chơi ngày Tết. Nhất Lục và Bài Vụ. Bàn Bài vụ là nơi Mai Hồng chôn chân lâu nhất. Nhìn hai ngón tay lành nghề của chủ cái, nắm nhẹ đuôi tre của con vụ tám mặt. Cái khẽ xoắn hai ngón tay, vụ bung ra xoay tít, xoay hoài, mãi mới dừng lại nằm yên, phơi hình một con thú thắng.



Con vụ xinh xinh mang trên lưng bao nhiêu là con vật quen thấy hàng ngày, từ bao giờ đã được hoạ sĩ dân gian vẽ nên những hình tượng ngộ nghĩnh với bao nhiêu là màu sắc sặc sỡ. Chú heo đen tròn trĩnh trên lưng ẩn hiện vài nét trắng mỏng. Chàng ngựa đỏ chói ngẫng đầu tung vó. Bác trâu xanh ngơ ngác nhìn nghiêng. Bà voi trắng to lớn dềnh dàng. Thím tôm càng vễnh hàng râu. Cá thia lia mặc áo có vẫy bạc. Em ếch vàng da ửng sắc lục non, hai cẳng thì xoạc ra chựt nhảy. Ông rùa hiền lành ngái ngủ.

Mồng 3 Tết, trời Huế hửng nắng ấm áp. Cô gái nhỏ ý tứ xếp tà áo hồng, ngồi xuống kiên nhẫn xem người ta đánh bài vu. Cái là chị Bòn da đen nhẽm, vợ anh Bòn chạy xe kéo. Chị Bòn cười với cô bé, chị vốn là “máy giặt” của nhà ba me nó, nói em chơi đi, đừng có lo, nếu thua chị cũng chung cho em! Hôm trước Tết chi Bòn được me mừng tuổi nhiều thì phải. Cả năm trời chị lao động cực khổ, bệnh suyễn không rời làm khổ chị, lúc nào bé cũng nghe chi thở khò khè, nhưng miệng thì vẫn cười tươi dơ hàng nướu răng tím rịm vì ham nhai trầu. “Cái” Bòn đon đả chào mời khách đánh bài vụ. Lũ trẻ con đứa nào đứa nấy áo quần mới tinh sạch sẻ, rủ nhau sà xuống ngồi quanh trên mảnh chiếu nhỏ, ở giữa có bày tấm bìa cứng chia ô vẽ 8 con vật dễ thương.

Cô bé lăm lăm trong bàn tay tờ giấy bạc mới tinh, thầm hỏi, mình “đánh” con mô chừ hè? Hay là nuôi Trâu xanh? Còn nhớ như in, tối hôm qua, mồng hai Tết bàn Bài vụ trong nhà sôi nổi vì Trâu xanh. Dì Huyền Trâm bạn của me ghé đến chơi, đã nhất định nuôi duy nhất Trâu xanh. Dì có khuôn mặt trái soan, làn da trắng điểm phấn hồng trông xinh đẹp ghê. Nhưng lúc ấy, nhìn vào đôi mắt long lanh sắc như dao cau của dì, Mai Hồng thấy sợ quá. Bà nhất quyết ăn thua với chủ cái, là ba của cô bé. Thoạt tiên người đặt tiền đông đảo. Trên tám ô che kín những tờ giấy bạc. Bầy con nít chen chân lo le đánh cò con, người lớn ra tiền lớn. Chừng nửa giờ thì bàn bài vụ chỉ còn đáng kể giữa dì Trâm và chủ cái. Con trâu xanh thỉnh thoảng ló đầu ra rồi mất dạng, nhường chỗ cho tôm, cá, heo, ngựa…Nhưng từ đầu cho đến cuối, luôn luôn Trâu xanh được dì Trâm chiếu cố. Luật của bài vụ là Con đặt 1, Cái phải chung 7. Thường làm chủ cái bao giờ cũng vơ nhiều tiền. Mặc dù nếu con thắng cái phải chung gấp 7 lần lên. Đếm bàn bài vụ thấy có đến 8 cửa và trúng chỉ 1 cửa. Lấy 7 chỗ con bạc thua chung cho 1 chỗ trúng. Tuy nhiên người chơi càng đông chủ cái mới lời to. Đằng này dì Trâm đánh bạc kiểu liều mạng. Dì đặt 1 đồng, trâu xanh không ra. Thua, dì đặt 2 đồng, thua nữa dì đặt 3 đồng. Liên tiếp bốn năm lần trâu xanh đều biến dạng, dì Trâm vẫn tiếp tục chồng gấp 4, 5 lần lên ô Trâu xanh. “Cái” Ba hí hửng lùa tiền mệt nghỉ, me ngồi bên cạnh dì Trâm không biết bênh Cái hay bênh bạn. Dì Trâm thua xiểng liểng như thế đến hơn mươi lần mà Trâu xanh cứ lười biếng, im lìm ngủ. Mai Hồng xanh mặt dòm dì, nghĩ thầm “dì hết tiền mình hết được lìxì!” Hồi nãy dì xoa tóc nó, nói “chơi bạc xong dì sẽ cho bé tiền mai ra xóm đánh bài vụ nghe!” Rứa mà chừ cứ kiểu ni là dì Trâm toi mạng mất.

Cuối cùng lần vụ thứ 13, lúc nghiêng vai nhẹ tay mở cái tô úp con vụ hung hăng đã 12 lần khiến cho trâu xanh chết đứng, Cái hô: trâu xanh! Ngay lập tức Bé thấy ba tái mặt vì ở cửa Trâu xanh chồng cao ngất 13 đồng bạc! Bao nhiêu tiền lùa được mai chừ Cái phải lấy ra đếm chung đủ cho Con 13 lần 7! Bây giờ Con cười tươi như hoa xuân. Dì Trâm vươn vai đừng dậy, kêu lớn giọng, Trời trời mô rồi đấm lưng cho dì coi! Bé từ lâu được dì Trâm đặt tên là con “trời trời”, nó không hiểu vì sao mình bị mang tên như thế? Rồi dì dúi cho con cháu nhỏ tờ giấy bạc vẽ hình cô gái quê gánh luá. Mai Hồng theo lệnh chủ nhân Trâu xanh ôm hôn lên má dì Trâm. Nó len lén nhìn qua chủ bài vụ, thấy mặt ba chảy dài rất tội nghiệp.

Lúc này “cái” Bòn đang cười toe toét, tay chị mau lẹ vơ bạc. Cô bé quan sát lâu để ý thấy các mặt con vụ thay nhau xuất hiện, không có con mô hiện ra hoài. Cho nên nó không dám bắt chước kiểu nuôi miết một con như dì Trâm. Nhưng rồi tay Mai Hồng tự nhiên đặt tiền vào ô Trâu xanh, chị Bòn hô, cất tay! Bọn con nít im thin thít chờ đợi. Con vụ xoay tưng bừng trong dĩa được che kín, rồi cái mở nắp ra, cô nhỏ hét to: trâu xanh. Cái vui vẻ chung cho nó 7 đồng bạc nhàu nát. Lần thắng này chỉ mỗi mình nó. Mai Hồng dúi 6 đồng bạc ăn được vào chiếc ví nhỏ may bằng vải thêu hoa đeo bên cánh tay. Lần tiếp theo, nó nghỉ chơi, Heo đen chào đời. Lần kế nữa đến phiên ngựa đỏ. Cô nhỏ vẫn không đánh. Chị Bòn nhìn nó cười khuyến khích. Mai Hồng lại đặt Trâu xanh- và nó lai trúng, lại ăn 7 đồng. Cứ như thế cô gái nhỏ thủng thắng và chơi may rủi, khi chơi khi ngưng nhưng lạ chưa hể khi nào đặt tiền là quen thói đặt cửa con trâu xanh nhếch mõm cười. Cô bé lại ăn!

Buổi sáng mồng ba Tết trôi qua thiệt nhanh. Nắng chói chang chiếu lòa cảnh vật. Con đường Thượng Tứ người lui kẻ tới áo quần xênh xang. Họ rủ rê nhau vô ra thành nội thăm chúc Tết bà con xa gần. Cô gái nhỏ chợt nghe tiếng me gọi với ra từ cửa nhà mình, Mai Hồng mau vào nhà ăn bánh tt chiên rồi sửa soạn lên quê thăm nội! Nó ngồi lì ngoài sân chơi và xem bài vụ đã vài tiếng đồng hồ, lâu lâu liếc chừng chiếc túi vải căng phồng bạc ấp ủ trong lòng. Cô bé đứng vươn vai đứng dậy, khơng chào bạn bè mới quen ở xóm Ao hồ. Thằng Gió con Mưa, hai anh em thằng Đen thằng Trắng, cặp chị em sinh đôi Mai- Mót…đứa nào cũng có vẻ tiếc rẻ vì phải chia tay cô bạn xóm ngoài nhu mì dễ thương mà ngày thường chúng thấy sao mà xa lạ khó ưa. Mai Hồng vẫy tay chào từ giã Cái Bòn. Nó đi tung tăn, tay đánh đàng xa ra bộ hân hoan. Chiếc túi vải hoa có quai xách bằng giải lụa, bây giờ cầm trên tay cô bé đong đưa theo bước chân chim sẻ. Lòng nó phơi phơí vui. Buổi sáng đầu xuân mỉm cười trong gió nhẹ từ sông Hương thổi dạt dào lên phố xá làm cho không khí mát lạnh.

Mai Hồng chào cả nhà đang tụ tập chuyện vãn nơi phòng khách. Dì Trâm chưa về nhà dì dưới phố Trần Hưng Đạo, dì vẫn còn ngồi nhỏ nhẻ cắn hạt dưa lách tách, làm đỏ thắm mấy ngón tay thanh tú của bà. Dì chúm chím cười hỏi, Trâu xanh thắng hay thua rứa trời trời? Nó đưa cao túi vải khoe cả nhà. Ba với lấy chiếc ví hoa của cô gái nhỏ, để ba đếm tiền cho em* nghe ! Nó cười tươi đôi mắt đen sáng long lanh chờ lời khen của mọi người.

Ba chỉ tròn mắt nhìn Mai Hồng không nói chi. Ba chuyền túi vải hoa xinh xinh cho me. Chiếc ví xẹp lép. Me hỏi nhẹ, tiền lì xì mới ba me mừng tuổi con mô rồi ? Cô nhỏ ngơ ngác dòm quanh, uà tới me lấy lại chiếc ví đầy nhóc bạc nhờ quà của trâu xanh. Nó mở rộng túi, trong đó chỉ còn lẻ loi mấy tờ bạc nhàu nát nhưng xấp tiền mới tinh khôi ba me mừng tuổi hôm mồng một Tết đã không cánh bay mất tăm dạng. Cũng thế, những đồng bạc Trâu xanh thắng cuộc không còn đâu nữa. Tự nhiên nước mắt tươm ra chảy đầy hai ma bầu bỉnh. Mai Hồng buồn ghê lắm, nó lủi thủi đi lên lầu, vất túi vải thêu hoa hồng vào xó phòng ngủ rồi bò lên giường lớn của ba me nằm, tức tưởi mãi và con trời trời ngủ khoèo từ lúc nào.

Xuân Kỷ Sữu 2009. Nhớ tuổi thơ

Phan Mộng Hoàn - Thương để ở đâu?


Thương để ở đâu?
Phan Mộng Hoàn

Nửa khuya hôm qua tôi tỉnh giấc, xe đã đậu xịch trước parking lot nhà. Nam Trân lái xe thiệt cừ, trẻ trung có khác. Vậy là me con Minhon đã trở lại nhà bên ấy. Tôi không thèm nhớ vì buồn ngủ quá, vội lăn vào giường làm một giấc tới sáng. Dậy sửa soạn đón 2 ông tướng Sữa Càphê sẽ tới bây giờ. Bước vào nhà, cu Sữa hỏi ngay, Gấu con đâu rồi? bà nội trã lời, đã bay về VN kịp đi học.
Lòng tôi chợt xoắn vó một nỗi nhớ thằng cháu ngoại mảnh mai bé bỏng. Gấu con tròn 3 tuổi mà khôn lanh ghê. Tối hôm qua nó chỉ chỗ bà ngồi cạnh bên nó, giữa ông và Gấu. Xe trực chỉ hướng lên phi cãng San Francisco. Mommy ngồi băng trước với Nam Trân, ông ngoại trên 70 rồi nên lái xe đêm không còn tốt nữa, nguy hiểm phải nhường tay lái cho cô dâu út. Nhà cu Bơ không đưa mẹ con Nhon vì xe ba me đủ sức chở 3 thùng gọn. Toàn là đồ cho “les misérables” Huế hết 2 thùng! bởi vì trái tim tôi khi mô cũng trĩu nặng thương vòng ngoài.
Bà hỏi cháu, Gấu con thương bà không? Nó ngó chăm tôi gục gặc đầu. Thương để đâu? Cháu trã lời, để trong tim. Lại hỏi tới, tim trên hay tim dưới? hai con mắt tròn xoe viên bi chớp lóe trong bóng tối, xe đang chạy trên 101, đèn ngoài cửa xe lấp lánh vui. Nó nói mau, tim dưới! mọi người phá ra cười. Bà ôm ngực bên trái xoa xoa, tim ở đây nì, Gấu con thương bà để đây hí. Nó chúm môi cười tí tí. Bà đèo queo hỏi nữa, Gấu thương bà nhiều không? Nó chờ trã lời dứt khoát: thương! Bà cứ câu hỏi: thương để đâu? Thằng cu nhẫn nại trã lời, trong tim, chữ tim rõ ràng không ngọng không chớt tim ra “chim”. Rứa thì để tim trên hay tim dưới? tim dưới, thằng cu xác định thế và ngó chăm chú bà chờ phản ứng- cả xe cười oà ra như pháo tết. A! hèn chi Gấu Con pipi trôi bà ra vườn!
Tối nào tôi cũng mò xuống khách sạn uncle Bom ngủ với me con Minhon. Nhà này hai phòng cậu Bom sửa lại xinh xắn cho khách thân ở xa có thể trú qua đêm. Năm ngoái dành gia đình Burbank của dì Mina, New Year 2010 này vào dịp đám cưới Nam Trân- Bom dành cho chị Sui chúng tôi, mẹ cô dâu.
Gấu Con dáng cao thanh mảnh, tóc tai một đống bùm xùm kiểu nghệ sĩ, không chịu cho ai cắt ngắn, nó đòi phải nuôi tóc dài. Có hôm mommy bay qua nhà bạn chơi, gửi bà ngủ với cháu. Thế là tôi phải trong tư thế ở qua đêm với thằng nhóc. Tôi hơi lo lo vì cả đời hai mẹ con nó quấn quýt nhau không rời. Thế nhưng nghĩ kỷ, lần ở VN hè 2009, khi con gái phải bay đi huấn nghiệp BA tận Singapore gần tuần lễ, hai bà cháu hủ hỉ suốt thời gian đó mà có sao đâu, dù cho đúng vào thời kỳ cháu mọc răng bị hành sốt cao.
Lần này ở Mỹ, tôi mạnh dạn OK và “training” cho chắc cú bằng cách xuống hotel ngủ với Nhon- Gấu Con. Trời cuối tháng 5 mà San Jose còn lạnh ghê, chạy băng từ nhà trên xuống khách sạn, thằng cháu gọi thế, khuya trong vườn gió rít những cây thông thổi xạt xào, trên tít cao bóng trăng xanh xao, len lỏi cành nhìn xuống. Lạnh khiếp thế nên tôi gọi, hotel đỉnh gió hú, Nhon ôm Gấu Con trùm kín trong áo ấm dày cui vẫn rét run.
Hai tuần me con Nhon về nhà San Jose, thoắt cái đã trôi mau. Bây giờ, sáng tối tôi lang thang ra vườn, xuống khách sạn cậu Bom, lòng buồn ngẩn ngơ…đọc thơ Kiều nghe sao mà giống mình quá Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình…(?)
Cháu ngoại tôi bú bình mệt nghỉ. Nhon dặn me lời ghi trên bảng, me nhớ cho Gấu bú 3 bình một đêm! Ui chao ơi! bú dữ rứa cặm hèn chi không dầm dề nước non! Tôi sửa soạn một đống khăn lông dày, to đủ cở, quyết đối phó nạn lụt nổi trôi. Tuần lễ về đây, sáng chiều chị nuôi bà vui vẻ lượm từng lô khăn lông tẫm hương urê, đem lên nhà trên giặt sấy, cho khỏi hôi xoon căn nhà từ lâu rồi vắng mùi khai. Sáng Nhon vưà đi khỏi, cháu ngoại tỉnh giấc, cười với tôi hỏi mommy đi đâu, Me đi chơi, mua bong bóng bay, mua…Gấu thêm, mua bút màu mua… tôi thêm, mua đủ thứ! Và bà rũ cháu vào toilet pipi. Nó lăng xăng giúp bà mau lẹ tự thay quần ướt sũng, lon lon chạy ào vô phòng tắm cho bà lau rửa. Gấu than lạnh quá! Tôi vội lau mình cho nó và quấn khăn dày quanh tấm thân bé tí đang khẽ run. Trời cuối tháng 5 Cali vẫn ham rét, cháu tôi từ xứ nhiệt đới về biểu sao không lạnh. Cháu tìm trong thùng me đem về chiếc quần trắng vải để diện. Tôi đặt cho nó nick name, “ông hội đồng Cần Thơ”, vì quần dài vải mịn mặc mát hợp làn da dễ dị ứng của thằng cu. Hôm đón hai me con nó về thăm nhà, từ cửa lớn ra khỏi phòng hải quan, tôi dòm tìm mà không nhận ra dáng dấp của đôi mẹ con có lẽ Korea ra cuối cùng, mãi khi nghe ai reo lên, ‘Minhon về kìa’ mới nhìn ra. Thằng cu chạy quấn chân mẹ nó là cháu ngoại tôi.
Cu con tóc xù như tổ quạ, chân mang dép nhẹ chạy loăng quăng. Minhon trông gọn gàng dễ thương trong cái đầm trắng đơn giản, tóc chải điệu như Mina, ra vẻ giáo sư gớm! Ba anh em thằng cu xúm vào nhau thân thiết ngay. Sữa sà sát Gấu Con, Baby tức Càphê cũng thế. Chàng mít nhỏ dành đẩy xe chất đầy hai thùng. Tôi ôm hôn con gái út, Nhon nói, toàn là đồ của me không à! Ai đi về mà không lâm cảnh làm con lừa tải quà lung tung theo “order” tôi nỉ non yêu cầu. Cho bên nớ cho bên ni…
Trăng non xanh xao, gió khuya lạnh, tôi mỗi đêm xuống khách sạn của Gấu con ngủ với mẹ con nó. Cali thời tiết mát dễ chịu so với nhà Nhon thuê ở vùng quận 7. Về bên đó ở với con gái, mỗi lần muốn thăm bạn bè, người quen thân, tôi phải tốn tiền taxi đi về 20 đôla, vì phần đông họ còn ở dưới Saigòn cũ, xa tít. Xe cộ người ngợm chao ơi đâu ra mà lúc nhúc chóng mặt. Buiding cao ngất mọc lên sừng sững chiếm hết bầu trời xanh nhiều mây trắng ngày xưa ấy khi cả nước chưa thống nhất Bắc Nam một nhà. Nội chiến chấm dứt, người sinh sản thêm, đời sống khó khăn. Nông thôn dân bỏ bê ruộng vườn cày cấy, tuôn ra thành phố kiếm miếng ăn…

Bà ngoại viết tặng Gấu con cuối năm 2010

4/8/11

TRẦN DẦN TRONG CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH VÌ TỰ DO DÂN CHỦ

TRẦN DẦN TRONG CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH VÌ TỰ DO DÂN CHỦ

(Thứ Tư, 20 Tháng Bảy-2011)


Tác giả : NGUYỄN THANH GIANG


NHỚ TRẦN DẦN

Ông khóc những người bay không có chân trời
Tôi khóc ông
Nước mắt ta là giọt máu hồng
Nhỏ cùng nhân thế
Nhỏ vào vũ trụ
Vẽ chân trời
Thành trái tim chung

Nguyễn Thanh Giang


Trong buổi tọa đàm về cuốn tiểu thuyết “Những ngã tư và những ngọn đèn” của Trần Dần tổ chức ngày 16 tháng 6 năm 2011 tại Trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội, nhà thơ, dịch giả Dương Tường đã tâm sự: Ở Việt Nam, nếu có một người xứng đáng được nhận giải Nobel thì người đó là Trần Dần. Theo Dương Tường: “Trần Dần là một người khổng lồ, không dưới 30 tập thơ, ba tiểu thuyết, không kể những bản thảo bị mối mọt hay thất lạc … Còn phải nhiều năm nữa người ta mới đánh giá được kho tàng văn học do Trần Dần để lại”. Theo Dương Thụ thì ngoài “Người người lớp lớp” Trần Dần còn có sáu tiểu thuyết nữa.

Nói chung, người ta nghĩ đến giải nobel văn học cho Trần Dần. Tuy nhiên, Trần Dần còn có thể được xét tặng một giải nobel nữa: nobel hòa bình, nobel chính trị. Bài viết này đề xuất vấn đề đó.

Người coi sáng tạo là lẽ sống –

Có thể ghi nhận những vần thơ trích trong trường ca “Hãy đi mãi” sau đây là tuyên ngôn sống của Trần Dần:

“Tôi chửa có khi nào quên táo bạo
chửa khi nào quên hát
........ quên đau .
Tôi yêu đất mẹ đây ---
....... có cỏ hoa làm chứng
Tôi yêu chủ nghĩa này
....... cờ đỏ cãi cho tôi .
Nhưng
...... chẳng thể rúc kèn củ rích ,
vác loa mồm kêu :
...... "Hiện tại rất thiên đường !"
Không !
Thiên đường chúng ta
....... là nối đuôi nhau
....... vô tận triệu Thiên đường .
Ði mãi
...... chẳng bao giờ thỏa .
Tôi có thể mắc nhiều
...... tội lỗi,
chẳng bao giờ quá ngu đi
....... mắc tội : nằm !
Han rỉ
....... khác gì cái chết ?
Chết con tim chẳng còn dám đau thương .
Chết khối óc
........... chẳng còn dám nghĩ !
Nếu
..... tôi chửa đến ngày thổ huyết
phổi tôi còn xâu xé mãi
.............. lời thơ .
Tôi có thể mặc thây
............. ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi : ---
..........."Sống không sáng tạo !"
………
Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu
............... nặng nề sáng tạo
như
.... nâng một viễn vọng đài

Và trong trường ca “Đây, Việt Bắc”:

“Hãy thù ghét
mọi ao tù
nơi thân ta rữa mục
mọi thói quen nếp-nghĩ mù loà!
Hãy sống như
những con tàu
phải lòng
muôn hải lý
mỗi ngày
bỏ sau lưng
nghìn hải-cảng-mưa-buồn!”

Tư duy sáng tạo đánh vật trong con người Trần Dần làm ông không thể chấp nhận hạnh phúc đương thời: “Thôi đi những hạnh phúc - quần đùi may sẵn! giầy dép - đóng sẵn! Số? Cỡ? Hạnh phúc chẳng mua ở công ti-may mặc-sẵn? những si lip sách chẳng vừa…cóoc sê jáo khoa ca mà thịt hở ” (Sổ thơ kể kệ 1976).
Ông cam đoan: “Chết đi, tôi vẫn mất ngủ” (Sổ bụi 1988), cho nên đã mắng mỏ: “Họ cứ vu oan mặt trời ngủ” (sổ bụi 1986).
Ông nhìn thấy niềm khắc khoải sáng tạo cả nơi con chim rừng Việt Bắc:

“Chính
chiếc nôi Việt Bắc
bế bồng ta
qua
tất cả
tháng năm đầy lửa
nuôi ta
nuôi cách mạng lớn khôn
Ta bầu bạn
củ khoai môn
nương sắn
Bạn
con chim mất ngủ
rừng già…”

(Đây Việt Bắc)

Và ông kiêu căng, tự hào, vững tin ở thành quả sáng tạo của mình:

“Anh mới đấm lên trời
dăm quả đấm
bây giờ anh
ngồi
chết
một gian buồng
bốn bức tường
nó giữ chịt người
anh
để giáo dục anh về nhiều chuyện
và chuyện yêu
- là chuyện chúng mình...
Em đọc kỹ
trang thơ này nhé
Em đếm xem
bao chữ
bao vần
cũng tựa bao đêm
em ngắm sao trời
em đã thấy
một vì sao
ngất ngưởng
vì - sao - anh
nó chuyển bến bên trời
đuôi nó cháy - đúng là
vì sao dữ
Anh cho phép
em khóc nhiều
khóc nữa
Em ơi
tình yêu em
không có tuổi bao giờ
mươi thế kỷ
vì sao
anh
vẫn cháy...

(Tình yêu)

Dương Tường từng khẳng định Trần Dần là nhà cách tân thơ số một của Việt Nam. Ông giải thich:

"Suốt một thời gian dài, thơ Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Thơ Mới. Người đầu tiên tạo nên một vết cắt, đưa thơ Việt Nam ra khỏi quỹ đạo đó là nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng Nguyễn Đình Thi không đi hết con đường của mình. Còn Trần Dần, từ những ảnh hưởng của Maiakovski, ông chuyển sang viết Jờ Joạcx, Mùa sạch... với những cuộc tìm kiếm không ngừng đến cái mới. Thơ Trần Dần đầy chuyển động, không bao giờ lặp lại chính mình, nhưng vẫn giữ nguyên cái cốt cách Trần Dần".
Trần Dần từng kêu gọi "Phải chôn Thơ Mới" ...."phải viết khác đi, phải cách tân, phải quên những thành tựu của tiền chiến để sáng tạo nên những thành tựu mới, phải cướp được độc giả của tiền chiến"...

“Tệ” hơn, ông còn đòi “chôn” cả Nguyễn Du: “Với tôi, Du (Nguyễn Du), Hương (Hồ Xuân Hương), Khiêm (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Quát (Cao Bá Quát) hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưng học trò phải "chôn" thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. "Mai sau dù có bao giờ" là con chữ "Chữ tài liền với chữ tai một vần" là đặt nghĩa”. Bởi vì, ông tuyên bố: “Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển” (Sổ bụi 1979). Ông đòi hỏi nhà văn phải là: "Kẻ viết? đạp đổ chân trời?xổng xích các chân mây?" (Sổ bụi - 1985).

Bộ sách Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba quyển: quyển một là những suy nghĩ về sáng tạo, quyển hai chụp lại thời kỳ đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng, quyển ba viết về cuộc sống con người trong những năm bị cầm tù.
Trong quyển một, có những dòng sau:

- Người Sáng tạo là đại biểu cho Tương lai. Nên hắn mâu thuẫn rất mạnh với Hiện tại.

- Người Sáng tạo chỉ làm chủ được ở Tương lai. Còn ở Hiện tại, hắn phải chịu như là thua, nhường cho những kẻ tầm thường khác làm chủ.

- Nếu có chịu được búa rìu của thành kiến mới có thể làm người sáng tạo được. Phải có dạ lim trí sắt.

- Phải có gan đứng lên trên dư luận, chửi mắng, mưa bão. Phải biết đạp mưa xéo gió. Phải phá vỡ cái luân-lý-hiện-hành, những nguyên tắc tục lệ hiện nay đang làm chủ. Đó là bỏ cái ba lô của hiện tại, mới có thể xốc tới tương lai.

- Số phận người sáng tạo bao giờ cũng phải chịu hiểu lầm, chịu những sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng tạo là kẻ thù không đợi trời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết ngay, nó nhiều kế độc, hại ngầm và hại ra mặt.

Điều kiện tiên quyết để sáng tạo: Tự do -

Năm 1946, chàng trai Trần Dần 20 tuổi đã dắt một bạn gái du ngoạn Huế. Sau 42 năm mưa dập gió vùi, tháng 5 năm 1988 ông mới có dịp trở lại Huế cùng Phùng Quán - người vừa cùng ông được "trở lại" Hội Nhà Văn Việt Nam - Hai nhà thơ ghé thăm Hội Văn Nghệ tỉnh, gặp gỡ gần 100 nghệ sĩ và trí thức đang công tác tại Huế. Trong buổi này, trả lời câu hỏi “Anh quan niệm thế nào về đổi mới hiện nay?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Dần đã nói: “Theo tôi, đổi mới là tạo nên sáng tạo. Phải để cho các thế hệ tự do sáng tạo. Nếu nói Trần-Dần-Giá-Trị, đấy phải là Giá-Trị-Tự-Do”.

Tự do với Trần Dần là giá trị, là ý nguyện, là bản thể. Đến nỗi cảm thấy Quả Đất này với ông thật chật chội: “Tôi chẳng phải tù binh quả đất” (Sổ bụi 1979), vì ông nghĩ rằng: “Tôi chôn rau ở tận trời sao. (Sổ thơ 1973).

Trong nhật ký ngày 20/12/54 của Trần Dần người ta đọc được những dòng sau: " Cơ quan văn nghệ chưa có gì thay đổi. Vẫn những tư tưởng: "coi rẻ lao động nghệ thuật", "đơn giản coi văn nghệ bộ đội là bộ đội", không tin văn nghệ". Vẫn những chính sách gò bó, mệnh lệnh và máy móc "quân sự hoá văn nghệ". Đời tôi chìm chết trong chính sách này, cũng như những anh em khác. Khó lắm. Nhưng tôi nghe nhiều tiếng cất lên. Phản đối. Bàn cãi. Mỉa mai. Và cả chửi bới. Cái đó có nghiã là tiếng trống báo tử của những tư tưởng và chính sách áp chế văn nghệ bộ đội. …”.

Đầu tháng 10 năm 1954, Trần Dần được cử đi Trung Quốc 2 tháng để viết bản thuyết minh cho phim “Chiến thắng Ðiện Biên Phủ”. Phụ trách đoàn là một cán bộ chính trị. Vì ý thức tổ chức, lúc đầu Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Nhưng rồi, khi ông cán bộ công nông lập trường macxit thô bạo “tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần bỏ mặc, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ kia. Những dòng nhật ký trên ghi lại sự búc bối sau chuyến đi đó.

Trần Dần phàn nàn: “ Có thể nói ngày nay trong văn chương chúng ta có lắm điều giả tạo (có thể nói đạo đức giả). Văn chương viết theo hình thức, mẫu mực sẵn có, đơn giản hóa và ấu trĩ. Các nhà văn đóng khung sẵn và bắt buộc sự thật phải đi vào khung ấy”.
Ông đòi hỏi: “Trách nhiệm cao cả của nhà văn là tôn trọng chân lý. Đó là tiêu chuẩn cao cả để đánh giá nhà văn và tác phẩm. Tôn trọng chân lý là bổn phận, là trách nhiệm, là căn bản, là phương pháp của nhà văn trong công việc của họ”.

Ông nã súng liên tục vào sự “bóp gò sự thực vào chính sách”:

"... Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách. Không bao giờ được biến chính sách, chỉ thị thành định kiến "đinh ninh"... "... Người viết chỉ viết do thôi thúc của thực tế. Những chân lý lớn, nhỏ, anh ta tự giác thấy ở cuộc sống, ở quân đội. Không phải viết để vừa lòng Tuyên huấn, vừa lòng cấp trên. Để có cái danh phục vụ kịp thời. Một triệu lần, không có mùi mè giác ngộ, phục vụ gì cả! Cái áo không thể che được mùi thối trong ruột. Cách mạng không cần những người vỗ tay hoan hô nhắm mắt. Những anh hót ca chính sách. Thậm chí những anh "thày cúng chính sách", leng keng bóp méo, nghèo nàn...”.

Ông ráo riết quảng bá:

“Tôi nghe người ta nói đừng viết cuộc sống telle qu'elle est (cuộc sống như nó đang diễn ra) mà phải viết la vie telle qu'elle doit être! (cuộc sống như nó phải được diễn ra) - Tôi lại hiểu rằng: viết cuộc sống telle qu'elle est tức là viết cuộc sống telle qu'elle doit être.- Tôi hiểu rằng không có gì đẹp hơn, không có gì cao cả hơn, không có gì cộng sản hơn là: Sự Thực không tô điểm, Sự Thực trần truồng. Và cũng không có gì xấu hơn, không có gì yếu ớt hơn, phi cộng sản hơn là Sự Thực tô điểm, Sự Thực mặc áo hồng, áo xanh, áo hoa. Tôi nói rằng, dù áo hoa đó thích hợp, dù sự tô điểm đó là tô theo phương hướng thực của cuộc sống thực, thì cái áo đó và sự tô điểm đó vẫn cứ là không đáng tán thành. Cuộc sống cởi truồng, nó có ý nghĩa như những sự tô điểm và những bộ áo đẹp và lý tưởng nhất. Màu da của cuộc đời toute nue, đó là tất cả các bộ áo của trần gian rồi] (trích những dòng ghi từ 16/9 đến 1/10/54, trang 43-48).

Còn phải thấy rằng, không phải đến dưới ách chuyên chính vô sản con người tự do trong Trần Dần mới thấy ngột ngạt. Trong bài thơ đầu tay viết trước cách mạng Tháng Tám Trần Dần đã thấy “Những ngọn đèn mờ trên phố lạnh”, đã thấy “núi Cô Sơn hờn tuế nguyệt”.

Bài thơ có tên “Hồn xanh kỳ dị”: “Ta từ biển vắng về đây mộng/ Gặp lúc Thăng Long lụi ánh đèn/ Những ngọn đèn mờ trên phố lạnh/ Đời đương yên giấc biết ai tìm?/ Ôi kẻ xa chơi lẻ trúc đình/ Quê nhà ai khóc? Lệ ai xanh?/ Hồn em mây chở về đâu nhỉ?/ Có gặp buồn trong cuộc lữ trình/ Kìa núi Cô Sơn hờn tuế nguyệt/ Kìa vầng trăng héo nẻo ra đi/ Nửa đêm trở giấc trong phòng lạnh/ Chợt thấy hồn xanh đến dị kỳ”.

Và rồi Trần Dần đã cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng “Dạ đài” với tuyên ngôn 16-11-1946: “Chúng tôi - một đoàn thất thố - đã đầu thai nhằm lúc sao mờ...Chúng tôi đã sống, sống hết cả những hình thức dương trần, đã đau khổ hết cả những mối sầu vui nhân loại. Thế cho nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng – chúng tôi có nói cũng chỉ là nói cái tâm trạng của thời nhân, của những thời nhân đã có ngày cô độc…”

Tháng 2 năm 1955 Trần Dần viết bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ”. Với sự góp ý của Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh.
Bản Đề nghị dài 12 trang đánh máy nêu các yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội ….
Ban đầu đã có nhiều ý kiến thuận. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội như Lê Liêm, Lê Quang Đạo, Trần Độ đã ủng hộ nhưng ông tướng Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị - bỗng vung đại đao sát thủ: “Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”.
Thế là Trần Dần đành xin xuất ngũ, xin bỏ Đảng để được đạp qua những quy định của sự kỳ thị độc ác về thành phần giai cấp, về lý lịch gia đình, để sống chết với tự do ái tình, để cứ thế mà xăm xăm yêu và sống với Bùi thị Ngọc Khuê, một người con gái con nhà tư sản. … Hơn thế nữa, còn đi đạo. “Tệ hại hơn”, còn bỏ thiên đường XHCN, theo địch vào Nam.
… Thế là, ông kêu gọi dấn thân vươn tới tự do dù quằn quại xót đau:
"Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!
Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ...

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè"...
… Thế là, ông vật vã hành xác, sám hối cùng tự do:
“Tôi vẫn thế! Vết nhăn bổ dọc trán…
Tôi có gì đau?
Đau có vì gì?
Ai bảo tôi cách nào thoát khỏi chấn song tôi?....
Lậy tất cả! Tha cho tôi
Cả những lỗi tôi làm
Cả những lỗi người khác phạm
Tha cho tôi. Tôi không đánh vỡ gì cả
Tôi chỉ đánh vỡ của mọi người một mảnh sống: đời tôi”
(Đường Cùng - Tập thơ Cổng Tỉnh)
Trong cơn vật vã, ông nhìn thấy
“Ai mửa sao đêm
đầy các ngõ
để hầm hập bồ hôi
cơn sốt phố về đêm?”
(1959)
Và, xin hãy đọc lại bài thơ “ Nhất định thắng”. Ở đấy đâu chỉ có cái điệp khúc than thở: Bước đi không thấy phố, không thấy nhà mà là lời kêu gọi thiết tha xả thân đấu tranh không chỉ cho Thống nhất, Độc lập mà là Dân chủ. Dân chủ với Tự do. Dân chủ để được Tự do.
“..... thành phố
..... thôn quê
Ðói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả !
.... Ra đường !
Ði !
.... hàng đoàn
.... hàng đoàn
Ðòi lấy tương lai :
HÒA BÌNH
.... THỐNG NHẤT
.............. ÐỘC LẬP
........................DÂN CHỦ
Ðó là tim
.... là máu đời mình
Là cơm áo ! Là ái tình
Nhất định thắng”.

Mục tiêu cao cả và thiêng liêng như vậy nhưng năm 1956 khi bài thơ “Nhất định thắng” in trong “Giai Phẩm” thì Trần Dần đang bị giam ở Việt Bắc.Tờ tạp chí bị tịch thu ngaỵ Trần Dần bị gọi về, mang ra đấu tố giữa một cuộc hội nghị gồm đông đủ các văn nghệ sĩ. Ông bị quy rằng trong các bài thơ của mình đã dùng chữ "Người" viết hoa để ám chỉ, đả kích cụ Hồ. Trại giam Việt Bắc, do vậy, với ông, vẫn được xem là thoáng đãng quá, tự do quá, người ta phải tống ông vào nhà pha Hỏa Lò ở Hà Nội cho hả cơn. Uất ức quá, Trần Dần dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết. Trong bức ký họa của Nguyễn Sáng, cái sẹo ở cổ Trần Dần được đặc tả rất rõ.

Không phải chỉ ”quyết Thơ phải khua gió bão” –

Có người nói Trần Dần “chết” vì tự do vô kỷ luật. Quả có vậy. Không “chết” sao được khi một anh bộ đội cụ Hồ mà dám xông tới tỏ tình mãnh liệt đến mức nữ chiến sỹ đồng đội hoảng hồn bỏ chạy.
Có người bảo Trần Dần “chết” vì ngông nghênh quá. Không sai. Với một nhà thơ được tôn vinh là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam, đang trên đường trở thành ứng cử viên Tổng Bí thư ĐCSVN mà sao Trần Dần dám hạ bút phê:
"Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. "Ý lời tầm thường (...), rất nhiều cái kiểu "lòng ta xao xuyến, rung rinh", - "chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh", - hoặc "đời vẫn ca vang núi đèo", hoặc "Cụ Hồ sáng soi". Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hãy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (...) Phá đường: "Nhà neo việc bận vẫn đi" - làm thì thi đua -, thi đua kết quả thì rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc... xem ra thì có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (...) Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà. ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cái nhìn mới mẻ gì. (Trần Dần ghi, trang 141).
Nếu “chết” vì như vậy thì thật oan và tội nghiệp cho Trần Dần. Ông không ngông nghênh, không kèn cựa, không kỳ thị Tố Hữu. Hãy nghe ông tâm sự trong buổi họp mặt năm 1992 cùng hơn trăm đồng nghiệp và bạn đọc tại Huế:
“Tôi với anh Phùng Quán còn thân hơn anh em. Nhưng thơ anh Phùng Quán là thơ quảng trường. Cũng như anh Hoàng Cầm, anh Phùng Quán đọc thơ rất lôi hút người nghe. Tôi lại không thích thơ để đọc (cho nhau nghe). Tôi nghĩ cái tai ngu hơn cái mắt. Trần Dần thì con mắt chạy vào trong, nhưng thơ thì mỗi người mỗi kiểu.. Có kiểu bầy thơ, thơ triển lãm. Tôi làm thơ mini ….”

Nào phải ông chỉ chê người khác, ông chê cả chính mình:
"Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh, chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: "Anh đã thấy" (mes douleurs) trên dưới có 6 trang!" (Trần Dần ghi, trang 47).
Ở Trần Dần ta gặp lại quan niệm phê phán rất trong sáng của Nietzsche: "Phê phán không phải là phản ứng của sự phẫn hận mà là biểu hiện tích cực của một lối sống tích cực: tấn công nhưng không trả thù", “Phê phán là sự phá hủy trong tư cách là niềm vui, là sự xâm hấn của kẻ sáng tạo”. Trần Dần từng nói: “Nói tóm tắt: tôi ghét những lối tạo hình ảnh dễ dãi, tầm thường, hủ lậu. Đó là đặc tính của những người và những giai cấp sắp chết”.

Cho nên, chính Tố Hữu đã nói rất đúng về lý do “chết” của Trần Dần: “Hành động của bọn Nhân Văn không phải là câu chuyện văn nghệ đơn thuần mà là cả một âm mưu chính trị” (*)
Quả vậy, chính Trần Dần thú tội đam mê chính trị:

“Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
....tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu ?
....Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất ?
Sao chúng không chắp được cõi bờ ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
... làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
... tôi làm thơ chính trị”
Làm thơ chính trị, lại làm văn chính trị nữa, như chính Trần Dần đã thú nhận:
“Còn sáng tác tôi chỉ xin đơn cử vài ví dụ:
• “Nói thật” (thơ) cho rằng cán bộ ta không dám nói thực với Đảng, nên mới xẩy ra như Cải cách ruộng đất, và công thức trong xã hội.
• “Nhân văn làm lớn mọi con người” (thơ) nhân để hoan nghênh Đại hội lần thứ hai mươi để chửi cán bộ ta là không dám suy nghĩ, là chỉ suy nghĩ bằng cấp trên. Chỉ có tôi (và báo Nhân văn) là có óc suy nghĩ đối lập, không giao cho bất cứ ai suy nghĩ hộ mình!
• “Một bài thơ chưa có đề”. Tôi đánh “Những nhà thơ ti tỉ đờn bầu” (ám chỉ trường thơ Tố Hữu). Cho là xoàng cả. Chỉ có tôi là nhà thơ “Vận tải trên mọi mặt trận của quần chúng hàng tấn cả gan”. Tự xưng hùng xưng bá trong thơ ca như vậy.
• “Chú bé làm văn” (truyện) nhà chú khổ nhưng chú phải làm một bài văn “Tả cảnh gia đình êm ấm của anh trong một buổi tối”. Thế là chú bé nói giối suốt bài văn. Mục đích bài này là để vu cáo cho ta giáo dục mọi người nói dối từ thuở bé, cho rằng sự giáo dục của ta, là chỗ dựa, là cơ sở của nạn bôi hồng trong văn nghệ.
• “Mâu thuẫn với cả nước” Tả một anh nhạc sĩ bất tài, chỉ có tài sử dụng lập trường (ám chỉ Lương Ngọc Trác) nên được trên tin cậy. Còn anh nhạc sĩ khác có tài, mâu thuẫn với anh nhạc sĩ kia, thì lại bị kiểm thảo, đâm ra mắc lỗi “mâu thuẫn với cả nước”. Bài này đánh và xuyên tạc chính sách đối với cán bộ văn nghệ của Đảng.
• Vân vân… như “Cái đầu trọc”, “Mẹ sự đời”… đều là cái loại đả kích vào các chính sách của Đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế người ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của Đảng là một sự ngột ngạt, không thể nào sống nổi.
Đi đôi với những sáng tác như thế tôi phát ra những luận điệu bênh che cho nó. Chẳng hạn sáng tác phải phát hiện mâu thuẫn xã hội; người sáng tác phải có quyền và có gan như nhà viết sử thời xưa, vua chém đi hàng sáu người, đến người thứ bảy vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành phải chịu vậy. Hoặc nói người sáng tác phải đi đầu, bây giờ là phải đứng ở mũi nhọn đấu tranh với chủ nghĩa Staline… Toàn là những luận điệu phỉnh nịnh và hô hào người ta đi vào con đường chống Đảng” (**).

Không chỉ làm thơ, làm văn, dịch thuật cũng với ý đồ chính trị:

“Không những chỉ trong sáng tác, ngay trong việc dịch tôi cũng vẫn nhằm quan liêu mà đánh; Ví dụ dịch Bretch Cái mặt nạ hoặc Những người ở trên không ở đó mãi đâu. Hoặc đánh vào lãnh đạo văn nghệ, dịch Gorki, Tchékov cho người ta thấy sự lãnh đạo của mình gò bó ngòi bút. Dịch Le portrait của Gogol để nói một điểm: Vẽ cho bọn quý tộc là con đường tiêu ma nghệ thuật. Hoặc góp thêm vào cái ảm đạm của tình hình, tôi dịch Crime et Châtimentcủa Đốt, tôi nghĩ xã hội này thì hoặc là cười (tiếu lâm) hoặc là khóc mà phản đối nó mà thôi! Vân vân…”. (**)

Không chỉ “làm thơ chính trị”, làm văn chính trị, làm dịch thuật chính trị, ông còn hiệu triệu chính trị:

"... Ngày nay, trong văn chương, kẻ thù ghê tởm là chủ nghiã công thức, giản đơn sơ lược. Phải nói trắng ra là nó ở cả người viết, ở cả xã hội... Cho nên chống công thức giản đơn sơ lược không phải là chỉ làm ở người viết mà được đâu. Nó phải là một mặt trận lan ra cả xã hội...”.
Không chỉ hiệu triệu, ông còn cần cù làm tổ chức để thực hiện tư tưởng cách mạng của mình.
Có thể xem Trần Dần là mảnh sót của nhóm Dada. Nhóm Dada hoạt động chỉ trong bốn năm 1916-1920, nhưng nguồn sinh lực “hậu hiện đại” trong văn học Việt Nam còn để lại dư hưởng trong “Xuân Thu nhã tập”, “Thi sĩ Tượng trưng” mà hiện thân xuất sắc là Trần Dần ở Hà Nội, Thanh Tâm Tuyền ở Sài Gòn.
Cầm tấm bằng tú tài Triết, khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Trần Dần trở về quê hương Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.

Năm 1948, khi tham gia Vệ quốc quân, ở Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), ông đã cùng Trần Thư, Hoài Niệm tham gia sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên - Nhóm Sông Đà.
Tham gia Nhân Văn Giai phẩm, ông thú thật đã đi tiên phong xét lại chủ nghĩa Mác:
“Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình …. Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ ... Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn." (Trần Dần ghi trang 244).

“Sau “Nhân văn” tôi xin ra bộ đội … nhìn phe ta, Đảng ta như là Stalinisme, và coi việc sáng tác là để đả kích vào đó”. (**)
Theo báo Nhân Dân, hiện tượng ly khai ĐCSVN của Trần Dần đã dấy lên một phong trào cuốn theo ông, bỏ Đảng.
Và ngày nay, phải chăng trong các cuộc biểu tình ta còn nghe vang vọng lời giục giã của Trần Dần:
“Nhưng sự kiện thế giới trong nước ngấu trong tôi. Nhiều lúc tôi cũng mong có những cuộc biểu tình, chủ yếu là văn nghệ, sinh viên và trí thức, thật có trật tự không đổ máu, để mà yêu sách Trung ương cải tổ chính sách nới rộng dân chủ!” (*)

Như để thanh minh cho Trần Dần Goerge Boudarel từng viết: “Năm 1943, anh có quan hệ với nhà xuất bản Hàn Thuyên in sách Macxit có khuynh hướng Trốtkít (của Trương Tửu dưới bút danh Nguyễn Bách Khoa, Lương Đức Thiệp) hoặc những cuốn sách tựu cho là thuộc Đệ Tam Quốc tế. Liệu có thể suy ra đó dà Trần Dần có tham gia chính trị? Xét bối cảnh thì thấy xu hướng câu trả lời là chữ “không” ”.

Tôi không đồng ý với G. Boudarel, Trần Dần là người có ước nguyện chính trị từ trong huyết quản. Ông đã làm chính trị vương đạo, đã dấn thân quả cảm, đã hy sinh oanh liệt và rất vinh quang vì làm chính trị.

Tôi cũng không đồng ý với việc sửa mấy câu thơ của Trần Dần: "Tôi yêu đất nước này có cỏ cây làm chứng / Tôi yêu chủ nghĩa này cờ đỏ cãi cho tôi", thành ra: "Tôi yêu đất mẹ này có cỏ hoa làm chứng / Tôi yêu đại nghĩa này nhật nguyệt cãi cho tôi".

Chắc chắn Trần Dần, cũng như chúng ta, đã từng yêu cái chủ nghĩa dương cao lá cờ đỏ búa liềm. Nhưng đúng như Bí thư đảng CS Nam Tư Milovan Djilas đã nói: "20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu".

Trần Dần, cũng như Trần Độ theo Cộng sản để “Những mong xóa ác ở trên đời” nhưng khi thấy nó quay lại tước đoạt tự do của con người, của sáng tạo thì phải làm chính trị để chống nó.

Viễn kiến Trần Dần –

Sau 1954, trước hiện tượng từng dòng người bỏ Miền Bắc di cư vào Nam, báo chí của Đảng lên án họ là những phần tử phản động theo địch phản bội tổ quốc, là bị lừa gạt theo Chúa, là ngại khó ngại khổ bỏ quê đi tìm bơ thừa sữa cặn của tư bản, đế quốc …. nhưng Trần Dần thì đã nhìn thấy cái nguyên nhân sâu xa tự bên trong.
“Tôi muốn khóc giữ từng em bé
Bỏ tôi ư? -- từng vạt áo -- Gót chân
Tôi muốn kêu lên -- những tiếng cọc cằn ...
- Không ! Hãy ở lại !
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
.... non bồng Mỹ triệu lần ...
Mảnh đất dễ mà quên?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là :
- thiếu quả tim, bộ óc !
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão .
Họ vẫn ra đi” .
(Nhất định thắng)

Cái nguyên nhân sâu xa ấy càng được chứng thực, càng hiển hiện qua đợt di cư ào ạt hơn sau thống nhất đất nước 1975.
Đánh thắng đế quốc Mỹ. tổng bí thư Lê Duẩn huyênh hoang tuyên bố: Đất nước từ nay vĩnh viễn sạch bóng quân thù. Nhưng Trần Dần tiên đóan:
“Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến tranh
... Giữ được Hòa Bình
Giặc cũ chết --- lại lo giặc mới
Ðoàn quân ấy kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ mất bụng dân yêu
Dân ta ơi ! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có Lý ? và ai có Lực ?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
... Biết Tổ quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
.... Không biết nhục
........ Không biết thua
.............. Không biết sợ ! ”
(Nhất định thắng)

Quả nhiên, năm 1979 Đặng Tiểu Bình đã dạy cho Lê Duẩn một bài học, và ngày nay rõ rang ai cũng thấy: “ Giặc cũ chết … lại lo giặc mới”. Chúng đang trắng trợn xâm lăng Biển Đông. Bọn giặc mới này còn đáng lo hơn, đáng ghê tởm hơn, đáng khinh bỉ hơn bất kỳ bọn giặc cũ nào.
Cho nên ngay từ chuyến đi làm thuyết minh cho bộ phim “Điện Biên phủ”, được tiếp xúc với nền văn hóa và xã hội Trung Quốc, trở về ông đã nói lên dự cảm này: "Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc".
Trần Dần đã vạch rất đúng nhiều nguyên nhân sâu xa tự bên trong của các sự kiện trong và ngoài nước:

“Hồi ấy mọi chính sách và nhận định về thời sự của Đảng ý kiến của tôi đều đối lập. Ví dụ: Cải cách ruộng đất ruộng đất theo tôi không thể gọi là thắng lợi căn bản. Vấn đề Hung-ga-ri, tuy công nhận địch là nguyên nhân trực tiếp, song tôi nhấn mạnh đến nguyên nhân sâu xa là tập đoàn Racôxi. Vấn đề tự do và chuyên chính, tôi nói: Ta thừa chuyên chính bố láo rồi, chỉ thiếu tự do thôi. Nhất là trong địa hạt văn nghệ thì không thể nào dùng biện pháp hành chính được”. (**)

Tổng bí thư Lê Duẩn không chỉ huênh hoang tuyên bố vĩnh viễn sạch bóng quân thù mà còn hợm hĩnh cho rằng đã lãnh đạo đánh thắng được đế quốc trùm sò thì sẽ lãnh đạo làm cái gì cũng được. Nhưng ngay trong “Trần Dần ghi” khi chiến tranh vùa kết thúc, Trần Dần đã tiên liệu và nhắc nhở:

“Cho nên bạn nói Chiến tranh là rèn luyện;- bạn cần nghĩ thêm Hoà Bình cũng rèn luyện, mà còn rèn luyện hơn là chiến tranh nữa”
“Chiến tranh rèn luyện. Chúng ta được nhiều điều. Nhưng [...] tôi nói nó là bộ xương. Chiến tranh làm chúng ta rắn xương rắn thịt, làm cho tâm hồn chúng ta có hình cốt, có cái khung rất tốt rất bền. Nhung bạn đừng lầm bảo rằng bộ xương đó là người, hình cốt và cái khung là tâm hồn rồi đó. Nói vậy là một sự dối trá”
“Hoà Bình rồi, người ta mới có thể biết trong chiến tranh người ta đã mất mát và thu hoạch được những gì. [...] Tôi nói rằng chúng ta mất nhiều hơn. Tại vì tôi nghĩ tới chiến tranh và tội ác của nó. Và tại vì tôi so sánh những cái thu hoạch 9 năm chiến tranh vừa qua với những cái thu hoạch lớn hơn gấp bội nếu 9 năm qua là 9 năm kiến thiết Hoà Bình. [...] Vì thế tôi muốn viết nhiều, muốn viết những cái tôi chưa dám viết. Và tôi muốn viết không có kiểm duyệt”.

Cho nên sau chiến tranh Trần Dần càng háo hức sống, để được sáng tạo cật lực hơn, để được bù đắp những gì ông chưa tọai nguyện.

Hãy đọc đoạn thư ông gửi lãnh đạo sau kết thúc chiến tranh năm 1975:

“Rồi đám cháy tắt. Đất nước dập tắt cái đám cháy ngoại xâm ấy. Mỹ cút...Tôi hy vọng...vấn đề cuộc đời tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi, vợ con, gia đình, ở ngưỡng cửa của Đất nước chiến thắng...Tôi vẫn hy vọng. tôi còn ít nhiều năm tháng. Còn một phần đời. Một phần đời, một ngày cũng đáng sống. Dù một buổi chiều. Nhất là trong khi ngày ấy, buổi chiều ấy, phần đời ấy dù là bé bỏng nhưng nằm ở ngưỡng cửa Khải hoàn môn. Tôi hy vọng. Tôi còn một phần đời. Để sống nó. Để làm việc.Con cái. Sự gây dựng. Sự chuộc lại...Tôi xin sự giúp đỡ. Sự rộng lượng. Ở các anh. Ở tổ chức”.

… Và những dòng thơ bi tráng này:

“Dù bị vứt bên lề đường
Dù bị tàn tật
Ta vẫn khăng khăng yêu Tổ quốc thật lòng
Dù manh tải đùm thân
Bị gậy bơ vơ trời không che đất không chở
Dù đêm nghe gió quét gậm cầu
Chỉ vài ánh sao lu làm củi lửa
Ta vẫn khăng khăng yêu Tổ quốc thật lòng
Dù chỉ còn một bên tai
Tai sẽ đón tiếng chim ru
Còn một bên tay - tay sẽ quờ quào
Vục một chút màu xanh quê cũ
Cho đôi môi khô uống một hụm trời”
(Hy vọng)

Cảm phục biết bao nhiêu! Thương xót biết bao nhiêu! Phẫn hận biết bao nhiêu!

Di sản lớn của Trần Dần -

Nhờ lao động cật lực, lao động có năng suất, Trần Dần đã để lại cho đời một kho tác phẩm đồ sộ. Ngoài “Về nẻo thanh tuyền” (Dạ đài) 1946. Phạm Thị Hoài trong bài “Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại” (in trongTrần Dần ghi) đã điểm danh những tác phẩm sau đây:

1954: Anh đã thấy, Tiếng trống tương lai (trường ca).
1955: Cách mạng tháng Tám, Nhất định thắng (bản Hoàng Văn Chí, in lại trong Trần Dần thơ, nxb Nhã Nam Đà Nẵng, 2007)
1957: Hãy đi mãi, Đi! Bài thơ Việt Bắc (trường ca), (nxb Hội Nhà Văn 1991)
1959: Sắc lệnh 59 (thơ), Con tàu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ).
1959-1960: Cổng tỉnh (thơ), (nxb Hội Nhà Văn 1994)
1961: Đêm núm sen (tiểu thuyết)
1963: Jờ Joạc (thơ) (in trong Trần Dần thơ, 2007)
1964: Mùa sạch (nxb Văn học 1997), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết)
1965: Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết)
1967: Con trắng (thơ văn xuôi, in trong Trần Dần thơ, 2007)
1968:177 cảnh (hùng ca lụa)
1974: Động đất tâm thần (nhật ký thơ)
1978: Thơ không lời - Mây không lời (thơ - hoạ)
1979: Bộ ba: Thiên Thanh - 77- Ngày ngày
1980: Bộ ba: 36 - Thở dài - Tư Mã dâng sao.
1987: Thơ Mini. (in trong Trần Dần thơ, 2007).

Đấy mới kể về số lượng. Mà chỉ là phần nổi của số lượng. Nhà thơ Dương Tường cho biết: “Tôi nhớ khi đám tang anh Trần Dần xong, tôi soạn lại di cảo của anh. Bề bộn. Một mình tôi làm vài ngày đầu không xuể. May quá nhờ được Phạm Thị Hoài vốn học ở Đức, khoa Thư viện, tôi gọi đến soạn cùng. Thưa với các anh chị và các bạn là hơn 200 hồ sơ di cảo còn nằm đấy. Còn nhiều thứ ở Trần Dần mà chúng ta chưa biết lắm. Thơ thì còn Tư Mã dâng sao, 177 cảnh Jờ Joạcx, rồi 36 thở dài… Tiểu thuyết còn Đêm núm sen, Một ngày Cẩm Phả, Những ngã tư và những cột đèn… Đúng là phần chìm của núi băng”.

Song le, còn một phần chìm thiêng liêng nữa, phần chìm tinh túy nữa, phần chìm nằm trong chất lượng tác phẩm, trong lõi cứng của sáng tạo.

Nhà thơ Nguyễn Duy suy tôn: “Nếu đời viết của đa số người cầm bút là công cuộc tìm tòi, gom nhặt, sàng lọc chữ nghĩa, thì Trần Dần là người chế tạo ra hệ ngôn ngữ mới”. “Trần Dần lặng lẽ mài giũa ngôn ngữ, là tấm gương, là người thầy của tôi”.

Nhà lý luận văn học Phạm Xuân Nguyên: “…những con chữ Trần Dần sẽ khuấy động, khuấy đảo tâm cảm mỗi người đọc và gây ra những phản ứng thơ mạnh mẽ có thể khiến bàng hoàng trước một khối năng lượng sáng tạo cực mạnh, cực lớn từ gần nửa thế kỷ trước soi chiếu và phóng nổ vào hôm nay” (***)

Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Ngọc Vương: “Sáng tạo đích thực bao giờ cũng cô đơn và không được chia sẻ. Một sự sáng tạo được mọi người tung hô ngay thì chắc chắn sau đấy sẽ bị quên rất nhanh. Chúng ta ngồi đây, ít nhiều đều là độc giả có chuyên môn, nhưng liệu chúng ta có đủ tinh để cảm nhận và hiểu biết những gì Trần Dần viết cách đây 3-4-5 chục năm về trước? Không có chuyện tất cả đọc và hiểu đúng Trần Dần ngay được. Tập thơ vừa rồi tôi đã mang về đọc một cách cẩn thận, nhưng cũng có những chỗ bị bần thần, không hiểu nguyên ý tác giả thế nào. Nhiều chỗ tôi không hiểu và tôi kính cẩn sự không hiểu ấy. Bởi ít nhất người ta cũng làm cho một đầu óc không đến nỗi mít đặc như mình không hiểu được, mà còn phải tìm để hiểu cho ra được lâu lâu nữa. Thế là sáng tạo, thế là cái gì đó mới”

Nhà bình luận văn chương xuất sắc Thụy Khuê: “Trần Dần thơ, ngoài những tác phẩm tạm gọi là classique đã in như Bài thơ Việt Bắc và Cổng Tỉnh, còn có những tác phẩm mới hơn. Những thử nghiệm thơ độc âm Mùa sạch, biến tấu âm con OEE, và thơ bè Con I, còn nhiều cường điệu và nệ hình thức, hoặc lập dị như Jờ Joạcx. Ngược lại, với Sổ bụi và thơ Mini, Trần Dần thực sự đã thành công, hai tác phẩm này xác định tinh thần cách tân thơ của Trần Dần, khác với Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Vậy lần công bố này, tầm quan trọng và sự độc đáo nằm trong Sổ bụi, và thơ Mini. Sổ bụi, tập hợp lối ghi chép đặc biệt Trần Dần: đó là những bài thơ văn xuôi cô đọng, mới, đầy biến ảnh, thể hiện cái mỹ học khổ đau của ông một cách toàn diện. Thơ Mini, là những triết luận thu gọn đến cạn kiệt. Một Trần Dần đi từ thực tại thi nhân để đến với tâm linh hiền triết”.

Giáo sư Phong Lê, "Trần Dần vẫn cứ là một ẩn số đối với lớp người đọc như tôi, muốn biết nhiều hơn về sức sáng tạo của ông, nói đúng hơn về một khát vọng sáng tạo không ngớt hành hạ ông, đến là quyết liệt và dai dẳng. Dai dẳng cho đến ngày ông qua đời ở nhà riêng số 5 phố Vũ Hữu Lợi...” …..

Di sản Trần Dần không chỉ có tác phẩm văn học, ông còn để lại cho đời một tấm gương, một tấm gương lớn về nhân cách, nhân phẩm, về ý chí. Trong nỗi nhớ Việt Bắc của Tố Hữu ta chỉ thấy chủ yếu những “Trung ương Chính phủ luận bàn việc công”, những ”Người đi rừng núi trông theo bóng người”, nỗi nhớ trong Trần Dần mới thật sâu đậm nghĩa tình, thật da diết:
“Ở đây
ta mắc nợ
núi rừng.
Một món nợ
khó bề trang trải.
Việt Bắc
cho ta vay
địa thế!
Vay từ
bó củi
nắm tên.
Vay từ
những hang sâu
núi hiểm.
Cả
trám bùi
măng đắng
đã nuôi ta.
Ta mắc nợ
những rừng sim bát ngát.
Nợ
bản mường heo hút
chiều sương.
Nợ củ khoai môn
nợ chim muông
nương rẫy.
Nợ
tre vầu
bưng bít
rừng sâu.
Nợ con suối
dù trong
dù đục,
Nợ
những người
đã ngã
không tên!
Ôi
thế kỉ muôn quên ngàn nhớ!
Nợ này
đâu dễ trả
mà quên!
Đi!
Tất cả!
Dù quen tay vỗ nợ,
cũng chớ bao giờ
vỗ nợ
nhân dân!”
(Bài thơ Việt Bắc)

Ôi, nếu ta biết nhớ bằng nỗi nhớ Trần Dần thì ngày nay cách biệt giầu nghèo đâu đến nỗi lớn như thế này. Đâu đến nỗi hùa nhau mua quan bán chức đê tiện đến thế này. Đâu đến nỗi tham nhũng tàn bạo đến thế này …!

Trần Dần vốn là người có tinh thần phản kháng hơi quá mạnh mẽ, mạnh mẽ đến mức như thiền sư Quảng Nghiêm:

Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hữu hướng Như lai hành xử hành
(Thanh niên tụ nó có cái chí hướng tung thẳng trời xanh.
Há có phải đi theo con đường mòn của Đức Phật).

Lời lẽ ông đôi khi dữ dằn như là ác khẩu:

“Yêu là chết: hai điều đó đã hòa hợp với nhau từ ngàn năm nay. Muốn yêu chính là sẵn sàng để chết. Tôi nói với các bạn như vậy đó, hỡi những người khiếp nhược”
"Tôi thích những cuộc đối thoại với nhau như tra tấn. Ðọc là tra tấn có một chiều. Ðối thoại là tra tấn lẫn nhau."
“Thơ là mạng sống, là lý lịch thực của đời tôi”….
Trách làm chi cái sự đại ngôn ngay từ “Bản Tuyên ngôn Tượng trưng”, khi Trần Dần chưa đầy 20 tuổi:
“Thế cho nên chúng tôi – Thi sĩ Tượng trưng – chúng tôi đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi ……và một bài thơ phải vô cùng linh động”

Song le, bao quát hơn cả, bản chất hơn cả, ta vẫn thấy ông là người có một niềm tin vừa đáng kính nể, vừa đáng cảm thương. Nièm tin vừa sắt đá, vừa ngây thơ, vừa sáng suốt, vừa dại khờ …

Mấy lần rồi nhưng cứ đọc lai đọan văn sau đây trong bài “Con người Trần Dần” của Hoàng Cầm tôi vẫn không cầm được nước mắt:
“…….Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.
Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
“Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.”
……..Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.
Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
“Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!”
Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
“Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.”
Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:
“Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!” ”
……
Trần Dần cứ thế mà tin yêu, mà mong ước, mà chờ đợi, mà vật vã vươn tới.

Và, ông đã để lại cho đời không chỉ một tài sản văn học lớn, một tinh thần cách mạng sáng tạo mà còn một tấm gương học hỏi, lao động cần cù. Nguyễn Trọng Tạo kể:
“Tôi khâm phục sự học của ông. Ông học bằng cách đọc thế giới (sách), đọc và quan sát suộc sống, học làm người nghĩa là làm một nhân cách cá biệt, đôi khi như kẻ lập dị giữa đời, giữa đám đông. Học bằng cách làm việc cật lực cho văn thơ. Học bằng cách ngồi dịch sách, dich tài liệu để kiếm sống. Năm 1983, nhạc sĩ Văn Cao nhờ tôi sang nhà Trần Dần mời ông đến nhà uống rượu nhân 60 tuổi, tôi chú ý vết đen trên tường sau chiếc ghế ông ngồi. Cái vết đen như một hình nhân, như cái bóng của ông. Ông đã ngồi dựa tường như vậy suốt mấy chục năm, để đau khổ, để cô đơn toàn phần, để suy nghĩ, để đọc và để viết”.
*
Năm 1997, một ngày Hà Nội âm u giá buốt, nhà thơ Khương Hữu Dụng khi ấy đã gần trăm tuổi đến bên quan tài Trần Dần khóc và đọc hai câu thơ cổ:
Nhất thất cước thành thiên cổ hận
Tái hồi đầu thị bách niên thân
(Lỡ một bước nghìn năm ân hận.
Quay đầu lại đã thành người trăm năm).

Tôi rất kính và yêu nhà thơ Khương Hữu Dụng. (Trong thập niên 60 thế kỷ trước, sau một buổi tọa đàm thơ ở báo Văn Nghệ, tôi đèo cụ về (bằng xe đạp). Đến cổng, cụ níu lại trò chuyện. Đứng lâu mỏi chân, cụ lôi tôi lên nhà đàm đạo đến gần hai giờ sáng, để tiếp tục giảng giải rằng cụ khen mấy bài thơ vừa đăng trên “Tác Phẩm Mới” của tôi là khen thật. Về nhà, tôi phải khóa xe để ngoài, trèo tường vào). Tuy nhiên, ở chỗ này, tôi không đồng ý với Cụ.
Tôi cũng rất nể phục nhà bình luận văn chương Thụy Khuê, nhưng tôi cũng không đồng ý nhận xét này: “ Tháng 12 năm 1959, Trần Dần thốt lên: "Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ "Ðúng" mới nhiều máu làm sao". Con người “ Nhất định thắng” ấy, đã thua, đã hàng, chấp nhận ly khai những lý tưởng ngày trước của mình”.
Trần Dần không lỡ bước, không thua, không đầu hàng cái gì cả.
Cho đến bây giờ, nhìn lên trờì sao đất nước, nhìn vào lịch sử văn học Việt Nam, tôi vẫn thấy một Trần Dần rất đáng mãn nguyện.
“Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hỏa của tôi, kho nào chứa xuể? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di lại cho ai giờ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải”. (Sổ bụi 1979).

Kỷ niệm 85 năm ngày sinh Trần Dần
Hà Nội 23 tháng 8 năm 1926

Nguyễn Thanh Giang



(*) Tố Hữu – “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn Giai phẩm trên mặt trận văn nghệ”.
(**) Tạp chí Văn nghệ số 12, tháng 5 năm 1958 – “Những lời thú nhận bước đầu của một số phần tử trong nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm”.
(***) Phạm Xuân Nguyên – “Trần Dần – Thơ ở đâu?”

1/8/11

Phan Mộng Hoàn - Tổ chim gốc hồng

Tổ chim gốc hồng

Phan Mộng Hoàn

Mùa hè, trời 6 giờ chiều vẫn còn nắng chói chang . Ông già lui cui một mình tưới cây. Vườn rộng cây trồng đủ thứ, nhưng cỏ dại thì lấn chiếm khắp mọi xó xỉnh.
Trước nhà kho cuối vườn, mấy cây cherry đã tàn hết trái. Ông lo tưới nước để năm tới lá không héo quăn lại và để tránh cho hàng trăm đàn kiến đen khỏi chực chờ bu kín. Cherry từ nhiều năm nay sinh trái ngọt khiến lũ cháu nội mê thích hái quả. Bà nội chúng giờ này đang ở quê hương. Mỗi tối ông ưa mở máy computer trước khi ngủ. Ông ngóng tin bên kia quả đất. Bà siêng viết điện thư cho ông, cốt hỏi thăm tin tức vườn. Ông kể chuyện hôm kia cho bà ấy nghe:
“…Hai cây hồng dòn muà lạnh này anh chắc sẽ cho ra hàng loạt trái nhỏ như năm kia. Cành chi chit quả. Nếu chăm tưới nước may ra trái sẽ lớn hơn cở pingpong. Không biết chừ em còn ham gọt vỏ sấy hồng khô nữa không? Có tiếng chim đâu đây…Ui chao, dưới gốc hồng vương vãi những cọng cỏ khô, hình như là tổ chim sẻ. Anh thấy ló ra 3 con chim sẻ con bé xinh. Chúng đang há mỏ đợi mồi…Anh đi thụt lùi nhẹ thiệt nhẹ để cha mẹ chúng không sợ…”
“Choét! Choét!” giọng gắt gỏng của tên chim xanh đậu tít trên kia đầu cột giây điện thoại cuối vườn vang lên. Ông nội cu Sữa kết tội ngay là tên chúa đảng, bé loắt choắt có cặp cánh ửng xanh lam, thân gầy nhom mà hung dữ. Đó là con thiên tặc, vì không thể kêu là hải tặc như bà nội Sữa từ lâu đã đặt cho nó. Chắc chắn nó lăm le “mần thịt” lũ sẻ măng tơ đang ẩn mình nơi tổ rơm gốc hồng. Ông hồi hộp theo dõi. Buổi trưa, khi chuẫn bị tưới cây hồng dòn, Ông thấy trên cây hồng bố mẹ bầy chim non đang bay cao bay thấp, gần lũ con bé bỏng. Ông tủm tỉm cười vì nghĩ gia đình chim bận rộn dạy bài học bay đầu đời.
Ông già tránh đi tới đầu kia vườn, chăm chút đóng lại mấy cọc rào tre cho vuông vắn. Lá nho rậm rạp từ trên dàn cao bò lan rối rít và đang vươn dài xuống đất. Ông thấy lấp ló mấy chùm nho xanh mởn mơ. Ông chợt nhớ bà nội Sữa. Nếu có bà ấy, thế nào cũng không tha việc nhắm nháp vài trái nho xanh chua lét!
Khi ông quay trở lui cây hồng lớn nhất để thăm chừng tổ chim. Ông già chợt thấy cặp chim bố mẹ bay rối rít dưới gốc cây, như hoảng sợ chuyện chi. Rồi ông ngó trật lên. Cao khỏi trên cây hồng, con chim xanh đang xé xác một chim sẻ con. Ông già giận quá, cúi lượm hòn đá, liệng thiệt mạnh về phiá ác điểu, nó bay vụt đi như chớp. Cùng lúc hai chim sẻ cũng xao xác bay lên. Cỏ rơm tung tóe, tổ chim bây giờ chỉ còn hai chim sẻ non. Một con run rẩy và một con nghẹo đầu nằm chết rủ bên cạnh. Chôn xong xác chim nhỏ, ông kiếm mảnh bìa cứng lót cỏ khô ủ kín cho con chim con còn sống và đem tới đặt dưới gốc cây ổi lớn trồng gần nhà kho thứ 2 trong này. Ông già im lặng làm vườn. Tối mịt mờ ông mới trở vào, buồn bã ngồi ghi điện thư cho vợ.
“…lâu rồi đọc đâu đó trang sách, anh nghe nói rằng khi ngữi có “hơi người”, chim mẹ sẽ sợ và bỏ đi không nuôi con nữa! Nhưng theo anh, cứ di chuyển tổ chim cho an toàn đã, mình theo dõi coi thử ra sao.”
Khắp vườn những cây mãn đình hồng nhè nhẹ đong đưa theo gió. Thân cây nào cũng mảnh mai như cây sậy ẻo lã mọc cao vút lên và hoa rung rinh nở đủ màu, đỏ rực, tím nhạt, hồng phấn… Gió lao xao đuổi nắng. Ra thăm gốc ổi, ông già không còn thấy chim sẻ con nữa. Rộn ràng trên mái ngói nhà vợ chồng Nam Trân, ông nghe tiếng chim sẻ riú rít tranh ăn.
Bà nội đã về lại San Jose hai tháng nay. Buổi trưa bà thích đưa võng ru Bòn Bon ngủ. Con bé chưa đầy 4 tháng tuổi mà có vẻ mơ mộng. Nó cười tít mắt nhìn đám lá thông rung rinh trên cao. Gió hè thổi mát rượi, bà hát ca dao cho cháu nghe. Lời tình tự dân tộc hòa theo lá thông, theo gió bay đi xa. Em bé lim dim ngủ từ lúc nào,
Le the cũng thể cây tùng,
Rườm rà cho lắm cây sung bờ rào
Cháu ngủ rồi nên bà rảnh, loay hoay lo đổ gạo vào cho đầy cóng đựng gạo. Ông nội Bòn Bon vừa đóng xong cái nhà xinh xinh chứa thực phẩm cho chim. Chặp chiều bầy chim sẻ sà xuống đua nhau mổ lách tách những hạt gạo ngon.
Trời chiều bãng lãng mây trắng bay…

San Jose cuối tháng 7- Ghi lại email đầu tháng 5-2011