31/1/13

DẠ CA

Trần Hồ Dũng

    

DẠ CA 



Đêm tàn lay mộng   chưa về 

Chờ chi cho úa lời thề trăm năm 

Sầu chi lệ đẫm gối nằm 

Buồn chi héo hắt cho ngày phai mau 

Này em xin hé niềm đau

Tỏ bày đi nhé cỏ lau tôi chờ 

Thưa rằng hồn rất bơ vơ 

Chờ em từ độ ơ thờ nắng phai 

Đợi  em từ thuở dấu hài 

In lên cỏ tiếng thở dài với đêm 

Kể từ nguyệt vỡ bên thềm 

Hồn tôi say khướt môi mềm đợi em

Trần Hồ Dũng . washington.usa.


                                               Winter  by Kamille Corry


Phạm Duy và vết thương di tản


30.01.2013

 Nguyễn-Xuân Hoàng

Rất nhiều ý kiến trái chiều về Phạm Duy khi ông còn sống. Trong một bài viết trên tạp chí Văn - số đặc biệt về Phạm Duy phát hành vào tháng Sáu & Bảy năm 2002, tôi đã đưa một cái nhìn về người nhạc sĩ đa tài, đa tình và đầy hệ lụy ấy. Tất nhiên bài viết đó đã đến tay ông, sau chuyến đi trình diễn Kiều 2 tại Minnesota. Một lần ngồi uống cà phê với ông ở quán Song Long, ông bất ngờ hỏi tôi là “cậu không thích con người của tôi hả? Tại sao?” Tôi đã không trả lời trực tiếp của ông. Tôi nói: “Bố già à, tôi rất thích nhạc của bố!” Và ngay lập tức ông đã đứng dậy xô ghế bỏ đi.

Giờ đây sau ngày ông ra đi những ý kiến trái chiều về ông còn nổi lên mỗi lúc một đậm đặc hơn. Tôi chia sẻ cái nhìn của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc mới đây trên VOA:Tất cả những nghi ngờ, bất đồng hay bất mãn [rồi đây] sẽ dần dần chìm vào quên lãng. Con người thật của Phạm Duy sẽ không còn án ngữ trước khối lượng tác phẩm đồ sộ và nguy nga của Phạm Duy. Một lúc nào đó, nghĩ đến Phạm Duy, người ta sẽ không còn nhớ đến những chuyện đi kháng chiến rồi dinh tê, chuyện vào miền Nam rồi vượt biên hay chuyện sống ở Mỹ rồi quay về Việt Nam; người ta cũng không còn nhớ những câu phát biểu nhiều khi rất tùy hứng và tùy tiện của ông. Lúc ấy, nghĩ đến Phạm Duy, người ta chỉ nghĩ đến những bài hát do ông sáng tác. Lúc ấy, tôi nghĩ, ông mới sống thật cuộc sống của ông. Một cuộc sống thật vĩ đại.”

Tôi muốn gửi lên VOA nhận định của tôi về Phạm Duy cách đây 11 năm. Những ghi nhận ấy tôi không thay đổi.

​​Như những người cùng lứa tuổi, tôi ưa thích nhạc Phạm Duy, trước khi yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi nghĩ, trước khi nổi tiếng với những ca khúc của chính mình, Sơn cũng là một người yêu nhạc Phạm Duy. Thế hệ của anh tôi, theo kháng chiến chống Pháp, chắc chắn là thế hệ của những người chọn con đường ra chiến khu một phần cũng vì âm nhạc của ông.

Nhưng tôi có thêm một lý do để nhớ đến ông nhiều hơn các bạn tôi một chút vì cho đến năm 1972 - không nhớ chắc là năm 72 hay 70, cái năm mà nhà văn Ngô Thế Vinh cũng ra hầu tòa vì một bài báo của anh - tôi bị phiền phức do một ca khúc của ông: Bài Bà Mẹ Gio Linh ông viết năm 1948.

Năm 1972, sau khi Trần Phong Giao thôi tờ Văn, ông Nguyễn Đình Vượng nhờ tôi làm Tổng Thư Ký tòa soạn ở 38 Phạm Ngũ Lão. Lúc đó tạp chí Vấn Đề của kịch tác gia - giáo sư Vũ Khắc Khoan đặt trên lầu cùng địa chỉ với tờ Văn. Ông Thần Tháp Rùa khi đến tòa soạn bao giờ cũng đi ngang qua chỗ ngồi của tôi. Một lần ông hỏi tôi cho Vấn Đề một truyện. Tôi hứa. Và lần nào đi ngang qua bàn viết của tôi, ông cũng nhắc: Sao? Có truyện cho số này không? Tôi xấu hổ vì không viết được. Sau cùng, tôi quyết định / nhất định phải nộp bài cho ông. Truyện ngắn Cha Và Anh tôi đưa ông để đăng trên Vấn Đề - tôi nhớ hình như là số 52.

​​Một buổi chiều Mai Thảo đến tòa soạn kéo ghế ngồi trước mặt tôi hỏi Hoàng viết cái gì cho Vấn Đề mà báo bị tịch thu, đóng cửa vậy?

Tôi ngớ người.

Truyện ngắn Cha Và Anh là một hồi tưởng với nhiều hư cấu về một gia đình (tôi) bị chia cắt trong chiến tranh, và chia cắt ngay cả trong một thành phố. Một nhân vật bơ vơ mất hướng, không biết mình đi đâu, về đâu.

Truyện còn chép một số đoạn trong ca khúc của Phạm Duy:

Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy...
........

Nhà thì nó đốt còn đâu
Khuyên con báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cày cấy.
.........

Ông Khoan gặp tôi một tuần sau không vui. Tuy vậy, ông cũng tỏ vẻ lo cho tôi. "Anh có sao không? Có bị gì không?" Thưa anh, tất nhiên là có. Em phải hầu tòa đây.

Đó cũng là thời gian mà [bác sĩ] Ngô Thế Vinh cũng từ Biệt đoàn 81 Biệt kích Dù về hầu tòa vì bài báo Mặt Trận Ở Sài Gòn của anh.

Nhưng tôi đâu chỉ dính với ông Phạm Duy chỉ chừng đó thứ. Những ca khúc sau này của ông, những bài Bình Ca (Dường Như Là Hòa Bình, Sống Sót Trở Về, Ngày Sẽ Tới...) cũng làm tôi ray rứt mãi.

Tôi ngạc nhiên về những bài Tục Ca, Vỉa Hè Ca cùng đi với Đạo Ca, Bé Ca, Nữ Ca của ông. Ông Phạm Duy đa tài, đa dạng và là một người giàu có về âm thanh. Ông mơ mộng hơn những người lãng mạn nhất, nhưng ông cũng là người thông tục hơn những người thông tục nhất. Ông có nhiều tiếng nói cho nhiều hoàn cảnh.

Ông là một trong số ít nhạc sĩ "sống" và "sống mạnh" không phải là thứ nghệ sĩ ẻo lả của bàn đèn và khói thuốc. Nhạc của ông được nhiều thế hệ hát và hát khắp nơi. Nhạc ông được nhiều người nhớ và nhớ bằng những kỷ niệm đặc biệt. Nhạc ông được hát với một trái tim sôi nổi, nhưng cũng được hát với một nỗi buồn cùng cực. Nhạc ông có nước mắt. Và cũng được hát với một nụ cười.

Thế gian có những thứ tình cảm nào, ông đều cho người ta cơ hội bày tỏ thứ tình cảm đó.
Nhưng tôi biết không phải ai cũng bằng lòng ông.

Có người nhìn ông như một tài năng hư hỏng. Có người bảo sau những ca khúc phổ thơ từ Huy Cận, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, ông không còn để lại gì cho âm nhạc Việt Nam.
Tôi ngờ những người ấy sống bằng thành kiến.
Không người Việt Nam nào có thể quên ơn Phạm Duy.

Để soi sáng giá trị và ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật - một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh, một nhạc phẩm - người ta thường qui chiếu về tác giả, về đời tư của người nghệ sĩ. Người ta nghĩ - cũng có lý thôi - giữa tác phẩm và tác giả chắc chắn phải có một mối giây nhân quả. Tác phẩm là sản phẩm của nghệ sĩ, nó tất yếu phải mang dấu ấn, hơi thở, đời sống, ý nghĩ của người sáng tạo.

Người ta đọc Kiều của Nguyễn Du và người ta đi tìm tiểu sử của ông để hiểu Kiều. Cũng vậy, người ta xem kịch Lưu Quang Vũ, xem tranh Nguyễn Trung, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, người ta luôn luôn đi tìm tác giả. Người ta tìm đọc "những bản thảo dở dang, những thư từ, những nhật ký, hồi ký" và qua đó họ vẽ lại chân dung người nghệ sĩ. Chính chân dung ấy đã "soi sáng" tác phẩm của họ.

Tôi chia sẻ "một nửa" ý kiến đó.

Tôi không tin là cuộc đời của một nghệ sĩ hoàn toàn làm thành tác phẩm của họ.
Tôi không tin là tác phẩm đang được quần chúng yêu mến kia sẽ kém đi vì tác giả có một cuộc sống xã hội "không tốt đẹp" theo ý kiến của những nhà đạo đức.
Tôi không tin giá trị tác phẩm sẽ bị tụt xuống khi tác giả có một cuộc sống không cân bằng với tiêu chuẩn xã hội.

Những điều "tôi không tin" ấy thật ra chưa đủ lý lẽ để thuyết phục người khác. Cho đến khi tôi đọc được mấy cuốn sách của Milan Kundera, một nhà văn Pháp gốc Czech.*

Dưới tựa đề Soixante-treize mots (Bảy mươi ba từ), phần thứ sáu của cuốn Nghệ Thuật Tiểu Thuyết, Milan Kundera viết: "L'artiste doit faire croire à la postérité qúil n'a pas vécu", dit Flaubert.**

Vẫn theo Kundera, Maupassant không cho đưa chân dung của mình vào một loạt chân dung các nhà văn nổi tiếng: "Đời tư của một người và khuôn mặt anh ta không phải là của công chúng." Heman Broch nói về mình, về Musil, về Kafka: "Cả ba chúng tôi đều không có tiểu sử thật."

Nhà văn William Faulkner muốn làm "người bị triệt tiêu, bị xóa bỏ khỏi lịch sử, không để lại bất cứ dấu vết gì, không có cái gì khác ngoài những cuốn sách đã in." Và Kundera nhấn mạnh: Sách là để in, tức là không có các bản thảo dở dang, thư từ, nhật ký.)

Tôi muốn bắt chước Kundera nói theo một ẩn dụ của Kafka rằng nhạc sĩ Phạm Duy (nhà tiểu thuyết) phá ngôi nhà của mình đi, để lấy gạch xây một ngôi nhà khác: các ca khúc của ông (cuốn tiểu thuyết).

Từ đó đi đến kết luận là những người viết tiểu sử về một nghệ sĩ (nhà tiểu thuyết, họa sĩ, kịch tác gia, nhạc sĩ, điêu khắc gia...) là người phá giỡ những gì mà nghệ sĩ đó đã làm, để làm lại cái mà người nghệ sĩ đã phá giỡ ra. Cái công việc chõ vào đời tư của một nghệ sĩ (tài năng) là một công việc tiêu cực, thuần túy tiêu cực, nó không thể soi sáng cả giá trị lẫn ý nghĩa của tác phẩm; "may ra thì chỉ nhận dạng được vài viên gạch."***

Kundera không chỉ nói một lần về vấn đề này trong cuốn L'art du Roman, mà ông nói nhiều lần. Trong phần thứ bảy cuốn sách này, dưới tựa đề Discours de Jerusalem: Le Roman et L'Europe. "Nhà tiểu thuyết là người, theo Flaubert, muốn biến mình đi sau tác phẩm của mình. Biến mình đi sau tác phẩm của mình, điều đó có nghĩa là từ chối vai trò nhân vật xã hội."****

Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông. Tôi đồng ý với Hoàng Khởi Phong, Phạm Duy không cần vinh danh, vì cái danh ấy ông đã có, người ta nên biết ơn ông.

Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, rõ ràng là chúng ta nợ nần quá nhiều người. Không chỉ nợ nần công ơn sinh và dưỡng của cha mẹ ta, mà ta còn nợ nần những người làm cho cuộc sống ta tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Ngay khi họ làm ta đau đớn vì bản chất của họ, ta cũng nợ họ, vì nhờ đó ta khám phá ra sự đa dạng của con người,khám phá ra cái bộ mặt đen tối của một con thú tưởng là người, và ta cũng khám phá ra sức chịu đựng của mỗi chúng ta.

Phạm Duy và Stravinski

Chưa thấy nhà văn nào nói về âm nhạc say mê và đầy kiến thức như Milan Kundera. Trong cuốn Những Di Chúc Bị Phản Bội, ông dành nguyên phần thứ ba Improvisation en hommage à Stravinski (Ứng tác kính tặng Stravinski) từ trang 69 đến 119 để viết về Stravinski.

Tôi ước gì mình có đủ kiến thức về âm nhạc để viết một chương về nhạc sĩ Phạm Duy. Nếu cuộc đời của Stravinski chia làm ba phần dài gần bằng nhau. Ở Nga, 27 năm; Pháp và Thụy Sĩ nói tiếng Pháp, 29 năm; Mỹ, 32 năm; thì Phạm Duy cũng chia phần đời mình qua những con số tương tự: Miền Bắc 29 năm, vào Nam 25 năm, và ở Mỹ nay ông đã ở được 27 năm.

Kundera viết "Di tản: một cuộc lưu lạc bắt buộc ở nước ngoài đối với người coi đất nước nơi mình sinh ra là tổ quốc duy nhất của mình. Nhưng tình trạng di tản kéo dài và một sự trung thành mới đang nảy sinh, sự trung thành với đất nước mình đã nhận; bấy giờ là đến lúc cắt đứt. Stravinski dần dần từ bỏ chủ đề Nga. Năm 1922 ông còn viết Mavra (hí kịch phỏng theo Pouchkine), rồi năm 1928, Nụ Hôn Của Bà Tiên, kỷ niệm về Tchaikovski, rồi ngoài mấy tác phẩm ngoại lệ không đáng kể, ông không trở lại chủ đề Nga nữa. Khi ông mất năm 1971, Vera vợ ông, tuân theo Ỷ nguyện của ông, từ chối đề nghị của chính phuđ Xô Viết chôn ông ở nước Nga và chuyển thi hài ông đến nghĩa trang Venise."

Kundera viết tiếp: "Không còn nghi ngờ gì nữa, Stravinski mang trong mình vết thương của sự di tản, như tất cả những người khác; không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nghệ thuật của ông sẽ đi một con đường khác nếu ông có thể ở lại nơi ông đã sinh ra.”

Phần đầu của Stravinski và Phạm Duy có vẻ như trùng hợp nhau. Sự khác là ở phần cuối. Chủ đề trong âm nhạc Phạm Duy luôn luôn là Việt Nam.

"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời."
Chủ đề ấy ở cuối đường là Minh Họa Kiều I và II. Việt Nam nhất trong những gì thuộc về Việt Nam.
Tôi viết những dòng chữ này như một lời biết ơn Phạm Duy.
Tôi không có nhiều lý lẽ để nói về âm nhạc ông. Tôi mượn nhiều lời của Milan Kundera để cám ơn ông.
Xin ông khỏe mãi.

Nguyễn-Xuân Hoàng
------
* L'art du Roman, Collection Folio, 15 Novembre, 1999 và Les Testaments Trahis, Collection Folio, 18 Janvier, 2002. Bản dịch của Nguyên Ngọc, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
** Sách đã dẫn, trang 177. Flaubert nói: "Người nghệ sĩ phải làm cho hậu thế tưởng rằng anh ta không hề sống."
*** Bản dịch của Nguyên Ngọc, Sđd., tr. 156-157.
**** Bản dịch Nguyên Ngọc, Sđd., tr. 165

Source : blog Nguyenxuanhoang /VOA
 

29/1/13

Phạm Duy - Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi


Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi


Từ1975 cho tới năm 2000, suốt 25 năm xa quê hương đất nước, tôi không có cơ hội để theo rõi sinh hoạt của âm nhạc Việt Nam và không biết sau cơn hồng thủy, nhạc Trịnh Công Sơn ra sao, là nhạc chắp cánh bay lên hay nhạc la đà chìm xuống? Nhưng qua dăm bẩy băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ trong đó có vài ba bài ca mới soạn của Trịnh Công Sơn thì tôi thấy nhạc của anh vẫn là nhạc tình yêu và nhạc thân phận làm người.

Nhưng vào năm 1980, ngẫu nhiên Trịnh Công Sơn và tôi cùng có mặt ở Paris, trong nỗi vui mừng gặp nhau của hai người cùng có chung một phận, Trịnh Công Sơn hát cho tôi nghe bài hát Lặng Lẽ Nơi Này mà anh vừa mới viết ra :

Trời cao đất rộng,
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Ðời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về...với tôi !

... thì tôi thấy nghệ sĩ nào rồi cũng phải mang số phận cô đơn truyền kiếp, ở quê hương hay xa quê hương, vào thời bình hay chinh chiến, giữa đám đông hay khoảng trống, nơi thiên đàng hay địa ngục... Chỉ còn có thể về với mình, về với tôi như Sơn đã nói.

Trời cao đất rộng, một mình tôi đi ... Cô đơn truyền kiếp phải chăng là kiếp của nhiều ca nhân ? Văn Cao khi mới chỉ là chàngTrương Chi tuổi còn rất xanh, tài hoa đang nở rực, chưa hề biết phận mình mỏng manh ra sao trong cơn gió lốc sẽ tới, mà cũng đã chỉ muốn :

Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca, trái đất còn riêng ta !

Còn tôi ? Tôi còn phải sống, đôi khi phải đổi chỗ đứng, đổi chỗ ngồi cho đỡ buồn trong cõi trần ai sầu muộn này, từ rất lâu ngồi đâu thì cũng chỉ là ngồi một mình trong cái TA.

Hôm nay là ngày an táng Trịnh Công Sơn. Vào giờ phút anh đã thực sự về với đất, với trời, nghĩa là về với mình rồi, chúng tôi biết rằng anh đã nghìn lần nói lên nghìn lời trối trăn qua tác phẩm, lời nào cũng làm cho mọi người thấy được nỗi đau làm người, nỗi đau tình cờ, cơn đau chưa dài và cơn đau lên đầy, quá nửa đời người không một ngày vui...

Nhưng theo tôi, có lẽ sau đây là lời trăn trối tuyệt diệu nhất, lời cuối cùng Trịnh Công Sơn nói với Trịnh Công Sơn :

Ðừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng giữa mùa Ðông
Ðừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế !
Tôi là ai, là ai... là ai
Mà yêu quá đời này !

Phạm Duy
Thị Trấn Giữa Ðàng-

(Ðọc trong đêm họp mặt của bạn bè, 3 April 2001 trong khi Saigon đang làm lễ an táng TCS)

HÓA THÂN


" Nhớ một vì sao  rụng  cuối  trời  " . THD.
 


 
                                                         Trần Hồ Dũng 
          

Tiễn ai trời  đất hóa vàng 

Buồn ai ,   nến cháy  hai  hàng áo quan

Kiếp người cát bụi  hợp  tan

Còn chăng một giấc mộng vàng phai phôi

Cát   tung ,  ngựa hí lên rồi  

Thôi người     ở lại , luân hồi ta đi   

Còn em  về níu xuân thì  !      

Nhớ nhau  xin gửi đóa Quỳ  khóc  trăng 
 

tranhodung. washington.usa. 27.1.2013


27/1/13

Phạm Duy - " Một đời nhìn lại "

Trước năm 75 , ở miền Nam VN , có 2 quyển sách viết về Phạm Duy với quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau. " Phạm Duy còn đó nỗi buồn " của Tạ Tỵ và cuốn " Phạm Duy đã chết như thế nào " của Nguyễn Trọng Văn.
Đến nay , vẫn có những cách đánh giá khác nhau về cuộc đời , sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy. Nhưng có một điều không ai có thể phủ nhận được. Ông là một( trong một vài ) tượng đài lớn nhất trong nền tân nhạc Việt Nam.
Ông mất ngày 27/1/2013 tại sài Gòn (thọ 93 tuổi ). Nhà báo nổi tiếng( ở hải ngoại ) Nguyễn Xuân Nghĩa đã gọi đây là " ngày đại tang của nền tân nhạc Việt Nam".

Xin thắp một nén tâm hương tưởng nhớ một nhạc sĩ tài hoa , người  nghệ sĩ  " du ca " số một của VN.
Và xin giới thiệu trang blog gần đây nhất của NS Phạm Duy để chúng ta đọc và hiểu thêm về ông.

Trân trọng !THD.

In loving rememberance of Pham Duy , a great Vietnamese musician  . THD.
Please visit Pham Duy's  webpage :
http://www.phamduy2010.com

Phạm Duy với ngàn lời ca

(trong loạt bài viết về thơ phổ nhạc đăng trên THẾ KỶ 21)

Nguyen Sa

... Ngậm ngùi đi một mạch từ nắng chia cho tới ngủ đi em mộng bình thường giữ nguyên kiến trúc tới ngủ đi em kiến trúc nhạc hiện ra hai lần ngủ đi em mộng bình thường, buông ra với một câu đệm, rồi lại trở lại xoáy vào và tình tự ngủ đi em mộng bình thường, cũng hai lần, rồi mới trở lại với kiến trúc thơ có mở đầu à ơi trước khi có tiếng thùy dương mấy bờ ...
Kiến trúc thơ trở lại không còn là kiến trúc thơ nguyên thủy, ngay cả kiến trúc thơ khởi đầu, soi chiếu ngược trở lại bởi kiến trúc nhạc cũng đổi khác, tình tự thơ có thêm tình tự nhạc, thiết tha lục bát có thêm tha thiết cung, đam mê có thêm cung bực chất ngất những trời mây, núi non sông biển khác, những thẳm sâu được nối tiếp bởi những thẳm sâu mới làm thành những thẳm sâu tưởng như không có đáy, hoàn chỉnh một tổng hợp mới, một kiến trúc mới phối hợp tuyệt vời thơ và nhạc.
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng thì khác, kiến trúc thơ được giữ nguyên vẹn từ đầu đến cuối bài. Phạm Duy không cho láy lại một câu hay vài chữ của câu thơ như một kiểu hát đuổi biến thể. Anh cũng không chặt câu thơ ra làm nhiều khúc, buông ra rồi bắt lại, cũng không đưa câu thơ bay lên trên nhiều cung bực khác biệt.
Tôi nghĩ có lẽ vì thơ Động Hoa Vàng dài, tới 24 câu trong khi Ngậm Ngùi chỉ 12. Chặt câu ra nhiều đoạn, láy lại nhiều lần, đưa câu thơ lên những cung bực khác sẽ làm cho bài hát trở thành lê thê. Tôi cũng nghĩ những thôi thì thôi ... thôi thì thôi đừng ngại mưa mau, đưa nhau ra tới bên cầu nước trôi, thôi thì thôi để  mặc mây trôi, thôi thì thôi chỉ là phù vân, thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi, thôi thì thôi em chẳng còn yêu tôi, leo lên cành bưởi khóc người dưng dưng, thôi thì thôi mộ tà dương, thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi ... Những thôi thì thôi, thôi thì thôi nhé, thế thôi lập lại nhiều lần của kiến trúc thơ tự nó đã là những hát láy, hát theo, hát đuổi, nhạc sĩ nếu thêm vào kiến trúc thơ đã có nhiều nhạc tính một kiến trúc nhạc khác với những kỹ thuật tương tự sẽ làm cho bài thơ phổ nhạc trở thành nặng nề. Phạm Duy đã rất có lý khi xây dựng kiến trúc nhạc bằng cách giữ nguyên và khai triển kiến trúc thơ của Động Hoa Vàng.
Phạm Duy giữ nguyên khi cần giữ nguyên, chặt ra và láy lại khi cần mang lại cho giấc ngủ trăm con chim mộng. Tới Vết Sâu, câu thơ được chặt ra ngay lập tức, được phân đoạn liên tục, được láy lại nhịp nhàng theo nhịp điệu của bài, điệu calypso. Khi em mở cửa bước vào, hồng non trên má, hồng đào trên môi ... của kiến trúc thơ đã trở thành Khi em, khi em, mở cửa bước vào, hồng non trên má, hồng đào, hồng đào trên môi ...
Phạm Duy vẫn thế, khi nào anh cũng tôn trọng kiến trúc thơ trong khi biến đổi nó. Trong sáng tạo anh thường xuyên biến đổi kiến trúc thơ trong sự tôn trọng tuyệt đối bài thơ. Phạm Duy không phổ nhạc thơ lục bát bằng cách thay đổi lời thơ.
Trong Vết Sâu, sau khi anh bay từ "vết sâu" của kiến trúc thơ sang "vết đau" của kiến trúc nhạc, anh lại trở lại với vết sâu ngay sau đó. Anh cất tiếng ru trong Ngậm Ngùi, ngủ đi em, ngủ đi em, và anh vẫn giữ được trọn vẹn ngủ đi em mộng bình thường mà vẫn không quên những tình tự mới: ngủ đi em mộng vẫn bình thường ...

Trong Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu, Phạm Duy mang lại cho ngôi chùa nhỏ dưới chân núi kiến trúc của một lâu đài, rồi anh không ngần ngại mang cả tòa lâu đài đó lên đỉnh của ngọn núi cao nhất. Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn ngôi chùa ở chân núi của thơ được nhạc sĩ cho láy nguyên vẹn và đưa lên một cung bực cao hơn để thành một ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn ... được lập lại lần ba trên một cung bực chót vót, tòa lâu đài đã được đưa lên kỳ diệu tuốt trên đỉnh chót vót của ngọn núi.
Trong tòa lâu đài trên núi cao đó có cả tiếng hài, có cả tà áo lộng bay trong gió của Ẩn Lan. Ẩn Lan ơi, em dỗi em hờn cũng được di chuyển với kỹ thuật di chuyển ngôi chùa trở thành lâu đài và sự mang lên núi cao cũng lại được nhắc lại thêm hai lần trên những cung bực càng lúc càng cao, tạo nơi người thưởng ngoạn một cảm xúc khoái cảm ngất lịm hiếm quý.
Không có nhiều nhạc sĩ Việt nam phổ nhạc thơ lục bát. Vì phổ thơ lục bát dễ rơi vào chỗ nhàm chán, ê a. Phạm Duy phổ nhạc nhiều thơ lục bát. Mỗi bài hay một cách khác, không giống nhau. Bốn bài Ngậm Ngùi, Vết Sâu, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu của các nhà thơ Huy Cận, Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư ... mỗi bài Phạm Duy sử dụng một kỹ thuật khác trong việc xây dựng một kiến trúc nhạc trong sự tôn trọng kiến trúc thơ, gìn giữ mà vẫn sáng tạo.

Thơ lục bát phổ nhạc của Phạm Duy xây trên âm điệu ngũ cung, nhạc Việt Nam nói chung xây trên âm điệu ngủ cung. Nhưng nói nhạc Việt xây trên ngũ cung cũng như nói thơ lục bát cơ cấu hai câu sáu tám. Sáu tám ai cũng biết, nhưng làm thơ sáu tám thế nào cho hay, cho thấy có sáng tạo cho ra sáu tám ... cũng như viết nhạc ngũ cung thế nào cho đầy ắp sáng tạo, đó là cả một vấn đề. Phạm Duy biết vấn đề ấy và giải quyết vấn đề đó. Mỗi bài lục bát phổ nhạc, anh sử dụng một kỹ thuật khác biệt, thích ứng với kích thước và nội dung của bài thơ.
Mỗi lần phổ thơ lục bát, Phạm Duy đều có cái hay khác nhau, lần nào cũng làm cho người thưởng ngoạn phải sửng sốt, bàng hoàng, hơn thế, chấn động trước một kiến trúc âm thanh lộng lẫy sáng tạo.

Trong thế giới thi ca ai cũng biết làm thơ lục bát rất dễ và rất khó. Dễ vì ai cũng làm được. Khó nên không phải ngày nào, tháng nào cũng có một bài lục bát hay. Trong âm nhạc ai cũng biết thơ lục bát phổ nhạc không khó.
Nhưng phổ nhạc thơ lục bát sao cho hay, sao cho không ê a, tới nay không có nhiều người như Phạm Duy. Bây giờ thì ai cũng biết thêm là phổ thơ lục bát dễ rơi vào chỗ giống Phạm Duy mà Phạm Duy thì thiên hình vạn trạng làm sao tránh?

Nguyên Sa

Xuân hành

Ngày Xuân, Nghe Lại Ca Khúc "Xuân Hành" Của Phạm Duy


Sunday, January 27, 2013




Quỳnh Giao - Việt Báo Xuân 2013

"Một ca khúc uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu, với nội dung gợi nhớ uẩn thứ tư trong ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức..."


* Ca khúc Xuân Hành - tranh của họa sĩ Duy Liêm, Tinh Hoa xuất bản tại Sàigòn năm 1959 *


Có phải là ngẫu nhiên không mà hai nhạc phẩm đầy tính chất anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi giáng Trưởng (Mi bémol Majeur)? Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là "Héro" và Cầm tấu khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor" viết cho đại đế Napoléon.

Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc về lịch sử hay những bài hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói về nhạc thuật, các âm giai Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp với giọng Kim. Khi giọng Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết thấp hơn để làm nổi giọng chính. Những ca khúc như “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân, “Nước Non Lam Sơn” hay “Bóng Cờ Lau” và “Tiếng Chim Gọi Đàn” của Hoàng Quý, “Hội Nghị Diên Hồng” hay “Bạch Đằng Giang” của Lưu Hữu Phước, “Việt Nam, Việt Nam” của Võ Đức Thu, “Việt Nam Anh Dũng” của Dương Thiệu Tước”, “Việt Nam Hùng Tiến” của Thẩm Oánh…v.v. đều được viết trên cung Fa Trưởng.

Thật sự, thì âm giai trong sáng hay u tối, êm dịu hay gay gắt chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với giọng hát. Giọng hát nhẹ êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của người trình bày. Giọng Thổ thường dầy hơn giọng Kim, ngược lại thì giọng Kim lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ. Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển hình, thì chuộng loại âm giai mang nhiếu dấu giáng (bémol). Ông cho rằng đàn những nốt giáng (phím đen trên dương cầm) thì tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật thì ngón tay trườn trên phím, càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn…

Trong khung cảnh chung như vậy, ca khúc “Xuân Hành” của Phạm Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng, trong sáng mà êm dịu hơn âm giai Fa Trưởng.

Những ai mới nghe ca khúc này thì tự hỏi rằng tác giả dùng chữ "hành" trong ý nghĩa nào. Hành có thể là hành trình, hành khúc, hoặc biết đâu còn là một thể thơ cổ, như bài Tỳ bà hành mà ai cũng biết qua bản dịch của Phan Huy Vịnh, hay bài Hiệp khách hành mà các độc giả của Kim Dung có thể còn nhớ và nhất là Hành phương Nam của Nguyễn Bính? Người nghe hay người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự cảm nhận để hiểu tác phẩm từ sở thích hay nhận thức khác biệt của mình như vậy.

Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn trọng, như tên của ông.

Trong cuốn "Ngàn Lời Ca" được xuất bản tại hải ngoại năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của từng bài mà gọi đó là "sự tích". Ông trình bày rằng mình đã soạn nhiều ca khúc về hành trình của con người trong cuộc đời, trong đó có ba bài hành là "Lữ Hành", "Dạ Hành" và "Xuân Hành". Chúng ta liền hiểu ra ý nghĩa của chữ hành trong tác phẩm.

Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sàigòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sàigòn nhưng mà là Sàigòn khói lửa của chiến chinh tham tàn năm 1970.

Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu".... Ngươi từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài…. Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.

Với khoảng cách thời gian, nghĩa là có thêm sự chín mùi của cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi hoàn cảnh của Sàigòn thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính mình. Đấy cũng là lý do mà Quỳnh Giao thích bài “Xuân Hành” hơn cả.

Về nhạc thuật thì đấy là một ca khúc có nhịp điệu uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như nhiều bài hùng ca hoặc một khúc quân hành. Bài "Lữ Hành" rất hay nhưng ít người hát vì từ đầu đến cuối là dùng nhịp chõi – syncope. Đôi khi có người còn trình bày theo điệu "swing" khá giật nên không phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh thiện của lời ca. So với "Lữ Hành" thì bài "Xuân Hành" dễ hát hơn, nhưng cũng cần trình bày hợp ca nên đòi hỏi kỹ thuật hòa âm mới diễn tả hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng vì vậy mà ngày xưa, chúng ta ít được nghe ca khúc này ở ngoài các chương trình của đài phát thanh?

Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đã lắng đọng, người ta còn thấy ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.



Phạm Duy đã dẫn chúng ta vào tác phẩm với lời giới thiệu về câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu. Nhưng trong ca khúc mà cũng là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở thành lá úa, ông còn diễn tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân, hay tinh thần nhân ái là chữ mà ông dùng. Chúng ta sinh ra là từ lòng người với tiếng khóc và nụ cười, với thương yêu và hận thù lẫn đắm say. Nhưng chân lý muôn đời là trưa hôm qua có thể còn là người, đêm hôm sau thì đã thác, có khi là vị thần hoặc một lũ ma lẻ loi....

Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của cuộc đời và ai ai cũng như vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác phẩm nằm trong thông điệp chìm ẩn bên dưới: sự bất diệt trong vòng tử sinh đó là chữ nhân. Nếu sinh ra và sống mãi với lòng nhân thì chẳng ai nên sợ cái chết. Cuộc hành trình của đời người mang ý nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi nó được hướng dẫn bởi lòng tử tế.

Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người viết vẫn gọi ông như vậy với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, Quỳnh Giao đã lẩm nhẩm hát lại và ngẫm lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.
Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức. Nhờ sự suy ngẫm đó mình tìm ra một chữ "hành" trong kinh sách nhà Phật. Đấy là ý khác của "hành" trong bài Xuân Hành. Rất đơn giản thì hành động tốt sẽ tạo ra thiện nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh. Phải chăng, câu "Đường nhân ái còn đi mãi mãi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử? Nếu quả như vậy thì thông điệp này còn sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường Chiều Lá Rụng" của Phạm Duy....

Cho một số báo Xuân thì đấy là lòng tri ân được gửi đến tác giả, cùng với lời chúc Xuân.

__________________


Sau khi hoàn tất bài này, Quỳnh Giao đã gửi cho Phạm Duy. Ông lập tức trả lời, ngày mùng hai Tháng Giêng 2013: "Cháu viết rất hay. Từ nay may ra người ta mới hiểu được XUÂN HÀNH". Xin được giới thiệu bài này như lời vĩnh biệt người nghệ sĩ: tin từ trong nước cho biết Phạm Duy đã tạ thế tại Sàigon vào lúc 14:30 ngày 27 vừa qua. NXN.
( Blog Nguyen Xuan Nghia )
 

BBC - Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời

 

Cập nhật: 08:54 GMT - chủ nhật, 27 tháng 1, 2013
Nhạc sỹ Phạm Duy trong một buổi ca nhạc
Nhạc sỹ Phạm Duy được cho như một trong những người đã kiến tạo nên nền tân nhạc Việt Nam
Người nhạc sỹ lớn của nền tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy, vừa qua đời tại TP Hồ Chí Minh ở tuổi 93, các nguồn thân thiết với gia đình ông cho biết.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho BBC hay ông được tin nhạc sỹ qua đời vào buổi trưa Chủ nhật 27/1. Có nguồn tin nói ông ra đi trong bệnh viện.
Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim và từng qua hai lần giải phẫu tim.
Ông Đỗ Trung Quân không giấu nổi nghẹn ngào: "Tôi thực sự rất xúc động khi nghe tin ông [Phạm Duy] qua đời".
"Ông là một trong những nhạc sỹ đã tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam."
Các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy đã kết hợp được những nét của âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong cách hiện đại.
Ông từng nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị".
"Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa."
Mới tháng trước, con trai lớn của nhạc sỹ Phạm Duy, ca sỹ Duy Quang, cũng qua đời tại Mỹ.
Vợ của ông là ca sỹ Thái Hằng, bà qua đời năm 1999.

Tài năng lớn

Nhạc sỹ Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921. Tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn.
Không chỉ là tác giả của một khối lượng đồ sộ các sáng tác, ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc lớn, với công trình khảo cứu về âm nhạc có giá trị.
Phạm Duy bắt đầu con đường âm nhạc trong vai trò ca sỹ. Ông từng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng sau di cư vào Nam.
"Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa."
Nhạc sỹ Phạm Duy
Sau sự kiện 30/4/1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ. Các ca khúc của ông bị cấm ở trong nước một thời gian dài.
Việc ông trở về Việt Nam định cư năm 2005 đã gây ra nhiều tranh cãi.
Kể từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, mới khoảng 1/10 số bài hát của ông được biểu diễn ở trong nước.
Trong cuộc trao đổi với BBC, nhạc sỹ kỳ cựu thừa nhận ông từng có giai đoạn sáng tác tuyên truyền trong các giai đoạn chiến tranh, nhưng cho rằng ông chỉ làm như vậy vì yêu nước.
"Lẽ tất nhiên bổn phận của chúng tôi là thế. Bổn phận của người nhạc sỹ khi đi theo kháng chiến, thì phải dùng cái đàn của mình để xưng tụng cuộc kháng chiến."
"Ngoài những bản nhạc về tình ái, hay về những chuyện khác, thì những bản nhạc có tính chất gọi là tuyên truyền đó thực ra cũng là những bản nhạc yêu nước thôi. Đừng nói là tuyên truyền hay không tuyên truyền."
Nhạc sỹ cho rằng âm nhạc của ông đa dạng và luôn biến đổi vì thân phận và tâm trạng của ông luôn "vui buồn" và "trôi nổi" theo vận nước.
 
BBC

26/1/13

Chuyện Trăm Năm: Nhân Khẩu, Thuật Lý Và Văn Minh

Saturday, January 26, 2013


Chuyện Trăm Năm: Nhân Khẩu, Thuật Lý Và Văn Minh

Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Xuân Quý Tỵ 2013

Trong một thế giới lão hóa, nước Mỹ vẫn còn quá trẻ....



Dân số quân bình và sẽ tăng là khi đáy hình tháp - của tuổi trẻ - rộng hơn thân và đỉnh tháp


Trong 10 năm tới, Hoa Kỳ sẽ còn gặp khá nhiều vấn đề! Mở đầu Giai Phẩm Xuân với kết luận như vậy thì quả là khó nuốt như bánh chưng bị hấy. Nhưng biết đâu chừng, đây là chuyện tiền hung hậu cát? Theo thông lệ từ đã lâu, nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh vẫn viết bài mở đầu cho Xuân Việt Báo. Ông mới từ giã chúng ta trong năm qua. Bài này của chủ biên Nguyễn-Xuân Nghĩa nhắc đến tên ông như một lời tưởng niệm - và cũng mở ra một cách nhìn về tương lai theo tinh thần lạc quan của ông....

Già Nua và Mắc Nợ - Vấn Đề của Nhà Giàu


Hoa Kỳ gặp nhiều vấn đề vì là xứ tiên tiến trong các quốc gia đã công nghiệp hóa và giàu có nhất địa cầu. Nghĩa là bài toán của Hoa Kỳ cũng là nan đề chung của các nước đã phát triển.

Trước hết là chuyện nợ nần, tai họa chung của các nước công nghiệp hoá.

Tổng số nợ của công quyền, tư nhân và doanh nghiệp (ngoài lãnh vực tài chánh) đã tăng vọt từ 1980 đến 2010. Trong ba chục năm, nợ của doanh nghiệp tăng gấp ba, của chính quyền tăng gấp bốn và của các hộ gia đình tăng gấp sáu. Vì vậy, quy luật có vay có trả đã vận hành và giải thích những khó khăn kinh tế của năm năm vừa qua, từ 2007 đến nay. Nhưng từ đó đến nay, mới chỉ có ba quốc gia trong khối kinh tế này đã chịu khó trả nợ. Hoa Kỳ là một, dù trả chưa đủ.

Thứ hai là những khoản nợ không thể trả. Đó là nợ người già.

Đà gia tăng dân số của nhân loại đã giảm trong khi tuổi thọ nói chung lại kéo dài khiến lớp người ở tuổi lao động phải cưu mang một thành phần cao niên đông đảo chưa từng thấy. Giới cao niên này từng là trung niên và đóng góp vào mọi loại quỹ hưu bổng và y tế cho tuổi già. Nhưng quỹ đó không đủ trang trải cho nhu cầu của họ và sẽ vỡ nợ. Hoa Kỳ cũng gặp loại vấn đề lão hóa dân số và có thể bị lủng quỹ hưu bổng, dù chưa nguy ngập như Nhật Bản hay nhiều xứ Âu Châu.

Khi mắc nợ quá nhiều - mức hiểm nguy là nợ tới 90% sản lượng kinh tế - các quốc gia đều khó xoay trở, mà nợ của khu vực công quyền càng cao thì càng khó. Tiêu chuẩn đo lường là tỷ lệ công chi, chi tiêu của khu vực công, hay mức bội chi ngân sách, chi nhiều hơn thu. Các nước đã phát triển đều gặp loại vấn đề này, Hoa Kỳ cũng vậy, dù chưa là đại gia đội bảng. Năm năm vừa qua là năm năm xoay trở về chánh sách và bị ách tắc về chính trị, nhưng thực tế thì tư nhân Mỹ đã bấm bụng trả nợ và tạo dựng lại nền móng khác.

Nhưng cùng nạn mắc nợ và dân số lão hóa, các nước tiên tiến đều gặp bài toán tăng trưởng thấp và năng suất sút giảm. Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ đó, dù chưa thê thảm như Nhật Bản hay nhiều xứ Âu Châu. Nôm na là sản lượng kinh tế mà tăng được 2% một năm là mừng! Khi kinh tế chỉ tăng có 2% thì thị trường đầu tư khó đạt doanh lợi 6% hay 10% như đã từng thấy. Đầu tư là nhịn ăn ngày nay để ăn no và ngon hơn sau này. Nếu sau này lại chẳng được như vậy thì tương lai khó khá. Kiếm tiền đâu ra và đánh thuế những ai nữa để trả nợ? Bài toán ấy khiến người ta bi quan về tương lai của nước Mỹ....

Khi nói đến Hoa Kỳ, Nhật Bản hay Âu Châu, và nạn mắc nợ với dân số bị lão hóa, người ta có thể nghĩ đến một cường quốc đang lên là Trung Quốc. Các nước dân chủ mới bị ách tắc chính trị vì lòng dân bất định trước những vấn đề quá phức tạp, chứ một nước độc tài độc đảng và đông dân nhất như Trung Quốc thì chỉ cần lãnh đạo quyết định là cả nước đều phải xoay....

Mật độ dân số Trung Quốc - những khoảng trống hoang vu đến rợn người *


Sự thật lại đơn giản hơn nhiều, vì quy vào hai con số của Trung Quốc, 160 và 124.

Trung Quốc có 160 triệu "dân công", người phải tha phương cầu thực – và không có hộ khẩu – để kiếm việc làm ở nơi khác. Một yếu tố bất ổn vì 160 triệu là dân số vĩ đại bằng phân nửa dân số Hoa Kỳ, trên một diện tích lãnh thổ tương tự như của Mỹ với mật độ cao gấp sáu. Trung Quốc cũng có 160 triệu người dân thuộc loại cao niên trên sáu chục, mà không có mạng lưới an sinh, hưu bổng hay y tế như các nước công nghiệp hoá. Và Trung Quốc có 160 triệu dân trong loại gia đình chỉ có một con. Nhân khẩu cũng là một bài toán.

Bài toán ấy được quy vào con số kia: 124.

Một người đi làm phải nuôi phụ mẫu hai người và bốn ông bà của hai họ nội ngoại. Tỷ số lệ thuộc làm lạnh mình, vì vậy ta mới có thành ngữ là "dân Tầu chưa giàu đã già". Mà nhà nước cũng mắc nợ, nhiều ít ra sao, xấu tốt thế nào thì chính lãnh đạo còn không biết! Cứ như chuyện... Hà Nội. Chúng ta loáng thoáng thấy ra bức tranh u ám của tương lai.

Nếu lại so sánh mức khác biệt cao thấp giữa các nước thì thế giới sẽ là một trường cạnh tranh kịch liệt. Chiến tranh cũng là một khía cạnh khác của cạnh tranh.

Khi nhân loại gặp một hiện tượng chung về dân số hay nhân khẩu như vậy, ta có thể nói đến bài toán văn hóa của phát triển, loại bài toán của trường kỳ và sẽ có hậu quả bất ngờ trong lâu dài. Đã là bất ngờ thì xin miễn đoán....

Một người lừng danh đã quy bài toán đó vào... phụ nữ!


***


* Chức năng phụ nữ là đây? Phụ nữ Hồi giáo tại Afghanistan vẫn bị kiểm soát và đàn áp.
Chứ không "đồi trụy" như mấy cô gái tóc vàng của Tây phương! *


Miệng Túi Càn Khôn Khép Lại Rồi

Sau khi tiến hành vụ khủng bố 9-11, biến cố chấn động toàn cầu trong năm đầu của Thế kỷ 21, kẻ chủ mưu là Osama bin Laden đã gửi lá "Thư Ngỏ Cho Hoa Kỳ" vào năm 2002, với đoạn văn rất lạ: "Chúng bay là một quốc gia đã khai thác phụ nữ như sản phẩm tiêu thụ và khí cụ quảng cáo, để chiêu dụ khách hàng. Chúng bay bắt phụ nữ phục vụ hành khách, du khách và khách lạ để gia tăng lợi nhuận. Sau đó bay còn dám nói là muốn giải phóng phụ nữ!"

Đâu đó hình như có sự hiểu lầm....

Tổ chức khủng bố al-Qaeda đề cao đặc tính truyền thống của gia đình và chức năng thiêng liêng của phụ nữ là sinh sản. Họ thâu tóm vấn đề văn hóa của nhân loại vào đơn vị cốt lõi là gia đình. Tình dục là đẻ đái. Phụ nữ mà theo đuổi việc khác là đáng bị ném đá. Hoa Kỳ có tội vì diễn giải khác về nữ quyền.

Không chỉ có khủng bố al-Qaeda, khuynh hướng trọng căn – fundamentalist hay intégriste theo tiếng Pháp - của nhiều tôn giáo khác cũng đề cao gia đình và phụ nữ trong vai trò này: "Bất hiếu hữu tam".... Nhưng thực tế là phụ nữ ở mọi nơi đã đòi hỏi điều khác.

Phân nửa nhân loại đã nghĩ khác mà đa số lại chậm hiểu và chưa nhìn ra.

Thuần về sinh lý, phụ nữ có thể thụ thai và hoàn thành nhiệm vụ sinh sản để truyền chủng ở lớp tuổi từ 14 đến 44. Xin tạm lấy con số này cho dễ nhớ! Trong mấy ngàn năm, tuổi thọ của họ không kéo dài đến tuổi "biệt kinh kỳ" và trong đời còn chôn cất nhiều đứa con sơ sinh yểu tử vì những giới hạn của dưỡng sinh và y tế.

Tính trung bình thì mỗi người phải có 2,1 đứa con, dân số của cộng đồng mới khỏi giảm. Phụ nữ đã được giáo dục ngay từ tiềm thức là phải... đẻ dư. Cho nên sau cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với những cải tiến về dưỡng sinh và y tế, thiên hạ có lúc đã lo sợ nạn nhân mãn. Thế giới sẽ khủng hoảng vì không nuôi nổi số miệng ăn gia tăng quá mạnh.

Ngày nay, sự thể lại trái ngược.

Năm 1970, trung bình một phụ nữ có 4,5 đứa con. Ba chục năm sau, "sản lượng" trung bình ấy chỉ còn là 2,7. Riêng tại Nhật Bản hay Âu Châu thì còn thấp hơn nữa. Thấp hơn con số thần diệu là 2,1. Dân số nhân loại đang giảm và giảm mạnh nhất là tại các nước tiên tiến, theo sau là các nước đang phát triển cũng muốn vươn lên hàng tiên tiến.... Trong khi ấy, phụ nữ làm gì?


* Trăm năm trước, 1913, phụ nữ Mỹ biểu tình đòi quyền đi bầu - Nay họ đòi quyền phá thai *


Xin hãy tò mò tìm hiểu về một đời của phụ nữ hiện đại....

Để có một đứa con, trung bình họ mất gấp đôi thời gian chín tháng 10 ngày của sinh lý học, vì sau khi mang thai, đi biển mồ côi một mình, họ còn phải bú mớm nâng niu, nên mất 18 tháng, một năm rưỡi. Với số con lý tưởng là đẻ hai đứa cách nhau ba năm, họ mất tổng cộng ba năm bận rộn và khó làm được việc gì khác. Nghĩa là 10% của thời khoảng có thể sinh nở, từ 14 đến 44 tuổi.

Trước đây, khi tuổi thọ trung bình còn là ba chục thì chức năng sinh đẻ là việc làm "toàn thời", duy nhất đáng kể dưới con mắt của Osama bin Laden. Ngày nay, với tuổi thọ trung bình là gần tám chục thì việc ấy hết là chuyện chính. Phụ nữ làm gì với khoảng thời gian còn lại?

Họ đi học, đi làm và đi chơi. Nhiều khi chơi rất bạo, lập gia đình rất trễ và khép lại cái túi càn khôn của dân số trong khi kiến thức được nâng cao mở rộng cũng giúp cho việc giáo dưỡng, nuôi con và giáo dục, phẩm nhiều hơn lượng.

Chúng ta gọi đó là sự tiến hóa vì không ai có thể bắt phụ nữ trùm chăn bịt mặt ngồi nhà đẻ con được nữa.

Hoa Kỳ bị khủng bố vu cáo và đánh oan vì một trào lưu chung của nhân loại. Và thế giới Hồi giáo sẽ đổi thay khi phụ nữ thay đổi nếp sống. Việc giải phóng nữ quyền sẽ khiến khủng bố thất nghiệp và ta hiểu vì sao trận chiến với khủng bố không chỉ có máy bay không người lái.

Nhưng còn bài toán kinh tế của hiện tượng giảm sút dân số lao động? Câu trả lời như một kết luận là tự do, tôn giáo và di dân. Là sự quân bình chừng mực trong xã hội đa nguyên.



***


Hãy Yêu Nhau Đi....



Trước bài toán dân số bị lão hóa, các nhà kinh tế nói đến giải pháp dùng lao động hay di dân xứ khác. Người ưa thích khoa học giả tưởng thì đã nói đến giải pháp robots, "người tự điều".

Là nước tiên tiến có dân số bị lão hóa nặng nhất, Nhật Bản đã áp dụng giải pháp kinh tế là tìm nơi đông dân mà đầu tư. Nơi chọn lựa là Hoa lục, là các tỉnh duyên hải của Trung Quốc. Mâu thuẫn năm qua về chủ quyền trên quần đảo Senkaku/Điếu ngư đài đã đảo lộn tính toán này, với hậu quả lâu dài về chiến lược kinh tế lẫn an ninh cho cả khu vực Đông Á....

Giải pháp kia là "người tự điều", đã được Nhật Bản, Ấn Độ lẫn Nam Hàn thúc đẩy.

Ngay trong lãnh vực này, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia tiên tiến nhất. Và những tiến bộ về thuật lý xuất phát từ lãnh vực quốc phòng lẫn kinh doanh, đã mở ra nhiều chân trời khác.... Hoa Kỳ có một xã hội sùng đạo mà đồng thời vẫn tin vào sức mạnh của khoa học nên có những bước tiến vượt bậc về thuật lý (technology). Doanh nghiệp Mỹ thường xuyên đổi mới, cạnh tranh và đào thải nhau trong một môi trường văn hoá và kỹ thuật đa nguyên đầy những mâu thuẫn.

Chính những mâu thuẫn đó, trên doanh trường, chính trường và trong đời sống, mới là đặc tính của một siêu cường không hề có mặc cảm khi thản nhiên nói về nhu cầu lãnh đạo thế giới!

Khi ấy ta mới nhìn lại sức mạnh của một quốc gia.

Sức mạnh ấy tùy thuộc vào ba loại yếu tổ cổ điển, là đất đai hay địa dư, tư bản hay tài nguyên, và dân số hay năng suất. Kiến thức về tổ chức và trình độ thuật lý cùng giáo dục là những đóng góp cho năng suất để với một dân số lao động nhất định người ta có thể đạt sản lượng cao hơn.

Hoa Kỳ được ưu đãi nhất thế giới về địa dư. Với đất đai vuông vức đầy sông ngòi thuận tiện cho chuyển vận nhiều hơn Trung Quốc gần gấp tư và với diện tích khả canh gần gấp đôi, nước Mỹ có thể nuôi một dân số đông gấp ba hiện nay.

Tại Hoa Kỳ, đà gia tăng dân số có giảm chút đỉnh mà vẫn có sức tăng cao cao nhất và trẻ nhất (trung bình là 37 tuổi) trong các nước công nghiệp hoá. Từ vài năm qua, khi tỷ lệ sinh nở vừa chạm mức tối thiểu là 2,1 thì dân Mỹ lập tức báo động về nguy cơ sút giảm dân số và nạn lão hóa. Thật ra, dân số Trung Quốc mới sớm bị lão hóa do chính sách mỗi hộ một con, và mươi năm nữa thôi, ưu thế dân số trẻ hơn (34 tuổi) so với Mỹ sẽ kết thúc. Không đông dân bằng Ấn Độ mà cũng chẳng trẻ hơn Hoa Kỳ, đấy là bài toán của Trung Quốc, với dân số sẽ giảm kể từ năm 2020 trở đi.

Sở dĩ Hoa Kỳ có dân số trẻ và vẫn còn tăng vì là nước mới, khác với Âu Châu, mà lại rộng rãi tiếp nhận di dân, khác với Nhật Bản. Đây là thành phần đông con và có dân số trẻ hơn - trẻ mới dám làm lại cuộc đời ở xứ khác – và thực tế là họ được hội nhập để trong khoảng thời gian là hơn 40 năm hoạt động sau khi nhập cư, họ tiếp tục đóng góp lợi tức và thuế khóa cho nước Mỹ.

Vì hiện tượng di dân nhập lậu, nói chung di dân lại hưởng phúc lợi về hưu bổng thấp hơn, vì là quyền lợi chỉ cho dành cho người đã có quốc tịch! Đây là một khía cạnh phũ phàng của nước Mỹ bị gọi là đểu cáng.

Sau cùng, người ta chú ý quá nhiều đến phụ nữ độc thân hay người không muốn có con - một phần vì sự ồn ào của họ - chứ xã hội Mỹ cũng còn nhiều người thuộc khuynh hướng bảo thủ.

Đề cao thượng đế, hôn nhân và gia đình, thành phần này vẫn duy trì đơn vị căn bản của xã hội là gia đình, vẫn lạc quan sinh con và chu toàn trách nhiệm về giáo dục cho con cái. Đấy cũng là một sức mạnh lặng lẽ của nước Mỹ nếu ta sánh với nhiều nước gọi là văn minh tiên tiến khác. Những cuộc tranh luận về quyền phá thai hay hôn nhân đồng tính không thể khỏa lấp sự thể thâm sâu này.

Bênh vực nữ quyền mà vẫn giữ sinh suất rất cao trong các nước công nghiệp hóa là một nghịch lý của nước Mỹ đa diện và có nhiều xu hướng cân bằng lẫn nhau. Phải chăng đấy cũng là một khía cạnh của nền văn minh, và sự trường cửu?

Cho nên, đầu năm mà nói rằng "hãy yêu nhau đi" thì cũng là lời chúc phải đạo - về dân số học....



Câu Chuyện Trăm Năm


Những người yêu nhau thường hẹn hò chuyện trăm năm. Những người lãnh đạo cũng vậy, trong khi chân trời của các chính trị gia thì thu hẹp vào cuộc bầu cử sắp tới....

Vào năm 1913, ngẫu nhiên là năm sinh của vua Bảo Đại dưới tên Nguyễn Phước Vĩnh Thụy, ít ai có thể tin là nhà Nguyễn do Gia Long thành lập từ 1802 lại tiêu vong sau 13 đời vua và dân số Việt Nam từ gần 20 triệu sẽ mấp mé 90 triệu vào năm 2013... Cũng vậy, vào năm 1913, ít ai có thể tin được nếu nghe nói rằng Hoa Kỳ sẽ khai chiến với Nhật Bản, can thiệp vào Chiến Tranh Cao Ly, lật đổ Chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963, đổ quân vào Việt Nam rồi tháo chạy vào năm 1973...

Trăm năm về trước, khi nền cộng hòa đầu tiên được Tôn Dật Tiên thành lập tại Trung Quốc, có ai tin là sẽ có ngày Hoa Kỳ giải vây cho Trung Quốc cộng sản năm 1972 rồi bốn chục năm sau, là ngày nay, chế độ Trung Quốc cộng sản ấy đòi vượt mặt Hoa Kỳ để chế ngự biển Đông hay không?

Trong khoảng thời gian rất dài của bốn thế hệ nối tiếp, rất nhiều biến cố bất ngờ có thể xảy ra và dẫn đến hậu quả bất lường. Nhưng đà tăng giảm dân số và sự tiến bộ về thuật lý không là loại biến cố bất ngờ mà vẫn hàng ngày xảy ra, và chậm rãi thay đổi tương quan của thế giới. Nếu theo dõi những chuyển động ấy trong trường kỳ thì ta thấy Hoa Kỳ đã là quốc gia giàu nhất thế giới từ năm 1830, đã vượt Đế quốc Anh về quân sự từ năm 1913 và trở thành siêu cường toàn cầu trong cả trăm năm.

Những lúng túng của Hoa Kỳ hay hung hăng của Trung Quốc ngày nay cần được đặt vào bối cảnh trăm năm đó....Nếu thấy trước được phần nào, may ra ta sẽ tránh được cảnh tang thương - thương hải biến vi tang điền.


Friday, January 25, 2013


Tam Giác Tây - Ta - Tầu



Nguyễn-Xuân Nghĩa & Đinh Quang Anh Thái Ngày 101010
"Giờ Giải Ảo"


Ai ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu.









* Lãnh tụ Giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc đánh quân Pháp tại Bắc Ninh - tranh của Tầu! *


* Quân Pháp chiếm Bắc Ninh - tranh của Tây! *


Nhân dịp nhớ về Hiệp định Paris 1973 và nhìn vào nan đề hiện tại, xin phép được đăng lại cuộc phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái trong chương trình "Giờ Giải Ảo" đã phát thanh ngày 10 Tháng 10 năm 2010. Trước đây, Dainamax Magazine đã đăng lại một số chương trình này trong mục tiêu "giải ảo", Dainamax Tribune sẽ lần lượt tìm lại và giới thiệu những bài này vì, than ôi, vẫn là chuyện hiện đại!


ĐQAThái: Đây là Giờ Giải Ảo với ông Nguyễn Xuân Nghĩa, phát thanh mỗi tối Thứ Ba trên băng tần 1190AM của đài NVR và trên mạng lưới điện toán kxmx.com cùng trang nhà của nhật báo Người Việt. Xin kính chào ông Nghĩa cùng quý thính giả gần xa.

Mặc dù rằng đây là một việc rất riêng tư, đài NVR vẫn xin mượn làn sóng điện này có lời phân ưu cùng ông Nguyễn Xuân Nghĩa và tang quyến sau khi thân phụ ông Nghĩa là cụ Nguyễn Xuân Hiếu vừa tạ thế hôm Thứ Tư mùng năm vừa qua và chúng tôi xin cảm tạ ông Nghĩa vẫn trở lại với chương trình Giờ Giải Ảo mặc dù gia đình đang rất bận về tang lễ.

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng tôi xin kính chào và cảm tạ Người Việt, đài NVR và nhiều thân bằng quyến thuộc cùng thính giả gần xa đã liên lạc để chia buồn. Thông thường, theo phong tục xưa thì khi có đại tang trong nhà, chúng ta cứ thấy như trái đất ngừng quay và trong ba năm thì coi như không được làm gì cả để gọi là "cư tang", nếu không thì mang tiếng là "bất hiếu". Chúng ta nên đổi khác việc đó và cách hay nhất để tưởng nhớ đến người đã khuất chính là tiếp tục làm việc tử tế cho những người còn lại....

ĐQAThái: Kỳ này, ông Nghĩa sẽ đề cập tới chuyện gì trong một chuỗi các vấn đề mà ông cho là mình cần giải ảo?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa rằng có chuyện trăm năm!

- Chuyện trăm năm về trước khi Pháp nhóm ngó Bắc Kỳ và chuẩn bị tấn công Hà Nội lần đầu vào năm 1872. Chuyện ấy cho thấy vấn đề của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và đáng lý đã phải khiến dân ta suy nghĩ vào năm 1972, khi Nixon qua Tầu!

- Trước tiên, tôi xin đọc một bài thơ của Ông Ích Khiêm, một người văn võ toàn tài và đã có nhiều công lao chống giặc và trừ loạn, đã than phiền việc tướng tá của ta không ngăn được giặc Pháp mà phải thuê giặc Tầu là quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc.

Áo chúa cơm vua đã bấy lâu
Ðến khi có giặc phải thuê Tàu!
Từng phen võng giá mau chân nhẩy
Ðến bước chông gai thấy mặt đâu?
Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp
Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu!
Ai ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu.

ĐQAThái: Nghĩa là hơn trăm năm trước, khi thực dân Pháp xâm lăng nước ta, triều đình đã phải thuê một đám giặc cướp người Trung Hoa cùng ngăn giặc Pháp và có một viên tướng của chúng ta lại không đồng ý với việc đó? Vì thế, ông mới nhắc tới bài thơ của cụ Ông Kích Khiêm?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta nhắc lại bài thơ của Ông Ích Khiêm vì một vấn đề còn lớn hơn gấp bội.

- Nhà Mãn Thanh từ đời Gia Khánh và Đạo Quang khi ấy đã lụn bại sau vụ nổi loạn của Hồng Tú Toàn và phong trào gọi là "Thái bình Thiên quốc" nhuốm mùi tôn giáo vào năm 1850. Vụ khởi nghĩa lớn lao ấy làm nhà Thanh bị rung chuyển, xuýt bị lật đổ nên mới giải thích vì sao lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay rất sợ giáo phái Pháp luân công!

- Giáo phái "Thái bình Thiên quốc" này nổi lên từ hai tỉnh miền Nam giáp giới với nước ta là Quảng Đông và Quảng Tây. Sau đó, dư đảng của Hồng Tú Toàn mới trở thành đám giặc Cờ Vàng, Cờ Trắng và Cờ Đen qua nhũng nhiễu miền Bắc nước ta.

- Sau khi chiếm Nam kỳ Lục tỉnh vì tưởng rằng có thể lần theo sông Mekong vào buôn bán với Trung Hoa, quân Pháp mới tìm đường từ sông Hồng lên và chuẩn bị tấn công miền Bắc. Khi ấy, vào triều Tự Đức, quân ta chống cự không nổi và nghĩ đến cách nương tựa Trung Quốc. Nhưng, Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh gửi mật sớ lên vua Thanh, nói rằng: "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà".

- Bởi vậy triều đình nhà Thanh mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng. Xin quý vị xem lại Việt Nam sử lược, chương XIII của cụ Trần Trọng Kim.

- Trong khung cảnh lịch sử ấy, ta mới nhớ ra cái thế "tam giác" giữa Tây, Ta và Tầu! Tưởng rằng mượn quân của Trung Quốc để chống Tây chống Mỹ, giờ này dân ta mới thấy hố. Mà Trung Quốc thời nay lại không mục nát rệu rã như nhà Mãn Thanh thời xưa cho nên chuyện trăm năm trước chính là chuyện ngày nay!...

ĐQAThái: Ông nhắc tới chuyện ấy thì mới thấy ra những cảnh tương đồng! Khi còn bé mà đi học thì ta chỉ nhớ lõm bõm nào là giặc Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh hay giặc Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Ít ai chú ý tới khung cảnh gọi là địa dư chính trị của hoàn cảnh "tay ba" vào thời ấy. Bây giờ, nhờ ông nhắc thì ta mới thấm thía lời kêu gọi của Ông Ích Khiêm: "Ai ơi hãy chống trời Nam lại - Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu!"

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta có nhiều cách suy nghĩ về chuyện xưa lắm.

- Lưu Vĩnh Phúc chẳng hạn, có thể là một nhân vật của tiểu thuyết hay điện ảnh mà tôi cho là còn ly kỳ gấp trăm lần phim "The Last Samurai" của Mỹ hay truyện "Lord Jim" của Anh. Các em nhỏ thích chơi trò điện ảnh thì nên nghiên cứu và tìm hiểu về hoàn cảnh lịch sử và nhân vật này vì nó liên hệ đến cả miền Bắc, đến dân thiểu số miền núi, đến tỉnh Quảng Tây và Vân Nam của Tầu, đến tay thương nhân đầy chất con buôn phiêu lưu là Jean Dupuis hay cha Puginier của Công giáo.

- Lưu Vĩnh Phúc là kẻ đã phục kích quân Pháp hai lần tại Ô Cầu Giấy và giết chết hai viên tư lệnh của đội quân viễn chinh Pháp tại Bắc Kỳ là Đại úy Francis Garnier vào cuối năm 1873 và Đại tá Hải quân Henri Rivière vào đầu năm 1883. Tôi còn nhớ là hồi bé mình có đọc được một cuốn tiểu thuyết của Đinh Hùng ký tên Hoài Điệp Thứ Lang mô tả lại trận phục kích Francis Garnier và nói rằng Garnier bị một hiệp khách của ta giết chết. Quý thính giả nào còn nhớ tới truyện này thì xin mách cho biết, chứ tôi thì quên mất rồi! Ở đây thì chỉ còn nhớ bài văn tế Francis Garnier của cụ Nguyễn Khuyến.

ĐQAThái: Ông có thể đọc lại bài văn tế đó ở đây không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau khi Garnier bị giết năm 1873, tổng đốc Hà Nội là Trần Đình Túc phải vâng lệnh triều đình hoà hoãn với quân Pháp và phải tổ chức lễ truy điệu. Cụ Tam nguyên Yên Đổ là Nguyễn Khuyến, bậc đại khoa, được cử viết bài văn tế. Cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc có ghi lại bài đó như sau trong cuốn "Giai thoại Làng nho" xuất bản ngày xưa ở Sàigòn:

Than ôi! Một phút sa cơ, ra người thiên cổ
Nhớ ông xưa: Cái mắt ông xanh, cái da ông đỏ
Cái tóc ông quăn, cái mũi ông lõ
Đít ông cưỡi lừa, miệng ông huýt chó
Ông đeo súng lục-liên, ông đi giày có mỏ

Ông ở bên Tây, ông sang bảo-hộ
Ông dẹp Cờ Đen, để yên con đỏ
Nào ngờ: Nó bắt được ông, nó chặt mất sỏ
Cái đầu ông kia, cái mình ông đó
Khốn-khổ thân ông, đù mẹ cha nó

Tôi: Vâng lệnh quan trên, cúng ông một cỗ
Này chuối một buồng, này rượu một hũ
Này xôi một mâm, này trứng một rổ
Ông có linh-thiêng, mời ông xơi hộ
Ăn uống no say, nằm cho yên chỗ
Ới ông Ngạc Nhi ơi! Nói càng thêm khổ!

- Ngày xưa, các cụ mình phải phiên âm tên của Francis Garnier ra Nhạc Nhi. Mình nên nhắc lại cho đời sau khỏi quên.

- Cũng cần nói lại là sau vụ phiêu lưu và làm ẩu của Francis Garnier, ông ta bị chính phủ Pháp quy cho là có trách nhiệm chính. Nhưng sau này, vào đầu năm 1983, thi thể của Francis Garnier được khai quật (cũng như của Ernest Doudart de Lagrée) và được hỏa táng. Các lọ đựng tro được bàn giao lại cho Tổng lãnh sự Pháp tại Sàigòn ngày 2 tháng 3 năm 1983 và được chuyển về Pháp sau đó để chôn cất tại quận sáu của Paris trước một đài kỷ niệm ở công trường Camille Julian. Ngày nay, tên Francis Garnier còn được dùng cho một chiến hạm vận tải nhẹ của Hải quân Pháp.

ĐQAThái: Đó là một cách nghĩ lại chuyện xưa. Nhưng hình như ông còn có cách khác nữa phải không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa vâng, nếu mình chịu khó đọc lại sử Tầu vào thời đại ấy thì sẽ thấy ra rất nhiều chuyện lạ và... rất hiện đại.

- Thí dụ như Hồi giáo đòi tự trị, các tỉnh miền Nam thì đòi tách riêng, và liệt cường Tây phương, kể cả nước Nga, thì gõ cửa đòi giao thương làm ăn. Triều Thanh khi ấy rất hoang mang, hốt hoảng vậy mà vẫn còn ý định xâm lấn nước ta. Và triều đình nước Nam vào năm 1882 còn cầu cứu với Trung Hoa. Đó là lý do khiến ngoài đám giặc Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, Bắc Kinh còn phái thêm bốn vạn quân của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây qua đánh Pháp. Rốt cuộc thì lãnh thổ nước Nam thành địa bàn giao tranh giữa quân Thanh và quân Pháp trước sự lúng túng của triều đình. Rồi vì nội loạn và kiệt quệ, nhà Mãn Thanh đành ký hòa ước Thiên Tân với Pháp vào năm 1883 để thừa nhận là nhường chủ quyền trên đất nước ta cho thực dân Pháp.

- Sau đấy, chúng ta lại tái diễn sai lầm cũ khi Cộng sản Việt Nam lại mượn quân Tầu đánh Tây đánh Mỹ và lần này thì chưa biết là sẽ làm sao thoát vì đảng Cộng sản Việt Nam nay tự nhận là phụ dung của đảng Cộng sản Trung Quốc. Bất cứ ai muốn lên lãnh đạo đảng ở Hà Nội thì cũng phải chạy qua Bắc Kinh cầu phong trước! Khác với ngày xưa có giặc Cờ Đen, nay ta có giặc cờ đỏ nằm ngay trong triều đình ở Hà Nội!