31/7/13

VÀNG PHAI






VÀNG PHAI

                                           tranhodung 



người nhặt chút tàn phai

ép vào trang thư cũ

mai này không gặp nhau

hương xưa 

còn đọng lại



người nhặt chút   tro tàn

thả vào lòng biển cả

mai này không còn nhau

còn biển khơi 

sóng vỗ


tranhodung .washington.usa.2012 . 

Hoa Kỳ Dung Tam Tế

July 30, 2013



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt

"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"


Đừng Bị Ù Tai Vì Nhiễu Âm - Nên Nhìn Vào Thực Tế Kinh Tế Quốc Tế.... 

* Hoa Kỳ vẫn phục hồi trước các nước *  



Từ vài tháng qua, người ta bắt được nhiều tín hiệu trái ngược về tình hình kinh tế toàn cầu sau năm năm chấn động. 

Trong các nền kinh tế công nghiệp hoá, Hoa Kỳ đã phục hồi nhanh nhất. Âu Châu chưa ra khỏi cơn khủng hoảng và Nhật Bản mới bắt đầu áp dụng những giải pháp cải tổ táo bạo để đẩy lui làn sóng suy trầm. Ngoài thế giới công nghiệp hóa, nền kinh tế có sản lượng thứ nhì của thế giới là Trung Quốc cũng khởi sự cải cách và có đà tăng trưởng thấp hơn. Rốt cuộc, kịch bản "Tầu vượt Mỹ" chỉ là ảo vọng....

Giữa khung cảnh đó, vụ thành phố Detroit bị vỡ nợ vì thu vào không đủ cho gánh nợ hơn 18 tỷ, trong đó phân nửa là nghĩa vụ về hưu bổng và y tế phải chi ra mà chẳng có nguồn thu. Đã vậy, hôm 24, Tổng thống Barack Obama lại mở chiến dịch vận động dư luận cấp cứu kinh tế với lối giải thích kỳ lạ về nguyên do của Tổng suy trầm và hậu quả cho giới trung lưu.

Tức là kinh tế Hoa Kỳ chưa phục hồi?

Hôm Thứ Hai 29, đến lượt một chuyên gia cao cấp của Bắc Kinh đả kích lập luận bi quan về triển vọng kinh tế của Trung Quốc. Justin Lin (Lâm Nghị Phu) là người có thẩm quyền: từ Đài Loan đào thoát qua Hoa lục năm 1929, ông tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Chicago để là viên chức ngân hàng Trung Quốc, rồi qua làm Phó Chủ tịch và Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới từ 2008 đến năm ngoái, trước khi về làm cố vấn kinh tế cho lãnh đạo Bắc Kinh.

Nghĩa là kinh tế Trung Quốc chưa đến nỗi nào?

Bài viết này không đề cập đến chuyện "kinh tế cũng là chính trị" – xin để tuần sau! – mà cố trình bày những nguyên nhân sâu xa hơn, khiến Hoa Kỳ đã phục hồi sớm nhất trong các khối kinh tế lớn của thế giới. May ra, ta khỏi bị hiểu lầm về những lý luận hàm hồ của các chính khách.


***


Trước hết, thế giới trôi vào khủng hoảng tài chánh rồi suy trầm từ năm 2008 vì lý do chính là vay mượn quá nhiều sau khi tiêu thụ quá mức tiết kiệm. Nói đến điều ấy, ai cũng có thể nghĩ Hoa Kỳ là thủ phạm vì tiêu thụ chiếm đến 72% của Tổng sản lượng, trong khi các nước đang phát triển, kể cả Trung Quốc, đã có mức tiết kiệm rất cao và nhờ vậy mà có tiền cho Mỹ vay để duy trì một thất quân bình quá lớn và quá lâu, đến vài chục năm.

Trong hoàn cảnh đó mà bảo Hoa Kỳ hồi phục sớm nhất là một nghịch lý nhuốm mùi "phục Mỹ"....

Thật ra, trong sự vận hành của kinh tế toàn cầu với tác động tương hằng từ xứ này qua xứ khác, lời phê phán đạo đức chỉ là trò chính trị. Thí dụ như dân Đức hy sinh tiết kiệm cho dân Hy Lạp tiêu xài quá mức nên mới gây khủng hoảng trong khối Euro. Hoặc Bắc Kinh thắt lưng buộc bụng người dân để lấy dự trữ ngoại tệ rất cao cho Mỹ vay nhằm gây sức ép với Hoa Kỳ... Truyện ngụ ngôn con ve sầu ca hát và tiêu hoang nên mắc nợ con kiến chắt bóp tiết kiệm chỉ là... truyện. Sự thật lại đơn giản như một bản kế toán. 

Xin lỗi quý độc giả về chuyện khó hiểu này!

Quốc gia nào cũng có hai sinh hoạt là sản xuất và tiêu thụ. Khi sản xuất nhiều hơn tiêu thụ thì được một khoản dư dôi là tiết kiệm. Nếu tiết kiệm nhiều hơn số đầu tư thì được thặng dư trong cán cân chi phó hay trương mục vãng lai. Số thặng dư phải được đầu tư ra ngoài, tức là xuất cảng tiền tiết kiệm, hay xuất cảng tư bản. Ngược lại, nếu tiết kiệm nội địa ít hơn đầu tư thì phải nhập cảng tiết kiệm, hay tiếp nhận đầu tư của nước ngoài. Theo định nghĩa kế toán, trương mục vãng lai và trương mục đầu tư phải cân bằng, với kết số bằng số không. Thâm hụt trương mục vãng lai phải được bù đắp bằng tư bản nhập nội.

Từ khái niệm trừu tượng đó, xin nhớ thêm rằng xuất cảng tư bản có nghĩa là nhập cảng số cầu từ nước khác. Vì vậy, khối tiết kiệm và tiêu thụ mới ảnh hưởng đến ngoại thương, xuất nhập cảng. Chính sách ngoại thương là kết quả của tình trạng chi thu, tiêu thụ và tiết kiệm bên trong. Và các nước muốn can thiệp vào ngoại thương để nâng xuất cảng và giảm nhập cảng thì có thể nghĩ đến giải pháp hối đoái, như phá giá để dễ hàng bán ra với giá rẻ hơn và giảm số nhập cảng vì giá đắt hơn. Những biện pháp can thiệp này tác động ngược vào số tiêu thụ và tiết kiệm nội địa....

Sau mấy trăm chữ về một chuyện khó hiểu, xin trở lại vấn đề chính là sức tiết kiệm của từng nước. Dĩ nhiên là nó tùy vào nếp văn hóa, tâm lý bi quan hay lạc quan về tương lai, mà cũng lệ thuộc vào chánh sách kinh tế hay những ràng buộc về tổ chức, với chỉ dấu tổng hợp là mức tiêu thụ so với Tổng sản lượng.

Mức trung bình của nhiều nền kinh tế lớn trên toàn cầu là ở trên 50% Tổng sản lượng GDP. Hoa Kỳ có số tiêu thụ quá cao (tiết kiệm quá thấp), bằng 70-72%. Trung Quốc thì ngược lại, với số tiêu thụ chỉ bằng 35-37% Tổng sản lượng.

Yếu tố quan trọng nhất là các khối kinh tế này không biệt lập mà tác động vào nhau. Việc Mỹ phải nâng mức tiết kiệm (giảm mức tiêu thụ) lại liên hệ với việc Trung Quốc phải tăng mức tiêu thụ. Sợi dây chuyển lực giữa hai nhu cầu này là ngoại thương, và gián tiếp hơn, là hối suất đồng bạc.

Nhưng việc điều chỉnh còn tùy thuộc vào tình trạng khép mở, tự do nhiều hay ít, của hai nước.

Hoa Kỳ trôi vào khủng hoảng vì nợ cao, tiết kiệm thấp do nhiều yếu tố tâm lý (lạc quan) hay chính trị, thậm chí sự hao tốn cho chiến tranh. Yếu tố quan trọng là vì có nền kinh tế mở nhất, với cơ chế linh động nhất: thế giới càng tiết kiệm nhiều dân Mỹ càng tiêu thụ mạnh và tiết kiệm của thiên hạ tràn vào Mỹ càng tạo ra thịnh vượng và hiệu ứng là tâm lý phồn vinh... giả tạo.

Năm năm qua, Hoa Kỳ đụng đáy sớm nhất, dân chúng bóp bụng trả nợ, doanh nghiệp gia tăng tiết kiệm và đang xây dựng lại một nền móng quân bình hơn. Mức độ tự do của cơ chế khiến nuớc Mỹ ứng phó nhanh nhất. Nhưng trình độ dân chủ của chính trị cũng khiến các chính trị gia phát biểu lung tung để kiếm phiếu và gây ra ấn tượng sa sút của Hoa Kỳ.

Ngược lại, Trung Quốc trì hoãn nhu cầu cải cách mức tiêu thụ quá thấp được thấy từ 10 năm trước, tới khi Tổng suy trầm xuất hiện năm 2008 lại còn thổi lên một núi nợ khổng lồ. Nếu trong 10 năm tới, xứ này cần nâng mức tiêu thụ từ 35% lên 50% để có cơ cấu quân bình hơn thì vừa phải đạt mức tăng trưởng hơn 10% một năm vừa tái phối trí tài nguyên từ khu vực nhà nước qua các hộ gia đình. Là điều bất khả về chính trị vì thế lực của đảng viên và cán bộ nhà nước. Do tình trạng bất khả này, đà tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chỉ còn ở khoảng 3-4% một năm.

Vì vậy 10 năm tới là 10 năm thoái trào của Trung Quốc và sự tái xuất hiện của siêu cường Hoa Kỳ mà nhiều người cứ tiên đoán là đang đi vào tiêu vong!


_____________________

Chỉ có tại Hoa Kỳ

Một học khu tại tiểu bang Indiana cho biết là năm ngoái đã tốn 300 ngàn đô la thực phẩm mà làm học sinh bị đói. Chỉ vì học khu Carmel Clay áp dụng sáng kiến của Đệ nhất Phu nhân Michelle Obama là cung cấp bữa trưa lành mạnh hơn cho học sinh, họ tốn tiền mua rau cỏ trái cây mà chẳng ai muốn ăn nên cuối cùng thì vào thùng rác. Bà Giám đốc chương trình thực phẩm là Linda Wireman còn cho biết học sinh than phiền rằng chúng về nhà với bụng rỗng. Chủ quan duy ý chí của nhà nước để đẹp lòng lãnh đạo?

Source : Nguyễn-Xuân Nghĩa - Báo  Người Việt  / Dainamax 

30/7/13

NGUYÊN NGỌC: TRƯỜNG PHÁI MỚI PHẢI XUẤT HIỆN TỪ BÊN LỀ

  

Nhà văn Nguyên Ngọc - Ảnh: ĐTH
Nhà văn Nguyên Ngọc – Ảnh: ĐTH
NTT  :  Nhà văn Nguyên Ngọc là nhà quản lý văn nghệ với tư tưởng cấp tiến và cũng giàu kinh nghiệm… “thất bại”, nên ông thường nhìn ra những “lỗ hổng chết người” mà giới văn nghệ và quản lý văn nghệ thường vướng víu. Với bài viết “Hy vọng gì…” ngắn gọn và súc tích từ câu chuyện “luận văn Nhã Thuyên” nghiên cứu về nhóm “Mở miệng” bị báo chí chính thống “ném đá” qui kết “quan điểm lập trường”, ông đã chỉ ra cái ”lỗ hổng chết người” đang có thể lặp lại với văn nghệ nước nhà. 
Có thể nói, sự ra đời nhóm “Mở miệng” xuất phát từ sự bức xúc văn học và xã hội, muốn cất lên một tiếng nói diễu nhại như một phản biện về dân chủ và tự do văn chương đương thời. Theo tôi hiểu thì đó là một sự “phá bĩnh dễ thương” của một nhóm người trẻ khiến người ta phải chú ý, khó chịu và sờ lại gáy mình. Họ muốn cảnh tỉnh văn chương và xã hội, kể cả sự dám vượt qua “húy kỵ”, đả phá cả những giá trị đã và đang tồn tại. Vì thế, tuyên ngôn của họ là “Chúng tôi không làm thơ”. Với lời tuyên ngôn đó, ta biết chủ đích của họ không phải là “làm thơ” mà muốn cảnh tỉnh văn chương và xã hội. Họ là một “nhóm bên lề”, chưa tạo ra được một trường phái văn chương, nhưng họ kêu gọi văn chương phải có những trường phái mới. 
Tôi tâm đắc với nhận định của nhà văn Nguyên Ngọc: “Không phải cái gì ở bên lề cũng là trường phái mới, đương nhiên rồi. Nhưng cũng đương nhiên là trường phái mới thì hẳn phải xuất hiện từ bên lề”. Nhưng đọc xong bài viết này, tôi cũng nghe từ ông một tiếng thở dài ngao ngán...
Xin giới thiệu cùng bạn bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc:

( Nguyen Trong Tao ) 

---------------------------------------

NGUYÊN NGỌC: HY VỌNG GÌ…


Mấy hôm nay dư luận xôn xao vụ luận văn thạc sĩ của chị Nhã Thuyên. Cái đất nước mình thật lạ: thỉnh thoảng, chẳng hiểu sao, lại lui về thời kỳ đồ đá, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa.
Nhân vụ này, tôi chợt nhớ anh Trần Độ, theo tôi là một người lãnh đạo văn nghệ giỏi và hay đến hiếm hoi từng có được trong suốt quá trình đời sống văn học nghệ thuật của ta trước nay.
Tôi xin kể một chuyện:
Hồi ấy, đầu năm 1979, tôi được điều về làm việc ở Hội Nhà Văn Việt Nam. Anh Độ bấy giờ là Trưởng ban Văn hóa văn nghệ trung ương. Một hôm anh bảo tôi sang chỗ anh chơi, và hỏi về Hội Nhà văn tôi định làm những gì. Tôi nói với anh về ý định, về các kế hoạch trù tính của tôi, và kết luận: với những việc ấy, nếu làm giỏi thì trong mươi năm, dở hơn thì khoảng vài ba mươi năm, hy vọng sẽ nâng cao được mặt bằng chung lên một bước, và trên cơ sở ấy mong có thể xuất hiện một vài đỉnh cao mới …
Anh Độ ngồi im một lúc, rồi nói, châm rãi: Mình tán thành tất cả kế hoạch của cậu, đều đúng và cần thiết … Nhưng có điều mình nghĩ thế này cậu ạ, trong nghệ thuật thường vẫn vậy, muốn có đỉnh cao mới thì bao giờ cũng phải có trường phái mới …, cậu nghĩ coi, có đúng không? …
Tôi quen anh Độ đã lâu, từ hồi anh còn làm Chính ủy Quân Khu Đồng bằng, biết anh là một người rất tốt, yêu văn nghệ và quý trọng văn nghệ sĩ …, nhưng cũng chắc đến thế thôi, anh có được học hành, đào tạo gì gọi là cơ bản và hệ thống về chuyện này đâu. Ý kiến của anh khiến tôi giật mình, kinh ngạc. Không ngờ anh tinh tế, sâu sắc, thậm chí cũng có thể nói uyên bác đến thế.
Chúng tôi thân nhau từ đấy, tâm huyết.
Cho đến nay tôi vẫn nghĩ chúng ta đã bỏ mất một người lãnh đạo văn nghệ giỏi nhất, hay nhất, tốt nhất mà ta đã từng có thể có. Bao giờ mới tìm lại được một người như vậy?
Nhắc lại chyện này tôi không có ý nói rằng luận văn của Nhã Thuyên về một hiện tượng văn học bên lề đã là khẳng định một trường phái văn học mới, nhóm Mở miệng đã là một trường phái văn học mới như anh Độ từng mong. Nhưng chỉ mới một hiện tượng hơi lạ như vậy, bàn về một hiện tượng hơi lạ như vậy, mà đã hô hoán cháy nhà um cả lên, rồi ngang nhiên trừng trị, cách chức …, thì liệu còn hy vọng chút gì thoát ra khỏi ao tù nữa. Thế mà chính những kẻ la làng ấy lại luôn miệng đòi hỏi đỉnh cao, đỉnh cao …
Không phải cái gì ở bên lề cũng là trường phái mới, đương nhiên rồi. Nhưng cũng đương nhiên là trường phái mới thì hẳn phải xuất hiện từ bên lề.
Nhân đây cũng xin được nói luôn: hiện đang có một cái gọi là hội đồng lý luận văn học nghệ thuật trung ương ban bố mọi thứ đúng sai về văn học nghệ thuật trên cả nước này. Mà đứng đầu cái hội đồng ấy thì theo dư luận là mấy người chẳng dính dáng gì và chẳng biết chút gì về văn học nghệ thuật cả. Trong cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyên Văn Linh với văn nghệ sĩ cách đây mấy mươi năm, anh Nguyễn Đăng Mạnh có nói một câu chấn động, anh bảo Đảng khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Có người cho là giận mà nói quá. Nay với cái hội đồng vừa kể có người đứng đầu như vừa nói, lại có quyền hành lớn nhất về văn học nghệ thuật trên đất nước đau khổ này, thì quả là một sự sĩ nhục to lớn đối với toàn bộ giới văn nghệ và lý luận văn nghệ
Đỉnh cao với đỉnh thấp, hy vọng gì nữa.
N.N.

Source : Blog  nguyentrongtao

Việt Nam và Mỹ



29.07.2013

Việt Nam và Mỹ

bởi Nguyễn Hưng Quốc

Nhân chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang ở Mỹ trong mấy ngày cuối tháng 7 vừa qua, thử nghĩ về mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ.

Điều đầu tiên cần nhấn mạnh ngay là quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ được xây dựng trên một nền tảng khá bất bình thường: sau một cuộc chiến tranh đẫm máu kéo dài; và, có lẽ, do ảnh hưởng của nền tảng ấy, nó phát triển khá chậm: Đã 38 năm sau chiến tranh, 18 năm sau ngày bình thường hóa ngoại giao và 16 năm kể từ ngày Tòa Đại sứ Mỹ mở cửa tại Hà Nội, quan hệ giữa hai nước tuy càng ngày càng được mở rộng nhưng nó lại không có chiều sâu gì đặc biệt như hai bên – hoặc ít nhất một số người ở cả hai bên – mong muốn.

Mục đích chuyến đi của Trương Tấn Sang ở Mỹ là để “nâng cấp quan hệ” với Mỹ. Trong các phát biểu đây đó, Trương Tấn Sang luôn luôn nhấn mạnh là Việt Nam xem Mỹ là “đối tác quan trọng hàng đầu”, một “đối tác tích cực, hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi”. Trong thông báo chung, phía Việt Nam và Mỹ còn dùng chữ “đối tác toàn diện” (comprehensive partnership).

Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Hoàng gia Úc, cho chuyến đi của Trương Tấn Sang đượctổ chức một cách vội vã, “chỉ có hai tuần lễ để chuẩn bị”, một thời gian ngắn bất thường trong quan hệ quốc tế. Sự “vội vã” ấy có lẽ xuất phát từ chuyến đi thăm Trung Quốc của Trương Tấn Sang vào giữa tháng 6 vừa qua, ở đó, Trương Tấn Sang và Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam nhận thấy nhu cầu đến gần Mỹ trở thành khẩn thiết hơn.

Nói cách khác, Việt Nam cần Mỹ để cân bằng lực lượng với Trung Quốc, đặc biệt trong các tranh chấp ở Biển Đông. Điều này đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắn tiếng trong bài phát biểu khai mạc trong cuộc Đối thoại Shangri-La ở Singapore vào ngày 31/5/2013: “Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. […] Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương.”

Đó cũng chính là điều Mỹ đang cần. Trong chiến lược trở lại châu Á để kiềm hãm sự bành trướng của Trung Quốc, Mỹ rất cần đồng minh trong khu vực. Hiện nay, họ đã có một số đồng minh chiến lược rất đáng tin cậy: Nhật, Hàn Quốc, Philippines và Úc. Để vòng vây thực sự được thắt chặt, họ cần thêm những đồng minh khác nữa: các nước Đông Nam Á. Trong các nước Đông Nam Á, nước có vị trí quan trọng nhất chính là Việt Nam, nước có biên giới chung với Trung Quốc, hơn nữa, đó cũng là nước có vùng biển đang bị Trung Quốc dòm ngó nhiều nhất.

Trong quan hệ quốc tế, sự gặp gỡ của một nhu cầu chung là yếu tố quan trọng nhất để nối kết hai quốc gia lại với nhau. Người ta hay nói, để xây dựng quan hệ đối tác toàn diện với một nước nào đó, với Mỹ, có ba trụ cột chính: Một, những lợi ích về chiến lược; hai, những lợi ích về kinh tế; và ba, vấn đề nhân quyền hay những giá trị mà Mỹ muốn cổ vũ. Dư luận hay chú ý đến yếu tố thứ ba. Tuy nhiên, trên thực tế, một điều hầu như ai cũng biết là Mỹ, cũng như bất cứ quốc gia dân chủ và lớn mạnh nào khác ở Tây phương, rất sẵn sàng bỏ qua yếu tố nhân quyền vì những lợi ích về kinh tế cũng như về chính trị của họ. Lâu nay, ai cũng lên án Trung Quốc về vấn đề nhân quyền, nhưng hầu như nước nào cũng bang giao và làm ăn với Trung Quốc. Với Saudi Arabia, Equatorial Guinea, Uzbekistan, Turkmenistan… Mỹ vẫn giữ quan hệ chặt chẽ dù tất cả đều là những quốc gia độc tài và vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.

Việt Nam sẽ được hưởng những sự “ưu đãi” tương tự như vậy chăng?

Có thể. Trong cuộc họp giữa Trương Tấn Sang và Barack Obama ngày 25/7 vừa qua, có lẽ Tổng thống Mỹ chỉ đề cập đến vấn đề nhân quyền một cách nhẹ nhàng dù ông thừa biết trong nửa đầu năm 2013, Việt Nam bắt bớ những người bất đồng chính kiến nhiều hơn hẳn trong cả năm 2012 trước đó. Trong số những người bị gọi là bất đồng chính kiến ấy, có nhiều blogger và những người hoạt động tôn giáo với chủ trương bất bạo động; hơn nữa, cái gọi là “bất đồng” ấy chủ yếu chỉ tập trung trong quan hệ đối với Trung Quốc.

Nhưng được đề cập một cách nhẹ nhàng không có nghĩa là vấn đề không còn sức nặng gì nữa. Thứ nhất là tuy Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chiến lược trở về với châu Á của Mỹ nhưng đó không phải là một vai trò không thể thay thế. Thứ hai, chính phủ Mỹ chịu khá nhiều áp lực từ dư luận để không thể thản nhiên gạt bỏ các yêu sách về nhân quyền đối với Việt Nam. Những áp lực ấy đến một phần, thậm chí, phần nhỏ, từ cộng đồng người Việt ở Mỹ; phần khác, quan trọng hơn, từ chính dân chúng Mỹ, những người vẫn còn bị ám ảnh nhiều với chiến tranh Việt Nam trước đây. Chính ký ức chiến tranh này là một yếu tố khiến chính phủ Mỹ không thể bất chấp dư luận được.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất quyết định quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ nằm ở chỗ khác: Sự tin cậy. Có thể nói ngay: hiện nay hầu như không ai tin ai cả. Việt Nam cần Mỹ nhưng vẫn không tin Mỹ và cũng không muốn Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam. Lý do đơn giản: từ phía giới cầm quyền Việt Nam, tất cả các ảnh hưởng đến từ Mỹ, vốn gắn liền với xu hướng dân chủ hóa, đều là những đe dọa đối với sự độc quyền và độc tài của họ. Dân chúng Việt Nam, từ lâu, đã khái quát điều đó bằng nhận định: “Đi với Mỹ thì mất đảng”. Còn Mỹ thì dĩ nhiên cũng không tin gì Việt Nam.

Ký ức chiến tranh là một nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân chính là sự khuất phục của Việt Nam đối với Trung Quốc. Từ các lời phát biểu đến cách hành xử, kể cả những sự đàn áp dân chúng trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, đều gợi lên ấn tượng là với Việt Nam, sự lựa chọn đã rất rõ ràng: một mực đi theo Trung Quốc và sẵn sàng nhân nhượng Trung Quốc. Việt Nam chỉ sử dụng các nước khác, kể cả Mỹ, để cò kè trả giá cho sự nhân nhượng ấy mà thôi.

Không thể có quan hệ đối tác toàn diện hay chiến lược nào được xây dựng trên nền tảng những sự nghi ngờ như vậy cả.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


29/7/13

ĐẶNG DUNG - Cảm hoài

ĐẶNG DUNG - Cảm hoài



Nguyên tác chữ Hán :

感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨



Phiên âm Hán Việt

Cảm hoài
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền  đới nguyệt ma.

-----------------------------------------
Bản chép khác: Thế lộ (câu 1), Nhập thù ca (câu 2), Sự khứ (câu 4), Trí chúa hữu tâm (câu 5), vị phục (câu 7).

Dịch nghĩa:

Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.


----------------------------

( Bản dịch của Trần Hồ Dũng ) :

CẢM HOÀI


ĐẶNG DUNG

Thế sự mang mang , sao vội già  ?

Mênh mông trời đất trận cuồng ca

Gặp thời , bần tiện thành công dễ

Lỡ vận , anh hùng nuốt hận cay

Dốc lòng thờ chúa mong xoay đất

Rửa binh khó kéo được sông trời

Thù nước chưa đền đầu vội bạc

 bao phen dưới nguyệt  tuốt gươm mài  !


25/7/13

Âm xưa



Âm Xưa


Người khắc nỗi buồn lên đá
Vàng bay quạnh gốc thông già
Người chép nỗi buồn lên giấy
Mai sau còn chút tàn phai

Người gửi nỗi buồn theo gió
Niềm xưa trĩu cánh hạc gầy
Người có khi nào qua đó
Đường xưa nay ngút ngàn xa
Bước chân ai về trước ngõ
Âm xưa buốt ngón tay ngà

Có chiếc lá vàng trong gió
Quay về tìm cội nguồn xa
Có tiếng chim nào đang hót
Hồn ai đậu trước hiên nhà ?

THD 



tranh-son-dau-thieu-nu-cua-pino-daeni_014
                                                                                   
Painting by  Pino Daeni


Ở nơi không có gió thổi qua .



File:Sonoran Desert 33.081359 n112.431507.JPG


Tặng CT


Ở nơi không có gió thổi qua .
Những cánh bướm không còn chao lượn .
Những cánh hoa  ủ rũ
Ngọn cỏ hắt  hiu .

Ở nơi không có gió thổi qua
Không còn tiếng chim hót
Mây ngừng trôi

Không còn nghe  tiếng ru hời của mẹ
gương mặt trẻ thơ
Bỗng trở nên già cỗi
Ở nơi không có  gió thổi qua
Không còn hoa cỏ mùa xuân
Không còn tiếng ve mùa hạ
Chỉ còn  mùa thu trút lá
trơ lại mùa đông
Em bé nức nở
Cô gái  xuân thì thổn thức
mẹ già cúi mặt
rưng rưng nguyện cầu

Những cánh bướm
Những cánh hoa
lá cỏ

Hãy đợi !
và đừng vội lìa đời

Ở phía chân trời
tia chớp
báo hiệu
cơn giông

Gió sẽ trở lại  !


Mặt trời sẽ mọc !
và gió
sẽ mang  đến niềm vui
cho bướm ,hoa , lá cỏ

 Bé thơ ơi
 Em gái ơi
Thôi đừng khóc

Gió sẽ  trở lại !
đem về hương sắc mùa xuân 
đem  lại nụ cười
cho bé thơ  ,  em gái

Từ  vực sâu
Hoa , cỏ sẽ mọc lên
Đón ánh mặt trời
Reo vui với gió 

Gió cũng sẽ lau khô
 dòng nước mắt
đã chảy ngược rất lâu  
vào trong  lòng Mẹ

Trần Hồ Dũng .

24/7/13

huyền ca

tranh-son-dau-thieu-nu-cua-pino-daeni_022


 huyền ca

                          Trần Hồ Dũng


Em gieo sầu chi lên cung đàn

Cho ta ngồi đây đau tình xa

Em ngân nga chi lời tơ vàng

Cho ta nghe xa như huyền ca


Lá thu còn rơi cho vai gầy 

Gió thu còn trôi cho tóc bay 

Lệ xưa còn rơi trên vai người 

Tình xưa còn in trong nắng phai 


Em như chim bay về chân trời

Tình ta nổi trôi theo ngàn mây

Nhớ em về trong ly rượu đầy

ta nghe sầu lên men ngất ngây



Tình đâu trăm năm mà ngậm ngùi 

Đời không thiên thu sao mãi đau 

Ai thương nhớ ai trông mây ngàn 

Ai ngồi khóc ai dòng sông trăng 


Ừ ! ta giờ đây thôi yêu nàng 

Ừ ! em giờ đây thôi yêu trăng 

Lòng ta hồ như bia mộ vàng 

Lòng em hồ như rêu đá xanh


T.H.D. 
                                            


22/7/13

Cuồng Từ - Nhớ TRÚC PHƯƠNG

Thứ bảy, ngày 20 tháng bảy năm 2013

Nhớ TRÚC PHƯƠNG

Trucphuong.jpg



Nhớ Trúc Phương : Một-tài-hoa-trót-sa-vũng-lầy-nhân-thế


----------------------

tiểu dẫn :
Năm 1980 , Cuồng Từ nhảy tàu chợ từ Nha Trang vào Sài Gòn , rồi xuống Xa Cảng để về Miền Tây . Xếp hàng trọn ngày mà không mua được vé xe , đêm ấy CT phải qua đêm ở Xa cảng , gặp Trúc Phương làm "Nhạc Sĩ Cái Bang" ở đây . Anh là "Bang chủ" . Bạn cũ gặp nhau xiết nỗi vui mừng . Đêm ấy , mưa to và gió lớn , chúng tôi ngồi trên manh chiếu giữa Xa Cảng và uống rượu với nhau . Trúc Phương muốn Cuồng Từ tặng anh một bài thơ để phổ nhạc . Cuồng Từ say làm bài thơ , đặt tên là : "Nhớ Trúc Phương" . Làm xong , CT đọc to một lần .Trúc Phương ôm đàn và hát bài thơ này . Bài hát rất cảm động . Sáng ra Trúc Phương lo vé xe cho Cuồng Từ ...

***

NHỚ TRÚC PHƯƠNG [*]

Ngươi ơi Ngươi ! một cánh diều
Đứt dây oan nghiệt còn yêu bầu trời
Ôm đàn đất lạ chơi vơi
Rượu say mà hát : "Thói Đời"đắng cay

Mưa hỡi cứ bay mù Xa Cảng
Cho mưa về trên đôi mắt người xưa
Mẹ già ta đã thành mây trắng
Cha đã ngàn năm lặng trống đồng

Bạn bè tứ tán từ thất trận
Người yêu túng quẫn đi lấy chồng
Trang Tử ngày xưa mà sống lại
Như ta rồi cũng khóc ròng thôi ?

[ Thời nay còn mỗi ngươi viết sách
Minh triết cho đời bỏ mặc thân ? ]

Này ngươi nhạc sĩ Cái Bang ơi !
Ôm đàn thăng trầm chơi khúc phong yên
Tay cũ gió mưa trên phím cũ
Cho ngàn tình cũ lệ đầy vơi

Trán buồn tóc rủ màu sương khói
Ngươi đàn ta hát không thanh âm
Có phải là ngươi hồn tình phụ
Một đời hát mãi tình đơn phương

Có phải ngươi ? là ngươi dại gái
Mà hát hoài câu : "thiên nhất phương"
Đời ngươi sao mãi yêu Thanh Thúy
Ảo ảnh ngày xưa nức nở hoài

Ngồi đây Xa Cảng đêm mưa vắng
Thiên hạ nhìn ta quá lạ lùng
Trời đất của riêng loài mắt trắng
Sá gì thế sự mà đau lòng

Chẳng lẽ sống đời sao hả mậy
Hao hơi làm gì với lũ bội vong ?
Ngươi ơi ! Áo rách vì thương rượu
Yêu nàng thiên kim mà vô tâm
Gió đã khắp trời lòng đắng quá
Rót đi người ạ rượu đời câm

Rồi kể ta nghe tình ngươi lận đận
Ta kể ngươi nghe tình ta hoang đường
Ta viết bài thơ tình ngươi hoạn nạn
Ngươi phổ thơ ta nhạc đoạn trường

Ngươi ơi Thánh Triết ngàn năm trước
Đã biết say là tịch mịch chưa ?
Có biết mưa là sầu vô thủy
Lánh đời giữa chợ là thượng thừa ?

Đời bỏ ta rồi đôi ngã lạnh
Trải lòng say trọn một đêm mưa .

________________________

[*] TRÚC PHƯƠNG (1939-1995) tên thật là Nguyễn Thiên Lộc , quê xã Mĩ Hòa , quận Cầu Ngang , tỉnh Trà Vinh . Trúc Phươnglà nhạc sĩ trữ tình lãng mạn , viết nhạc từ cuối thập niên 50 của thế kỉ 20 , nổi danh từ những bản nhạc đầu tiên : Đò Chiều , Tình thắm duyên quê , Nửa đêm ngoài phố , Tàu đêm năm cũ ... Trúc Phương sáng tác rất đều tay .
Lối xưa, hai ca sĩ hát nhạc Trúc Phương hay nhất có lẽ là Duy Khánh và Thanh Thúy , thịnh hành ở phòng trà Đức Quỳnh ( đường Cao Thắng) là những bài : Tàu đêm năm cũ , Nửa đêm ngoài phố , Hai lối mộng ... do Thanh Thúy hát .

Sau năm 75, tất cả những bài hát của Trúc Phương không được hát trong nước , Trúc Phương sống lang thang ở Saigòn , tối về xa cảng miền Tây mướn một chiếc chiếu để ngủ .
Ngày 18-9-1995 , Nhạc sĩ Trúc Phương lặng lẽ từ biệt cõi đời , để lại gần 70 nhạc phẩm viết trước năm 75 , và một số nhạc phẩm khác , viết tặng bạn bè , chưa phổ biến .
Suốt 20 năm (75-95) TRúc Phương sống âm thầm trong nghèo khó , bi đát và cô đơn , rồi trút hơi thở cuối cùng trong căn phòng trọ tồi tàn nhỏ hẹp ở quận 11 SG , lối xóm chôn ông ở nghĩa trang Lái Thiêu .
Nhạc sĩ Trúc Phương - một tài hoa đã " TRÓT SA VŨNG LẦY NHÂN THẾ !
---------------------------------------------------------------









19/7/13

Trần Đình Sử - PHÊ BÌNH KIỂM DỊCH

Tháng 7 17, 2013
Trần Đình Sử    
Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát. Phê bình tự phát là loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một cuốn sách hay thì vỗ đùi khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một tiếng, hay khi trà dư tửu hậu, hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê bình tự phát. Loại phê bình này chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như phẩy tay, dẩu miệng… đều là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của các bà quý tộc, các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem, đó vẫn là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa, đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét khen: “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là phê bình tự phát. Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết hết đi thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận mạnh mẽ buộc phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình tự phát thường có ba nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người đã đọc sách nhận xét đã đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo, bàn tán, thực ra là nói mò. Hai là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế, thiếu bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác, lại nói theo, số phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ đi thu thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp phần định hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.
Phê bình văn học phát triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự phân công, và thế là xuất hiện các loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch. Nhà tư tưởng Khai sáng Pháp là Voltaire (1694–1778) có lần nói: “Chúng ta nhìn thấy, trong các nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển văn học thì có một số người trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này của Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành mạnh cả. Nó là nghề phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên thú y kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa, không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp kiểm dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng Tử đã lựa hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung Hoa cổ đại, chọn lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng không có gì sai trái, lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ, thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp nhận thi ca có thể hứng, quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên 305 bài vẫn bao hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp (427– 327), sống sau Khổng Tử 100 năm (552-479) cũng là nhà phê bình kiểm dịch. Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học) đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.
Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy phê bình chuyên nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê bình kiểm dịch mà Voltaire đã nói. Nhưng phê bình kiểm dịch đời sau ngày một kém. Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí hình thức, hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm đến giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.
Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis XIII là Richelieu đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất đắc dĩ Viện Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy nhất rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học ra đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng không hợp chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn sĩ không mấy người bị đem đi chôn. Sau thế kỉ XVII phê bình chuyên nghiệp châu Âu chuyển sang phê bình học thuật và hàn lâm, phê bình kiểm dịch tất nhiên vẫn còn, nhưng nói chung không còn trở ngại cho các công trình nghiên cứu học thuật.
Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng phát hiện các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là lối đọc văn cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều đình, phản loạn, nhằm khép đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi đúng sự thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung Quốc, đã có hàng chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn tự ngục giết chết 200 người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong kiến nước ta cũng thế. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị, đến Cách mạng Văn hóa, phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu hiệu của tư tưởng phong kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống Đảng, chỉ ra ai là kẻ thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại, nhiều người tự tử. Diêu Văn Nguyên, một trong lũ bốn tên, là nhà phê bình kiểm dịch khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao, thế mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao, phải đi lao động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch, chỉ ra các biểu hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại, bôi đen chế độ… Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3–1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báoNhân dânQuân đội Nhân dânTiền phongCứu quốcThống nhấtĐộc lậpThủ đô Hà Nội.., hầu hết đều ghi tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh Tuân bị cách chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ Thủy sản, làm chuyên viên cá nước lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục hồi.
Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch có lịch sử lâu đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan điểm nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,… đều bị cấm, nhưng Báu vật của đời lại được Giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình kiểm dịch tuy có tính chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất lượng thực tế có nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu quả không thể sửa chữa được. Phê bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách quan để kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn ngoài chợ. Nguyên tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường dựa vào để phát hiện “dịch bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu tư tưởng của mình.
Thứ hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ hãi, gây không khí bất an trong đời sống xã hội.
Thứ ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai trái, chỉ tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may quan tâm số phận những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ thì còn tiếc thương gì nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị giản lược.
Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?
Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.
Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.
17–7–2013

NGỤC TÙ CỦA TRÍ TUỆ

Tháng 7 15, 2013

Ở TÙ xứ nào cũng khổ, nhưng mỗi xã hội có những cách hành xử văn hóa riêng để đày đọa người tù. Óc tưởng tượng tàn ác của giới cai tù Trung Quốc tuy không phải là độc nhất vô nhị, nhưng thường rất khác thường. Mà chính các tù nhân, những người tự phân chia đẳng cấp và lập nên nhà tù trong nhà tù, cũng có óc tưởng tượng khác thường.
Ví dụ, ở Trung tâm Điều tra thuộc Sở Công An Thành phố Trùng Khánh, còn gọi là Trung tâm Điều tra Tung Sơn, những tay trùm xà lim sáng chế một thực đơn gồm các món tra tấn quái dị. Thử điểm qua vài món:
Vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên: Kẻ tra tấn đốt lông hạ bộ của tù nhân, tụt da quy đầu rồi dùng lửa đốt đen đầu dương vật.
Hoặc:
Mì nước trong: Những dải giấy vệ sinh được nhúng trong một bát nước tiểu, rồi tù nhân bị buộc ăn giấy vệ sinh và uống nước tiểu.
Hoặc:
Canh mai rùa và da heo: Kẻ tra tấn đánh hai đầu gối của tù nhân cho đến khi chúng thâm tím và sưng lên như mai rùa. Hết đi nổi.
Còn nhiều trò tra tấn khác nữa, được ban phát tùy theo tài ứng biến của kẻ thực hiện. Trong hồi ký lao tù lạ thường có nhan đề “Vì một bài hát và một trăm bài hát” (For a Song and a Hundred Songs, do Hoàng Văn Quảng dịch từ tiếng Trung, nhà xuất bản New Harvest), Liệu Diệc Vũ kể chuyện một tiều phu bị tâm thần phân liệt đã chặt chính vợ mình vì cô ta hốc hác đến nỗi anh tưởng lầm cô là một bó củi. Trùm xà lim pha thuốc nhuận trường vào nước súp của anh, rồi không cho anh dùng chậu đi tiêu đi tiểu chung, thế là anh chàng buồn đi cầu đến tuyệt vọng đành ỉa vấy lên khắp người một bạn tù. Vì cái tội đáng kinh tởm này, anh bị đập mặt vào bồn nước. Rồi đến lượt bọn quản giáo vì tưởng anh muốn tự tử, một trọng tội trong tù, nên dùng dùi cui điện đánh anh nhừ tử.
Alexis de Tocqueville đến Mỹ vào năm 1831 để nghiên cứu hệ thống nhà tù của nước Mỹ, nhưng rốt cuộc viết nên tác phẩm Dân chủ ở Mỹ(Democracy in America).[i] Quan sát hệ thống nhà tù Trung Quốc từ bên trong, với tư cách là một “tù nhân phản cách mạng” từ năm 1990 đến 1994, Liệu Diệc Vũ kể cho chúng ta biết rất nhiều về xã hội Trung Quốc, cả truyền thống lẫn cộng sản, trong đó có tác động của kiểu tuyên truyền cách mạng khoa trương, đấu tố vì bị ép buộc và thú tội công khai, và, khi thời thế thay đổi kể từ sau thời kỳ cai trị sai lầm của Mao Trạch Đông, áp dụng chủ nghĩa tư bản dưới những hình thức đồi bại. Ông kết thúc câu chuyện của mình bằng nhận xét “Trung Quốc vẫn còn là một nhà tù của trí tuệ: thịnh vượng nhưng không có tự do”.
LIỆU DIỆC VŨ bị tống giam vì sáng tác Thảm sát – một bài thơ theo phong cách dòng-ý-thức (stream-of-consciousness) tưởng niệm hàng ngàn người bị sát hại vào ngày 4/6/1989,[ii] khi phong trào đòi dân chủ bị đàn áp trên toàn Trung Quốc. Bài thơ (theo bản dịch tiếng Anh của Michael Day) mở đầu như sau:
Lại thêm một kiểu thảm sát diễn ra ở trung tâm xứ hoang tưởng
Thủ tướng cảm lạnh, nhân dân phải ho theo;
thiết quân luật ban bố bao lần.
Cỗ máy không răng của nhà nước cán lên những người can đảm không chịu bệnh theo.
Liệu Diệc Vũ không phải là nhà hoạt động chính trị, hay nói đúng hơn, một người bất đồng chính kiến, và sự phản kháng của ông mang tính tự phát. Ông không quan tâm lắm đến chính trị, ngay cả trong những năm 1980 khi mà nhiều thanh niên Trung Quốc chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chính trị. Ông có cuộc sống khá phóng đãng, lang bạt kỳ hồ như một “kẻ đạo đức giả ăn mặc bảnh bao, một nhà thơ tự khắc họa mình là một tấm gương mẫu mực nhưng đồng thời lại hít thở bằng đàn bà như tôi đang hít thở bằng không khí, tìm chỗ trú ẩn và hơi ấm trong thú ăn nằm lang chạ”.
Cũng như nhiều người Trung Quốc lớn lên trong thời Cách mạng Văn hóa, Liệu Diệc Vũ coi như tự học văn chương, tuy ông được cha là thầy giáo truyền thụ nền tảng căn bản về Tứ Thư Ngũ Kinh. Rải rác trong hồi ký của ông, ta bắt gặp tên những tác giả phương Tây – Orwell, Kundera, Proust – một số tác phẩm của họ thậm chí lọt qua được những bức tường nhà tù ở Trùng Khánh. Trong số đó, đáng chú ý là có cả cuốn Một chín tám tư của Orwell. Liệu Diệc Vũ viết: “Trên trang sách là một nhà tù tưởng tượng, còn xung quanh tôi là nhà tù thật”.
Khác với người bạn Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình được Giải Nobel và là một tác giả có chính kiến mãnh liệt, Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ muốn liều lĩnh chấp nhận rủi ro. Ông mô tả mình là một nghệ sĩ chỉ muốn được tự do viết theo ý thích của mình. Mới hồi năm 2011, ông nói với nhà báo Ian Johnson: “Tôi không muốn phạm luật của họ. Tôi không quan tâm đến họ và mong muốn họ chẳng quan tâm đến tôi”. Nhưng, năm 1989, ông tự đẩy mình “vào con đường tự hủy diệt” khi đến các tửu quán và hội quán khiêu vũ để ngâm bài thơ của mình bằng giọng than khóc theo lối cầu siêu truyền thống của Trung Quốc. Một băng thu âm bài thơ này được lén lút phát tán, và một nhóm nghệ sĩ và bạn bè đồng cảm đã làm một bộ phim mang tên Lễ cầu hồn (Requiem) quay những cảnh ông ngâm bài thơ này. Theo Liệu Diệc Vũ, không một ai trong số đó có thể được liệt vào hạng “kẻ bất đồng” hay “nhà tranh đấu dân chủ”. Nhưng tất cả đều bị bắt, tác phẩm của họ bị tịch thu, và nhờ đó “Sở Công An triệt hạ một cộng đồng văn chương bí mật hoạt động mạnh ở Tứ Xuyên”.
Thời gian ở tù cũng không biến Liệu Diệc Vũ thành một nhà hoạt động chính trị. Có lúc một người cũng thuộc phong trào Bát Cửu (89) muốn khởi xướng một tổ chức gồm các tù nhân chính trị đã tiếp xúc với ông. Liệu Diệc Vũ không chịu tham gia, và giải thích lý do tại sao ban đầu ông viết bài thơ Thảm sát. Ông nói ông “buộc phải phản kháng” vì “ý thức hệ nhà nước mâu thuẫn dữ dội với quyền tự do diễn đạt của nhà thơ”. Trong hồi ký, ông kể rằng đối với chuyện này, “ông không hề có ý định làm anh hùng, nhưng ở một đất nước mà sự điên rồ ngự trị, tôi phải có lập trường. Thảm sát là tác phẩm nghệ thuật của tôi, và tác phẩm nghệ thuật của tôi là cách phản kháng của tôi”.
Nhiều nhà bất đồng nổi tiếng đã viết khá sinh động về kiếp lao tù của họ. Lòng can đảm để đứng một mình của Ngụy Kinh Sinh kể chuyện 18 năm ông ở tù sau khi ông lãnh đạo phong trào Bức tường Dân chủ trong những năm 1970. Những ngọn gió rét của Ngô Hoằng Đạt (Harry Wu) mô tả kiếp đọa đày của ông ở những trại lao động cưỡng bức trong thập niên 1960 và 1970. Những câu chuyện quả cảm của họ chuyển tải một thông điệp chính trị mạnh mẽ về việc đứng lên chống lại chế độ độc tài. Liệu Diệc Vũ là một văn nhân, và nhờ đó hồi ký ở tù của ông càng có sức thuyết phục hơn. Trước hết, ông thành thực đến tàn nhẫn về các nhược điểm và nỗi sợ của mình. Ông chẳng có gì đặc biệt anh hùng cả. Nhìn bọn quản giáo tập dượt chiến đấu trong ngày đầu tiên ở tù, ông “rùng mình như một con chuột nơm nớp lo sợ”. Buộc phải hát đi hát lại nhiều bài với cổ họng khô rát trong trời lạnh cóng người để mua vui cho bọn quản giáo, ông bị đánh bằng dùi cui điện. Khi không thể hát tiếp được nữa, ông bị lột hết áo quần và quật ngã xuống đất: “Tôi có thể cảm nhận được cái dùi cui trên hậu môn của mình, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Đầu dùi cui đi vào người tôi. Tôi hét lên rồi rên khóc như một con chó”. Liệu Diệc Vũ đã hai lần tìm cách tự vẫn, một lần bằng cách đập đầu vào tường. Chuyện này khiến những tù nhân cùng xà lim chế nhạo ông; họ tố ông đóng kịch, cho rằng đó là trò tiêu biểu của một nhà thơ mọt sách. Nếu thực sự đã muốn vỡ sọ, lẽ ra ông nên đập đầu vào gờ tường.
Liệu Diệc Vũ mô tả rất tỉ mỉ tâm trạng của kẻ lúc nào cũng sợ hãi, phải sống trong một xà lim chật chội với quá nhiều người khác đến nỗi chẳng có chỗ nằm, đói ăn và thiếu tình dục. Có tù nhân đói lả bắt được một con chuột bèn lột da khi nó đang còn sống rồi ăn tươi. Có người vục mặt vào xô đồ ăn thừa mà ngoạm đầy miệng. Sinh hoạt tình dục vẫn diễn ra, nhưng theo kiểu đê tiện. Một tù nhân suýt đốt trụi giường vì thủ dâm với một cái bật lửa khi bật lên thì hiện ra hình ảnh một phụ nữ khỏa thân. Có người chỉ cần thấy một ngôi sao phim sến trên truyền hình là không nhịn được lòng thèm muốn nhục dục. Liệu Diệc Vũ chứng kiến đám tù nhân bu quanh cửa sổ, tay trùm xà lim được đôn lên vai những kẻ nô lệ của mình, khi cả đám thủ dâm trong lúc cố nhìn cho được một người đàn bà bên ngoài. Một anh tù nhân trẻ bị trùm xà lim hãm hiếp, đem lòng yêu hắn, rồi bị ruồng bỏ bằng một cái tát vào mặt khi tay trùm bị bất lực.
MỘT trong những lý do không mấy đáng khoe khiến ta đọc các hồi ký lao tù như cuốn này với cảm giác thích thú pha lẫn khiếp đảm là nỗi thống khổ của kẻ khác lại có thể có sức hấp dẫn khiêu dâm ghê gớm. Nhưng tác phẩm của Liệu Diệc Vũ hết sức lôi cuốn chính nhờ tài quan sát của ông. Tuy bản thân cũng chịu đau khổ, ông luôn tò mò về những người khác, về tính cách của họ, về những câu chuyện của họ, và về cách họ đối phó với bao nỗi kinh hoàng của đời sống ngục tù. Những lần tiếp xúc của ông với các tù nhân khác được khéo léo biến thành các truyện ngắn. Vì một số tù nhân này đang chịu án tử hình, truyện thường bàn chuyện đối mặt với cái chết cận kề. Một tay buôn lậu ma túy có biệt danh Tử Thường muốn mượn tập sách bản đồ của Liệu Diệc Vũ để chuẩn bị cho kiếp sau làm con ma lang thang. Tử Thường đã lạc lối quá nhiều lần ở kiếp này, và muốn tới thăm những nơi hắn thích lai vãng sau khi hắn bị kết liễu bằng một viên đạn vào cổ. Nghe kẻ tử tù này nói họ có thể gặp lại nhau ở kiếp sau, Liệu Diệc Vũ thấy “tứ chi tôi run rẩy”. Tử Thường hỏi ông có sao không, rồi “bật ra tiếng cười quái gở. Vết nhăn hằn sâu giữa hai chân mày của hắn cứ như mở toang hoác giống cái miệng chực nuốt chửng tôi”.
Một số trong những tù nhân này được khắc họa trong một cuốn sách khác của Liệu Diệc Vũ, được xuất bản ở Đài Loan với nhan đề Phỏng vấn những người ở dưới đáy xã hội (Interviews with People from the Bottom Rungs of Society, 中国底层访谈录, 2001), và ở Mỹ với nhan đề Người vác thi thể (The Corpse Walker, 2008). Trong đó có truyện về một nông dân mù chữ tuyên bố làng quê của mình là một nền quân chủ độc lập, tự phong mình làm hoàng đế. Vì hành động lật đổ phản cách mạng này, ông bị tù chung thân. Liệu Diệc Vũ thấy “hoàng đế nông dân” lý thú ở chỗ các ảo tưởng của ông bắt nguồn từ Tứ Thư Ngũ Kinh. Một trong những tuyên bố của ông là dải băng vàng mang niên hiệu của ông được tìm thấy trong một con cá. Khi Liệu Diệc Vũ chỉ ra rằng cái mẹo này đã được một nông dân phiến loạn sử dụng hai ngàn năm trước để phỉnh dụ thiên hạ theo ông, vị hoàng đế nông dân bảo ông câm mồm: “Ngươi quả là thất lễ vì dám nói với Trẫm như vậy. Trẫm biết ngươi là ký giả giả trang do vương quốc Trung Hoa thù địch phái tới đây. Ngươi đã âm mưu cấu kết với bọn cán bộ quản giáo để lừa Trẫm cung cấp bằng chứng kết tội”.
Văn học có thể dùng làm lối thoát, như khi Liệu Diệc Vũ thả mình dạt theo những ký ức về Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez. Ông thấy mình đặc biệt giống một nhân vật trong tiểu thuyết này: đó là Đại tá Buendia, mất trí sau khi bị cột vào một cây dẻ trong nhiều năm. Giống như Đại tá, Liệu Diệc Vũ rút lui vào trong tâm trí của mình. Những lúc khác, các tác phẩm văn học minh họa các khía cạnh sơ khai nhất của kiếp tù. Liệu Diệc Vũ nhớ trong Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being),[iii] Milan Kundera định nghĩa cái kitsch toàn trị (totalitarian kitsch) là “sự hoàn toàn phủ nhận cứt”. Liệu Diệc Vũ viết rằng ông không thể nâng phân người lên một tầng ẩn dụ cao hơn: “Trong cuốn hồi ký tầm thường này của tôi, cứt là cứt. Tôi cứ nhắc mãi đến cứt vì tôi suýt chết đuối trong cứt”. Thực tế quả gần đúng như vậy; là ma mới trong xà lim, hoặc nếu không còn được lòng một trong những tay trùm xà lim, ông thường phải ngủ kề mặt bên chậu đi tiêu đi tiểu.
Song, ông không nhịn được cách nhìn ẩn dụ về cứt, như trong nhận xét ông đang sống “trong một chuồng heo đầy cứt gọi là Trung Quốc”. Bệnh tật cũng được nâng lên thành một ẩn dụ. “Nếu Trung Quốc là một bệnh nhân bị ung thư ruột, thành phố Trùng Khánh là điểm cuối bẩn thỉu của khúc ruột đó, cái hậu môn bệnh hoạn”. Trong sách, nhà tù thường được mô tả là một nhà tù bên trong một nhà tù khổng lồ của một xã hội Trung Quốc bệnh hoạn, một tấm gương lố bịch của các thể chế chính trị và sự khoa trương khoác lác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
NGÔN NGỮ của chủ nghĩa Mao, nay gần như đã thấm nhuần vào đời sống Trung Quốc như các giáo điều Khổng giáo đã từng ăn sâu, thường được dùng theo lối tương tự, cứ liên tục bật ra giữa các cuộc trò chuyện trong tù. Tù nhân thường nhại các phát biểu của Mao với vẻ mỉa mai, như khi anh tiều phu bị cấm dùng chậu đi tiêu đi tiểu sau khi dính thuốc nhuận trường, đám tù nhạo anh: “Không có kỷ cương và phép tắc thì cách mạng sẽ không thành công”. Đôi khi Mao được trích dẫn nghiêm chỉnh. Một tay trùm xà lim có cảm tính với Liệu Diệc Vũ cảnh báo ông đừng kết bạn với một người khác cũng là trí thức: “Đừng có mà sách vở quá … Hãy nhớ lời dạy của Mao Chủ tịch về đấu tranh giai cấp – đừng bao giờ mất cảnh giác đối với kẻ thù giai cấp của anh”.
Ngoài suy nghĩ đượm chất Mao, chính hệ thống chính quyền kiểu Trung Quốc được sao chép bên trong nhà tù. Một phần là do cách tổ chức Đảng Leninist, nhưng phần lớn là do những tập quán truyền thống. Khi Liệu Diệc Vũ nhập trại ở Trung tâm Điều tra Tung Sơn, trùm xà lim của ông giải thích cơ chế vận hành xà lim. Hắn so sánh hệ thống tôn ti trong xà lim với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; ủy viên BCT và Quân ủy đứng trên dân thường. Họ muốn làm gì cũng được. Nhưng, để duy trì trật tự, họ phải áp đặt tính đoàn kết tuyệt đối trong xà lim. Dấu hiệu phản loạn đầu tiên sẽ bị bóp nát không thương tiếc. Tuy nhiên, phản ánh hàng trăm năm theo Khổng giáo, trùm xà lim nói giới cai trị không thể quá tàn nhẫn: “Chúng ta cần để những người dưới quyền chúng ta có cảm giác chúng ta là cha mẹ của họ”. Khi Liệu Diệc Vũ phản đối, trích lời Mao Chủ tịch nói rằng nhân dân là cha mẹ của Đảng, trùm xà lim tỏ vẻ hiểu rõ hơn về thực tế Trung Quốc: “Tào lao! Nếu một tên trộm ở đây muốn có một bữa ăn đường hoàng đủ no, chuyện đó do tao quyết định”.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi giới quản giáo cũng dựa các phương pháp của mình theo các tập quán phổ biến ở Cộng hòa Nhân dân. Chẳng hạn như việc sử dụng các chiến dịch chính trị. Tù nhân ở Trung tâm Điều tra bị ép buộc tham gia một chiến dịch hàng năm gọi là “Tự thú tội và đấu tố người khác”. Những cuộc mít-tinh chính thức được tổ chức trong sân trại, giống như dưới thời Mao, với các khẩu hiệu chính trị hô vang trời, và những bài phát biểu dài lê thê của những cán bộ công an và quản giáo. Tù nhân phải dành hàng giờ để viết lời tự thú và đấu tố. Các trùm xà lim được khuyến khích chọn những món hấp dẫn nhất trong thực đơn tra tấn cho những tù nhân bị xem là chưa đủ nhiệt tình tự thú hay đấu tố người khác.
Chiến thuật này cũng là một kết hợp hiểm độc giữa truyền thống và sáng tạo hiện đại. Tự thú theo lễ nghi xưa nay đã luôn là một phần trong công lý Khổng giáo. Việc bị buộc phải đấu tố người khác, tuy không phải là không có trong quá khứ, là một thủ đoạn tinh vi của chế độ toàn trị nhằm triệt tiêu lòng tin giữa người với người, để họ chỉ còn biết trung thành với Đảng. Liệu Diệc Vũ kể những chiến dịch tự thú và đấu tố quá ác nghiệt đến nỗi nhiều người chết do tra tấn. Song, khi tình hình có nguy cơ vượt quá tầm kiểm soát, cấp quản lý trại giam cho ngừng các màn xử tội, và đúng theo kiểu hành xử Maoist thường thấy, trở mặt đổ tội cho các thủ phạm bằng cách mở một chiến dịch khác, lần này gọi là “Xử lý những kẻ bắt nạt bạn tù”. Chính những kẻ trước đây được khuyến khích trấn áp những tù nhân ngoan cố nay lại bị đàn áp.
Nhưng, dĩ nhiên, Trung Quốc đã tiến tới kể từ sau mấy chục năm dưới chế độ kinh hoàng của Mao. Khi Liệu Diệc Vũ ở tù, Trung Quốc đã mở cửa làm ăn với thế giới tư bản hơn mười năm. Cải cách kinh tế bắt đầu vào đầu thập niên 1980 dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình kêu gọi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nữa. Chính vì thế, theo lời của Liệu Diệc Vũ, “cán bộ quản giáo không để lỡ nhịp và nhanh chóng lợi dụng sức lao động miễn phí để tư lợi đầy túi”.
Lao động miễn phí là mỹ từ để chỉ nạn nô lệ. Mỗi tù nhân buộc phải đóng gói thuốc men ít nhất mười giờ mỗi ngày, trong khi tai phải nghe loa phóng thanh ra rả những lời hô hào chính trị – cách kết hợp thường thấy của Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa áp bức ý thức hệ và bóc lột kinh tế. Liệu Diệc Vũ nhận xét rằng kiểu lao động chân tay lặp đi lặp lại này đã bị các nhà máy địa phương bãi bỏ. Nhưng giới quản giáo có thể kiếm bộn lợi nhuận nhờ ép buộc các nô lệ bị cầm tù hoàn thành chỉ tiêu tới ba ngàn gói mỗi ngày. Tù nhân nào tìm cách trốn hoặc phản đối chế độ nhà tù sẽ bị đánh đập hoặc tống vào ‘xà lim tối” chỉ đủ chỗ để bò vào rồi nằm bẹp xuống. Liệu Diệc Vũ viết: “Sau chừng một năm, da của kẻ ở xà lim tối trở nên nhợt nhạt, xương yếu đi, còn tóc trắng bệt. Da trong suốt đến nỗi ta thấy rõ những gân máu xanh”.
Liệu Diệc Vũ nhắc đến vài giây phút thư thái. Có nhiều ví dụ về lòng tốt của những trùm xà lim ưu ái ông, đôi khi nhờ là nhà thơ; lòng tôn trọng văn chương chưa chết ở Trung Quốc. Một thầy tu đạo Phật dạy ông thổi sáo. Và thảng hoặc, điều kiện sinh hoạt trong tù có khá lên đôi chút vì nước ngoài gây áp lực buộc Trung Quốc cải thiện về nhân quyền. Điều này có thể khiến những người trong chúng ta đã hết hy vọng gây ảnh hưởng từ bên ngoài đối với cách hành xử chính thức của Trung Quốc sẽ bớt hoài nghi hơn đôi chút.
Trong khi đó, Liệu Diệc Vũ cố gắng lưu giữ ký ức về những điều tai nghe mắt thấy trong tù bằng cách chép vội trong một cuốn Tam quốc chí. Ngày 31/1/1994, ông được trả tự do. Nhưng, theo ông kể, việc ra tù của ông chỉ là khởi đầu của một kiểu đọa đày khác, có lẽ còn cay đắng hơn theo cách riêng của nó. Người gây rối và người bất đồng hiếm khi được ưa chuộng ở các xã hội áp bức. Họ gây rắc rối cho người khác vì xúi giục trả đũa, và họ khiến đa số những người không chịu chống đối thấy bất an về thái độ phục tùng của mình. Liệu Diệc Vũ ghét về quê ăn tết và vào các dịp lễ lạt gia đình khác, vì ông biết mình sẽ bị chỉ trích. Vợ ông quyết định ly dị ông – có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ tự nhận là một người chồng tận tụy. Tệ hơn nữa là ông bị chính bạn cũ ruồng bỏ. Sau bốn năm ở tù, ông viết, “tôi chẳng khác nào một đống cứt chó dưới mắt những bạn văn của tôi”. Sự ruồng bỏ này có thể thể hiện một kiểu nhẫn tâm đặc thù Trung Quốc, nhưng thực ra chủ yếu là do cách quản lý Trung Quốc hiện nay. Sau cuộc dấy loạn bất thành năm 1989, chính quyền cộng sản đã có một thỏa thuận khôn khéo với các giới có học: nếu những người thuộc thành phần ưu tú ở thành thị tránh xa chính trị, họ sẽ được tự do mở mang trí tuệ cho chính mình. Liệu Diệc Vũ viết: “Cả nước ta đột nhiên mải mê kiếm tiền, đó chính là axít ăn mòn làm hòa tan chính kiến bất đồng. Cũng chính những người từng can đảm tuần hành trên đường phố đòi dân chủ nay lại hóa ra “phi chính trị” trong thời đại hiện nay khi ai cũng chạy theo vật chất tiền tài – theo kiểu cộng sản”. Nhiều bạn văn nghệ đồng chí hướng với ông đã trở thành doanh nhân.
Trong những hoàn cảnh như vậy, thiên hướng thông thường khiến con người lảng tránh kẻ gây rối càng được củng cố bởi cái ý thức không kiềm nén được về việc đã chấp nhận một thỏa thuận đê hèn. Cũng giống như trong thực tế thường xảy ra với những người sống trong chế độ độc tài, các độc giả hăng hái nhất của Liệu Diệc Vũ là các cán bộ ăn lương để kiểm duyệt ngôn từ của ông. Buộc phải chấp nhận kiếp sống của một kẻ lang thang có học, đôi khi thổi sáo ngoài đường để kiếm sống, và sợ bị tống giam trở lại, Liệu Diệc Vũ xoay xở vượt biên sang Việt Nam, rồi từ đó ông tìm đường sang Đức, nơi ông sinh sống hiện nay. Và thế là chính nhà thơ Trung Quốc đầy tài năng này trình diễn những buổi ngâm thơ tưởng niệm của ông để mua vui cho khán giả ở Berlin và New York – một “người bất đồng” kỳ lạ ở nước ngoài, tiếng nói của ông được nghe ở khắp nơi ngoại trừ nơi nó cần được nghe nhất.
Nguồn: Ian Buruma, Prison of the Mind, The New Yorker, 1/7/2013
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
______________
Liệu Diệc Vũ bị cầm tù từ năm 1990 đến 1994 sau khi sáng tác bài thơ Thảm sát để tưởng niệm những người biểu tình đòi dân chủ. Minh họa của Peter và Maria Hoey.

[i] Bản dịch tiếng Việt có nhan đề Nền dân trị Mỹ.Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ Đài VOA, dịch giả Phạm Toàn cho biết ông và Nhà xuất bản Tri Thức chủ động đổi nhan đề vì hiểu tâm lý chính quyền Việt Nam dị ứng với từ “dân chủ”.
[ii] Sự kiện Thiên An Môn
[iii] Bản dịch tiếng Việt của Trịnh Y Thư
Source : pro&contra
Share