31/10/13

Presidential Proclamation -- National Alzheimer's Disease Awareness Month, 2013

Presidential Proclamation -- National Alzheimer's Disease Awareness Month, 2013

NATIONAL ALZHEIMER'S DISEASE AWARENESS MONTH, 2013
- - - - - - -
BY THE PRESIDENT OF THE UNITED STATES OF AMERICA
A PROCLAMATION
Alzheimer's disease is an irreversible and progressive brain disease that slowly erodes precious memories, thinking skills, and the ability to perform simple tasks. It affects millions of Americans, including senior citizens as well as younger Americans with early-onset Alzheimer's disease. This month, we stand with everyone confronting the painful reality of an Alzheimer's diagnosis; lend our support to the families who care for them; and renew our commitment to delaying, preventing, and ultimately curing this disease.
In research labs across our country and around the world, scientists are working to unlock the answers to Alzheimer's disease. My Administration proudly supports this promising research. Earlier this year, I proposed the Brain Research through Advancing Innovative Neurotechnologies (BRAIN) Initiative, which aims to revolutionize our understanding of the human brain. By mapping the brain, we hope to better comprehend the causes of disorders like Alzheimer's disease and enhance our work on improving treatment. In September, the National Institutes of Health announced support for innovative new studies to help find effective interventions for this devastating degenerative brain disease. And my Administration also remains committed to implementing the first-ever National Plan to Address Alzheimer's Disease, which lays out a roadmap to preventing and effectively treating Alzheimer's disease by 2025.
Working together with scientists, patient advocates, and those living with this disease, we can give a sense of hope to millions of families, patients, and caregivers. For resources and information on living with or caring for someone with Alzheimer's disease, please visit www.Alzheimers.gov.
As we offer our support to Americans with Alzheimer's disease, we also recognize those who care and provide for them, sharing their loved ones' emotional, physical, and financial strains. This month, we honor their compassion, remember those we have lost, and press toward the next great scientific breakthrough.
NOW, THEREFORE, I, BARACK OBAMA, President of the United States of America, by virtue of the authority vested in me by the Constitution and the laws of the United States, do hereby proclaim November 2013 as National Alzheimer's Disease Awareness Month. I call upon the people of the United States to learn more about Alzheimer's disease and support the individuals living with this disease and their caregivers.
IN WITNESS WHEREOF, I have hereunto set my hand this thirty-first day of October, in the year of our Lord two thousand thirteen, and of the Independence of the United States of America the two hundred and thirty-eighth.
BARACK OBAMA

WWW.WHITEHOUSE.GOV

Nguyễn Hữu Vinh - Khi người cộng sản mất phương hướng

Khi người cộng sản mất phương hướng


Trong bài viết “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác”, Lênin viết: “Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội. Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ áp bức của giai cấp tư sản.” (Giáo dục", số 3, tháng Ba, 1913).
Đúng 100 năm sau, Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ còn là mớ kinh sách vẫn được dùng để tụng niệm tại một vài nước châu Á. Khi mà các đệ tử môn phái này đang rã rời, buồn ngủ, mơ màng những bữa tiệc linh đình và tìm cách hưởng thụ những món tư bản khổng lồ cướp được nhờ địa vị thống trị của mình, dưới cái nhãn mác cách mạng và ô che của cái Học thuyết Mác – Lênin “vĩ đại” danh cho giai cấp vô sản kia.
 Những thực tế đang diễn ra, đã chứng minh rằng những điều Lênin đã viết kia, đã ca tụng và lăng xê trên, chỉ là những món bánh vẽ và là sản phẩm của những sự hoang tưởng dưới sự kiểm chứng của lịch sử. Họ đã phần nào thành công trong một giai đoạn lịch sử, đã ru ngủ cả chục triệu, thậm chí là hàng trăm triệu người. Nhưng họ đã thất bại trong một quá trình lịch sử, cái lý thuyết huyễn hoặc đó đã nhanh chóng bộc lộ những vô lý và tự hủy. Có thể nói, sự thất bại của Chủ Nghĩa Cộng sản không phải ở chỗ thực hành, mà ngay cả phần lý thuyết cũng đã được thực tế chứng minh là: hão huyền và ảo tưởng.
Việt Nam là một trong ba địa chỉ hiếm hoi còn lại trên thế giới đang tiếp tục bám víu vào thứ hỗn mang này. Hai phần ba thế kỷ bám trụ, đi theo, sáng tạo, kiên định… đủ cả mọi ngôn từ và tốn máu xương hàng triệu người, từng phần lãnh thổ đất nước thì thực tế xã hội hôm nay đã chứng minh được điều gì? 
Thực tế của “Ba cuộc cách mạng”
  Thay cho “một nền sản xuất có năng suất cao hơn hẳn so với nền sản xuất TBCN” thì năng suất lao động của “phương thức sản xuất XHCN” đã trở thành chuyện hài hước nếu đem so sánh. Thay cho mối quan hệ sản xuất tiên tiến, thì phương thức này đã đẻ ra một mối quan hệ sản xuất sử dụng 30% số người làm việc và 30% số công chức sáng cắp ô đi, tối cắp về. Đó là những kết luận của quan chức, báo chí Việt Nam tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hôm nay.
Thay cho mối quan hệ sản xuất lấy giai cấp công nhân làm trọng tâm, mọi thành phần được hưởng thụ thành quả lao động xã hội, thì sản phẩm xã hội tập trung vào một đám tư bản đỏ là đảng viên Cộng sản. Chức năng của đám này là bòn rút, tích lũy, phá phách sản phẩm xã hội và là giặc nội xâm của đất nước.
Với mối quan hệ, trình độ sản xuất và năng suất lao động đó, thì đời sống vật chất mà được nâng cao để dần tiến tới “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” là chuyện điên rồ.
Ngoài ra, cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật được coi là “then chốt” thì kết quả thảm hại thay. Cả đất nước không tìm nổi một cơ sở sản xuất chiếc đinh ốc đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để có thể đảm đương vai trò đại lý sản xuất cho một hãng tư bản con con. Mọi thành quả kỹ thuật của “Phe Xã hội Chủ nghĩa” đều là sự học mót hoặc ăn cắp của “bọn tư bản giãy chết”.
  Có lẽ, cần phân tích sâu sắc hơn về cuộc cách mạng thứ 3: Cuộc cách mạng Tư tưởng và văn hóa - Một cuộc phá hủy nền văn hóa lâu đời và niền tin tôn giáo 
Khi đảng cộng sản hò hét “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội (CNXH), bằng ba cuộc Cách mạng” thì cả nước rùng mình bởi những trận càn vào tâm linh, tôn giáo, văn hóa cội nguồn. Đặc biệt nhất là trong ba cuộc cách mạng, cuộc “Cách mạng Tư tưởng và văn hóa” có chiều sâu nhất đánh vào tâm tư, suy nghĩ, lối sống, đạo đức và tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc.
  Mở đầu là cuộc Cải cách ruộng đất, một chiến dịch làm tan rã  quan hệ sản xuất và nền văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh việc chiếm đoạt công cụ sản xuất, tài sản ruộng vườn của “giai cấp địa chủ”, chiến dịch này còn làm băng hoại những nét văn hóa truyền thống mà để có nó, người dân Việt phải mất hàng ngàn năm chắt lọc và xây dựng. Cuộc “cải cách” đó thực hiện phương châm “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa là mọi thành phần ưu tú của dân tộc đều sẽ bị tiêu diệt.
Bên cạnh việc một tầng lớp người dân bị mất tài sản, thì tư duy cướp tập thể, cướp trắng thành quả lao động bao đời, tư duy bất chấp sự công bằng xã hội xóa bỏ sự lương thiện của con người được công khai du nhập, khuyến khích dưới cái tên mỹ miều: Cách mạng vô sản.
Tiếp đến là cuộc cách mạng vào văn hóa, văn học, báo chí… những công cụ trên mặt trận tư tưởng. Vụ Nhân Văn giai phẩm, hàng loạt tác phẩm bị lên án, thủ tiêu, hàng loạt tác giả bị cầm tù, đày đọa, thậm chí là tù đày đến chết.
Thế rồi, hàng loạt chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ, thánh thất bị triệt hạ không thương tiếc. Khi đó, Đức Chúa, Đức Phật, Thánh, Thần… đều được xếp vào thành phần phản động. Một cuộc “cách mạng vô sản” được thực thi nhằm trục xuất Chúa Trời ra khỏi vũ trụ, trục xuất tư hữu ra khỏi xã hội, trục xuất thần thánh ra khỏi đời sống và trục xuất linh hồn ra khỏi con người.
Tất cả để phục vụ một cuộc “cách mạng văn hóa và tư tưởng”.
Điển hình, là những phe nhóm cộng sản vô thần được đưa vào chùa chiền, lập căn cứ, nhen nhóm các lực lượng vũ trang, chém giết… những hành động hoàn toàn đi ngược lại với chùa chiền là nơi tu tâm phát đức. Còn những chùa chiền khác không có tác dụng cho những việc đó thì bị đập bỏ không thương tiếc.
Điển hình là những thánh thất, nhà thờ, đền Thánh... nếu không được sử dụng cho cuộc bạo lực cách mạng, nếu không bị đập bỏ, thì hạn chế đến mức tối đa dẫn tới tự tiêu diệt. Tiến hành chiếm, cướp, lấn lướt và chèn ép đến mức có thể nhằm trục xuất khỏi đời sống xã hội. Đặc biệt, thay vì những nơi tôn nghiêm, thờ tự, nêu cao tình yêu thương, nhà cầm quyền Cộng sản dùng Nhà thờ, thánh thất làm “Nơi ghi dấu tích tội ác”.  
Hậu quả là gì?
  Một đất nước kiệt quệ, một xã hội hỗn loạn và băng hoại, không có trật tự, con người xử sự với nhau như dã thú. Đạo đức xã hội suy đồi, những hiện tượng con đánh cha, trò đánh thầy, con chửi bố mẹ… là chuyện cực hiếm trong văn hóa đất nước trở thành chuyện thường ngày. Một xã hội ích kỷ và vô cảm, tệ nạn và đồi trụy được hình thành và dẫn đầu bởi chính cái gọi là “Đội ngũ ưu tú của giai cấp công nhân và dân tộc”.
Năm 1977, Liên Xô – được coi là thành trì của phe XHCN - tuyên bố đã hoàn thành giai đoạn xây dựng Chủ Nghĩa xã hội để bắt đầu xây dựng Chủ Nghĩa Cộng sản. Thế mà chỉ 12 năm sau, cả thành trì xây dựng bao công sức máu xương kia đổ cái rụp không thể nào chống đỡ.
Sau mấy chục năm khẳng định con đường quá độ đi lên Chủ Nghĩa xã hội mà “đảng và bác đã chọn” hộ dân tộc Việt Nam là con đường hiện thực, duy nhất đúng đắn, dần dần các lãnh đạo cộng sản mới  thừa nhận sự u mê và hão huyền mơ hồ khi đặt niềm tin vào đó. Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh còn mơ hồ theo kiểu “năm ăn năm thua” rằng: “Chủ nghĩa xã hội sẽ dần dần sáng tỏ”.Còn mới đây Tổng bí thư Đảng Cộng sản ngao ngán thổ lộ: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. Nghĩa là, cứ đi hết thế kỷ này theo con đường quá độ và yên chí là chưa có cái Chủ nghĩa xã hội, còn khi đến đó, nó là cái gì thì sẽ biết. Nếu là quả núi thì leo lên ngồi, nhỡ không may là hố sâu, thì cả dân tộc cứ xuống đó mà lặn.
Niềm tin yếu ớt vào “ngày mai tươi sáng của Chủ nghĩa xã hội” đã nhanh chóng rơi rớt ngay chính từ những người lãnh đạo, từ chính những đảng viên cộng sản. Hàng loạt cán bộ cộng sản cao cấp đến cấp thấp, những người đã tự nhận, được tôn xưng là người cộng sản gộc đã từ bỏ tư tưởng của mình cách này cách khác, bằng hình thức này hoặc hình thức khác, khi thì cá nhân, khi thì tập thể, khi thì một nhóm, khi cả hệ thống. Điều này rất dễ thấy.
Với thể chế đảng lãnh đạo tuyệt đối, luôn nghĩ thay, định hướng thay, lựa chọn thay cho người dân, do vậy khi hàng ngũ đảng viên, lãnh đạo mất phương hướng, thiếu niềm tin, thì xã hội cũng khủng hoảng niềm tin là điều không lạ.
Vì vậy, nó tạo nên sự thất vọng ở ngay chính những thành phần cộng sản, tạo nên sự hoang mang và đó là cơ hội cho thói mê tín, dị đoan phát triển. Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dụng, dối trá cũng được dịp bùng nổ ở mọi tầm cao thấp.
Những chiếc phao cứu sinh vội vàng chắp vá 
Chính sự hỗn mang đó đã tạo ra một thứ tôn giáo hổ lốn theo ý những người cộng sản. Trước hết, đảng khẩn cấp sáng tác ra cái gọi là Tư tưởng Đạo đức Hồ Chí Minh, một sản phẩm mới được sáng tác vội vàng lấp vào chỗ trống khi phe cộng sản sụp đổ và người ta thấy những giòi bọ nhung nhúc trong nội tạng của nó. Môn đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh như một món ăn mới được chế biến tốn kém nhưng bởi những đầu bếp tồi. Không đủ sức thay thế món bánh vẽ ngọt ngào về Chủ nghĩa Cộng sản mà người ta vẫn được ru ngủ, được xài miễn phí bấy lâu nay. Do vậy, đảng tiếp tục chi tiền dân cho việc lũng đoạn tôn giáo hoặc sáng tác các tôn giáo mới. Đó là thứ tôn giáo phục vụ sự tồn tại và cai trị của đảng bằng bất cứ giá nào. Đó là thứ tôn giáo “Đoàn kết Công giáo”, là thứ Phật giáo “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” dần dần bị hủ hóa miễn là đảng nắm được thứ tôn giáo đó từ gốc đến ngọn.  
Đó cũng là các thứ tà đạo như tà đạo Hồ Chí Minh, các chùa chiền khổng lồ, các loại ngoại cảm, bói tướng, thầy pháp, đồng bóng, vàng mã… những thứ mà đã một thời là kẻ thù của Chủ nghĩa Cộng sản.
Người ta không cần e ngại đảng có trăm tay, nghìn mắt khi người ta đốt vàng mã hàng trăm triệu đồng. Người ta không sợ hãi khi “gọi hồn” chính ông Hồ Chí Minh – ông tổ Cộng sản vô thần ở Việt Nam lên để mà truy hỏi… Người ta cũng không ngại dùng “nhà ngoại cảm” để gọi hồn Hà Huy TậpNguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Phùng Chí Kiên, thậm chí là cả Trần Phú.
Thậm chí, ngay cả khi người ta đúc tượng Thánh Gióng, họ còn đúc cả tim cho tượng Thánh Gióng và tượng con ngựa. Điều đặc biệt hài hước, là ý tưởng này lại xuất phát từ Thủ tướng Chính phủ, một người đã tự hào là đi theo đảng tận 51 năm nay.
Nếu như, những người cộng sản hôm nay còn có niềm tin vào Chủ nghĩa Mác – Lenin, thì những hành động này, là sự phỉ báng công khai cái lý tưởng Cộng sản, cái mà cả đời ông Hồ Chí Minh, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp… đã theo đuổi.
Nếu như Các Mác, người đã dành cả đời hoạt động, chiến đấu cho cái “Công”, để rồi khi chết, lại phải chui vào một nghĩa địa “Tư” để nằm, thì những người Cộng sản Việt Nam đã phấn đấu cả đời để chứng minh cho Chủ nghĩa Cộng sản không thần thánh, mà quỷ và linh hồn… đã phải cậy nhờ ma quỷ, thần thánh và linh hồn để tìm lại thân xác mục nát của mình.
Và khi sử dụng những biện pháp này, nghĩa là người ta đã phủ nhận công khai những gì họ nói, rằng Chủ nghĩa Mác – Lenin luôn là sợi chỉ đỏ, là nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản. Hoặc nói cách khác, họ ngang nhiên coi đảng cộng sản mà họ là thành viên chẳng có ký lô giá trị nào trong thực tế.
Thế nhưng, từ chỗ không tin thần thánh, ma quỷ theo chủ thuyết cộng sản, đến chỗ khủng hoảng và vơ váo bất cứ thần thánh nào, miễn giúp họ thực hiện được giấc mơ thực dụng về vật chất và thăng quan tiến chức bằng mọi giá để thỏa mãn nhu cầu đó, họ đã làm băng hoại các tôn giáo để phục vụ mục đích của họ.
Đó là những thể hiện sinh động của mất phương hướng của người Cộng sản Việt Nam hôm nay. 
Hà Nội, ngày 31/10/2013 
J.B Nguyễn Hữu Vinh

GS Tương Lai - SỨC LAY ĐỘNG CỦA “DẬY MÀ ĐI”

SỨC LAY ĐỘNG CỦA “DẬY MÀ ĐI”

Tương Lai
1Có lẽ những chàng trai cô gái say sưa hát bài “Dậy mà đi” để chào đón Đinh Nhật Uy buộc phải được trả tự do tại Tòa án Long An hôm 29.10.2013 không biết và cũng không cần biết rằng bài đó ra đời từ trong nhà tù thực dân năm 1941, khi đất nước còn nằm trong xiềng xích nô lệ. Bài thơ làm trong nhà tù thuở ấy tự nhắc nhở :
    “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi  lần ?
Huống đường đi còn lắm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu
“!
Thế rồi một phần tư thế kỷ sau, lời thơ được biến tấu thành ca từ của một bài hát cùng tên với điệp khúc “Dậy mà đi, dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi” ra đời trong phong trào đấu tranh chống chế độ Sài Gòn của sinh viên và thanh niên Miền Nam những năm 1966- 67. Để rồi hôm nay, lớp trẻ cháy bỏng khát vọng tự do, dân chủ lại đang hát vang khúc ca đòi bẻ gãy những xiềng xích mới.
Lịch sử đang đi những bước oái oăm!
Câu hát năm nao bỗng như một lời tiên tri “Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu“. Nếu cứ cho đó là một câu “tiên tri” thì câu “tiên tri” ấy đang biến thành lời giục giã cho cuôc chiến đấu mới ” Ai nên khôn không khốn một lần” rồi trào dâng thành một làn sóng dập dồn : “Hát cho dân tôi nghe, tiếng hát tung cờ ngày nào. Hát cho đêm thiên thu…Hát âm u trong đêm, muôn cánh tay đang dậy lên…”.
Thế rồi, “ tiếng hát tung cờ ngày nào” giờ đây vang lên để vạch mặt những kẻ nhân danh lá cờ ấy để tròng một thứ xiềng xích mới lên cuộc sống của đất nước. Xiềng xích ấy đang đè nặng lên tâm tư của cả một dân tộc vốn hiểu rõ chân lý‎ không có gì quý‎ hơn độc lập tự do. Những kẻ nhân danh lá cờ ấy đang đặt những gông cùm mới lên cuộc sống của tuổi trẻ yêu nước không cam chịu cúi đầu trước bọn xâm lược phương Bắc thực thi chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.
Những kẻ đang cúi đầu trước bọn xâm lược lại đang đang cắm chính lá cờ ấy trên nóc nhà tù, trại giam nhan nhản khắp cả nước để uy hiếp, trấn áp những người yêu nước, bóp chết khát vọng dân chủ, tự do và quyền con người, nhằm củng cố cho một chế độ toàn trị phản dân chủ, phản tiến hóa đang bị lung lay từ chân móng. Lá cờ ấy đang bị hoen ố bởi những hành động đáng xấu hổ mà chế độ toàn trị phản dân chủ này đang gây ra cho cả dân tộc, xúc phạm đến anh linh những thế hệ Việt Nam đã nằm xuống để bảo vệ mảnh đất thiêng của tổ quốc mà vì điều thiêng liêng ấy, cả núi xương, sông máu đã phải đổ ra. Thế hệ trẻ hôm nay quyết không để cho lá cờ ấy bị hoen ố. Sức lay động của tiếng hát “Dậy mà đi” khởi nguồn từ đó.
Tiếng hát đón chào Đinh Nhật Uy, từ tòa án Long An bước ra là để tuyên bố trước toàn thế giới một chuyện đáng xấu hổ : Việt Nam có lẽ là nước đầu tiên một công dân bị bỏ tù vì đã sử dụng Facebook, một trong những thành tựu văn minh mà loài người có được từ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trước hết là công nghệ thông tin! Đương nhiên Viện Kiểm sát và Tòa án tỉnh Long An gắng gượng viện dẫn bằng được những điều khoản này nọ để ghép “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo khoản 1 Điều 258, BLHS cho Đinh Nhât Uy. Luật sư Hà Huy Sơn đã bác bỏ tất cả những điều đó và đòi ” trả tự do ngay tại phiên tòa cho ông Đinh Nhật Uy“.
Thật ra,với Tòa án của môt chế độ toàn trị quen với những bản án “bỏ túi” thì lời lẽ và luận cứ của luật sư chỉ là vật trang sức rẻ tiền,họ bỏ ngoài tai. Họ không thể tuyên Đinh Nhật Uy vô tội và do đó phải được trắng án, phải được bồi thường. Bước đi oái oăm của lịch sử đang dẫm lên vết nhơ này. Chúng ta muốn xây dựng một nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn“, nhưng chế độ toàn trị phản dân chủ này đang làm ngược lại mong muốn đó. Nó đang phản bội lại lý tưởng cao đẹp của những người từng “dậy mà đi” trên con đường giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Vì vậy mà hôm nay, tuổi trẻ lại đang phải “hát âm u trong đêm, muôn cánh tay đang dậy lên…”.
Bản án dành cho Đinh Nhật Uy rồi cũng sẽ là bản án dành cho những người có lương tri, lương năng đang và sẽ sử dụng những thành tựu của văn minh để làm cho cuộc sống văn minh hơn, đàng hoàng hơn, tươi đẹp hơn. Họ, trước hết và chủ yếu là một thế hệ mới của những người đấu tranh cho dân chủ mà internet là công cụ rất tiện ích và có tiềm năng rất lớn . Họ lại là những người rất trẻ, đủ lòng dũng cảm và trí sáng tạo để thể hiện khát vọng của họ. Họ dùng blog và mạng lưới xã hội để trao đổi thông tin và bày tỏ tình cảm, ý nghĩ của mình, điều mà chế độ toàn trị rất kiêng kỵ! Kiêng kỵ như người ta đã từng kiêng kỵ “xã hội dân sự dân sự”.
Một nhà nước pháp quyền đàng hoàng sẽ không thể kết tội Đinh Nhật Uy. Bởi, nếu vậy thì rồi, 32 triệu người sử dung internet [nếu đúng như người ta loan báo để đánh bóng thành tích] đều có nguy cơ bị Điều 258 của Bộ Luật Hình sự cho vào tù bất cứ lúc nào. Nhưng không thể không dằn mặt và răn đe một trào lưu đang như những dòng suối nhỏ đổ ra sông lớn mà sức cuộn chảy của nó không một bờ bao, một con đê nào ngăn chặn nổi. Thêm vào đó, dòng sông đang xuôi về biển cả, sóng đại dương đang tiếp sức cho tốc độ bứt phá của dòng sông cuộc sống. Dư luận quốc tế đang là một sức ép hiện thực mà nhà nước toàn trị này phải tính toán.
Đó là sức cộng hưởng của phong đào dân chủ trong nước từ bản Tuyên bố về thực thi quyền dân sự và chính trị của giới trí thức nhân sĩ trong và ngoài nước, kết hợp với những sáng kiến của giới trẻ trong đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cùng với những bàn chân nổi giận của người nông dân mất đất rầm rập xuống đường, tạo thành một nội lực to lớn để được tiếp sức của cộng đồng quốc tế, bao gồm chính giới có mối quan hệ nhà nước với nước ta, giới đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền thế giới và mạng lưới truyền thông quốc tế thường xuyên theo sát diễn biến tình hình ở Việt Nam .
Bước đi oái oăm của lịch sử cũng đang thể hiện ở thế giằng co chưa ngã ngủ từ đối nội cho đến đối ngoại mà cái sức cộng hưởng nói trên đang in đậm dấu ấn. Dấu ấn ấy hiện rõ trong ứng xử của người cầm quyền trong thế “tiến thoái lưỡng nan“, “đi thì cũng dở, ở không xong” trước bao áp lực vì đang “nhả chẳng ra cho, nuốt chẳng vào” những lợi ích phe nhóm khi mà những lợi ích ấy lại được đặt lên trên lợi ích của tổ quốc, lên trước lợi ích và khát vọng của toàn dân. Từ một sự kiện vụ án Đinh Nhật Uy, khởi đầu cho việc xử lý mạng lưới internet đầy bất trắc đối với một chế độ toàn trị trước một xã hội đang tỉnh thức, gây nên sự ngột ngạt trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân đang đối diện với bao khó khăn về kinh tế và an toàn xã hội.
Không hiểu điều này có nằm trong cái mà ông Tổng bí thư nọ cảm thấy”ngột ngạt” khi ông nói với cử tri quận Ba Đình ngày 27.9.2013 không, chứ ngay từ đầu thế kỷ XX thì các cụ ta trong phong trào “Duy tân” đã thốt lên rằng : “Văn minh là thế giới nào. Mà ta chìm đắm trong hào dã man“! Xin nhớ cho là tòa án của chế độ thực dân đã tửng xử vụ án “Đồng Nọc Nạn”, rồi chính quyền Sài Gòn trước 75 đã không thể không nể trọng các luật sư biện hộ và đấu tranh cho công lý. Và hồi ấy, “ma tà”, “lính kín”,”sen đầm” chưa phải tổ chức một bộ máy côn đồ du thủ du thực đông đến vậy để huy động vào việc đàn áp dân chúng. Bọn côn đồ này đánh người nhân danh công an, trước mắt công an, được công an khuyến khích, cổ vũ mà chuyện đánh đập dã man gây thương tích công dân Lưu Trọng Kiệt hay chuyện hành hung bloger Lâm Bùi trước cửa Tòa án Long An hôm rồi chỉ là  một trong vô vàn những ví dụ!
Nhưng bạo lực chỉ có thể là cách giải khát bằng thuốc độc. Bạo lực không khuất phục được tuổi trẻ, ngược lại, đang đổ thêm dầu vào lửa, ngọn lửa của sự phẫn nộ và ý chí đấu tranh. Cũng chính vì vậy, sức lan tỏa của bài hát “Dậy mà đi” các bạn trẻ đang hát kia đang thổi một làn sinh khí vào đời sống ngột ngạt mà xã hội đang phải chịu đựng. Xin được phép trích ra đây những lời gan ruột của bloger Lâm Bùi, người  bị hành hung để chứng minh cho điều ấy :
“Cái đau này không phải vì là thể xác, mà là ở tâm hồn…đau vì nhà cầm quyền thay vì lắng nghe dân, tôn trọng dân, thì luôn dùng quyền lực, dùng bạo quyền để trấn áp người dân. Coi lợi ích đảng phái phe nhóm lớn hơn Dân Tộc, lớn hơn Tổ Quốc…và coi dân là kẻ thù, là thù địch. Sau phiên tòa, dù rằng Đinh Nhật Uy được hưởng án treo, được phóng thích tại tòa, nhưng đó vẫn là một bản án, một bản án bất công và Uy đã phải bị giam cầm oan uổng hơn 4 tháng trời.
Đảng vẫn muốn cai trị bằng quyền lực để phục vụ cho mình, bằng sự dối trá để đầu độc người dân, bằng những điều luật mà mỗi người dân, mỗi người như chúng ta đây, khi muốn thể hiện cái Quyền Con Người chính đáng của mình…thì bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành những Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nhật Uy, Nguyên Kha…và nhiều…tại sao?Hãy lên tiếng, và hãy cứ lên tiếng, vì chúng ta là con người…chúng ta không phải là những con cừu.
Chúng ta không kêu gọi lật đổ hay tranh giành, chúng ta chỉ muốn họ thay đỗi, hãy xóa bỏ những điều luật không đúng, sai trái, hãy tôn trọng quyền con người của mỗi người công dân…hãy thay đổi cả chúng ta và cả họ…hãy thay đổi…thay đổi vì Việt Nam cho Việt Nam.
Đẹp biết bao, cao cả biết bao ý chí của tuổi trẻ, nguồn sinh lực bất tận của dân tộc! Chính họ chứ không phải ai khác đang thúc đẩy lịch sử đi tới, đang góp phần viết nên những trang sử mới của cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do, tiếp tục sứ mệnh của cha anh từng đổ máu cho sự nghiệp giành độc lập của tổ quốc. Vì, họ hiểu rằng, độc lập mà không có dân chủ và tự do, không có nhân quyền thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì cả.
Ngày 31.10.2013.

Source : diendan XHDS

Dương Danh Dy - Thành phố Hồ Chí Minh định hợp tác những gì với tỉnh Thanh Hải Trung Quốc?


01/11/2013

Thành phố Hồ Chí Minh định hợp tác những gì với tỉnh Thanh Hải Trung Quốc?


Dương Danh Dy

Báo Sài Gòn Giải Phóng cơ quan ngôn luận của thành phố Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 10 năm 2013 đưa tin: ngày 27/10 khi tiếp ông Lạc Huệ Ninh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Thanh Hải (Trung Quốc) đang có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành uỷ TPHCM đã “bày tỏ hy vọng trong thời gian tới mối quan hệ giữa TPHCM và tỉnh Thanh Hải ngày càng tốt đẹp hơn, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng”.
Và ông Lạc Huệ Trung đã bày tỏ: “TPHCM có nhiều kinh nghiệm trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ, kinh tế dịch vụ rất phát triển, vì vậy, tỉnh Thanh Hải mong muốn hợp tác với TPHCM trong các lĩnh vực kinh tế, thưong mại, văn hoá du lịch…”.
Qua mấy dòng chữ do chính báo chí của thành phố đưa tin đó có thể thấy ngay một điều: trong khi lãnh đạo phía ta chỉ nói chung chung (góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng) thì lãnh đạo phía bạn đã chỉ rõ những ưu điểm của TPHCM và những lĩnh vực cụ thể mà họ muốn hợp tác (như đã dẫn trên). Sự đối chiếu này nói lên cái gì, chắc bạn đọc tự thấy!
Điều thứ hai – điều quan trọng hơn – là điều mà người viết bài này muốn hỏi: ban lãnh đạo TPHCM đã biết những gì về tỉnh Thanh Hải của Trung Quốc?
Tôi nghĩ là Ban lãnh đạo TPHCM chắc chắn đã có những kiến thức tối thiểu như diện tích, dân số, tình trạng phát triển, GDP… của tỉnh này. Nhưng để bạn đọc thấy rõ hơn tình hình, xin cung cấp một số số liệu được lấy từ mạng chính thức của Trung Quốc:
Thanh Hải ở về phía Đông Bắc cao nguyên Thanh Tạng, độ cao trung bình là trên 3.000m so với mặt nước biển, nơi cao nhất đạt 6.800 m, nơi thấp nhất cũng cao tới 1560m. Diện tích tự nhiên là 717.480,52 km2, đứng thứ tư trong cả nước, chỉ xếp sau Tân Cưong, Tây Tạng, Nội Mông.
Dân số 5.386.000 người (người Hán khoảng trên 2,7 triệu, chiếm 54,5% người Tạng 1,09 triệu, chiếm 20,87%, người Hồi 750.000 chiếm 14%, ngoài ra còn có người Thổ, nguời Mông Cổ, v.v.).
Kinh tế Thanh Hải kém phát triển, chủ yếu dựa vào nguồn khoáng sản của địa phương (trong đó có kim loại màu), sản lượng dầu mỏ đạt khoảng 4,59 triệu tấn/năm. Thanh Hải có nhiều điểm du lịch nổi tiếng trong nước. GDP của Thanh Hải đứng thứ 30 trên 31 đơn vị cấp tỉnh và tương đương trong cả nước (trong khi Quảng Tây xếp thứ 19). Có người đã tính ra rằng GDP của Thanh Hải chưa bằng 1/40 GDP của tỉnh Quảng Đông, và GDP của riêng thành phố Quảng Châu đã gấp 10 lần GDP của Thanh Hải.
Qua những số liệu trên, xin phép được hỏi Ban lãnh đạo TPHCM: Các vị định hợp tác với Thanh Hải trong lĩnh vực nào và nếu hợp tác sẽ thu được những lợi ích cụ thể gì?
Và xin nhắc là đưòng đi lối lại khá xa đấy. Không rõ đường bay từ TPHCM đến Thanh Hải dài bao nhiêu và phải chuyến tiếp mấy lần. Chỉ biết đoạn đưòng sắt từ Bắc Kinh đến thành phố Tây Ninh (thủ phủ của Thanh Hải) cũng đã dài tới khoảng 2000 km rồi. Có người bảo tôi là anh già lẩn thẩn, có xa cách thế thì mỗi chuyến thăm để bàn bạc hợp tác mới thú vị chứ, tiền vé đi về là nhà nước trả, lại thêm rủng rỉnh công tác phí nữa chứ. Tội gì mà không hợp tác (dù chưa biết là sẽ tiến hành trong lĩnh vực nào)!
D. D. D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Source : BVN ( Bauxite VN )

Nguyễn Huệ Chi -Sách Việt kiệu thư trong con mắt giới sử học đương đại

Sách Việt kiệu thư trong con mắt giới sử học đương đại
Nhân những băn khoăn của ông Hồ Bạch Thảo (trong bài " Thử lý giải tại sao những sử liệu thời Minh do từ Việt Kiệu Thư khác với Minh Thực Lục", trên mặt báo này, ngày 21.10.2013). Xin xem Lời toà soạn của Diễn Đàn trong bài nói trên. Thiết tưởng, bài học lịch sử quan trọng này càng có ý nghĩa nhân tin sắp thành lập "Viện Khổng Tử" ở nước ta.

Sách Việt kiệu thư trong con mắt
giới sử học đương đại
(Nhân những băn khoăn của ông Hồ Bạch Thảo,
cũng nhân tin sắp thành lập Viện Khổng Tử ở Việt Nam)

Nguyễn Huệ Chi

Bài viết của tôi đăng trên tạp chí Diễn Đàn có nhan đề Tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam: Thủ đoạn của Minh Thành Tổ trong cuộc chiến tranh xâm lược 1406-1407 sau đó đăng lại trên mạng BVN với nhan đề có thay đổi chút ít: Thủ đoạn tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam của Minh Thành Tổ trong cuộc chiến tranh xâm lược 1406-1407, thật ra vẫn chỉ là một phần trích từ thiên khảo luận Cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về sau, được viết từ năm 1980 (không phải viết năm 2000 như ông Hồ Bạch Thảo nói) và in trong cuốnVăn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược do NXB Khoa học xã hội công bố năm 1981, gần đây in lại trong sáchVăn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật, NXB Giáo dục, 2013. Cũng vì thời gian cách nay đã trên 30 năm, bấy giờ mạng internet chưa ra đời, nên lúc viết tôi không có điều kiện tìm tòi thêm tư liệu khác của Trung Quốc. Muốn làm điều ấy chỉ có thể vào thư viện, mà thư viện chuyên ngành ở Việt Nam là Thư viện Khoa học Xã hội tiếp quản từ Viễn Đông bác cổ Pháp, thì số sách Trung Quốc còn tàng trữ, trừ Việt kiệu thư ra, hầu như rất hiếm những sách nói sâu về cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh. Tìm kiếm các bộ Minh sửMinh thực lục... ở Hà Nội thời điểm đó cũng bằng như “ngậm ngải tìm trầm”. Những nhận xét của học giả Hồ Bạch Thảo về sự hạn chế tài liệu tham khảo trong bài quả tình xác đáng.


Tập I Việt kiệu thư, bản của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cũ


Tuy vậy, từ đó mà đi tới cho rằng những tư liệu tôi “trưng ra” từ sách Việt kiệu thư là không có giá trị, do tác giả cuốn sách, Lý Văn Phượng, là một nhà viết sử không chuyên, chỉ nhặt nhạnh những truyền ngôn đầu đường xó chợ, như những gì tôi lĩnh hội được qua cách “thử lý giải” về “sự khác lạ” theo ý ông Hồ Bạch Thảo (xin xem: Thử lý giải tại sao những sử liệu thời Minh do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trưng lên từ Việt Kiệu Thư khác với Minh Thực Lục, trang mạngVăn hóa Nghệ An 28-9-2013, hoặc trên mặt báo này), thì lại là một nhận định e chưa thật thanh thỏa, nên xin được trao đổi lại với ông.
Trước hết, hãy làm rõ Lý Văn Phượng là người thế nào? Nói như ông Hồ Bạch Thảo, Lý Văn Phượng “không phải là nhà viết sử chuyên nghiệp” thì về hình thức nghe dường như hợp lý, song có lẽ chính xác hơn ta nên dùng cụm từ ông “không phải là sử quan”. Bởi vì ở phương Đông nói chung, trong thời kỳ phong kiến, làm gì có trường đại học chuyên ngành để có những sinh viên được học chuyên về sử học và khi ra trường trở thành nhà viết sử hoặc dạy sử chuyên nghiệp? Chẳng qua, người nào được vua cử vào ngạch nào thì nhận lấy chức việc ở ngạch ấy, và ngay cả khi nhận rồi cũng không phải cứ thế là mang lấy “nghiệp” cho đến chết; có khi đang từ ngạch “sử quan” hay “học quan” bỗng được đổi sang ngạch “đường quan”, bổ ra làm quan ngoài để trở thành một bậc “dân chi phụ mẫu” – hoặc cũng có trường hợp ngược lại – là chuyện vẫn thường xảy ra. Vậy, nếu tính đến sự hơn kém giữa Lý Văn Phượng với những vị làm việc trong Viện Quốc sử đương thời của triều Minh thì thiết tưởng, điều đầu tiên đáng xét, là về khoa danh, liệu ông này có được học hành chu đáo, nghĩa là có đỗ đạt gì không. May mắn, đây vốn là một nhân vật được coi là danh sĩ của đất Quảng Tây nên trong một thập kỷ vừa qua đã có không ít bài trên báo chí địa phương, nhắc đến, hoặc giới thiệu, bình luận, khảo cứu về tiểu sử và sự nghiệp, trong đó có bài của Lục Nguyệt Linh (mà ông Hồ Bạch Thảo có viện dẫn): Học giả thời Minh kê cứu phong vật của Việt Nam (Bàn điểm Việt Nam phong vật đích Minh đại học giả 盘点越南风物的明代学者) viết trên tờNam quốc tảo báo 南国早 số ra ngày 25-7-2009, rất đáng chú ý, và công trình biên khảo tương đối kỹ lưỡng của Đàm Hồng Song, một nữ Thạc sĩ nghiên cứu sinh ở Viện Văn học thuộc Trường Đại học Sư phạm Quảng Tây: Khảo về cuộc đời và trước tác của Lý Văn Phượng người Nghi Sơn triều đại Minh(Minh đại Nghi Sơn Lý Văn Phượng sinh bình cập trước tác đích khảo 明代宜山李文凤生平及其著作考) đăng trên Hà Trì học viện học báo 河池學院學報, Q. 29, kỳ thứ 3, tháng 6 năm 2009, căn cứ vào hầu hết sách vở từ thời Minh cho đến hiện đại, cả địa phương chí cũng như Tứ khố toàn thư, đưa ra những kiến giải đáng tin cậy. Tổng hợp các nguồn tài liệu này lại, ta có được vài thông tin tóm lược sau đây: Lý Văn Phượng tự Đình Nghi, hiệu Nguyệt Sơn Tử, người huyện Nghi Sơn (nay là Nghi Châu), tỉnh Quảng Tây, sinh khoảng 1510, mất khoảng 1552, đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm Ất Dậu niên hiệu Gia Tĩnh (1525) và đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn cùng niên hiệu (1532). Được bổ chức Đại lý tự thiếu khanh ở kinh đô trong 8 năm. Đến 1540, thăng Binh bị thiêm sự Quảng Đông. Về sau đổi sang làm Thiêm sự Vân Nam. Một thời gian sau đó, do bị bệnh đau chân không lành nên xin về trí sĩ. Tác phẩm có Việt kiệu thư vàNguyệt Sơn tùng đàmNguyệt Sơn tùng đàm có cả văn xuôi và thơ, góp nhặt tác phẩm từ khi còn ở kinh đến mãi cuối đời, được một số danh sĩ đề bạt; riêngViệt kiệu thư thì còn có những bản sao lưu lạc, tàn khuyết, bị người khác thay đổi nhan đề thành Cô trung tiểu sử 孤忠小史, rồi có một vị Tổng đốc Lưỡng Giang (Giang Nam – Giang Tây) đem dâng lên triều đình để đưa vào Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu. Như vậy, nói về học vấn, Lý Văn Phượng không phải là một anh đồ nho vườn mà là một học sĩ xuất thân từ bậc học cao nhất, cũng không phải là người quá xa lạ với các nguyên tắc ngôn hành mà triều đình nhà Minh quy định cho văn nhân học sĩ, vì ông có đến 8 năm kinh lịch trong triều. Ông là người có học thức ngang ngửa các vị sử quan cùng thời mình.
Nhưng còn quan trọng hơn, là cách đánh giá trước tác của Lý Văn Phượng so với trước tác của các vị sử quan. Không nói quan điểm nước ngoài mà ngay tại Trung Quốc thôi, giới sử học từ lâu vẫn ít khi xem xét thành tựu của sử quan một cách chung chung, trừu tượng. Họ thường gọi những người có vị trí học thuật đáng kể trong giới sử là “sử gia”, mà sử gia xuất thân từ sử quan trong lịch sử thường chỉ là một số, còn tuyệt đại bộ phận thì lại không phải là sử quan (换言之, 史官当中固不乏优秀的史家, 优秀的史家则并非都是史官. 因此要全面认识中国古代的史学, 还必须充分认识到历代都有很多并非身为史官的史家所作出的杰出贡献. 们的业绩, 有不少是历代史官所不及的. Xem tại đây). Chỗ mấu chốt: sử quan thì phải viết sử theo những thể lệ nghiêm ngặt của nhà nước; việc lấy hay bỏ các sự kiện lịch sử đều phải tuân thủ những tiêu chí chặt chẽ, với tinh thần tôn vinh đấng chủ tể và chế độ mà mình phụng sự, không được để sót trong trang viết những “tì vết” làm giảm uy phong của triều đình. Chẳng hạn, Minh Thành Tổ vốn là người đa nghi hiếu sát, cướp ngôi Kiến Văn Đế là cháu ruột khiến Văn Đế phải tự thiêu mà chết, lại giết hết những đại thần thân tín của Văn Đế, trong đó có người như Phương Hiếu Nhụ ông ta giết đến 10 họ (tru di thập tộc); và là người suốt đời nung nấu tham vọng bành trướng lãnh thổ, bên cạnh việc xâm lược Việt Nam còn tự thân chinh đánh Mông Cổ đến 5 lần trong gần suốt 22 năm làm vua. Thế nhưng khi ghi chép vào bộ thực lục về ông ta (mà học giả Hồ Bạch Thảo đã trích dịch thành ba tập riêng về quan hệ Trung Quốc – Việt Nam rất công phu, nghiêm túc) thì sử quan vẫn phải viết cho “đẹp mặt” ngài ngự, rằng ngài vốn có đức hiếu sinh, lúc nào cũng thương xót dân đen trong bốn biển, bất đắc dĩ lắm mới đụng đến đồ binh khí. Những chuyện là sự thực sờ sờ không thể che giấu thì cũng cố gắng lược bớt, hoặc dùng uyển ngữ làm giảm chỗ “khó nuốt” xuống dăm ba phần. Với những người viết sử đứng ngoài cơ quan quốc sử lại không hẳn thế. Họ cũng bị câu thúc không phải không ngặt nghèo song ít nhiều vẫn có được sự phóng túng trong ngòi bút, dám có bản lĩnh ghi lại những cái gọi là “sử thực”. Bởi vậy, không phải đến bây giờ Trung Quốc mới biết đánh giá cao lớp người gọi là “tư nhân soạn thuật lịch sử”, coi đó là một bước tiến vượt bực của sử học so với “quan sử” tức sử nhà nước, sử quan phương. Lý Văn Phượng chính là thuộc lớp người sau.
Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng là một bộ sử nhưng thuộc một môn loại khác với thông sử. Nó là “địa phương chí”, “địa lý chí”. Đối tượng của nó là thu thập tài liệu, khảo sát nhiều mặt về mảnh đất Việt Nam – mà Phượng khinh thường gọi là cái gò hoang – qua các thời kỳ lịch sử từ thượng cổ cho đến năm 1540 là năm sách hoàn thành. Nó không viết về chính tích của triều đại Minh (nội trị, ngoại giao, quân sự – đánh Bắc dẹp Nam, bành trướng lãnh thổ...) nên đương nhiên thể tài khác hẳn với Minh thực lục. Nhưng trong vấn đề chính sách cũng như hành động của Minh Thành Tổ đối với “An Nam” thì nó lại ghi chép sâu, kỹ và đầy đủ hơn hẳn Minh thực lục, đó cũng là lẽ thường.
Ông Hồ Bạch Thảo cho rằng Lý Văn Phượng phải dùng An Nam chí lược của Lê Trắc làm “lam bản”, tức là tài liệu tham khảo chính, và ông suy luận: “Phải dùng sử liệu của một tác giả người Việt để thực hiện phần lớn bộ sử, chứng tỏ tài liệu dưới tay Lý Văn Phượng rất hạn chế”. Tôi nghĩ ngược lại. Một cuốn sách địa chí về Việt Nam thì phải tham khảo những cuốn sách cùng thể loại viết trước mình và cùng một đối tượng, có gì lạ đâu. Mà những cuốn sách viết trước cùng thể loại với Việt kiệu thư hỏi có cuốn nào đầy đủ, hệ thống như An Nam chí lược? Trong trường hợp này, bỏ qua không tham khảo An Nam chí lược mới là điều đáng trách. Tuy nhiên, An Nam chí lược chỉ viết đến thời Nguyên trở về trước (theo khảo chứng của học giả Trần Kinh Hòa thì bài tựa của tác giả viết năm 1336). Việt kiệu thư, như đã nói, còn viết đến tận 1540. Cách nhau đến hơn 200 năm. Theo đà suy luận ở trên, ông Hồ Bạch Thảo nhận định: “riêng về các sử liệu từ đầu triều Minh cho đến lúc đó [1540] thì cũng chỉ thu thập những điều ghi chép tản mạn trong dân chúng, hoặc có kẻ nhớ được thì kể lại, đúng như cái mà cụ Khổng gọi là “đạo thính đồ thuyết” (nghe ngoài đường, nói ngoài lộ), bởi vậy độ tin cậy rất hạn chế”. Nhưng khác với ông, không hiểu sao đối với một cuốn sách “tầm thường” như thế, nữ Thạc sĩ Đàm Hồng Song và rất nhiều học giả Trung Quốc lại không dám khinh suất, coi thường. Đàm Hồng Song xét kỹ hành trạng của Lý Văn Phượng vào năm 1540, cho biết, trong năm này, An Nam nhiều lần xâm phạm duyên hải Quảng Đông nên Lý là một trong những sĩ đại phu được Tổng đốc Lưỡng Quảng mời lên trình bày phương lược đối phó và được giao cho chuyên trách quân vụ Quảng Đông. Nhờ đó, ông đi sâu xem xét tình hình, bày mưu bắt “giặc biển” có thành tích. Do công việc đòi hỏi, “Văn Phượng được tham duyệt nhiều sử liệu liên quan đến An Nam, và đó là cơ sở vững chắc và xác thực giúp ông biên chép nên cuốn Việt kiệu thư cũng vào thời gian ấy” (文鳳此期間參說了許多有關安南的史料, 從而為他編瀉越嶠書打下了堅實的基礎. 其著作越嶠書亦當編于此期間. Xem: baidu.com →[doc格式明代宜山李文凤生平及其著作考 -豆丁网). Đàm Hồng Song còn mượn lời một học giả đàn anh là Trương Tú Dân để đánh giá tổng quát: “Việt kiệu thư do mang tính chất một bộ sử thư nên có giá trị cao về lịch sử và văn hiến (chúng tôi nhấn mạnh – NHC)Đặc biệt, những sử liệu về An Nam vào thời Minh thu thập được trong sách, cực kỳ rõ ràng đầy đủ, có thể bổ sung cho phần thiếu khuyết của bộ Minh sử, phần “An Nam truyện”. Có thể nói Việt kiệu thư là một trước tác tham khảo trọng yếu cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam và lịch sử quan hệ Trung Việt” (《越嶠書》因其史書性質使它具有較高的歷史, 文獻价. 尤其書中所收明代安南史料, 極為詳備,可以補《明史。安南傳》之缺. 可以說《越嶠書》是研究越南歷史及中越關系史的重要參考著作. Xem: baidu.com →[doc 格式明代宜山李文凤生平及其著作考 -豆丁网 ).
Kỳ thật, Trương Tú Dân张秀民 (1908 - 2005), chuyên gia thư tịch học nổi tiếng ở Thư viện Bắc Kinh, từng có nhiều công trình khảo tả rất chi tiết về thư mục chuyên ngành quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, trước Đàm Hồng Song 13 năm đã viết về Việt kiệu thư tỉ mỉ hơn nhiều: “Nội dung bộ sách phong phú, sử liệu về An Nam vào thời Minh mà ông [Lý Văn Phượng] thu thập được cực kỳ rõ ràng đầy đủ, có thể bổ sung những chỗ thiếu khuyết của bộ Minh sử, phần “An Nam truyện”. Những đạo sắc dụ bí mật do vua Vĩnh Lạc [Minh Thành Tổ] ban ra trong thời gian bình định Giao Chỉ, phần nhiều trong Minh Thái Tông thực lục chưa hề được ghi chép, nên lại càng đáng coi là trân quý; [đây] là bộ sách tham khảo trọng yếu nhất nghiên cứu lịch sử An Nam” (chúng tôi nhấn mạnh – NHC) (內容豐富, 所收明代安男史料極為祥備, 可補明史。安南傳之缺. 永樂平交所頒機密敕諭多為明太宗實錄所未載, 尤可珍, 為研究安南史最重要之參考書. Xem: An Nam thư mục đề yếu thập nhất chủng安南书目提要十一種, 《中国东南亚研究会通讯》,1996,(12tr. 45. Có thể đọc từ địa chỉ này). Chính Trương Tú Dân là người đã biết đến bản in trên giấy dầu (du ấn 油印) lưu tại Viễn Đông bác cổ Pháp Hà Nội – sau đó được Émile Gaspardone dịch một phần sang tiếng Pháp – mà chúng tôi từng tìm đọc năm 1972 và mấy ngày gần đây cất công tìm lại, may mắn vẫn còn.
Kể cả một người Nhật (?) là Luuchicuong trong bài Những thư tịch văn sử Hán văn có quan hệ đến lịch sử và văn hóa Việt Nam (有关越南历史文化的汉文史籍) đăng trên Học thuật luận đàn术论坛số tháng 12 năm 2007 cũng mô tả và đánh giá Việt kiệu thư gần như Trương Tú Dân: “Bộ sách ghi chép những sự tích về An Nam, nội dung phần lớn tương đồng với An Nam chí lược của Lê Trắc, nhưng những sự tích trong khoảng từ đầu thời Minh cho đến niên hiệu Gia Tĩnh thì được bổ sung thêm. Những sắc dụ cơ mật về việc bình định An Nam ban bố trong niên hiệu Vĩnh Lạc [Minh Thành Tổ] phần lớn không được ghi lại trong Minh Thái Tông thực lục thì ở Việt kiệu thư có thể tìm thấy không ít” (chúng tôi nhấn mạnh – NHC) (该书所记安南事迹,内容与黎崱所著《安南志略》大多相同,但增加了明朝初年到嘉靖年间的事迹,永乐年间平定交阯所颁机密赦谕,在明朝《太宗实录》中很多 都没有记载,在《越峤书》可查到不少。Xem tại đây).
Ngay việc lấy An Nam chí lược làm “lam bản” thì cũng không phải Việt kiệu thư cứ thế bê nguyên xi mọi thứ trong An Nam chí lược vào sách của mình. Là người có điều kiện “tham duyệt nhiều tài liệu liên quan đến lịch sử An Nam”, “và tiếp xúc hỏi han đám “giặc biển” Việt Nam bị bắt” như khảo cứu của Đàm Hồng Song, trong khi tham khảo Lê Trắc, họ Lý có những chỗ đã thêm bớt, hiệu chỉnh. Ông Hồ Bạch Thảo viện dẫn Lục Nguyệt Linh để chê Việt kiệu thư là không đáng tin cậy, nhưng chúng tôi đọc bài Lục Nguyệt Linh không thấy toát lên ý này. Ngược lại, Lục Nguyệt Linh cho rằng “sách Việt kiệu thư đúng là sách có tính chuyên nghiệp tương đối cao, một bộ địa lý chí, về nội dung có cứ liệu đáng tin cậy” (《越峤书》则是较为专业、详述安南的地理书,内容有据可考). Lý Văn Phượng đã “bổ sung một khối lượng lớn sự kiện lịch sử xác thực từ đầu Minh cho đến niên hiệu Gia Tĩnh trong thời gian ông đảm nhiệm chức Binh bị thiêm sự ở Quảng Đông để soạn nên Việt kiệu thư” (加入了明初至嘉靖年间的大量史实,在广东兵备佥事任期内, 撰写了《越峤书》), nên giữa hai sách có khá nhiều xuất nhập. Một vài ví dụ: “Về phong tục của An Nam, An Nam chí lược và Việt kiệu thư miêu thuật tựa hồ tương tự nhau, nhưng chỗ khác biệt giữa hai tác giả mới là thú vị nhất. Như: nội dung mà Lý Văn Phượng làm rõ thêm là người An Nam giữ gìn phong tục “xứ di” song họ không thẹn, vẫn dám so sánh chỗ hơn với Trung Quốc. Ông còn nhấn mạnh rằng hôn lễ An Nam rất tự do, do chính lớp người trẻ tự sắp đặt lấy. Trong đó, đám cưới của các gia đình sĩ tộc thường quyết định vào mùa xuân. Bà mối đến nhà gái đánh tiếng, nếu được nhận lời thì việc thế là xong, tiền của làm sính lễ từ trăm đến nghìn [quan]. Còn trong mắt người bình dân thì được vài trăm “chữ” [đồng tiền] đã là con số may mắn, thậm chí đưa nhiều đưa ít cũng không quá xét nét. Con gái những nhà vùng biển, từ tháng Giêng đến tháng Ba nông lịch thường kết bạn đi chơi giữa đồng ca hát. Đám con trai đã lớn ở các vùng phụ cận cũng mời bạn bè trang lứa tụ tập kéo đến trước mặt hát đối đáp với nhau. Nếu có cặp nào nảy sinh cảm tình trong khi ca xướng thì bèn kết thành đôi lứa. Cũng có người nhân đó mà trở thành vương phi” (《安南志略》与《越峤书》关于安南风俗部分,描述几乎一模一样,但两者不同处最有意思。如,李文凤加进的内容是安南人保存了夷地风俗,虽然他们不耻,仍 敢跟中国比较。他还强调安南的婚礼很自由,由年轻人自己安排。其中士族的婚嫁一般在春天时决定,媒人上女方家问一声,如答应就算成了,送的财物从百到千。 在平民眼里,整百的数字为吉祥数,至于送多送少不太讲究。海上人家的女孩,从农历正月到三月,结伴到野外放歌。附近的成年男子也邀同伴前往对歌,如果一来 二往唱出感情,便可结合。还有人因此成为王妃. Xem tại đây). Cách đánh giá của Lục Nguyệt Linh cho thấy ông không hạ thấp mà đề cao Việt kiệu thư.
Tất nhiên, do không được in ấn từ sớm, tình trạng “tam sao thất bản” của Việt kiệu thư là không tránh khỏi. Ông Hồ Bạch Thảo đã vạch ra rất đúng sự chênh lệch về ngày tháng ban bố “Chiếu bá cáo thiên hạ bình định xong Giao Chỉ” của Minh Thành Tổ giữa văn bản chép ở Việt kiệu thư và văn bản chép ở Minh Thái Tông thực lục. Một bên, Việt kiệu thư ghi ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), một bên, Minh Thái Tông thực lục lại ghi ngày 1 tháng Sáu năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Cách nhau đúng 3 tháng. Nếu đối chiếu với sự kiện lịch sử thì tháng Ba âm lịch năm đó, quân Minh mới chiếm được thành Thăng Long và kéo vào Tây Đô, còn phải đánh nhau giằng co và đuổi theo cha con Hồ Quý Ly đến đầu tháng Năm mới bắt được họ ở cửa biển Kỳ La. Không thể chối được, hậu quả “tam sao thất bản” của Việt kiệu thư chính là những tỳ vết như trên. Và không chỉ có chừng ấy. Ông Hồ Bạch Thảo còn tìm thấy sự “khác lạ” trong bài Bá cáo thiên hạ do Lý văn Phượng ghi chép ở một đoạn đáng coi là quan trọng: đoạn Minh Thành Tổ kết tội Hồ Quý Ly khinh rẻ các bậc “tiên nho” sư biểu của đám vua quan Đại Hán.
Một bên Minh Thái Tông thực lục viết: “Rồi tặc thần Lê Quý Ly cùng con là Thương, soán thí quốc chúa, giết hết cả nhà [chúa], làm khổ hại sinh linh, tiếng oan dậy đất; ngụy cải họ tên là Hồ Nhất Nguyên, con đổi tên là Hồ Đê. Chúng che đậy sự thực, xưng là cháu ngoại họ Trần; nói xằng rằng nhà Trần nay đã tuyệt tự, cầu xin được phong tước. Trẫm nghĩ rằng dân trong nước phải được coi sóc, nên đành nghe theo, rồi mưu gian chúng lộ ra rõ ràng, lăng loàn không kiêng kỵ. Tự cho ưu việt như Tam Hoàng, đức cao bằng Ngũ đế; chê Văn Vũ không cần theo, Chu Khổng không đủ học; tiếm xưng hiệu là Đại Ngu, đặt niên hiệu Nguyên Thánh, xưng Lưỡng Cung Hoàng đế. Chúng mạo lập triều đình, thiết lễ nghi (比者賊臣黎季犛及子蒼弑其國主。戕及闔家。毒痛生民。怨聲戴路。詭易姓名為胡一元。子為胡Description: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/sach-viet-kieu-thu-trong-con-mat-gioi-su-hoc-duong-dai/hc-hbt_dde.jpg 。隱蔽其實。詭稱陳甥言陳氏 絕嗣。請求襲爵。朕念國人無統。聽允所云。幸成奸謀。肆無忌憚。自謂聖優三皇。德高五帝。以文武為不足法。周孔為不足僭。國號曰大虞。紀年元聖。自稱兩宮 皇帝。冒用朝廷禮儀) (Minh thực lục, V, 11, tr. 943; Thái tông thực lục Q. 68,tr. 1a) (Bản dịch và bản Hán văn đều theo Hồ Bạch Thảo, Minh thực lục – Quan hệ Trung Quốc - Việt Nam thế kỷ XIV - XVII, Tập I, NXB Hà Nội, 2010; tr. 256-257 và tr. 667).
Một bên Việt kiệu thư viết: “Mới rồi bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong dòng họ [Trần], lan đến cả bề tôi thân tín, đều lâm tai họa thảm khốc, bị truy bức tru diệt. Chúng hung hãn gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường. Cáo đa nghi vượn náu nấp, chuột ranh mãnh sói tham lam. Quỷ quyệt đổi họ tên là Hồ Nhất Nguyên, con là Hồ Đê. Che giấu sự thực, mạo xưng cháu ngoại họ Trần, nói gạt rằng họ Trần đã tuyệt tự, xin kế thừa ngôi vương. Trẫm nghĩ người trong nước không có chỗ thống thuộc, có biết đâu kẻ kia man trá, nên cũng nghe lời. Mắc may mà đạt được mưu gian, liền buông thả ngay cái chí bay nhảy. Hoàn toàn không còn chút kiêng sợ. Chẳng có việc gì mà không làm. Tự coi đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công, Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp. Lừa thánh dối trời, vô luân vô lý. Tiếm xưng quốc hiệu là Đại Ngu. Trộm ghi niên hiệu là Thiệu Thánh. Tự gọi mình là lưỡng cung hoàng đế, mạo dùng nghi lễ của triều đình [nhà Minh]” (比者其臣黎季釐黎蒼。久蓄虎狼之心。竟爲呑噬之擧。殺其國王。戕其本宗。覃被陪臣。重罹慘酷。掊克殺戮。毒痛生民。雞犬弗寧。怨聲載路。狐疑狙伏。鼠黠 狼貪。詭易姓名。爲胡一元。子爲胡Description: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/sach-viet-kieu-thu-trong-con-mat-gioi-su-hoc-duong-dai/hc-hbt_dde.jpg 隱蔽其實。矯稱陳甥。誑言 陳氏絶嗣。請紹襲王。朕思國人無所統屬。不逆其詐。聽允所云。倖成奸譎之謀。輒肆跳梁之志。全無忌憚。靡所不爲。自以爲道優於三王。德高於五帝。以禹湯文 武爲不足法。周公孔子爲不足師。毁孟子爲盜儒。謗周程張朱爲剽竊。欺聖欺天。無倫無理。 僭國號曰大虞。竊紀年曰紹聖。稱爲兩宮皇帝。冒用朝廷禮儀。Việt Kiệu thư. Q. 2, tờ 27b, ký hiệu Thư viện Viện Thông tin khoa học Xã hội: HV. 000276(1)).
                          
Chiếu bá cáo thiên hạ bình An Nam, bản in Việt kiệu thư tại Viễn Đông bác cổ Pháp cũ, tờ 27b

So sánh sơ qua giữa hai bản thì lời lẽ “mắng nhiếc” nhà Hồ trong Việt kiệu thư nặng nề hơn và cũng hằn học hơn, mặt khác việc Hồ Quý Ly bài xích các đại nho tên tuổi nhiều đời của Trung Quốc cũng được liệt kê đầy đủ, không nói lướt đi như trong Minh Thái Tông thực lục. Theo lô gích thông thường mà tôi đọc được trong tinh thần “chất chính” của ông Hồ Bạch Thảo thì bản trong Việt kiệu thư cầm chắc không đúng với bản gốc, vì ngay thời điểm ban bố bài chiếu vào mồng một tháng Ba (khi chưa toàn thắng) đã khiến người đọc phải nghi ngờ. Ấy thế mà thật lạ, nếu đối chiếu với cũng chính bài Chiếu bá cáo thiên hạ bình định Giao Chỉ do Minh Thành Tổ phái các viên quan nhà Minh sang tuyên đọc trước triều đình nước Triều Tiên vào ngày 1 tháng Năm âm lịch, sau đó in vào bộ sử Triều Tiên thực lục, có dè đâu so với văn bản Việt kiệu thư lại gần nhau như hai giọt nước, chỉ sai khác cùng lắm là vài chục chữ. Xin trích lại đoạn tương đương trong Triều Tiên thực lục để tiện đối sánh.
Triều Tiên thực lục viết: “Mới rồi kẻ thần tặc [của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và con Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc chủ, tàn sát người trong dòng họ [Trần], lan rộng đến cả bề tôi thân tín, đều lâm vào tai họa thảm khốc, bị truy bức tru diệt. Chúng hung hãn gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường. Cáo đa nghi vượn giảo hoạt, chuột ranh mãnh sói tham lam. Quỷ quyệt đổi họ tên là Hồ Nhất Nguyên, con là Hồ Ngẫn [các chữ Description: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/sach-viet-kieu-thu-trong-con-mat-gioi-su-hoc-duong-dai/hc-hbt_dde.jpg, , rất dễ đọc nhầm]. Che giấu sự thực, mạo xưng cháu ngoại họ Trần, nói gạt rằng họ Trần đã tuyệt tự, xin kế thừa phong vương. Trẫm nghĩ người trong nước không có chỗ thống thuộc, có biết đâu kẻ kia man trá, nên cũng nghe lời. Mắc may mà đạt được mưu gian, liền buông thả ngay cái chí bay nhảy. Hoàn toàn không còn chút kiêng sợ. Chẳng việc gì khuất tất không làm. Tự coi đạo của mình hơn cả Tam hoàng, đức cao hơn Ngũ đế, cho Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công, Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Trình Chu là phường trộm cướp. Lừa thánh dối trời, vô luân vô lý. Tiếm xưng quốc hiệu là Đại Ngu. Trộm ghi niên hiệu là Thiệu Thánh. Tự gọi mình là lưỡng cung hoàng đế, mạo dùng nghi lễ của triều đình [nhà Minh]” (比者賊臣黎季釐子黎蒼。久蓄虎狼之心。竟爲呑噬之擧。殺其國主。戕及闔宗。覃被[]陪臣重罹其慘。掊克殺戮。毒痡生民。雞犬不寧。怨聲載路。狐疑狙 狡。鼠黠狼貪。詭易姓名爲胡一元。子爲胡夽。隱蔽其實。矯稱陳甥。誑言陳氏絶嗣。請求紹襲王封。朕念國人無所 統屬。不逆其詐。聽允所云。倖成奸譎之謀。輒肆跳梁之志。專無忌憚。靡慝不爲。自以爲聖優於三皇。德高於五帝。以文武爲不足法。下周孔爲不足師。毁孟子爲 盜儒。謗程朱爲剽竊。欺聖欺天。無倫無理。僭國號曰大虞。竊紀年曰紹聖。稱爲兩宮皇帝。冒用朝廷禮儀。Xem tại đây(2)).
Hẳn học giả Hồ Bạch Thảo cũng thấy, cùng một bài chiếu thôi mà hai bản gửi ra khỏi biên cương, đến hai nơi cách xa nhau nghìn trùng về địa lý, lại gần giống hệt nhau, riêng bản “chuẩn” lưu ở hoàng cung thì khác nhiều về câu chữ. Chẳng lẽ đám sử quan Triều Tiên dám tự tiện thêm thắt vào những lời vàng ngọc của đấng thiên tử thiên triều? Và thêm thế nào mà rốt cuộc lại giống với bản của An Nam (sau nhiều chặng đường lưu chuyển đã lọt vào kho tài liệu ở Quảng Đông để sau rốt đến tay một viên quan Thiêm sự ham mê địa lý học lịch sử)? Khó nghĩ quá. Chỉ có một giả thuyết có phần hợp lý và cũng đúng với “quy luật vận động thông thường giữa trung tâm và ngoại vi” là “cái nằm tại ngoại vi” thường giữ được ổn định lâu dài, còn “cái nằm tại trung tâm”, nơi đám sử quan nhiều phẩm hàm cao thấp của triều đình nhà Minh phải có nghĩa vụ để mắt săm soi, điều chỉnh, gọt giũa, khuyên điểm, nhấc lên đặt xuống từng câu chữ, trước khi trở thành “châu bản” cất vào kho báu (và sao chép ra hai bản để đưa vào thực lục), thì mới bị xáo trộn nhiều – theo hướng làm sao tôn cao hình ảnh “chí đức chí thiện” của đấng quân vương, kể cả giảm đẳng thái độ “xấc xược” của kẻ thù về lời nói và hành vi (nếu không tâm lý chung của vua quan thiên triều sẽ không chịu nổi) – và rốt cuộc mới ra nông nỗi vênh lệch hẳn với nhau.
Còn về ngày tháng, theo tôi, sự sai dị giữa ba văn bản cũng gợi lên một giả thuyết: Ngày tuyên bố chiếu chỉ ở “cõi ngoài” hẳn là mồng một tháng Năm âm lịch. Cả ở An Nam, ở Triều Tiên và có thể ở Chiêm Thành, Tiêm La, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v. đều có phái đoàn Trung Quốc sang tận nơi ban chiếu và tuyên chiếu cùng một khoảng thời điểm nhất định, như trong sử Triều Tiên viết, triều đình Triều Tiên cho mở hội diễn trò, hoan hỷ chào đón, kế đó mới kéo nhau đến một ngôi điện long trọng, nhận chiếu chỉ, và một người đọc lên bằng tiếng Hán, một người dịch ra tiếng Triều (甲寅朔/內史鄭昇、行人馮謹, 齎平安南詔來, 結山棚, 陳百戲, 上率百官具朝服, 迎于盤松亭。 前導至景福宮, 使臣宣詔, 命鄭矩以鄕音曺正以漢音讀(3)). Nếu đúng như vậy thì phải chờ khi các sứ bộ đã trở về Yên Kinh đầy đủ, tâu cáo lên bề trên, xong đâu đấy Minh Thành Tổ mới cho chính thức đọc trước lầu Ngọ môn ngoài hoàng thành. Cách nhau một tháng, mồng một tháng Năm và mồng một tháng Sáu, là hợp lý. Chữ “tam ” trong Việt kiệu thư là do chữ “ngũ ” viết nhầm, hai chữ này rất dễ nhầm với nhau lúc sao đi chép lại(4).
Vấn đề cuối mà ông Hồ Bạch Thảo tỏ ý băn khoăn là đạo sắc nói về việc không dùng Bùi Bá Kỳ. Trong Việt kiệu thư đạo sắc này viết vào ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), nhưng gần ba tháng sau đó lại có sắc ban cho Bùi Bá Kỳ làm Tả hữu tham chính ở Giao Chỉ. Sao lại mâu thuẫn như vậy? Đọc lại bài viết của mình, tôi nghĩ do bản thân diễn đạt không sáng rõ nên đã làm ông Thảo hiểu lầm. Đạo sắc Minh Thành Tổ gửi đến Tổng binh Trương Phụ (thay Chu Năng) chi muốn nhắc Phụ cần chú ý tranh thủ sử dụng đám quan chức An Nam, nhân tiện đưa việc Bùi Bá Kỳ không được dùng để làm ví dụ. Sử nhà Minh chép Bùi Bá Kỳ là tỳ tướng của Trần Khát Chân, vào ngày 6 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404) trốn sang Nam Kinh kêu cầu triều đình Minh đem quân sang “phạt tội” cha con họ Hồ để vãn hồi lại cơ nghiệp nhà Trần. Đến ngày 28 tháng đó lại có Trần Thiên/Thiêm Bình (Minh thực lục: ThiênĐại Việt sử ký toàn thư: Thiêm) xưng là con cháu nhà Trần, được Tuyên úy sứ nước Lão Qua hộ tống sang Nam Kinh xin nhà Minh xuất quân xuống phương Nam “cứu dân phạt tội”. Thế rồi, nhân có Nguyễn Cảnh Chân là sứ giả của Hồ Đê sang Minh dâng biểu tạ, Minh Thành Tổ bèn ra lệnh cho Tổng binh Quảng Tây là Hàn Quan đem 5.000 quân hộ tống Thiên/Thiêm Bình về nước; khởi hành vào khoảng giữa tháng Giêng, đến ngày 16 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), đạo quân của Hàn Quan bị phục binh của nhà Hồ đánh cho tan tác tại biên giới, Trần Thiên/Thiêm Bình bị giết. Mãi cho đến khi Minh Thành Tổ điều Tổng binh Chu Năng và Phó tướng quân Mộc Thạnh chính thức kéo đại quân sang xâm lăng Việt Nam, xuất phát vào ngày 4 tháng Bảy cùng năm, cũng không còn một dòng nào nhắc đến thân phận của Bùi Bá Kỳ. Nhưng Đại Việt sử ký toàn thư thì ghi rất rõ: Thiêm Bình vốn ngụy xưng con cháu nhà Trần, Bùi Bá Kỳ vì thế có lẽ không mấy mặn mà, nên khi vua Minh cho hai người gặp nhau, hỏi Bá Kỳ có biết Thiêm Bình không, Kỳ trả lời không biết. Rồi trước khi nhà Minh cho đưa Thiêm Bình về nước, ướm hỏi Thiêm Bình cần bao nhiêu quân, Thiêm Bình tâu chỉ cần vài nghìn là đủ. Bá Kỳ lên tiếng phản đối ý tưởng viển vông của Bình. Minh Thành Tổ vốn đã có chủ định từ trước, thấy Kỳ nói không hợp ý, ông ta liền cho bắt giam Bá Kỳ, đem an trí tại Thiểm Tây, Cam Túc. Thiêm Bình bị thất bại nhục nhã, ông vua kiêu căng mới thấy lời Bá Kỳ là đúng, bèn lại cho triệu về ban sắc chỉ an ủi, hứa làm theo lời Kỳ (伯耆本陳渴真黨。稱南朝忠義臣。出亡明國。會見偽陳王添平先到。明人問識否。伯耆以不知對。及明人送添平還國。問合用幾多人。添平曰。不過數千。到彼則 人自服。伯耆曰不可。明帝怒。廢伯耆陝西甘肅安置。及添平敗召伯耆還。敕賜諄諄以立陳氏。Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Q. 9, Hậu Trần kỷ, tờ 8b). Ý trong đạo sắc của Minh Thành Tổ chép ở Việt kiệu thư hẳn là chỉ muốn nhắc lại việc làm “không phải”trước đó của chính ông ta, cũng là để ngầm tỏ rằng mình biết rút kinh nghiệm trong cách đối nhân xử thế. Sau khi đánh cướp được nước ta, đặt thành quận Giao Chỉ, Minh Thành Tổ liền cho Bùi Bá Kỳ trở về nhận quan tước (Đại Việt sử ký toàn thưnói là Bùi Bá Kỳ đi theo trong đoàn quân của Trương Phụ và khi Phụ đã chiếm xong An Nam thì ban cho Kỳ chức Hữu tham nghị chứ không phải Tả hữu tham chính). Nhưng cũng chẳng được lâu. Đến tháng Mười, Kỳ lại bị bắt về Kim Lăng vì bản tâm Kỳ chỉ muốn khôi phục lại ngai vàng cho con cháu nhà Trần, mà Minh Thành Tổ thì đâu có muốn. Kỳ là nạn nhân của một đầu óc ngu trung đến lú lẫn, cả tin vào bụng dạ thật thà của “nước mẹ Đại Hán”, có biết đâu bản chất chúng vẫn là lang sói từ nghìn muôn đời nay (xem tiếp Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Q. 9, Hậu Trần kỷ, tờ 8b-9a).
Tôi đã giải trình xong bấy nhiêu băn khoăn trong bài viết của học giả Hồ Bạch Thảo, nghĩ có thể chấm dứt được ở đây. Nhưng rồi đọc kỹ lại Việt kiệu thư và đối chiếu với Minh Thái Tông thực lục phần do ông Thảo dịch, theo tinh thần “ý tại ngôn ngoại” mà suy ngẫm, thì cảm thấy băn khoăn của ông hình như vẫn còn, và chỗ “tồn đọng” không nói ra này mới là điều trở trăn then chốt nhất. Vậy nên lại đành phải cố gắng mở rộng việc khảo sát văn bản thêm một vài điểm, may ra có thể cùng “giải tỏa” được chăng. Vấn đề là tại sao trong Việt kiệu thư có hai đạo sắc của Minh Thành Tổ hạ lệnh cho quân lính phải đốt phá tại chỗ sách vở, bi ký của An Nam, thế mà Minh Thái Tông thực lục lại ghi một đạo sắc khác, với lời căn dặn rất... lương thiện, gần như bác bỏ ý tứ của hai đạo sắc kia: thu hồi sách thì cứ thu hồi song đừng đốt. Ông Hồ Bạch Thảo dịch lời văn sắc chỉ ấy: “Ngày 2 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (15/8/1406): sắc dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Thành quốc công Chu Năng: “quân vào An Nam, phàm tịch thu được thư tịch, bản đồ, đều không được hủy” (乐四年闰七月戊午己未敕征讨安南總兵官成国公朱能等曰師入安南下郡邑凡得文籍圖志皆勿毁。) (Minh thực lục V, II, tr.835; Thái Tông thực lục Q. 57, tr.1a) (Minh thực lục – Quan hệ Trung Quốc - Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, Tập I, sđd, tr.231 và 611).
Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên. Giải thích theo kiểu đổ lỗi cho sử quan thiên triều đã che giấu chỗ vô cùng “nhạy cảm” trong hành vi tàn bạo vượt quá giới hạn cho phép – cả về uy và đức –của đấng quân vương thì hợp lý quá, nhưng chưa chắc trong thẳm sâu của tâm thức người đọc hiện đại đã dễ chấp nhận, vì còn đạo sắc ra lệnh “đừng đốt” nằm từ lâu trong Minh thực lục, sử quan làm sao mà bịa được? Đó là lý do khiến tôi phải đánh đường đi tìm đọc lại Việt kiệu thư đúng bản của Viễn Đông bác cổ Pháp xưa. Sau một ngày rà đi soát lại, đáp số bất ngờ đã tìm ra. Nó đây rồi. Thì ra chẳng ở đâu xa, đó là điều thứ haitrong mật chỉ 10 điều gửi viên tướng Tổng chỉ huy quân đội Chu Năng mà điều thứ ba tiếp theo sau, là hạ lệnh phải đốt phá cho bằng hết sách vở bi ký của người Việt. Nhưng cái điều thứ hai chép trong Việt kiệu thư dài hơn và chi tiết hơn đạo sắc ghi trong Minh thực lục, chứng tỏ sự “lược gọn” của sử quan dưới trướng Minh Thành Tổ là cả một nghệ thuật hết sức tài tình. Nguyên văn và bản dịch trong Việt kiệu thư: “Binh lính vào An Nam, phàm thư tịch ghi chép những thứ tàng trữ trong kho tàng chứa của cải, kho thóc gạo, cùng với sổ ghi hộ khẩu, thuế má, binh bị của nước, bản đồ các quận ấp, thì đều giao cho Thượng thư Lưu Tuấn nắm giữ, các ngươi chỉ cần nắm được đại khái [là đủ]” ([]安南。凡其府庫商廩所儲。及戶口國賦甲兵籍冊。郡邑圖誌並令尚書劉Description: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/sach-viet-kieu-thu-trong-con-mat-gioi-su-hoc-duong-dai/hc-hbt_m1662e712.jpg 之爾總其大概。Việt kiệu thư, Q.2, tờ 17a, ký hiệu Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội: VH.000276). Thế đấy. Mấy chữ “bản đồ quận ấp” đúng là cái “chìa khóa” để ta lần ra gốc gác thống nhất giữa hai văn bản hiện tồn có lời lẽ ít nhiều so le nhau và chép ở hai cuốn sách tưởng chừng cách biệt về đẳng cấp trong thư khố. Tất nhiên, những “thư tịch biên chép của cải, lúa gạo tích trữ trong kho nhà nước, những sổ hộ khẩu, sổ ghi binh khí và đồ bản từng quận huyện, làng xã” thì Hoàng đế nhà Minh dại gì mà cho đốt đi chứ. Phải giữ lại và giao cho một vị Thượng thư có học chứ không giao cho đám võ biền, để còn “khai thác” chúng, nhằm phục vụ công cuộc đô hộ mà từ Yên Kinh ông vua Minh đã sắp đặt việc nào ra việc ấy. Tỉ mỉ, cẩn thận, và cũng gớm ghê thay!
Chẳng biết sự giải trình như thế đã làm học giả Hồ Bạch Thảo hài lòng hay chưa, hay ông vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Nửa tin nửa ngờ cũng phải. Hai đạo sắc dụ bí mật của Minh Thành Tổ bắt phải đốt phá hết thảy sách vở, bi ký của người Việt là sự kiện động trời, ai đọc đến mà chẳng bị “sốc”. Người Việt Nam hiểu biết như học giả Hồ Bạch Thảo đã đành, trí thức Trung Hoa lại càng sốc nặng. Nhưng hễ ai có chút lương tri tất cũng sẽ hiểu, phủ định dễ dãi hai đạo sắc này thì lại càng không ổn; chúng đã được ghi vào sách của một nhà khoa bảng thời Minh, lại đã được học giới Trung Quốc xác nhận là sách có giá trị, người biên soạn không tùy tiện lấy ở “đầu đường xó chợ” đem vào. Vì thế, một học giả đương đại Trung Quốc, Phó nghiên cứu viên Trần Văn陈文ở Sở Nghiên cứu Đông Nam Á Trường Đại học Kỵ Nam, trong bài Thử bàn về chính sách văn hóa giáo dục của nhà Minh tại quận Giao Chỉ và ảnh hưởng của nó (Thí luận Minh triều tại Giao Chỉ quận đích văn giáo chính sách cập kỳ ảnh hưởng 试论明朝在交阯郡的文教政策及其影响), đăng trên tạp chí Trung Quốc biên cương sử địa nghiên cứu 中国边疆史地研究, Q.18, Kỳ thứ 2, tháng 6 - 2008, tuy đã vận dụng nhiều dẫn chứng trong Minh thực lục để ca ngợi Minh Thành Tổ từng thực thi những chủ trương thiết đáng, đem lại cho Giao Chỉ một sự giáo hóa tốt đẹp về nhiều phương diện, song đến phần kết vẫn phải lên án ông ta “đưa ra chính sách đồng hóa quá khích làm cho dân Giao Chỉ bất mãn và phản kháng”. Và thật không ngờ, tác giả cũng đã phải thừa nhận hai đạo sắc trong Việt kiệu thư mà tôi từng công bố trước đấy đúng 41 năm là văn liệu không thể phản bác, dẫu rằng cuối cùng vẫn cố gỡ tội cho hành vi của “nước mẹ” bằng cách tìm “phản chứng” trong sách vở của Việt Nam: “Nhà Minh cho tìm bắt các loại nhân tài của Giao Chỉ dem về Nam Kinh và Bắc Kinh để sai khiến, những công việc lao dịch trên con đường dài tất nhiên dẫn đến làm cho nhân dân Giao Chỉ bất mãn. Một mặt, số lớn thợ thủ công Giao Chỉ cùng với gia thuộc của họ bị bắt về nước [Trung Quốc] để làm việc xây dựng các loại công trình thổ mộc, nhìn trong ngắn hạn thì rõ ràng bất lợi cho sự phát triển thủ công nghiệp của Giao Chỉ. Mặt khác, đối với việc đại quân [Trung Hoa] áp sát biên giới tìm chọn bắt người đều là những việc trưng tập họ đi xa, chẳng có một ai mong muốn, nên người Giao Chỉ hoặc bỏ trốn, hoặc chống đối lại. Nguyễn Hồn [Trãi] sau khi thân phụ là Nguyễn Phi Khanh bị bắt về Nam Kinh, ngày đêm nghĩ cách báo thù, về sau tìm đến Lê Lợi dâng “Bình Ngô đại cáo” [“Bình Ngô sách”], được dùng làm tham mưu, trở thành vị công thần khai quốc của triều nhà Lê. Khi nhà Minh mở khoa thi chọn kẻ sĩ ở Giao Chỉ thì “đám học trò đều lẩn tránh không ra ứng thí” (Phan Huy Chú [Việt Nam], Lịch triều hiến chương loại chí, Q.26, “Khoa mục chí”, bản sao ở Viện Hán Nôm, ký hiệu: A.50/3). Khi một nền văn hóa dân tộc chịu một cú sốc từ văn hóa bên ngoài tất nhiên sẽ thu nhận vào mình một thái độ áp chế ngang ngược. Căn cứ vào ghi chép của sách Việt kiệu thư, tháng Bảy nhuận niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), vào thời gian Chu Năng đem quân sang xâm lược An Nam, Minh Thành Tổ ra lệnh cho quân đội, sau khi đã đánh vào An Nam rồi, “trừ các sách kinh, Đạo giáo, Phật giáo ra thì không thiêu hủy, hết thảy sách vở văn tự cho đến sách ghi chép lễ tục, sách dạy trẻ con, như loại sách có câu “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ”, một mảnh một chữ đều phải tiêu hủy hết. Khắp trong nước ấy phàm những nơi di tích có bia do Trung Quốc dựng thì giữ lại, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy hết, một chữ chớ để còn” (Lý Văn Phượng [Minh], Việt kiệu thư, Quyển 2, tr. 695). Đến ngày 21 tháng Năm niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Minh Thành Tổ lại một lần nữa ra lệnh cho Trương Phụ “hễ bắt gặp một thứ gì thuộc về văn tự ở xứ ấy thì phải cho đốt phá lập tức, không được giữ lại” (Lý Văn Phượng [Minh], Việt kiệu thư, Quyển 2, tr. 798). Còn như quân đội nhà Minh tại An Nam có chấp hành tuyệt đối lệnh chỉ của Minh Thành Tổ hay không, thì chưa thấy sử sách [nhà Minh] nói đến, nhưng sử Việt lại có ghi việc nhà Minh cho sưu tầm sách ở quận Giao Chỉ: tháng Bảy năm 1418 “nhà Minh sai Hành nhân Hạ Thanh, Tiến sĩ Hạ Thì sanglấy sách ghi sự tích cổ kim của nước ta mang về” (Trần Văn Vi [Việt Nam], Lê sử toản yếu, Q.1, bản sao tại Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu: VHv. 1452/2); “Thơ ca, sách vở, bản đồ, thư tịch của nước ta từ thời Trần trở về trước, hết thảy đều [bị người Minh] thu thập mà đưa về Kim Lăng” (Hoàng Cao Khải [Việt Nam],Việt sử yếu, Q. 2, khắc bản trong năm Giáp Dần niên hiệu Duy Tân của Việt Nam). Điều đó đã nói lên rằng mệnh lệnh đốt phá thư tịch của Minh Thành Tổ đều chưa được [quân lính] chấp hành. Tuy vậy, chính sách đồng hóa bằng việc thu thập hết sách vở, bản đồ để thay vào đó các sách kinh điển Nho gia, và các sách luân lý cương thường [của Trung Quốc] tất nhiên cũng dẫn đến sự phản cảm của nhân dân Giao Chỉ” (明朝从交阯搜罗各色人才,送到南、北京师叙用,长途跋涉的劳役必然引起交阯人民的不满。一方面,大量的交阯工匠及其家小被送到内地从事各项工程建设,在 短期内对交阯手工业的发展无疑是不利的。另一方面,面对大军压境的访选送,那些不愿意被征召的交阯人或躲藏起来,或起来抗明。阮俒[]在父亲阮飞卿被 军俘回南京后,日夜思虑复仇,后向黎利献《平吴大诰》,被用为参谋,成为黎朝的开国功臣。明朝在交阯开科取士,士皆隐避不应([]辉注:《历 宪章类志》卷26《科目志》,越南汉喃研究院藏手抄本,编号A.50/3).当一种民族文化在受到外来文化冲击时,必然会采取顽强抑制的态度。据《越峤 书》载,永乐四年(1406)闰七月,在朱能率军出征安南时,明成祖就令军队攻入安南后,释道经板经文不毁外,一切书板文字以至礼俗童蒙所习,如上大 人丘乙巳之类,片纸只字悉皆毁之。其境内凡有古昔中国所立碑刻则存之,但是安南所立者,悉坏之,一字勿存([]李文凤:《越峤书》卷2,第695 ).乐五年(1407)五月二十一日明成祖再次下令张辅,遇彼处所有一应文字,即使焚毁,毋得存留([] 李文凤:《越峤书》卷2,第708)。至于明朝军队在安南是否完全执行明成祖的指令,尚未查到有史书记载。而越史则记载明朝在交阯郡搜集书籍之事, 1418年七月, “明遣行人夏清、进士夏时,来取我国古今事迹志书。([]陈文为:《黎史纂要》卷1,越南汉喃研究院藏抄本,编号: VHv.1452/2)“我国自诗书图籍,悉收而送之金陵。”([]黄高启:《越史要》卷2,越南维新甲寅年刻本),说明明成祖烧毁安南图书的命令并未 执行,但这种收集当地图书,代之以儒家经典和封建伦理纲常书籍的同化政策,也必然引起交阯人民的反感。Xem ở địa chỉ này).
Khỏi cần bàn việc Trần Văn phải mượn lời một người Việt sống ở thế kỷ XX là Hoàng Cao Khải để biện bác rằng lệnh chỉ của Minh Thành Tổ ở thế kỷ XV đã không được quân lính dưới trướng ông ta răm rắp thực hiện là yếu ớt gượng gạo đến đâu. Nếu sách vở của Việt Nam được tập trung hết về Kim Lăng thì vì sao cho đến nay giới nghiên cứu chúng ta đã bỏ bao nhiêu công sức lục tìm trong các tàng thư Trung Hoa mà chẳng đâu còn tăm bóng, ngoại trừ một cuốnĐại Việt sử lược? Người viết bài này còn nhớ vào năm 2001, có dịp sang Đại học Massachusetts ở thành phố Boston Hoa Kỳ công tác, nhiều lần ghé thăm Thư viện Harvard Yenching là nơi tàng trữ rất nhiều sách Trung Quốc và các nước Á Đông. Một lần tìm ra một cuốn Tiều Ẩn thi tập 樵隱詩集 lòng mừng khấp khởi, tưởng đã gặp lại được một báu vật của nhà thơ Chu An thời Trần. Nào hay mở ra đọc mới chưng hửng, biết đó là một ông Tiều Ẩn người Triều Tiên thuở nước Triều Tiên còn dùng chữ Hán. Dẫu sao, cái hay của học giả Trần Văn là đã biết thừa nhận lệnh chỉ của Minh Thành Tổ là văn bản có thực chứ không dám sỗ sàng chối bỏ. Trần Văn lấy khá nhiều dẫn chứng trong Minh Thái Tông thực lục mà không hề dùng đến đạo sắc chép việc Minh Thành Tổ ra lệnh không được phá hủy thư tịch và đồ bản quận huyện của Giao Chỉ, như trên đã nhắc, để bác bỏ hai đạo sắc của Việt kiệu thư. Ý hẳn ông ta cũng biết sử quan nhà Minh ngồi trong cung đình để soạn ra Minh thực lục là đã phải thông qua rất nhiều “bộ lọc” để loại đi vô vàn chất liệu quý giá mà đương thời coi là “sống sít” không đáng tồn lưu, nên nếu đem nó đọ với Việt kiệu thư thì sẽ không tránh khỏi bị những người hiểu biết ở tầm chuyên gia như nhà thư mục học Trương Tú Dân chê cười, nhạo báng.
Trở lại với học giả Hồ Bạch Thảo, xin bộc bạch với ông, Việt kiệu thư theo tôi, cũng chỉ tin được ở một số chương mục nào đấy, nhất là phần thu thập chiếu sắc của nhà Minh. Đó là tài liệu sống, được liệt nhập vào sách một cách tương đối nguyên vẹn và hệ thống. Còn như việc miêu thuật, phẩm bình về đất nước, con người, phong tục Việt Nam, thì con mắt Lý Văn Phượng từ bên ngoài nhìn vào, từ quan điểm của một người coi đất Việt chỉ là cái gò hoang, dù tài giỏi và khách quan đến đâu cũng làm sao tránh khỏi thiếu sót và lệch lạc. Xin lấy câu của Mạnh Tử mà tôi hằng tâm niệm để làm lời kết thúc: “Tin hết vào sách thì chẳng bằng không có sách” (Tận tín thư tắc bất như vô thư).
Hà Nội, 5-10-2013
N.H.C.

(1) Việt kiệu thư gồm 6 tậpvốn trước mang ký hiệu 1731, gần đây Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội đã đổi thành VH.000276 - VH.000281. Cũng xin đính chính: Trong năm 1972, lần đầu tìm ra cuốn sách này và đọc nó trong không khí đang sắp phải sơ tán vì Mỹ ném bom trở lại miền Bắc, tôi đã đọc trong tâm thế vội vàng để về nhà gói buộc đồ đạc đi ngay trong ngày hôm sau, nên ghi nhầm số quyển của một ít trích đoạn mà mình chép được bấy giờ. Vào năm 2001, lại tham khảo được bản in của Tề Lỗ thư xã (1996) ở Thư viện Yenching Harvard, nên việc đối chiếu giữa hai bản làm cho cách ghi số trang trong các bài đăng trên Diễn Đàn và trên BVN, đã dẫn, càng sai lạc. Nay BBT tạp chí Diễn Đàn cũng như trang BVN đã giúp tôi sửa lại các số trang trong bài viết ấy (xin xem bản sửa tại đây), dựa theo một bản là bản của Trường Viễn Đông bác cổ Pháp cũ cho thống nhất. Xin trân trọng cám ơn hai tờ báo mạng và chân thành cáo lỗi cùng bạn đọc.
(2), (3) Văn bản này do Thạc sĩ Trần Quang Đức, Viện Văn học chỉ giúp. Nhân đây xin bày tỏ lời cảm ơn. Cách tra tìm Triều Tiên thực lục như sau: bấm vào đường link đã nói; bấm tiếp vào hai chữ: 원문; bấm tiếp vào太宗實錄tức太宗恭定大王實錄; bấm tiếp vào七年五月一日 sẽ ra đường link: ○ 내사정승과행인풍근이가지고온안남을평정했다는조서; bấm vào đó ta có văn bản muốn tìm.

(4) Nhưng cũng có thể “Chiếu bá cáo thiên hạ bình xong Giao Chỉ” được ban bố tại An Nam đúng vào ngày 1 tháng Ba như trong Việt kiệu thư, bởi nếu căn cứ vào đạo sắc đề ngày 15 tháng Hai chép ngay sát trước bài Chiếu thì có vẻ Minh Thành Tổ rất sốt ruột muốn tuyên bố đánh xong Giao Chỉ sớm, dù vẫn còn tàn binh chưa giải quyết được trên chiến trường, hoặc giả do bị hối thúc, Trương Phụ đã tâu cáo về triều không chính xác thời gian đánh xong An Nam: “Ngày 15 tháng Hai niên hiệu Vĩnh Lạc thứ năm (1407), sắc cho quan Tổng binh chinh di hữu phó tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, Hữu Tham tướng Vân Dương bá Trần Húc, Binh bộ Thượng thư Lưu Tuấn biết: Trước đây đã sắc cho các ngươi đem quân thắng trận trở về trong tháng Hai, nay Tăng Nhật Chương về tâu rằng tàn đảng của giặc còn chưa diệt hết, muốn đại quân đóng lại. Lại nói Giao Chỉ không có dịch bệnh, còn mấy nơi Khưu Ôn, Long Châu thì dịch bệnh, mưa bão đang hoành hành. Các người nên nghị bàn tường tận, lo việc thỏa đáng, có thể đưa quân về thì đưa quân về, còn nếu chưa đưa quân về được mà lại không có dịch bệnh, thì chọn mảnh đất trên cao hướng về phía mặt trời cho quân lính làm doanh trại, thì trăm bệnh sẽ không phát tác. Lại càng nên giữ gìn đề phòng thật nghiêm mối lo đột kích của lũ lợn hung ác. Cốt bắt được tên cầm đầu, quét sạch dư đảng thân thích của giặc Lê [Quý Ly], còn những kẻ thân thích của dư đảng chúng đến hàng thì cho đưa về kinh đô, trẫm sẽ phủ dụ chúng. Nếu đợi đến tháng Mười mới rút quân thì người Giao Chỉ bị khốn quẫn bởi sự tàn ngược của giặc Lê lâu quá, đạo cai trị và vỗ về tất phải quang minh ở chỗ phải vừa khoan vừa mãnh. Vì thế ban sắc chỉ này” (永樂五年二月十五日敕總兵官征夷右副將軍新城侯張輔。右參將雲陽伯陳旭。兵部尚書劉Description: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/sach-viet-kieu-thu-trong-con-mat-gioi-su-hoc-duong-dai/hc-hbt_m462af297.jpg。前着敕爾於二月中班師今曾 日彰來奏賊之殘黨尚未盡滅欲大軍鎮守。且言交阯無瘴癘。丘溫龍州數處此時瘴癘雨澇正作。爾等宜詳審會議度事相機。可班師即班師。如未可班師果無瘴癘則擇高 元向陽之地屯營駐兵則百疾不作。尤須嚴固守備防殘孽豕突之患。渠魁務在得獲。黎賊親戚餘黨務盡掃除。其親戚餘黨有來投降者遣送赴京朕撫慰之。俟十月班師交 人為黎賊困虐已久。撫治之道必光寬恤。故敕。Việt kiệu thư, Q. 2 tờ 17a, ký hiệu Thư viện Viện Thông tin khoa học Xã hội: HN.000276).


   Đạo sắc đề ngày 15 tháng Hai chép sát trước “Chiếu bá cáo thiên hạ bình định xong Giao Chỉ”,
Việt kiệu thư Q. 2, tờ 27a


Source : Diễn Đàn Forum

Các thao tác trên Tài liệu
·        In trang nà