Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Vĩnh Phúc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Vĩnh Phúc. Hiển thị tất cả bài đăng

9/11/09

Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương

Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương
Bùi Vĩnh Phúc

18.08.2009

Literary fiction commits a double arbitrariness: that of invention itself and the arbitrariness with which it imitates what is essentially arbitrary: reality.

(Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực)

Añicos/ Bits (Những mảnh vụn) / Juan Calzadilla



Thế giới là một văn bản. Chúng ta đang sống trong một thế giới của những ký hiệu, và ký hiệu với trùng trùng lớp lớp nghĩa của chúng đang vây quanh con người mỗi ngày, hay đúng hơn, từng giây từng phút, đòi hỏi được giải mã, khám phá.

Thế giới ngập chìm trong đại dương của những ký hiệu. Con người, trong mỗi xã hội, mỗi quốc gia, được điều kiện hoá để bơi lội hoặc trôi nổi trên đại dương của những lớp sóng ký hiệu đó. Có những con người, để tìm một ốc đảo cho riêng mình sau những giờ phút trôi nổi bập bềnh trên những làn sóng của ký hiệu mỗi ngày, đã tìm cách trú thân trong những cuốn sách. Nhiều người tưởng, như thế, họ tìm được những phút giây an toàn cho mình, sau cuộc vật lộn, trôi nổi trên những con sóng của ký hiệu cuộc đời kia. Nhưng thật ra, hy vọng đó nhiều khi chỉ là một ảo tưởng. Mở một trang sách, bước vào thế giới của chữ nghĩa, con người đã đẩy cửa để bước vào một thế giới khác, cũng đầy ắp những ký hiệu. Những ký hiệu trong sách cũng đòi hỏi phải được giải mã, lột vỏ. Có thế, chúng mới có thể dâng hiến cho người đọc cái tinh chất của chúng, cái chất ngọt, cay, đắng, chát, mặn mà, thơm tho, nồng đượm, hay cái cảm giác thô ráp, mềm mại, sắc lẻm, xù xì… của cuộc đời. Tìm đến những ốc đảo ấy, mỗi người sẽ chỉ còn có chính mình. Họ mang theo cùng với mình tất cả những gì làm nên con người họ, tất cả những gì cấu thành cái thế giới tinh thần của họ: kinh nghiệm sống, những điều trải qua trong đời, giáo dục, sở thích, những ham muốn từ thấp nhất đến cao nhất, thậm chí những dục vọng, những mộng tưởng, lý tưởng của cả một đời. Tất cả những hành trang vô hình đó họ đặt bên cạnh mình khi ngồi trước trang sách. Cuốn sách, bấy giờ, là một văn bản tràn ứ những ký hiệu. Chúng tràn lênh ra, bập bềnh như trên một mặt sóng. Chúng như những làn nước, những lớp nước, chỉ chực tràn ra khỏi trang sách trước mặt người đọc. Có khi chúng lại là những tiếng chim, tiếng gió rượt đuổi nhau trong một cánh rừng đầy nắng lá, hay chúng là những âm thanh, những bóng dáng chập chờn của cuộc đời lúc xa lúc gần, lúc rõ nét khi nhoà nhạt, thức ngủ trong chính chúng ta, trong những thời gian và không gian mà chúng ta không thể luôn luôn gọi tên hay định tính.

Tất cả hiện ra từ trang sách, tất cả bùng lên từ văn bản.

Đó là văn chương. Và, có lẽ, để nói về văn chương, những lời lẽ có thể mang ít nhiều dấu vết văn chương như một, hai đoạn văn trên cũng là tạm đủ. Chúng ta phải đi vào hiện thực “xám” của lý thuyết (”tất cả mọi lý thuyết thì đều màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”) để có thể cảm nhận, nắm bắt được rõ hơn những điều mà chúng ta muốn nói.

Julia Kristéva, người đã giới thiệu những ý tưởng về liên văn bản (intertextuality) của Bakhtin đến với thế giới Tây phương, đã cho thấy văn bản là một thế giới được cấu trúc hoá. Nó là một hiện trường, nơi xảy ra những sự gặp gỡ, đối thoại, hoặc va đập của những hình ảnh, tư tưởng, văn hoá, hay, nói tóm lại, của những thế giới khác nhau. Trong một văn bản, có nhiều dấu ấn của các văn bản khác. Những văn bản này có thể xa rời nhau trong cả không gian lẫn thời gian. Chúng đan xen chồng chéo và tạo nên những hàm nghĩa, liên nghĩa trên văn bản gốc. Những văn bản này nằm chìm, lẩn và khuất sâu dưới lớp chữ của văn bản gốc mà mỗi người đọc, với kinh nghiệm, sự giáo dục và những phẩm chất riêng làm thành con người tinh thần của mình, tự phát hiện ra. Có thể nói văn bản là một nguồn nghĩa vô tận. (1) Nghĩa của một từ luôn mời gọi, liên kết với những nghĩa khác, và luôn chờ để được đánh thức dậy trong cái đọc của mỗi con người khác nhau. Nghĩa của chữ, như thế, luôn biến hoá, mở rộng. Nó luôn ở trong thế tiềm năng và có thế triển khai vô giới hạn. Những hàm nghĩa, liên nghĩa luôn nằm trong thể tiềm tại để chờ được khai mở. Như thế, một văn bản có thể đem lại nhiều ý nghĩa khác nhau cho những con người khác nhau. Mỗi văn bản là một liên văn bản. Từ một văn bản văn học, người ta có thể nhìn ra nhiều tác phẩm khác nhau. Và chính là vì tính chất này mà một tác phẩm văn học trở nên có chiều sâu, có sức hút của nó. Những cách nhìn khác nhau, những cái thấy khác nhau, những cách giải mã khác nhau, tất cả làm nên độ lấp lánh của một tác phẩm.

Ở một góc cạnh khác, theo Serge Dubrowski, cấu trúc của một tác phẩm không phải là một cái gì có tính ổn định, nhất thành bất biến. Mà nó là một thế giới mở. Một tác phẩm văn học có thể mang trong mình nhiều lớp nghĩa, và nghĩa của nó không bao giờ có tính chung kết, dứt khoát. Nó thay đổi tuỳ theo cái nhìn, góc nhìn của ngưởi đọc, sự quan sát và thái độ quan sát nó của người ấy. (2) Cấu trúc là cấu trúc đối với một con người đặc thù nào đó. Cái cấu trúc ấy sẽ thay đổi không chỉ từ cá nhân này sang cá nhân khác, mà còn từ những lần đọc này sang lần đọc khác của cùng một con người qua thời gian. Bởi vậy, ý nghĩa của tác phẩm cũng có thể thay đổi theo những tâm cảnh, tâm thế khác nhau, những sự “rót vào” khác nhau của mỗi người đọc hay mỗi lần đọc. Ý nghĩa của tác phẩm, bấy giờ, được dựa trên một phương trình mà tất cả những gì người đọc mang vào trang sách cùng với mình khi đọc trở nên những biến số không thể không được tính đến. “Ý nghĩa của tác phẩm”, như thế, trở nên một hàm số, thay đổi với những biến số mà người đọc mang vào cùng với cá tính riêng và tất cả những gì làm nên con người hắn. Tình hình này làm ta liên tưởng đến cái nhìn của cơ học lượng tử đối với các vật thể, đúng hơn là các chất thể (particles), được khảo sát. Người ta không thể bỏ qua cái thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó, cũng như không thể bỏ qua những thiết bị mà ông ta dùng để đo lường. Những điều ấy có thể làm thay đổi kết quả của thí nghiệm. Nói rộng ra, tất cả mọi sự xảy ra trong thế giới hiện tượng này đều như thế. Cái nhìn tạo ra thế giới. Hay, đúng hơn, chính cái tâm ý của ta đã tạo ra thế giới này. Đây không còn phải là vấn đề tâm lý hay triết lý nữa, cho dù Duy Thức luận của Phật giáo, nhìn một cách chung, cũng đưa ra một kết luận như thế. Đọc những quyển sách như The Tao of Physics của Fritjof Capra, hay The Holographic Universe của Michael Talbot, trình bày cái nhìn của nhiều nhà vật lý lý thuyết, vật lý lượng tử cũng như của một vài nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh, về não bộ nổi tiếng, như David Bohm (London U.) và Karl Pribam (Stanford U.), khiến ta phải giật mình khi thấy rằng cả thế giới, và, rộng hơn, cả vũ trụ này, trong quan sát và nghiên cứu của họ, cũng giống như một quyển sách, chỉ là những văn bản mở, để con người “rót” cái nội dung riêng tư của nó vào, làm nên cái lấp lánh của những “văn bản” khác nhau. (3)

Nói như L. Wittgenstein (với mệnh đề nổi tiếng, xuất hiện trong câu đầu tiên của tiểu luận triết học Tractatus Logico-Philosophicus của ông), “The world is all that is the case”. Tất cả mọi sự đều diễn ra trong thế gian. Phải, thế gian, như thế, là nơi dung chứa mọi hoàn cảnh, nơi diễn ra đủ sự. (4) Và “sự” đây là “sự kiện/dữ kiện” (facts) chứ không phải là “sự vật” (things). (5) Nhìn ở một góc độ nào đó, và chỉ giới hạn trong việc xét văn bản, phán đoán này có những chỗ gần gũi với xác quyết của những nhà nghiên cứu văn bản theo tinh thần của chủ nghĩa hình thức Nga, hay của cấu trúc luận, nhìn văn bản như một cấu trúc mang tính tự trị. Và cả J. Derrida nữa, mà tên tuổi được gắn liền với Giải cấu trúc luận về sau, cũng thế, khi nói rằng không có gì ở ngoài văn bản. Tất cả mọi sự là ở bên trong.

Văn bản là một thế giới, và trong thế giới đó, chữ nghĩa (là những yếu tố cấu thành nó) cứ trượt đi. Nó được xây dựng bởi một lớp ngôn từ động. Chữ và nghĩa, các nghĩa tố, trượt vào nhau cũng như trượt qua nhau (glissement), để lại những dấu mờ, những ký hiệu của ký hiệu, như những tinh vân, khi sáng khi tối trước mắt con người. Nghĩa vẫy gọi nghĩa, nghĩa liên kết và rủ rê nhau. Ký hiệu tạo ra ký hiệu, và những ký hiệu mới được tạo ra đó lại sinh sản ra những ký hiệu khác. Đọc là đi vào trung tâm của những vòng tròn tạo nghĩa. Đọc là một “thực hành tạo nghĩa” (pratique signifiante), nói như J. Kristéva. Tất cả những ký hiệu, và những dấu mờ của chúng, dệt nên một tấm thảm bay với những hàm nghĩa, liên nghĩa, nghĩa sáng nghĩa tối, nghĩa mờ nghĩa đục, nghĩa nhoè nghĩa nét, đan kết, xoắn bện vào nhau. Một tấm thảm kỳ diệu. Tấm thảm này có thể nâng con người lên và chở nó đi khắp mọi nơi.

Cũng có thể nhìn văn bản như một ống kính vạn hoa (kaleidoscope). Tất cả những ký hiệu, như đã nói, trượt vào nhau, trượt qua nhau, và làm thành sự khác biệt. Những kết hợp khác nhau đó làm nên thế giới. Mỗi lần ống kính xoay, lại một thế giới khác hiện ra. Và mỗi người chúng ta đều có những cách xoay ống kính riêng của mình.

Một điều cũng nên nhắc lai ở đây là tính vũ đoán của ký hiệu (ngôn ngữ). Như F. de Saussure đã phân tích, giữa sự vật được phản ánh (như con ngựa, cái cây, v.v.) với cái-biểu-đạt (là mặt chữ, vỏ tiếng hay vỏ ngữ âm) và cái-được-biểu-đạt (tức khái niệm được phản ánh bên trong những chữ “con ngựa” hay “cái cây”, v.v.) không hề có một quan hệ hữu cơ nào. Đó chỉ là một sự vũ đoán, chấp định. Một quy ước của một tập thể người. (6) Và chính là từ sự chấp định này, ký hiệu (ngôn ngữ) nói chung và văn bản văn học nói riêng, mang tính đa nghĩa, mơ hồ và nhập nhằng trong cái nghĩa tích cực của nó. Sở dĩ thế là vì, như đã nói, với sự khám phá và phân tích của Saussure và nhiều nhà ký hiệu học sau này, trong cùng một vỏ tiếng, vỏ âm thanh (envelope sonore), con người có thể lồng ghép, đắp đổi nhiều nội dung có liên hệ xa gần với nhau. Những nghĩa xuất phát từ những chi, những nhánh chính, và những nghĩa từ những chi, những nhánh phụ. Trường nghĩa cứ thế mà sinh sôi nẩy nở. Các nghĩa trượt lên nhau, trượt vào nhau và trượt qua nhau đã làm thành một trường nghĩa rộng lớn. Nghĩa tạo ra nghĩa, từ những liên nghĩa, hàm nghĩa, nghĩa ẩn, nghĩa chìm, và dấu vết của chúng, sau khi bị vượt qua, vẫn còn tiếp tục nằm ở đấy, làm đầy cái không gian ngữ nghĩa. Và cái chu trình ấy có thể tiếp diễn một cách vô tận.

Sử dụng những con chữ như một thứ khế ước xã hội, các nhà văn nhà thơ phải tuân thủ những luật tắc của chữ viết, của văn phạm. Nhưng, dựa trên chính những quy tắc ấy, kẻ sáng tạo lại có thể tự do hư cấu trong thế giới của mình bằng cách mở rộng phạm vi ngữ nghĩa của các ký hiệu hắn dùng, nhất là trong thơ. Bằng cách sử dụng và lồng ghép hai trục chọn lựa và kết hợp khi hành từ và bố trí câu như một chiếc đũa thần (7), con người có thể sáng tạo ra nhiều thế giới kỳ diệu, với cá tính và qua hư cấu chủ quan, vũ đoán riêng của mình.

Giống như trong sáng tác, phê bình cũng là một hoạt động hoàn toàn mang tính chủ quan, vũ đoán, thậm chí hư cấu. Đúng, hiểu theo một nghĩa nào đó, phê bình cũng là một dạng sáng tạo dựa trên hư cấu. Và nó rất chủ quan, vũ đoán. (8) Nhưng cũng chính tính chất chủ quan, vũ đoán và hư cấu này đã làm nên điều kỳ diệu mà chữ viết của con người đã làm được. Là vất đẩy người đọc vào một (hay những) thế giới mới, không hề mòn. Nó mở ra những thế giới. Với cá tính, kiến thức, bản lĩnh, và, thậm chí, sự mơ mộng riêng của mình, và, dĩ nhiên, cũng với việc phải tuân thủ một số quy luật nội tại của việc đọc văn bản, mỗi người đọc, người phê bình, có thể mở ra những thế giới khác lạ khi tiếp cận với văn bản. Phê bình và đọc văn đúng nghĩa không bao giờ mở ra những thế giới phẳng, như cái thế giới hiện tại mà con người đang sống, trong quan niệm của Thomas Friedman. Mà, với những hàm nghĩa và liên nghĩa, nó mở ra những thế giới “cong”, đầy sức sống. Những thế giới này, nói một cách hình tượng, lồng vào nhau, chập vào nhau, và trao đổi chất cho nhau. Đọc một văn bản văn học, để biến nó thành một tác phẩm, có lẽ điều người đọc cần làm không phải chỉ là dùng lý trí, mà là dùng, nhiều hơn, sự liên tưởng và trí tưởng tượng của mình.

Hãy thử đọc một vài câu thơ của Trần Dạ Từ:

Thuở làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha



Thuở làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)

(Thuở làm thơ yêu em, 1962)

Những câu thơ thật đẹp. Và Cung Tiến đã đưa những câu thơ như lụa phất ấy vào nhạc của mình. Thuở làm thơ yêu em. Một thuở. Chắc chắn cái thuở ấy đã qua. Ta không cần tìm biết hệ quả của những hành động chàng tuổi trẻ đã làm trong thuở ấy. Điều đó không cần thiết. Chỉ biết rằng đã có một thuở trong đời. Tình yêu. Trời mưa. Hoa cúc. Mầu vàng hoa. Gió may. Bờ dậu. Những ký hiệu và những hình ảnh lồng vào nhau. Những con âm vang lên trong đầu. Chúng nhân nhau lên trong trí và trong tâm hồn của mỗi người đọc thơ, vì những hình ảnh, những ám gợi về tình yêu, về những cơn mưa, v.v., trong mỗi con người là khác nhau và gắn bó với nhiều ấn tượng. Chúng tạo ra hàng loạt các trường nghĩa. Từ những kinh nghiệm, xúc cảm, và những liên tưởng rất vũ đoán của mỗi ngưởi đọc, một con âm hoặc một con chữ có thể lôi cuốn nhau và tạo thành một cơn lũ. Nếu có thể cộng hết lại những hình ảnh, ấn tượng, rung động của tất cả mọi người trong thế gian này khi đọc một câu thơ hay một bài thơ của một thi sĩ bất kỳ nào đó, ta sẽ có cả một thế giới. Vậy thì, với bao nhiêu bài thơ, câu thơ mà con người có trong cuộc đời này (chưa nói đến những câu văn hoặc những tác phẩm dài hơi khác), chúng ta có bao nhiêu thế giới?

Trong bốn câu thơ đầu, dù sao đi nữa, có lẽ trong trí óc của một người Việt như tôi, những ấn tượng mang lại có nhiều âm hao, ám ảnh Việt Nam. Vì những hoa cúc, gió may và bờ dậu chăng? Có lẽ. Những hình ảnh ấy rung lên, lấp loá, chập vào những hình ảnh khác trong tôi. Hãy chỉ thử đưa ra một vài trong bao nhiêu ấn tượng nở bùng lên trong đầu. Hoa cúc, làm tôi nhớ đến một câu thơ của Nguyên Sa, Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc. Chỉ là nhớ đến, không cần biết hoa cúc trong câu thơ của ai nở trước. Gió may, tôi nhớ quá đôi mắt của người con gái trong thơ Quang Dũng, Mắt kia em có sầu cô quạnh / Khi chớm may về một sớm mai. Và gần hơn nữa là cái gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè của Trịnh Công Sơn. Còn bờ dậu? Nó làm tôi nhớ đến Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn của Nguyễn Bính. Bờ dậu, thậm chí còn làm tôi nhớ đến những câu thơ Đứng im ngoài hàng dậu / Em mỉm nụ nhiệm mầu / Lặng nhìn em kinh ngạc / Vừa thoáng nghe em hát / Lời ca em thiên thâu / Ta sụp lạy cúi đầu (Thược Dược, Quách Thoại). Một đoá hoa nở bên bờ dậu đấy. Bao nhiêu là hình ảnh thật Việt Nam!

Sang bốn câu thơ kế, hình ảnh Việt Nam chắc vẫn còn đấy. Nhưng chúng không còn đậm đặc như trong bốn câu thơ đầu nữa, với những hình ảnh có chút chênh chao ngả nhẹ theo nhịp ngữ pháp tây phương, cộng với những thủ pháp nhân hoá và ẩn dụ được dựng lên trong từng câu thơ. Đến đoạn ba, tự nhiên ta thấy như được dẫn vào một khung trời “lạ hoá” với những đường nét không gian không còn hoàn toàn mang tính điển hình của một khung cảnh Việt Nam. A, thế nào là Việt Nam? Rất khó nói, có lẽ là do cách đọc, cách cảm cùng với kinh nghiệm đọc và rung động của từng người. Riêng tôi, cả đoạn thơ này tự nhiên nhắc tôi nhiều đến những khung trời Paris của Jaques Prévert. Riêng câu Cả vai cầu tay nghiêng thì lại làm tôi đặc biệt nhớ đến Appolinaire trong bài Le Pont Mirabeau. Trong bài này, thi sĩ đã tả hai người nam và nữ, hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống như trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:

Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse…

(Tay nắm lấy tay và mặt nhìn mặt
Trong lúc đó dưới
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt chảy
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu…)

Những liên tưởng đã dẫn tôi đi xa như thế, để tôi nhìn thấy trong Cả vai cầu tay nghiêng những hình ảnh còn in đậm trong lòng tôi của Le pont de nos bras, và cả một khung trời thương yêu của Appolinaire có dòng sông Seine chảy qua. Tất cả các liên tưởng đều là vũ đoán. Và sự vũ đoán đó đã làm cho bài thơ, đối với tôi, có thêm chiều dày và lấp lánh hơn.

Đọc là liên tưởng và thực hiện những hành động vũ đoán như thế. Nhưng viết thì cũng không khác. Khi chúng ta viết, dù thơ hay văn (nhưng đặc biệt là thơ), sự chọn lựa, kết hợp các từ ngữ cũng chính là một hành động rất vũ đoán. Nhất là khi ta, một cách vô tình hay hữu ý, sử dụng những biện pháp chuyển nghĩa (trope) như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hoá, v.v. Khi một người Việt Nam nào đó, trong xa xưa, đã sáng tạo ra câu Lòng em như quán bán hàng / Còn anh là khách qua đàng trú chân, hay câu Em như cái giếng giữa đàng / Người khôn rửa mặt, kẻ phàm rửa chân, thì quả là người đó đã rất vũ đoán để đem so sánh tâm hồn hay thân phận của một con người (đặc biệt lại là một người con gái) với một túp hàng quán, hay như một cái giếng. Thế nhưng, chính cái vũ đoán đó đã để lại cho chúng ta những câu ca dao tuyệt vời như thế cho đến bây giờ. Nó làm cho những hình ảnh ấy sống mãi. Cũng thế, trong vở chèo Thị Kính, tác giả đã cho Thị Mầu “chào hàng”/”nhá hàng” với anh Nô bằng một câu chòng ghẹo táo bạo, Gió xuân đánh tốc dải yếm đào / Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương. Tác giả của câu chèo tinh quái và kinh khủng này đã đặt vào miệng Thị Mầu một ẩn dụ thật … trẻ không tha, già không thương (hay Phật không tha, Chúa không thương ?-vì “oản” là để cúng Phật, và câu hát bóng gió đầy tính… trêu hoa ghẹo nguyệt kia, “gọi mời thắp hương” kia, lại được thốt ra trong khung cảnh nghiêm trang nơi cửa thiền. Mà chính là vì ả Thị Mầu đang ve vẩy ở nơi đấy nên mới có cớ giục mời người ta vào thắp hương như thế!). Một sự nhìn ngắm, liên kết để rồi so sánh đến vậy, không gì khác, chính là một sự vũ đoán, ập vào nhau những hình ảnh, những khái niệm đáng lẽ là rất xa nhau. Nó làm bật ra những tia lửa của sự sáng tạo. Đúng là có những cái vũ đoán chết người, nhưng chúng đã khắc nét vào văn chương như thế.

Trở lại với chuyện đọc văn. Khi đọc À l’ombre des jeunes filles en fleurs (Dưới bóng những cô gái đương hoa) của Marcel Proust, trong bộ À la Recherche du Temps Perdu (Đi Tìm Thời Gian Đã Mất), Bernard Raffalli (9) đã nghĩ đến những bông hồng nở vội của Ronsard (Mignonne / Allons voir si la rose / Qui se matin avait déclose / … Vivez, si m’en croyez, n’attendez à demain / Ceuillez dès aujourd’hui les roses de la vie–Em ơi, ta hãy ra xem / Đoá hồng đã nở bên thềm hay chưa / … Hái đi, đừng để quá mùa / Hoa hồng cuộc sống chẳng chờ đến mai). Cùng lúc, ông cũng nghĩ đến những bông hoa ác, những bông hoa tội lỗi (Les Fleurs du Mal) của Baudelaire, cùng với cái mùi của dục tính và sự tàn rữa; đồng thời, ông cũng nhớ đến cả những cô gái lửa (Les Filles du Feu) của Nerval. Một sự liên tưởng nhìn thoáng qua tưởng là vũ đoán, nhưng hẳn nhiên là nó có nguồn gốc từ kinh nghiệm đọc, mơ mộng, và phân tích của Raffalli. Trong tác phẩm của Proust, hình ảnh những cô gái đẹp tươi, đương trong lứa tuổi hoa niên ấy, được liên kết với nhiều hình ảnh của những khóm hoa, những bụi hoa, tươi sáng có, mà tàn rữa cũng có. Và những người con gái đương hoa kia, với những mối tình, những ham muốn bị kìm nén của họ, như những đoá hồng toả ra một mùi hương thương nhớ, phả khắp những trang sách. Kinh nghiệm đọc và những liên tưởng của nhà phê bình đã đem lại hạnh phúc cho người đọc ông. Chúng cũng làm dày thêm sự hiểu biết và làm phong phú tâm hồn người đọc.

Cũng thế, trong Poésie et Profondeur (Thi ca và Độ sâu), Jean Pierre Richard đã phát hiện ra rằng cả Baudelaire, Gérard de Nerval, Arthur Rimbaud và Paul Verlaine đều bị ám ảnh bởi độ sâu. Rimbaud thì muốn lấp bằng độ sâu, và nếu không thực hiện được, ông tìm cách thoát ra khỏi nó. Nerval thì muốn giảm bớt độ sâu bằng nỗ lực mô tả những gì nổi lên, những sự vật nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Verlaine, yếu đuối hơn, luôn bị sự ám ảnh kinh hoàng của những độ sâu vô tận, những lỗ hổng không đáy. Còn Baudelaire thì, cho dù có hãi sợ, có hoang mang choáng váng trước cái hút xoáy của những độ sâu, vẫn muốn đâm đầu lao mình xuống tận đáy vực. (10) Phải có một liên tưởng bén nhậy, cộng với một sự vũ đoán nhất định, cùng với một năng khiếu phân tích tâm lý đến một độ nào đó thì người ta mới có thể đưa ra những so sánh và nối kết như thế. Và thao tác của Pierre Richard có thể đã là, đầu tiên, ông nhìn thấy hình ảnh độ sâu nơi một nhà thơ nào đó trong bốn nhà thơ vừa kể, cùng với phản ứng và cơ chế tâm lý của nhà thơ ấy. Từ đó, ông đã liên tưởng đến những nhà thơ còn lại mà, qua thơ ca của họ, ông cũng đã bắt gặp những độ sâu, với những phẩm chất khác. Rồi, có thể bằng một phương pháp gần gũi với phương pháp xếp chồng những văn bản của bốn nhà thơ này lên nhau, ông đi sâu vào tìm hiểu kỹ hơn tính cách và phong cách của từng nhà thơ. Tất cả đều bắt nguồn từ liên tưởng, từ sự nối kết các (liên) văn bản của nhà phê bình.

Khi nghe những câu hát này trong bài Đêm của Trịnh Công Sơn:

Đêm xanh hay đêm đỏ
Đêm hồng đêm mong manh
Đêm đêm rừng nuôi gió
Đêm hồng má thị thành



Đêm ôm vai em nhỏ
Giấc ngủ như chiêm bao
Đêm thơm từng chiếc lá
Cho tình bay lên cao



Đêm sâu không xa lạ
Kéo gần đêm thiên thu
Đêm xin thành nỗi nhớ
Đêm đợi đoá hẹn hò



Đêm yên như phố cổ
Chút tình riêng xôn xao
Đêm xa gần môi má
Có dài không đêm thâu (…)

tự nhiên tôi nhớ đến bài Đêm Trăng của Đoàn Thị Lam Luyến:

Đêm dài như châu chấu
Của tuổi thơ chín mười
Đồng trưa mưa rào tạnh
Theo đàn châu chấu bơi



Đêm dài như xác pháo
Xé tan tuổi đôi mươi
Chưa tiêu gì ra món
Đã hết veo cuộc đời



Đêm dài… đêm cành đa
Như kiến leo cành cộc
Leo vào rồi leo ra
Đâu biết mình trùng lặp

Hai bài thơ, nếu có thể nói như thế, có nhiều nét khác nhau, cho dù chúng đều lấy đêm làm xuất phát điểm. Ta sẽ không phân tích dài dòng vào chi tiết để thấy rõ những sự khác biệt đó. Có lẽ chỉ nên nói là, dù có dùng các con âm Việt, chữ nghĩa Việt, các tác giả đã sử dụng những chất liệu ngôn ngữ khác nhau để làm ra những sản phẩm khác xa nhau. Cho dù chúng đều gắn bó với những thủ pháp chuyển nghĩa giống nhau như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hoá, v.v., hai bài thơ đã tạo nên hai khí quyển khác biệt. Chúng như hai khối tinh vân tự xoay vần theo quỹ đạo của riêng mình. Bài thơ của TCS có mật độ dày hơn của những biện pháp tu từ ập vào nhau, như trong những hình ảnh đêm đêm rừng nuôi gió, đêm đợi đoá hẹn hò. Bài thơ đưa ra cái nhìn từ xa đến gần, rồi lại từ gần ra xa, và từ ngoài vào trong, rồi từ trong ra ngoài, về mặt không gian; và từ điểm quy chiếu của hiện tại, kéo dài cho nó chạm vào cõi xa thẳm của thiên thu, rồi lại thu kéo về cõi người bé nhỏ, xét về mặt thời gian. Còn bài thơ của ĐTLL thì lại bắt vào những hình ảnh liên văn bản trong những câu như Đêm dài… đêm cành đa, như kiến leo cành cộc. Câu thơ làm ta nhớ đến câu ca dao tuổi nhỏ Con kiến mày leo cành đa. Leo phải cành cộc leo ra leo vào. Con kiến mày leo cành đào. Leo phải cành cộc leo vào leo ra… Nó tạo nên một cảm thức quẩn quanh, bít bùng, không lối thoát. Những câu thơ soi chiếu vào hạnh phúc tuổi thơ và thân phận mình hiện tại. Hình ảnh châu chấu, được lặp đi lặp lại hai lần, gắn với một cái gì sinh động, hớn hở. Một mầu xanh như ngọc của thân mình những con châu chấu được đưa vào cận ảnh dưới ánh mắt tuổi thơ. Chân chúng búng tanh tách, và chúng bơi trên mặt nước. Điều đó gắn với cái hồn nhiên, sinh động của tuổi nhỏ. Rồi những mảnh pháo hồng nổ tan tác. Rộn rã đấy, nhưng rồi vụt biến nhanh. Cuộc đời trôi qua vội vã, rồi vỡ vụn như những xác pháo. Để, cuối cùng, cái còn lại chỉ là sự nhỏ nhoi, quanh đi quẩn lại của những lối mòn… Ngoải ra, thủ pháp so sánh trong Đêm Trăng lại là một cái gì mang tính rất biểu kiến. Dạng thức thì là so sánh, Đêm dài như châu chấu, Đêm dài như xác pháo, nhưng bản chất thì lại là ẩn dụ lồng vào hoán dụ (bởi lẽ, đêm không thể nào dài như… châu chấu hay xác pháo được). Hai bài thơ đưa ra những khắc khoải riêng, những tâm sự đặc thù, theo những hướng khác nhau, và tạo ra những không gian, thời gian khác biệt. Vậy mà nó lại thu hút nhau, ập vào nhau trong cảm thức của một người đọc. Đọc hay nghe riêng biệt bài hát của TCS và bài thơ của ĐTLL, chắc chắn là mỗi người đọc khác lại thấy nẩy nở ra trong lòng mình những liên tưởng khác biệt, những ám gợi, những hình ảnh không trùng hợp với cách liên tưởng, cách đọc của tác giả bài viết này. Đó chính là do kinh nghiệm sống và đọc, do cơ chế tâm lý riêng của mỗi người khi tiếp cận với tác phẩm.

Liên tưởng có khi được giải thích, có khi không, nhưng chắc chắn là chúng có những gốc rễ của mình. Bởi vậy, khi nói phê bình là một hành động chủ quan và vũ đoán, thì chủ quan là đúng, còn vũ đoán chỉ là một cách nói có phần cường điệu. Bởi đó không hề là một thái độ tuỳ tiện. Nó có gốc rễ, và gốc rễ ấy nằm trong “vùng giao”, vùng chồng lấp lên nhau của liên tưởng và sáng tạo. Và thái độ đó thích hợp với một định nghĩa của “vũ đoán”, là “dựa trên, hoặc tuỳ thuộc vào, sự thẩm định hay chọn lựa mang tính cá nhân” (based on or subject to individual judgment or preference—www.thefreedictionary.com). Và, đúng thế, người tiếp cận văn bản, tuỳ vào độ mở của văn bản mà hắn đang khảo sát, phải có những nỗ lực riêng của mình để bóc, tách những lớp nghĩa, cũng như nối kết những ấn tượng, những hình ảnh mà tác giả đã đưa vào tác phẩm một cách hữu thức hoặc vô thức. Có thế, hắn mới cảm nhận được những hạnh phúc của sự đọc.

Đọc là một hành trình thám mã. Là một quá trình tìm nghĩa và tạo nghĩa. Qua liên tưởng, qua chọn lựa, qua kết hợp. Cũng giống như khi chúng ta viết. Chỉ có điều là khi viết, hai thao tác chọn lựa và kết hợp được thực hiện một cách có vẻ có ý thức hơn. Và có thời gian hơn. Còn trong khi đọc, tất cả những điều này xảy ra rất nhanh. Người đọc không kịp trở tay. Những hình ảnh và ấn tượng tóm lấy ta và vứt đẩy ta vào một cơn cuồng lũ của nghĩa, liên nghĩa và hàm nghĩa. Hai loạt nghĩa sau là những cái không hề có mặt trên văn bản. Theo Pierre Macherey, cái đặc thù của văn học là nó luôn hàm chứa trong nó một cái vắng mặt. Văn bản là cái được nói ra, nhưng trong cái được nói ra đó có hàm chứa những cái không được nói ra. Cái nói ra dựa vào cái không được nói ra. Có một sự chồng lên nhau giữa cái được nói ra và cái ẩn kín bên trong, cái lùi khuất khỏi tiền trường sân khấu. Đó là cái không được phát ngôn, tức sự im lặng. (11) Văn bản là một không gian, một hiện trường được tổ chức theo các quy luật ngôn ngữ. Nó che đậy ở bên dưới nó những cái vắng mặt, những kho tàng được chôn giấu, ẩn kín. Bởi vậy, đọc hay phê bình văn học là đi tìm cái bị che giấu kia, đi tìm cái vắng mặt, cái không hề hiện diện tại hiện trường.

Như đã nói, ký hiệu ngôn ngữ, nói chung, mang tính vũ đoán. Đọc, phê bình, tìm cách mở một văn bản, cũng hàm chứa tính chất đó, nhưng ở một cấp độ khác. Những cái được nói, được viết ra và những cái ở đằng sau, ở bên trong, ở hậu trường, giằng co, đòi được khám phá, bộc lộ. Chính điều đó khiến cho tác phẩm trở nên mơ hồ, “nhập nhằng”, đa nghĩa. Chúng tạo nên một độ căng, do sự giằng kéo của các ý nghĩa, liên nghĩa, và hàm nghĩa, mà người đọc phải tìm cách giải quyết. Tạo được một tác phẩm đầy tính “khiêu gợi” như thế, trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình, kẻ sáng tạo làm nổi rõ dấu ấn sáng tạo của hắn. Tôi nói “trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình”, vì không phải lúc nào tác giả cũng kiểm soát được những điều mình viết ra. Rất nhiều khi, chữ, nghĩa, và các hình ảnh, ý tưởng trong một văn bản vượt ra khỏi ý thức của người viết. Đọc được, hay, đúng hơn, đọc thấy, những điều ẩn kín, những điều không nói ra trong văn bản, những vết tích của vô thức, những liên tưởng bất ngờ làm bật sáng văn bản, những ngã rẽ lối quành của nghĩa, cũng khẳng định bản lĩnh của người đọc, người phê bình. Đó là sự xâm nhập văn bản và bóc nó ra, coi nó như một dạng scriptible (khả tác). Là không nhìn nó một cách hời hợt như một dạng lisible (khả độc). (12) Một tác phẩm thật sự luôn ở trạng thái tiềm thế. Nó luôn có thể được soi rọi, nhìn ngắm và phân tích lại, để cung hiến cho người đọc những cách nhìn mới, những ý nghĩa mới.

Như thế, theo tôi, đọc là sự phân vân (của chủ thể đọc) giữa những hình ảnh, những ấn tượng, là sự phân vân (của hắn) giữa ý tưởng này và ý tưởng nọ, giữa liên tưởng này và liên tưởng kia. Là sự gặp gỡ của chủ thể đọc với các nghĩa trong văn bản, để rồi phải quyết định trước sự giằng kéo của các nghĩa tố khác nhau. Từ đó, người đọc có thể nhìn thấy một thế giới đa nghĩa, nhiều chiều cạnh, một thế giới lấp lánh nhiều mầu sắc. Đó không còn là một thế giới bị mòn đi trong cái nhìn trượt theo quán tính của cuộc sống thường ngày. Đọc là đồng sáng tạo chính là ở trong tinh thần đó.

Khi đọc, có nghĩa là khi làm những “thực hành tạo nghĩa”, có lẽ cũng không nên quá hăng hái để vội quyết đoán là tác giả đã thiếu sót vì đã không trình bày được điều này hay điều kia (nhất là khi chúng khá hiển nhiên), như chúng đáng lý phải được trình bày như vậy. Dù là đọc một bài thơ, một truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, hay một tác phẩm phê bình. Tất cả đều là những văn bản văn học. Có thể có một lý do nào đó đã khiến tác giả không viết chúng ra, hoặc là đã giữ chúng lại để trình bày trong một dịp khác thích hợp hơn. Trường hợp Tolstoi có thể là một thí dụ đáng nghĩ. Sau khi Chiến Tranh và Hoà Bình được xuất bản, “báo chí cấp tiến đương thời đã trách cứ Tolstoi là trong tác phẩm đồ sộ ấy thiếu hẳn dấu vết của hiện thực thảm khốc của chế độ nông nô, một đặc trưng nổi bật của thời đại…”. Tuy nhiên, tìm hiểu sâu thêm qua việc nghiên cứu các bản nháp của tác phẩm, người ta thấy rằng, trong những dị bản đầu tiên, Tolstoi đã mô tả chi tiết các khía cạnh tiêu cực, đen tối, phản ánh những khổ đau của tầng lớp nông nô. Đó là những mô tả hết sức hiện thực cuộc sống khổ đau của những lớp người nghèo khó, của những con người thấp cổ bé miệng, cho dù họ là nông nô hay binh lính. Những mô tả này cho thấy mâu thuẫn khe khắt giữa những tầng lớp trên, như địa chủ và sĩ quan, với những tầng lớp dưới, như nông nô và binh lính đói rét. Dù sao, những mô tả này không thấy xuất hiện trong văn bản cuối cùng được phát hành. Những nhà nghiên cứu Tolstoi đã cho rằng, “cảm hứng chủ đạo của Chiến Tranh và Hoà Bình (…) là niềm tin say đắm của tác giả vào tư tưởng mà ông cho rằng thời đại mà ông miêu tả là thời đại nảy nở cao nhất của đạo đức nhân dân, là thời kỳ phục hưng của toàn dân Nga, đã đưa họ tới chiến công cứu nước.” Chính cái cảm hứng chủ đạo này, cuối cùng, đã khiến Tolstoi phải hy sinh những mô tả về những phương diện khổ đau của nông nô, để tập trung nhấn mạnh vào lòng dũng cảm, ý chí và sức mạnh của nhân dân trong chiến tranh vệ quốc. (13) Để đạt hiệu ứng tối đa nhất trong việc trình bày đề tài của mình, Tolstoi đã phải chọn lựa. Và hy sinh.

Một người đọc có ý thức và có sự cẩn trọng có lẽ cũng nên chú ý đến những cái vắng mặt khá hiển nhiên trong một văn bản văn học, để thử lý giải những sự vắng mặt đó, trước khi lên tiếng phản đối hay đưa ra phán quyết của mình. Đúng như Macherey đã nói: một tác phẩm không bao giờ thổ lộ được hết tất cả những gì tác giả muốn nói, bởi vì “để nói ra một điều gì đó thì có những điều khác đã không được nói ra, hoặc không nên nói ra.” (11)

Trong kinh nghiệm cá nhân, về phương diện này, tôi cũng đã rất ngạc nhiên và khá bất ngờ khi thấy trong tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, tuyển hơn 120 ca khúc của mình, được xuất bản mấy năm trước khi anh mất, Trịnh Công Sơn đã không đưa vào những ca khúc phản chiến một thời đã làm nên tên tuổi anh. Có lẽ đã có một suy nghĩ đắn đo nào đó, có một ý nghĩa quyết định, đã khiến anh không đưa chúng vào tuyển tập đánh dấu một đời sáng tác này của mình. Tôi bỡ ngỡ, nhưng thấy không nhất thiết phải lý giải điều đó. Cho dù, hình như, con người dễ dàng đưa ra một phán đoán về một hành vi của người khác, hơn là về hành vi của chính mình. Bất cứ phán đoán nào trong vấn đề này cũng đều có thể là một phán đoán mang tính đơn giản và dễ dãi. Và quyết định đó, có tính cách hết sức cá nhân của người nhạc sĩ, cũng không làm mất đi giá trị và những dấu ấn lửa mà loạt tác phẩm này đã tạo ra trên lương tâm, trên tâm thức con người, Việt Nam cũng như toàn thế giới. Khi viết chuyên luận về Trịnh Công Sơn (14), lúc đầu, tôi cũng đã đi vào phân tích sâu khía cạnh phản chiến của những loạt ca khúc như Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, v.v. Nhưng sau đó, tôi đã bỏ đi tất cả, chỉ còn giữ lại một phần ngắn trong chương hai, Dẫn Vào Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, phần Ám Ảnh Chiến Tranh. Tôi muốn tập trung vào những chủ tố về Thân Phận Con Người (nói chung–không phải chỉ về thân phận con người Việt Nam, đóng khung trong một cuộc chiến), Tình Yêu và Nỗi Cô Đơn trong sáng tác của TCS. Và tôi đã làm điều ấy với một chủ ý văn chương và tránh đi sâu vào những phân tích lý thuyết. Những chủ tố ấy được nhấn mạnh, trình bầy chỗ đậm, chỗ lợt trong suốt chuyên luận. Tôi đã giải quyết sự giằng co và độ căng giữa những chủ tố quan trọng, xét về mặt đối tượng nghiên cứu của mình, bằng cách nhấn kỹ một vài nhịp khúc này và buông lơi một vài nhịp khúc khác. Âu đó cũng là một chọn lựa vũ đoán trong quá trình xây dựng văn bản.

*

Viết, Đọc, Thẩm Thức văn bản văn học để biến nó thành tác phẩm, ít nhất cho chính mình, có những quy luật chung mà người viết, người đọc phải tuân thủ. Nhưng từ những cái chung đó, mỗi người lại có những bước đi riêng trong hành trình lập mã và thám mã của mình. Tất cả những cái riêng đó đều có thể đem lại một độ dày thêm cho văn bản, một ánh sáng mới cho tác phẩm mà mình xây dựng hoặc tiếp cận. Địa lý của văn học nói riêng, và nghệ thuật nói chung, từ đó, được mở rộng thêm. Và con đường đi vào tác phẩm, như thế, không phải là một con đường mòn, một con đường một chiều. Nó có thể, qua cách viết, cách đọc, cách thẩm thức, lý giải rất chủ quan, mang tính vũ đoán của mỗi cá nhân người viết hay người đọc, biến thành một thế giới.

Viết và đọc đều là những nỗ lực rất riêng tư, chủ quan, vũ đoán và mang đầy tính hư cấu. Phê bình, một bước nhảy của cái đọc thông thường, cũng vậy. Nó mang đầy nét hư cấu, chủ quan. Nó cho thấy bản lĩnh hay tài hoa của mỗi người.

Hãy biến những con đường mòn thành một thế giới. Hãy cứ, bằng những nỗ lực rất riêng tư và chủ quan của mình, nới giãn cái biên độ của thế giới ấy ra. Để nó làm thành vũ trụ.

Kẻ viết hay người đọc nào lại không thiết tha muốn hướng về cái vũ trụ ấy.

Bùi Vĩnh Phúc

Tustin Ranch, Calif.

12. VIII. 2009



_________________________________



(1) Xem Julia Kristéva, Recherches pour une sémanalyse, Paris: Seuil, 1969

(2) Xem Serge Doubrowsky, Pourquoi la nouvelle critique?, Paris: Mercure de France, 1966

(3) Đây chỉ là một so sánh hết sức đơn giản, vắn gọn của tác giả bài này về những lý thuyết khá phức tạp được một số nhà vật lý lượng tử và nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh đưa ra. Thật sự, qua nghiên cứu, họ nhìn thế giới, đúng hơn cả vũ trụ này, như một hình ảnh hologram, do chính tâm và ý của con người phóng chiếu ra.

(4) “World”, ở đây, có thể dịch là thế giới, hay thế gian. Tôi thích từ “thế gian”, cho dù “thế gian” hay “thế giới” thì đều chỉ thẳng vào cái cõi thế này. Sự chọn lựa có lẽ là do liên tưởng. Khi chọn “gian”, có lẽ vô thức đã nhắc tôi nhớ đến những câu như “Thi thị khả giải bất khả giải chi gian” (Thơ nằm trong khoảng có thể giải thích và không thể giải thích được), và “Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt” (Chỉ có gió mát ở trên sông cùng với trăng sáng ở sườn núi–Tô Thức, Tiền Xích Bích Phú). “Gian”, so với “giới”, gợi ra ấn tượng về một không gian có tính giới hạn rõ rệt, cụ thể. Nó lại mang tính “thơ mộng” vì một, hai liên tưởng như trên. Đó là một chọn lựa mang tính vũ đoán trong vấn đề đọc, hay dịch.

(5) Facts, sự kiện (có những chỗ được hiểu như “dữ kiện”), là những phát biểu đúng về sự vật (things). “Ghế” là một sự vật; còn mệnh đề “Cái ghế này mầu đỏ” thì đó là (hay không là) một sự kiện. “Thế gian” như chúng ta biết, theo Wittgenstein, chẳng qua chỉ là hoàn cảnh, chỉ giản dị là một tập hợp của những sự kiện được biết–đó chính là “what is the case”–, hơn là những sự vật tách biệt khỏi những gì mà chúng ta có thể nói về chúng. Chính ngôn ngữ đã xây dựng nên cảm thức của chúng ta về thế giới, về mọi thứ bao quanh chúng ta, cũng như về kinh nghiệm của chúng ta đối với chúng.

(6) Roman Jakobson và những người trong nhóm Chủ nghĩa Tượng trưng về Âm (Sound Symbolism), ngược lại, đã cho rằng quan hệ giữa cái-biểu-đạt (CBĐ) và cái-được-biểu-đạt (CĐBĐ) là thiết yếu, không hề có tính vũ đoán. Luận điểm của nhóm này, đặc biệt của R. Jakobson, có những nét độc đáo. Một khía cạnh của chủ nghĩa tượng trưng về âm, đã khiến Jakobson quan tâm đặc biệt, liên hệ đến các nguyên âm mang mầu sắc (”coloured vowels”). Hiện tượng này chưa được tất cả các nhà ngôn ngữ công nhận, và vẫn còn đang được tiếp tục tranh luận, nghiên cứu (inconclusive and under investigation), cho dù Jakobson đã thử áp dụng nó vào việc bình thơ Mallarmé và đưa ra được một số phát hiện độc đáo. (6 bis) Việc ông cùng với Claude Lévi-Strauss cùng đọc chung bài thơ Les Chats (Mèo) của Baudelaire cũng vậy. (Dù sao, nên xem thêm luận văn Describing Poetic Structures: Two approaches to Baudelaire’s “Les Chats” của Michael Riffaterre, nhà phê bình nổi tiếng Mỹ, giáo sư đại học Columbia, tác giả của Semiotics of Poetry (Ký hiệu học về Thơ), phản bác Jakobson và Lévi-Strauss). Tuy nhiên, trong việc đọc thơ, nếu biết sử dụng một cách hợp lý những hệ luận của cả hai quan điểm này, về sự liên hệ giữa CBĐ và CĐBĐ, người ta dễ bắt được ý nghĩa và những nhịp đập quan trọng của trái tim thơ. Trong vai trò một nhà ngôn ngữ và một nhà thi pháp, Jakobson đã có nhiều đóng góp đáng kể; nhưng có lẽ một trong những đóng góp nổi bật của ông là, từ sự mở rộng về quan hệ liên tưởng và quan hệ ngữ đoạn của Saussure, phát hiện về hai trục lựa chọn và kết hợp trong thao tác hoạt động của ngôn ngữ, đặc biệt trong việc sáng tạo và đọc thơ.

(6 bis) Xem Arby Ted Siraki, Problems of a Linguistic Problem: On Roman Jakobson’s Coloured Vowels, Berlin: Springer Netherland (Neophilologus, tập 93, số 1, Jan. 2009)

(7) Thường, đối với thơ, người ta áp dụng trục chọn lựa (gắn liền với ẩn dụ) nhiều; với văn, trục kết hợp (gắn liền với hoán dụ). Nhưng, cả trong văn lẫn trong thơ, khả năng lồng ghép nhuần nhuyễn hai trục và hai thủ pháp này vào nhau để đưa đến những kết quả thẩm mỹ thích đáng là một nghệ thuật. Nó là một dấu chỉ rõ nét của sự sáng tạo.

(8) Ở đây, chúng ta chỉ tạm nói gọn về vấn đề đọc và phê bình như một quá trình tạo nghĩa, trong đó tính chất vũ đoán của ký hiệu đưa đến những liên nghĩa, hàm nghĩa, đã làm đổ xô lên văn bản một trường nghĩa, có thể nói là vô tận, với những liên văn bản mà người đọc, người phê bình có thể tìm ra trên bản gốc. Chúng ta không đi vào những khía cạnh đặc thù của những lý thuyết về đọc văn bản, như thuyết Hồi ứng của người đọc (Reader Response), hay thuyết Giải cấu trúc (Deconstruction) chẳng hạn. Những vấn đề đó cần được trình bày trong những bài khác.

(9) Xem Bernard Raffalli, Le Manuscrit de “À l’Ombre des Jeunes Filles en Fleurs”, Paris: Laffont, 1998.

(10) Xem Jean Pierre Richard, Poésie et Profondeur, Paris: Seuil, 1955.

(11) Xem Pierre Macherey, Pour une théorie de production littéraire, Paris: Maspéro, 1966

(12) Đây là những từ do Roland Barthes sáng tạo ra. Văn học theo dạng lisible, khả độc, là loại văn học dễ dãi, không đòi hỏi sự đóng góp của người đọc trong việc tạo nghĩa cho văn bản. Nó là loại văn học biến người đọc thành một con người thụ động và lười lĩnh. Nó tách người đọc ra khỏi người viết. Văn học theo dạng scriptible, khả tác, trái lại, là loại văn học đòi hỏi người đọc phải góp sức tạo nghĩa cho văn bản. Nó bắt người đọc phải động não để làm việc và tạo thói quen cho hắn tìm kiếm cái không nói ra trong văn bản. Đọc, với loại văn bản này, là một quá trình tạo nghĩa.

(13) Xem Trần Đình Sử, Văn Học và Thời Gian, Hà Nội: Nxb Văn Học, 2000.

(14) Bùi Vĩnh Phúc, Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ và Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005. Tái bản lần thứ nhất tại Việt Nam, bản có bổ sung: Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn, 2008.

Bùi Vĩnh Phúc
___________________________________________________________________________________


3 bình luận »
Lam Truong Phong viết:
“Tình hình này làm ta liên tưởng đến cái nhìn của cơ học lượng tử đối với các vật thể, đúng hơn là các chất thể (particles), được khảo sát. Người ta không thể bỏ qua cái thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó, cũng như không thể bỏ qua những thiết bị mà ông ta dùng để đo lường. Những điều ấy có thể làm thay đổi kết quả của thí nghiệm ”
Ông BVP làm tôi hoang mang vô cùng. Bởi vì nếu thế tất cả những lý thuyết vật lý cơ học lượng tử được công nhận có giá trị sẽ bị thử thách vì những kết quả thí nghiệm để củng cố những lý thuyết này có thể bị thay đổi bởi hai lý do: 1) thái độ cũa người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó. Và 2) thiết bị dùng để đo lường. Thái độ của người nghiên cứu lúc nào cũng thay đổi tùy lúc đâu phải lúc nào cũng y hệt như nhaụ bởi vì là con người chứ có phải máy móc gì đâu!!! Thiết bị dùng để đo lường thì có thể kiểm soát mức độ chính xác và điều chỉnh lại Như thế thì lý thuyết của người nghiên cứu vật lý cơ học lượng tử cứ phải thay đổi xoành xoạch luôn luôn theo sự thay đổi thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm?
.- 20.08.2009 vào lúc 7:05 pm
BBT Da Màu viết:
Độc giả Lam Truong Phong và bạn đọc vui lòng đọc phản hồi của tác giả Bùi Vĩnh Phúc ở đây:

http://damau.org/archives/8278

BBT Da Màu
.- 21.08.2009 vào lúc 10:50 pm
mot nguoi dien viết:
Mở đầu bài tiểu luận có viết:

(Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực)

Nhưng tôi xin bổ sung thêm: Còn cái vũ đoán của những người phát hiện ra hai sự vũ đoán trên của văn chương, tức là vũ đoán về những cái vũ đoán thì tại sao không phát hiện ra? Vậy vũ đoán cuối cùng là gì? Nếu cứ qui hồi như thế thì sẽ đến đâu?
Nó chỉ cho thấy bản thân sự sáng tạo hay hiện thực chẳng liên quan gì đến những phát biểu về nó, tức là công việc tìm cách phát biểu về nó là một cái đuôi ảo tưởng. Chỉ có một cách duy nhất là im lặng và nhìn vào nó. Mọi ý tưởng (ý niệm) về nó đều là sự tự đánh lừa mà thôi. Ngay cả cơ học lượng tử cũng phải tựa trên những định đề chứa đầy ảo tưởng về cấu trúc thế giới, tức là mọi phát biểu tựa trên nó cũng là tựa trên các định đề. Chúng ta không chịu thừa nhận cái sát sườn mênh mông của đời sống con người mà cứ đi theo đuổi những phát biểu lý thuyết và hệ thống chỉ rặt toàn tựa lên nhau (sự việc có nhiều người ủng hộ hay phản đối nó cũng chỉ toàn mang lại các ảo tưởng). Sáng tạo thì không tựa trên cái gì cả, nó chỉ vay mượn, phi sáng tạo thì vay mượn nhưng không có gì để trả nợ.
.- 03.11.2009 vào lúc 11:43 pm

Bùi Vĩnh Phúc : Thuật Ngôn Ngữ Trong Ca Từ của Trịnh Công Sơn

Thuật Ngôn Ngữ Trong Ca Từ của Trịnh Công Sơn
Bùi Vĩnh Phúc

Không ai nghe nhạc Trịnh Công Sơn mà lại không thấy những nét kỳ ảo trong ngôn ngữ của người nhạc sĩ . Những nét kỳ ảo trong thế giới của anh đã khiến cho cái thế giới ấy trở nên, có khi, đẹp đẽ, lung linh nhiều mầu sắc, có khi, nhòe nhạt thấp thoáng những nét nghệ thuật hơn. Nó là một thế giới tuy không xa nhưng cũng không thật gần với cuộc đời này, giống như chút tình mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đến trong một câu hát của bài Như Một Lời Chia Tay, “Tình không xa nhưng không thật gần”. Trong một câu hát khác của bài Đời Cho Ta Thế, anh viết, “Không xa bờ và cũng không xa mịt mù (…) / Không xa trời và cũng không xa phận người”.

Đúng như thế, trong thế giới của anh, ngôn ngữ làm ra tất cả. Chính ngôn ngữ đã tạo ra một thế giới mới, trong đó, anh và bạn bè bằng hữu cũng như những người con gái đáng yêu trong cuộc sống anh hay trong cuộc đời này đã đi lại, nói cười và tan đi như bóng nắng chết trên sông dài, hay như khói trời tan loãng trong mênh mông phù du hư ảnh. Đó là một thế giới có thật hay là một thế giới chỉ có trong tưởng tượng? Có lẽ là cả hai. Có lẽ thế giới này đã xâm thực, chiếm lĩnh và hòa tan làm một cùng thế giới kia. Chính vì thế mà thế giới của Trịnh Công Sơn trở nên nhòe nhạt, lung linh hư ảo. Nó là một thế giới “lai”: lai giữa hiện thực và mộng tưởng, lai giữa hiện tại chớp mắt và thiên thu mịt mù, lai giữa hồng và xám, giữa xanh và đỏ, giữa trắng và đen, giữa vàng và tím, lai giữa “một phố hồng một phố hư không” và “giữa tường trắng lặng câm” u tối.

Ngôn ngữ sinh ra thế giới. “Ngôn ngữ là căn nhà của hiện hữu”, là “chỗ An cư của Tính thể”, nói như Heidegger. Câu nói này càng đúng hơn nữa với Trịnh Công Sơn. Người ta thường cho rằng những lời ca của anh là thơ. Thì đúng là như vậy. Chúng là những lời thơ thả bay cho gió cuốn. Chúng là những hình ảnh, những biểu tượng bất chợt. Như những hình ảnh bất chợt hiện ra lạ lùng, kỳ bí và đầy hư ảo trong những giấc mơ của ta. Chúng bay rải rác và rồi đột nhiên xếp lại thành những bức tranh lạ lùng mang đầy tính huyền ảo. Đó là những lời thơ của một người thường thấy mình mộng du ngay trong đời sống, và thấy đời sống trở về trong những giấc mộng của mình. Đó là những câu thơ nhặt được trong đời. Hay trong mơ. Có khi Trịnh Công Sơn xếp đặt nó theo một thứ vần điệu nào đó dễ nhận ra, qua những hình thức của thi ca mà chúng ta đã quen biết; có những khi, chúng giống như những câu thơ tự do, những câu thơ dài ngắn không đều, như những mảnh giấy mà trẻ con xé nghịch thả bay cùng trời đất. Có lẽ đa số những câu hát của anh nằm trong dạng thức đó. Những câu thơ tự do, như những mảnh giấy nhỏ nhiều màu sắc thả bay trong trời. Nhưng, bây giờ, ta hãy thử xét một số bài hát được Trịnh Công Sơn viết dưới dạng quen thuộc của những bài thơ (hoặc một phần lớn của bài hát được viết như thế). Những bài thơ mà khi được đặt trên khuông nhạc của anh, ít người nhớ lại là, tự khởi đầu, chúng đã ra đời như những bài thơ toàn vẹn.



Những Bài Thơ

* Thơ 4 chữ:


Cũng Sẽ Chìm Trôi (*)

Nhật nguyệt trên cao
Ta ngồi dưới thấp
Một dòng trong veo
Sao lòng còn đục
Bầy vạc bay qua
Kêu mòn tịch lặng
Đường đời không xa
Sao chồn gối chân (…)



(*) Bài này chia làm 2 đoạn, mỗi đoạn 8 câu.

Tuổi Đá Buồn
(…)
Trời còn làm mưa
Mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần
Em quên em quên
Ôi miền giáo đường
Ngày chủ nhật buồn
Còn ai còn ai
Đóa hoa hồng __
Tàn hôn lên môi
Em gầy ngón dài
Lời ru miệt mài (…)


* Thơ 5 chữ:


Nguyệt Ca


Từ khi trăng là nguyệt
Đèn thắp sáng trong tôi
Từ khi trăng là nguyệt
Em mang tim bối rối (…)


Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời


Tôi xin làm mưa bay
Trong vườn em mùa hạ
Tôi xin làm chút gió
Mát thêm những bờ vai (…)
Tôi xin làm sao đêm
Hay làm cây đèn nhỏ
Em bên đèn sẽ nhớ
Nắng trên những đường quen
Tôi xin làm mây êm
Trôi vào trang nhật ký
Hay tôi làm mực hồng
Chờ em giữa trang thư (…)



* Thơ 7 Chữ:


Em Đi Bỏ Lại Con Đường
(…)
Bỏ mặc mưa về bỏ chiều phai
Bỏ mặc hư vô bỏ ngậm ngùi
Bỏ đêm chưa qua ngày chưa tới
Bỏ mặc tay buồn không bàn tay (…)
Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi



Hai Mươi Mùa Nắng Lạ
(…)
Em hai mươi tuổi như bài thơ
Sài Gòn nắng mưa em chợt đến
Làm lời mộng mị giữa thiên thu
Em hai mươi tuổi em đâu ngờ
Năm xưa vui buồn chút phù du
Sài Gòn xua tan nghìn dấu lệ
Cho em bây giờ mắt tình đưa

* Thơ Tám chữ:


Một Cõi Đi Về


Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (…)


* Thơ Lục Bát:


Mưa Mùa Hạ
(…)
Mưa như từng giọt rượu hờ
Đêm trong thành phố ai chờ chờ ai
Mưa thưa tựa áo lụa trời
Ôm quanh da thịt chân người người qua

Lời Ở Phố Về (*)

Đêm xưa ra phố với người
Giờ đây xuống phố với ngày vô vi (…)
Hôm nay ra phố với người
Chợt trong phố xá những lời phân ưu (…)
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng
Nụ cười trong gió mong manh
Một trời riêng đó bước chân ta về.


(*) Bài này chia làm 2 đoạn đối xứng nhau, mỗi đoạn 12 câu lục bát.

* Một Trường Hợp Đặc Biệt: Đoá Hoa Vô Thường

Bài Đóa Hoa Vô Thường là một khúc ca thiền, một giao hưởng thơ (symphonic poem), thay đổi với nhiều giọng điệu. Chính vì thế, ở đây, ta có thể tìm thấy Trịnh Công Sơn đã không những công phu với từng phần, từng đoạn nhạc để diễn tả những ý tình khác nhau qua những khúc thức đầy những nhịp điệu tiết tấu biến đổi, mà anh còn dụng công rất nhiều trong những thể thơ khác nhau, dành cho những phần nhạc khác nhau ấy, để diễn tả những cảm xúc chảy suốt khúc giao hưởng này. Ta thấy dòng thơ 4 chữ làm thành những bước đi thong dong khởi đầu của khúc nhạc:

Tìm em tôi tìm
Mình hạc xương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới…

Khi tìm thấy em, đưa tình về, nhịp hớn hở và dìu dặt tha thiết của lục bát:

Từ nay tôi đã có người
Có em đi đứng bên đời líu lo (…)
Từ em tôi đã đắp bồi
Có tôi trong dáng em ngồi trước sân (…)
Từ nay anh đã có nàng
Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca
Mùa xuân trên những mái nhà
Có con chim hót tên là ái ân.

Sau đó, lại chuyển sang thể thơ 4 chữ để diễn tả tâm trạng bốn mùa yêu nhau. Rồi giọng thơ trở nên hiu hắt khi cuộc tình bước sang một giai đoạn chuyển tiếp khác. Bây giờ là thơ 6 chữ:

Một chiều em đứng cuối sông
Gió mùa thu rất ân cần
Chở lời kinh đến núi non
Những lời tình em trối trăn
Một thời yêu dấu đã qua
Gót hồng em muốn quay về
Dù trần gian có xót xa
Cũng đành về với quê nhà.

Sau đó, nhạc chuyển sang dồn dập và mênh mông, thơ 5 chữ:

Từ đó trong vườn khuya
Ôi áo xưa em là
Một chút mây phù du
Đã thoáng qua đời ta….

Khi khúc giao hưởng mềm và êm dịu trở lại để kết thúc, lời thơ 5 chữ lại trở về cho đến hết bài.

Đóa Hoa Vô Thường là một tác phẩm mà Trịnh Công Sơn đã để nhiều công phu trong đó. Ở đây, ta chỉ tạm nói qua về các thể thơ mà anh đã đưa vào tác phẩm đẹp đẽ này.


Những Hình Ảnh Tỉnh Lược (Ellipsis)

Một nét thú vị trong ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn là những nét tỉnh lược trong ca từ của anh. Ngôn ngữ thơ là một loại ngôn ngữ đặc thù. Nó không nhất thiết phải tuân thủ những quy luật của ngữ pháp văn xuôi. Dù sao, những sự lệch biến này, nếu đẩy tới một độ nào đó, và nếu xuất hiện liên tục ở một tần số nào đó, có thể làm cho câu thơ và làm cho nhà thơ trở nên bí hiểm. Nhà thơ, như thế, sẽ trở nên khó hiểu và có khả năng tự làm cho mình xa rời người thưởng ngoạn. Một nhà thơ giỏi, nếu không đưa ra hẳn được một cách nhìn mới, một lối diễn tả mới, hay không phải là người thích làm cách mạng trong thi ca bằng ngôn ngữ sáng tạo của mình, có thể vẫn là một người dùng chữ nghĩa dung dị, nhưng sự dung dị đó vẫn tỏa ra những nét mới. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn dung dị, nhưng được làm mới bằng nhiều cách. Có thể nói là chúng ta đã tìm hiểu phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của anh qua suốt chuyên luận này trong tất cả những phân tích về những ám ảnh cũng như về thời gian và không gian nghệ thuật của Trịnh Công Sơn. Tất cả những ám ảnh cũng như những xây dựng thời gian và không gian trong thế giới anh đều đã được thực hiện bằng chất liệu ngôn ngữ. Dù sao, trong phần này, cũng như trong một số lý giải tiếp theo sau, chúng ta sẽ thử nhìn kỹ hơn nữa phong cách nghệ thuật xét trên mặt ngôn ngữ của anh.

Trong nghệ thuật tỉnh lược, những hình ảnh (cũng có nghĩa là những từ ngữ) trong câu bị cắt đi mất một vài thành phần, có khi chúng còn bị sắp xếp theo một trật tự không bình thường nữa, khiến cho câu văn và hình ảnh mất đi tính mòn, và trở nên mới, nhờ sự lắp ghép lại trong chính trí tưởng tượng của người thưởng ngoạn. Biện pháp này thành công nhờ gắn chặt với những thao tác nghệ thuật được tiến hành dưới sự soi chiếu của tâm lý hoàn hình Gestalt, vốn đã nằm sẵn trong bản năng của người thưởng ngoạn, cho dù người này có biết hay không biết điều ấy.

* Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau


(Mưa Hồng) (1)

Câu đầu, “Em đi về cầu mưa ướt áo”, có ý nghĩa như thế nào? Ngữ pháp, ở đây, bị cắt bỏ đến mức tối đa. Mọi hình ảnh trở nên rất mơ hồ, giống như bị nhòa nhạt trong mưa. Có thể dựng nên hình ảnh em đi qua cầu, trời mưa và gió bay rào rạt, em một tay che đầu một tay giữ áo để gió và mưa khỏi đánh tốc vạt áo lên. Dáng em bước vội vã nhưng cơn mưa vẫn nhanh hơn. Hình ảnh em, và mưa, và cây cầu, trở nên nhoà nhạt. Có thể cho cơn mưa đổ xuống nhẹ hơn, và những giọt mưa bám vương vào áo em chỉ đủ làm ướt hờ một bờ vai hồng và một tà áo trắng. Vân vân. Người thưởng ngoạn, chạm vào sự tỉnh lược này, có tự do, ở một mức độ nào đó, để hoàn tất và làm rõ hình ảnh em đi qua cầu trong cơn mưa. Hình ảnh cắt thiếu nét này đẹp. Vì nét cắt khéo. Và cũng vì nó được đóng khung trong một bối cảnh thật đẹp và thơ.

* Hồ Tây chiều thu
Mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
Màu sương thương nhớ
Bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời

(Nhớ Mùa Thu Hà Nội)

“Vỗ cánh mặt trời” là thế nào? Hình như tác giả đã cắt đi một nét chính yếu giữa động tác “vỗ cánh” của bầy chim sâm cầm và hình ảnh “mặt trời”. Có thể là bầy chim vỗ cánh bay về hướng mặt trời. Có thể là vỗ cánh bay dưới bóng mặt trời. Có thể là bầy chim vỗ cánh bay đi trong ánh mặt trời đang xuống loang đỏ mặt nước của Hồ Tây buổi chiều thu. Đó có thể là một vài lý giải của người thưởng ngoạn để làm cho bức tranh có đầy đủ nét hơn. Nhưng, thật sự, đủ nét để làm gì? Bức ảnh thiếu nét như thế lại hay. Vì nó tạo nên một hiệu ứng nhòe. Khiến cho buổi chiều ấy như thấm đẫm một màu sương. Nếu bức ảnh đầy đủ mọi nét, “màu sương thương nhớ” kia sẽ không còn chỗ để phát huy hết tác dụng của nó nữa.

* Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên
Ôi miền giáo đường
Ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai
Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi
Em gầy ngón dài lời ru miệt mài…

(Tuổi Đá Buồn)

Một hình ảnh thiếu nét: đóa hoa hồng tàn hôn lên môi. Người thiếu nữ đưa đóa hoa hồng, mãi bị vùi quên trong tay, bây giờ đã tàn đã héo, lên môi hôn? Hình ảnh có pha chút xót xa. Trời mưa. Những gót chân trần. Một ngày chủ nhật. Nỗi buồn. Ngọn tháp giáo đường trơ vơ. Một đóa hồng tàn. Một người con gái mong manh. Và những tiếng ru. Tất cả những hình ảnh đó gọi về một cái gì mong manh, buồn bã. Tất cả mọi nét đều hầu như tĩnh lặng. Kể cả cơn mưa cũng rất tĩnh lặng trong buổi chiều buồn. Chỉ có những gót chân bước đi. Và, đặc biệt, động tác đưa đóa hồng tàn lên môi hôn. Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi: đâu là chủ từ của động từ “hôn”? Người con gái hôn đóa hoa, hay chính đóa hoa là chủ thể của nụ hôn ấy? Nó hôn lên đôi môi ướt lạnh, nhòe nhạt và buồn đau của người con gái đang buông những gót chân trần trong mưa kia. Tôi nghĩ là Trịnh Công Sơn đã để một nét thiếu tuyệt đẹp trong bức tranh mưa của mình.

Chúng ta có thể tiếp tục thử phân tích như thế với những câu “Cây sang thu lá úa rơi mù” trong bài Tạ Ơn, “Mưa phố vai mưa mềm” trong bài Mưa Mùa Hạ… Tất cả những nét thiếu trong những câu như thế của Trịnh Công Sơn là những nét thiếu rất nghệ thuật. Thiếu mà lại tràn đầy. Vì nó kích thích trí tưởng tượng của ta. Nó bắt ta phải, bằng vào kinh nghiệm và những cảm thức thẩm mỹ của mình, bổ túc cho bức tranh được hoàn chỉnh và có ý nghĩa hơn. Nói Trịnh Công Sơn là người có tài sai sử ngôn ngữ cũng là ở những chỗ như thế.

Những Câu Bỏ Lửng

Trịnh Công Sơn cũng có những lúc sử dụng những câu bỏ lửng, chưa toàn vẹn ý ở một mức độ nào đó. Có thể những câu loại này không hẳn là hay hoặc thật hay, nhưng chắc chắn chúng tạo nên một nét lạ. Và trong nghệ thuật, ai là người tránh khỏi sức hấp dẫn của những điều lạ, nếu ta đủ lòng tin rằng mình là người có khả năng để tạo ra chúng.

Chúng ta thử xem những câu dưới đây:

* Có chút bồi hồi trong phút chia ly
Có những mặt người không yêu là vì
Có những cuộc đời hết sức ngây ngô ….


Câu hai, “không yêu là vì”. Là vì sao? Không thấy Trịnh Công Sơn trả lời. Có lẽ cũng giống như trong tiếng Mỹ, nhiều khi để trả lời một câu hỏi, người ta không thể cho biết đích xác lý do của hành động mà câu hỏi đã đặt ra. Người ta, bởi thế, chỉ trả lời, “Because…”, hay là “Just because…” Ta không thể hiểu rõ là “because what ?”, “because” cái gì.

* Từ khi em là nguyệt
cho tôi bóng mát thật là.

“Bóng mát thật là mát”, hay là “bóng mát thật là hạnh phúc”… Chúng ta không rõ. Trịnh Công Sơn chỉ nói lửng lơ như vậy thôi. Cho tôi bóng mát thật là.

* Người tình kia mất con đường về
Và trời kia mất em từ độ.

Từ độ nào? Chúng ta có thể hỏi. Nhưng người nhạc sĩ chỉ nói vậy. Là đủ. Nếu người thưởng ngoạn muốn hiểu là “từ độ ấy” thì chắc cũng đúng. Nhưng hình như người nhạc sĩ như muốn hỏi rằng, “Nói ra quá rõ như thế để làm gì?”

Trong những lời ca của Trịnh Công Sơn, người ta còn có thể tìm ra nhiều câu bỏ lửng theo cung cách như vậy. Chẳng hạn:

* Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ngàn năm (í a)
Buồn như (í a).

* Chiều trên quê hương tôi / có bao nhiêu điều đã trôi qua
Có riêng em cuộc đời vẫn nhớ
Nét quê hương nghìn năm vẫn là.

* Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên
Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn…
* Tìm em tôi tìm
Nhủ lòng tôi ơi
Tìm đêm chưa từng
Tìm ngày tinh khôi
Tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông những dấu hài
* Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì hay bóng trăm năm
Bỗng một hôm qua phố hoang tàn
Tôi quen như tôi đã có lần.

Cách nói bỏ lửng như thế, trong những câu tôi vừa thử nêu ra, có đặc sắc hay không là tùy nơi cảm quan của người thưởng ngoạn. Nhưng có một điều chắc chắn là nó lạ. Nó làm cho người nhạc sĩ đứng tách ra. Và nó làm cho chúng ta nhớ anh. Và, đó cũng là một phong cách nghệ thuật.

Những Cách Nói Lạ

Ngoài lối nói tỉnh lược, cắt bỏ nét trong câu trong hình, ngoài lối nói bỏ lửng, cắt bỏ một nét cuối câu, Trịnh Công Sơn còn có một phong cách sử dụng từ rất lạ, biến chúng thành một nét riêng của anh, không nhòe lẫn với bất cứ ai.

Trước hết là từ “hư hao”. Từ này, trong cuộc sống văn xuôi, có một nghĩa thật tầm thường. Nó đi quá gần đời sống. Nó gần với câu văn nói và không mang một nét thơ nào cả, chẳng hạn khi người ta nói về đồ đạc hay nhà cửa hư hao. Trong Trịnh Công Sơn, anh cho nó những thuộc tính, những phẩm tính mới:

Ngọn gió hư hao thổi suốt chiêm bao
Rồi tình trong im tiếng
Rồi tình ngoài hư hao
Về đây thân xác hư hao
Đêm đêm nằm nghe lá
than van chút niềm đau ngọt ngào.

“Hư hao”, từ đó, đã đi vào thi ca.

Thứ nhì là trạng từ “vừa”. Ý nghĩa bình thường của nó là “đủ”, “không thừa, không thiếu”, như trong “cầu dừa (vừa) đủ xài (xoài)”. Ở Trịnh Công Sơn, nó được lắp ghép một cách đặc biệt vào những tính từ thường không gắn bó với nó, như:

Một lời tình cuối vu vơ
Một ngày tình xót xa vừa,

hay tất cả gắn bó với nhau trong một thi ảnh lạ:

Chìm dưới cơn mưa
Một ngàn năm trước
Mây qua mây qua
Môi em hồng nhạt
Chìm dưới cơn mưa
Một ngàn năm nữa
Mây qua mây qua
Môi em hồng vừa.

Có khi anh cho trạng từ “vừa” này bám vào một danh từ, khiến cho nó được dùng như một tính từ:

Ngàn mây xám chiều nay về đây treo lững lờ
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vừa.

“Vừa”, như thế, mang một nét mới của Trịnh Công Sơn.

Ngoài những từ vừa kể, Trịnh Công Sơn còn nhiều cách nói khác làm cho người nghe khó quên anh. Những cách nói đó bao gồm những từ ngữ không nằm trong cách lắp ghép bình thường của mọi người. Có thể kể:

Từ nay tôi đã có tình

Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa


Miệng môi kia ốm o lời thề


Trái tim cho ta nơi về nương náu

Được quên rất nhiều ngày tháng tiêu điều


Một ngày đã có em xa nơi này

Một ngày với vắng tôi

Nào dễ chóng phai trong lòng nỗi nhớ

Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù…


Những cách nói như thế, những cách dùng chữ như thế, góp phần làm cho thế giới của Trịnh Công Sơn tách xa khỏi cuộc sống bình thường một chút nữa. Chúng tạo nên một độ chênh để người thưởng ngoạn nhận rõ hơn đó là thế giới của Trịnh Công Sơn. Từ đó, con người tác giả cũng hiện ra dưới mắt họ trong một góc độ đặc biệt hơn.


Cuộc Hôn Phối Của Những Hình Ảnh:

Những Biện Pháp Tu Từ

Qua suốt bài này, chúng ta thấy rõ rằng ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn bao gồm đa số những từ, những chữ bình thường, nhưng cách anh sử dụng chúng, cách anh tạo ra những hình ảnh nơi chúng, thì quả là khác thường. Những hình ảnh của anh khác thường, như đã nói, có lẽ vì chúng “không xa nhưng không thật gần” đời sống. Hình ảnh “Trời ươm nắng cho mây hồng” chẳng hạn, là một hình ảnh lạ, và đẹp. Đó chỉ là một trong rất nhiều những hình ảnh mà Trịnh Công Sơn đã đưa vào thế giới của mình, và làm cho thế giới của anh trở nên mới và lạ hẳn. Một quy luật của sự sáng tạo thi ca là làm “lạ hóa” (defamiliarization) những cảnh, những vật bình thường, cho chúng một khuôn mặt và một vóc dáng khác. Đặt chúng vào trong những không gian mới. Dìm chúng vào một bầu khí quyển mới. Trịnh Công Sơn thường xuyên làm được điều đó, và làm một cách tài hoa, trong việc viết những ca từ của mình. Ngoài việc tạo ra những hình ảnh mới, Trịnh Công Sơn còn tạo được sự khác thường nơi thế giới mình bằng cách sắp đặt các ý tưởng, các hình ảnh bên nhau một cách bất ngờ, không theo sự mong đợi của người nghe anh. Cái tài của anh là tạo ra những cuộc hôn phối kỳ lạ của chữ nghĩa, của hình ảnh. Những cuộc hôn phối ấy thường được thực hiện bằng những biện pháp tu từ (figures of speech). Và có lẽ Trịnh Công Sơn là một trong ít người tài hoa đã thực hiện một cách tốt đẹp và ban phép lành cho những cuộc hôn phối này, khiến, nhiều lúc, người xem tưởng như chứng kiến một phép lạ. Đó là những phép lạ ngôn ngữ. Và, để nhắc lại, ngôn ngữ cũng là một vật liệu để sáng tạo ra trần gian này.

Sau đây, chúng ta hãy thử xét một số biện pháp tu từ mà Trịnh Công Sơn thường dùng. Qua đó, chúng ta cũng gặp gỡ lại một số những hình ảnh mang đầy tính “hiện thực kỳ ảo” trong thế giới ý tưởng của người nhạc sĩ. Trong một số trường hợp, những hình ảnh của Trịnh Công Sơn bao gồm những biện pháp tu từ có tính chập đôi hay trùng phức; qua đó, chúng mang trong mình một lúc hai hoặc ba biện pháp chập lại. Trong trường hợp ấy, hình ảnh thường trở nên có chiều sâu hơn và đưa đến, cùng lúc, nhiều sự liên tưởng.

Một vài thí dụ: Trong bài Thương Một Người, câu “Từng đêm qua ngõ tối / Bàn chân âm thầm nói” có thể được hiểu như một hình ảnh với những biện pháp tu từ có tính trùng phức. Ở một mức độ thấp và đơn giản nhất, có thể xem đây là biện pháp nhân hóa: tác giả gán cho bàn chân một thuộc tính của người, là “nói”. Cao hơn nữa, có thể xem nó là ẩn dụ: bàn chân tượng trưng cho người con gái; một người con gái âm thầm đi về trong đêm. Bàn chân âm thầm ấy nói lên những tâm sự buồn và u uẩn. Cao hơn nữa, có thể xem nó là hoán dụ: lấy bàn chân, là một phần của con người, để chỉ toàn thể con người: người con gái với bước chân âm thầm đi trong đêm tối, tấm lòng ôm giấu một nỗi buồn riêng tư, không muốn ngỏ cùng ai.

Trong bài Ru Ta Ngậm Ngùi, câu “Có sợi tóc nào bay / Trong trí nhớ nhỏ

nhoi” cũng có thể đã mang trong nó một hình ảnh có tính trùng phức. Sợi tóc có thể là một ẩn dụ chỉ người con gái, một bóng dáng thân yêu đã khuất xa trong cuộc đời người nhạc sĩ. Nó cũng có thể mang tính hoán dụ: tác giả dùng một sợi tóc để chỉ cả một mái tóc, và dùng một mái tóc—một phần của con người—để chỉ cả một con người. Người con gái ấy đã có thể trở về trong tâm trí tác giả, trước hết, qua hình ảnh một sợi tóc. Một sợi tóc bay ngang một vành môi hồng ướt chẳng hạn. Điều ấy đáng nhớ lắm chứ!

Một số hình ảnh được liệt kê dưới đây đã rơi vào những trường hợp trùng phức như thế. Thật sự, chúng có thể được xét cùng một lúc như những biện pháp tu từ khác nhau.

* Nhân hóa (Personification):

Một biện pháp tu từ gán cho thú vật, những ý tưởng, những sự trừu tượng, và những đồ vật vô tri giác cái dạng thể, tính cách hay những cảm giác của con người; hoặc là gán cho loài vật hay những thứ gì đó được tưởng tượng ra những nét thông minh hoặc những đặc tính và cảm xúc của con người.

Khi tình đã vội quên
Tim lăn trên đường mòn
Trên giọt máu cuồng điên
Con chim đứng lặng câm

Con gió ở trọ bao la đất trời
(…) Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
(…) Trăm năm ở đậu nghìn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn

Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã giữa tim người
Biển sóng biển sóng đừng âm u
Đừng nuôi trong ấy trái tim thù

Tình khâu môi cười
Tình thắp cơn sầu
Tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao
Rồi trong cơn yêu dấu tình đày tình xa nhau

Từng đêm qua ngõ tối
Bàn chân âm thầm nói

Trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me
Bao đường phố em qua nắng lên đứng chờ

Bống nhảy lên bờ bống đi chơi phố
Nắng vàng ủng hộ cho bống căn nhà

Một dòng sông chở ngày hấp hối

Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh
Đàn chim non réo bên vườn hoang
Người ra đi bến sông nằm lạnh
Này nhân gian có nghe đời nghiêng

Lời cỏ cây hát trên da người

Xuân đến bên kia đồi trời mở ra cánh én
Em đến bên tôi ngồi đời mở ra cuộc tình

Đàn chim non lần hạt
Cho câu kinh bước tới

Chiều đã đi vào vườn mắt em
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng…

Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường rong chơi…
Đời vẽ tóc em thật dài
Rồi vẽ môi thơm nụ cười
Từ đó thiên hạ vui tươi…

* So sánh (Simile):

Biện pháp tu từ trong đó sự tương tự hoặc giống nhau giữa hai đối tượng được trực tiếp trưng ra. Giữa hai đối tượng được so sánh thường có một liên từ so sánh như như, tựa để nối kết chúng. Trong biện pháp này, hai đối tượng được so sánh, trong bản chất, thường thuộc những thể loại rất khác nhau, trong những phạm trù khác nhau, nhưng lại có một điểm hay một khía cạnh nào đó bất ngờ đem lại một sự liên tưởng khiến chúng trở nên giống nhau.

Mặt trời như trái cây tuyệt vọng
Rơi trong đêm rơi trong đời nàng

Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang

Đời sẽ buồn như một vết thương
Tình sẽ buồn như là nấm hoang

Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô

Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn
lửa lên thắp một niềm riêng
Tôi như nụ hồng nhiều khi ưu phiền
nhìn tôi rã cánh một lần

Đâu ngờ tình như lá úa
khiến tôi chia lìa từng giấc mơ

Những bước chân mềm mại đã đi vào đời người
như từng viên đá cuội rớt vào lòng biển khơi

Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
(…) Tình ta như núi rừng cúi đầu

Tình yêu như trái phá con tim mù lòa
Tình yêu như nỗi chết, cơn đau thật dài
Tình yêu như vết cháy trên da thịt người
Tình xa như trời,
tình gần như khói mây,
tình trầm như bóng cây,
tình reo vui như nắng
tình buồn làm cơn say
Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời

Hồn mình như vá khâu,
buồn mình như lũng sâu

Bờ vai như giấy mới

Mình như đá, đá lăn vết lăn buồn
Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng

Có người lòng như khăn mới thêu
Có người lòng như nắng qua đèo

Dù ta như con đường dài vắng người
Nhìn người đi như mây vô danh

Mưa như từng giọt rượu hờ

Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay

Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ
Miệng môi hồng đỏ như đóa hoa vông…

* Ẩn dụ (Metaphor):

Biện pháp tu từ đưa ra một sự so sánh ngầm qua đó một đối tượng được đưa ra so sánh một cách đầy bất ngờ, qua những hình ảnh mang đầy nét tưởng tượng, với một đối tượng khác. Đối tượng thứ nhất được gán cho một hay nhiều đặc tính của đối tượng thứ hai; hoặc đối tượng đầu được gán cho những đặc tính mang nét xúc cảm hay tưởng tượng có liên hệ với đối tượng thứ hai. Cũng giống như trong so sánh, hai đối tượng được đề cập thường là khác xa nhau trong bản chất hoặc trong phạm trù suy niệm, thế nhưng, một nét bất ngờ nào đó, từ tia lửa nhận thức loé lên trong tâm hồn và cái nhìn của con người sáng tạo, hai đối tượng được đem lại đặt gần bên nhau, và nét giống nhau giữa chúng được bật lên. Cái thú vị của ẩn dụ nằm ở chỗ đây là một sự so sánh ngầm. Sẽ không có một liên từ so sánh nào được sử dụng để nối kết hai đối tượng lại. Có khi, sự nối kết này lại được thể hiện thẳng băng và bất ngờ qua hệ từ là. Trong những trường hợp khác, người thưởng ngoạn, với sự tưởng tượng nhanh nhạy của mình, phải tự làm công việc liên kết hai đối tượng được so sánh lại. Sự thú vị được tạo ra cũng từ đó.

Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng


(Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ)
Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa


Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa

Nhìn lại mình đời đã xanh rêu

Từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên


Tình khâu môi cười

Có con đò chở mưa nắng đi

Cuộc đời cho tôi cho tôi trái cấm trên đôi môi em
Cuộc đời cho thêm cho em có cánh bay đi vội vàng

Môi em hồng như lá hư không


Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay

Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn


Em là phấn thơm cho rừng chút hương
Là lời hát ca cho trần gian

Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi

Con sông là thuyền, mây xa là buồm


Dòng nước mắt sẽ bay trong trời
Làm cơn mưa rớt trên chăn gối

Có còn trong em những đêm gió lộng
Có còn trong em những cây nến hồng

Tên em là vết thương khô

Từng câu nói là từng cánh buồm giong cuối trời

Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những chuyến xe
(…) Thấy đời mình là những đám đông
(…) Thấy đời mình là những quán không
(…) Thấy đời mình là con nước trôi

Môi nào hãy còn thơm
Cho ta phơi cuộc tình


Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya…

* Hoán dụ (Metonymy / Synecdoche):

Biện pháp tu từ dùng sự thay thế. Nó sử dụng một từ mang chứa một hình ảnh nào đó gần gũi với hình ảnh được nghĩ đến trong tâm hồn và đầu óc kẻ sáng tạo để đưa đến một sự nhận thức gián tiếp về hình ảnh đó. Chẳng hạn, khi nói, “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi ra mới có tấm bánh mà ăn”, thì “mồ hôi” ở đây chỉ “sự lao động cực nhọc”. Hay khi dùng hình ảnh “ngai vàng” hoặc “bệ rồng” để chỉ “nhà vua”. Nó cũng là biện pháp lấy một phần để chỉ toàn phần, hay, đôi khi, ngược lại, lấy toàn phần để chỉ một phần. “Đó là một tay thợ lành nghề”, “Nếu anh không làm rõ mọi chuyện, đừng vác mặt đến gặp tôi nữa”, hay “Cả thành phố đổ xuống đường đi đưa tiễn người nhạc sĩ tài hoa”… là những thí dụ cho biện pháp này. Để tạo sự thích đáng và mang lại hiệu ứng thẩm mỹ cần thiết, phần được chọn để thay thế cho tổng thể sẽ phải là một phần quan trọng của tổng thể đó và phần được chọn ra để thay thế ấy thường phải là phần có liên hệ trực tiếp đến cái toàn phần kia.

Một cuộc tình nhỏ bé
Bên đôi môi hồng đào

Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi

Những bước chân mềm mại
Đã đi vào đời người

Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
(…) Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm
Cho đời chút ơn biết tà áo nọ

Bước chân em xin về mau

Từng đêm qua ngõ tối
Bàn chân âm thầm nói

Bàn tay chăn gió mưa sang

Tay hư vô đốt nến
Chiều chơi vơi lên cao
Tay hư vô che giấu
Chiều qua truông mây sâu

Bàn tay nghe ngóng tin sang

Vì một bàn tay không ngần ngại
Tặng hết cho tôi một phố chờ

Mùa thu mưa bay cho tay mềm
(…) Bàn tay xôn xao đón ưu phiền

Nghe bao nỗi đau trên một bàn tay

Một chiều tay người đã thả mây bay cho đường dài…

* Câu Hỏi Tu Từ (Rhetorical question):

Biện pháp tu từ dùng một (hay những) câu hỏi để nhấn mạnh một ý tưởng hay một tình cảm nào đó. Đây không phải là một câu nghi vấn đòi hỏi hoặc cần đến một câu trả lời. Câu hỏi tu từ thường được dùng để thuyết phục hoặc để tạo ấn tượng về mặt hùng biện. Nguyên lý chính cho sự sử dụng câu hỏi tu từ là, vì câu trả lời đã quá hiển nhiên và thường câu hỏi chỉ có một lời đáp duy nhất khả hữu và thích đáng, nên, để tạo ấn tượng sâu lắng hơn trong tâm hồn người nghe, người đặt câu hỏi tìm đến biện pháp tu từ này hơn là đưa ra một lời tuyên bố bình thường hay một câu xác định trực tiếp. (2)

Làm sao em biết bia đá không đau?

Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua?
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say?

Nắng vàng, em đi đâu mà vội mà vội ?
Nắng vàng, nắng vàng ơi!

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy?
(…) Ôi, cát bụi mệt nhoài.
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi?
(…) Vết mực nào xóa bỏ không hay?

Người đâu mất người?
(…) Điệu kèn ai buốt trong tôi?

Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này?
Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người?
Còn bao lâu tôi xa em xa anh xa tôi?

Một dòng (í a) trong veo.
Sao lòng (í a) còn đục?
Đường đời (í a) không xa.
Sao chồn (í a) gối chân?

Sầu thôi xuống đầy.
Làm sao em nhớ?

Không có em, còn tôi với ai?
(…) Không có em, buồn vui với ai?
(…) Ai đã chia người mãi xa người?
Ai giết đi tình đang lứa đôi?

Tuổi nào ngơ ngác tìm tiếng gió heo may?
Tuổi nào lang thang thành phố tóc mây cài?
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu?
Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù?

Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai?

Anh đi đâu, về đâu?
Có nhớ trong em từng ngày yêu dấu?
Có biết trong em tình mãi bền lâu?
Trong em mặt trời khô héo?
Trong em ngày ấy vực sâu một đời?

Trời đất kia có hay ta về?
(…) Này nhân gian, có nghe đời nghiêng?

Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ?

Nhớ gì mà nắng vàng cánh rừng?
Thương ai mà sương khuya vội vàng buông?

Nơi em về ngày vui không em?
Nơi em về trời xanh không em?
Ta nghe nghìn giọt lệ
Rớt xuống thành hồ nước long lanh.


Qua một số hình ảnh được lấy ra trong thế giới của Trịnh Công Sơn như đã trình bày ở trên, ta thấy là Trịnh Công Sơn, để xây dựng những hình ảnh và cả một thế giới của mình, đã sử dụng rất nhiều những biện pháp tu từ. Tất cả làm cho những hình ảnh của anh long lanh, lấp lánh, lung linh, hay tạo ra những hiệu ứng nhoè hư hư thực thực. Chúng là những nét nhoè nghệ thuật một cách cố ý. Những biện pháp này, được sử dụng với phong thái riêng của Trịnh Công Sơn, đã biến thế giới của anh thành một thế giới đặc thù, không thể nhầm lẫn với bất kỳ sáng tạo của bất kỳ một nghệ sĩ nào khác. Ngoài những biện pháp tu từ vừa kể, chắc chắn Trịnh Công Sơn còn sử dụng thêm những biện pháp khác. Nhưng, một là vì chúng khá phổ biến, như cách nói cường điệu hóa của thi ca và văn chương (mà chúng ta cũng thấy trong ca từ của anh), hay cách sử dụng biện pháp trùng lặp (điệp từ, điệp ngữ, v.v…) để tạo sự nhấn mạnh, hay đối xứng (mà ta sẽ xét tiếp theo phần này); hai là vì chúng không xảy ra thường xuyên ở một tần số nào đó, như cách sử dụng biện pháp đảo trang, uyển ngữ, v.v…, nên tôi không liệt kê chúng hết cả ra đây. Dù sao, trong những biện pháp mà Trịnh Công Sơn đã sử dụng, hoán dụ có lẽ là một biện pháp mang một vài hình ảnh đặc biệt mà chúng ta nên nói thêm.

Có thể nói, ngoài một vài trường hợp rõ rệt, hầu như tất cả những hình ảnh về bàn tay mà Trịnh Công Sơn đưa vào trong thế giới của mình đều là những bàn tay lạ. Những bàn tay mở ra và đưa đón giữa trời. Những bàn tay tách khỏi chủ thể, hoặc nếu có gắn bó với một chủ thể nào đó thì đó là một chủ thể giấu mặt, có tính rất phiếm chỉ. Chẳng hạn như, “tay hư vô đốt nến”, “bàn tay chăn gió mưa sang”, “bàn tay nghe ngóng tin sang”, “nghe bao nỗi đau trên một bàn tay”, “tay người đã thả mây bay cho đường dài”, vân vân. Tôi tạm xếp loại chúng vào biện pháp hoán dụ, vì nếu lý luận cho đến rốt ráo thì những bàn tay đó đều dẫn đến, và đại diện cho, một chủ thể nào đó. Hoặc một chủ thể có tính vô hình, như hư vô, như trời đất, hoặc một thực thể có tính hữu hình, như tôi, như em, như người, những tôi, em, người rất phiếm định vì sự vắng mặt hay giấu mặt của nó. Nhưng, thật ra, chúng có nên được xếp vào hình loại “hoán dụ” hay không, hay là nên xem chúng như những ẩn dụ mang một khuôn mặt lạ. Hay chúng là những hình loại trùng phức, vừa hoán dụ vừa ẩn dụ. Đấy là một trong những nét “hiện thực kỳ ảo” trong thế giới Trịnh Công Sơn.

Những Nét Đối Xứng

Trong thế giới và trong những thi ảnh của Trịnh Công Sơn, người ta thường thấy một sự hài hòa mang đậm nét mỹ học được thực hiện bằng biện pháp đối xứng. Đối xứng thật ra đã là một quy luật về mỹ học từ thời xa xưa, khi con người hiểu rằng chính đối xứng đã tạo ra sự cân bằng hòa đối, nâng cao khoái cảm thẩm mỹ nơi con người. Luật đối xứng, trong thời hiện đại và hậu hiện đại, với sự soi chiếu của những tương quan văn hóa mới, những nền mỹ học mới, có thể đang gặp một số những thử thách, trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Dù sao, có thể nó sẽ chấp nhận một cuộc sống chung, trong một mức độ và trong một tương quan nào đó, với luật bất cân xứng, để tạo nên một thế giới đa dạng và nhiều màu sắc hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ không thể bị loại bỏ khỏi mắt nhìn nghệ thuật của con người. Bởi lẽ, tất cả thiên nhiên và vũ trụ này, thật sự, đã được tạo dựng ra trong sự đối xứng đó. (3)

Ta hãy thử xét thế giới của Trịnh Công Sơn qua cấu trúc đối xứng này trong nhiều mức độ khác nhau. Cấu trúc đối xứng này cũng có thể là song song hay thuận nghịch. Trước hết là những hình ảnh đối xứng trong một câu:

Đây là đối xứng mùa màng:

Yêu đầy mùa nắng / mùa mưa

Còn đây là đối xứng tình cảm. Con người được treo giữa hai đầu cân lên xuống, giữa đớn đau chảy máu và hạnh phúc hoan lạc:

Mỗi vết thương lành / một nỗi vui

Đối xứng về thời gian, thời gian vật lý hay thời gian tâm tưởng:

Ngày nào vừa đến đã xa muôn trùng…
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối

Đối xứng không gian, xa và gần, thân thuộc và lạ mặt:

Không xa bờ và cũng không xa mịt mù /
Không xa cửa nhà và cũng không xa ngục tù…


Những ý tưởng và hình ảnh đối xứng dưới đây được diễn ra trong một cặp song song.

Đây là đối xứng yêu:

Tôi đã yêu em bao ngày nắng / Tôi đã yêu em bao ngày mưa… //
Một người về đỉnh cao / Một người về vực sâu… //

Còn đây là đối xứng nhìn:

(Con mắt còn lại nhìn một thành hai)
Nhìn em yêu thương / Nhìn em thú dữ //
(Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi)
Nhìn tôi lên cao / Nhìn tôi xuống thấp //
(Con mắt còn lại nhìn đời là không)
Nhìn em hư vô / Nhìn em bóng nắng

Sau đây là đối xứng trong từng cặp ý tưởng.

Đối xứng đi/về, bao la/gần gũi:

Người ngỡ đã xa xưa nhưng người bỗng lại về /
Tình ngỡ sóng xa đưa nhưng còn quá bao la


Đối xứng những giá trị con người, những giá trị trần gian:

Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh quang

Đối xứng mất/còn, xa vắng/thiết tha. Có phải đó cũng là đối xứng yêu?

Tình trong hai tay / một hôm biến mất
Con mắt còn lại là đêm tối tăm / con mắt còn lại là đêm nồng nàn //
(Lòng ta có khi tựa như vắng ai)
Nhiều khi đã vui cười / Nhiều khi đứng riêng ngoài //
Nhiều khi muốn đi về con phố xa /
Nhiều khi muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà

Đối xứng biển:

Tình yêu như biển, biển rộng hai vai /
Tình yêu như biển, biển hẹp tay người

Đối xứng gió/lá, nắng/mưa. Đối xứng tôi:

Đôi khi thấy trong gió bay lời em nói /
Đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi //
Đôi khi nắng qua phố xưa làm tôi nhớ /
Đôi khi có mưa giữa khuya hồn tôi bỗng vu vơ


Đối xứng hạnh phúc/khổ đau như hệ quả của “một ngày tình cờ biết em”. Cuộc tiếp cận với khổ đau của người nhạc sĩ giữa trần gian này đôi khi đã được thực hiện thông qua hình ảnh và trái tim của một người nữ:

Đời vẽ tóc em thật dài /
Rồi vẽ môi thơm nụ cười
Từ đó thiên hạ vui tươi //
Đời vẽ tim em lạ kỳ /
Tình có trong em nhiều mùa
Từ đó thiên hạ quá ưu tư…


Một dạng đối xứng khác là đối xứng trong kết hợp hai câu với nhau. Hai câu đối nhau, đã đành; nhưng những ý tưởng và hình ảnh trong từng câu một cũng đối nhau.

Đối xứng khô/mát, sáng/tối, trong/mờ:

Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối /
Đôi khi nhớ trong mắt em một bóng tối nhỏ nhoi…


Đối xứng đời và đối xứng tình. Đối xứng ấm và đối xứng lạnh:

Không xa tình và cũng không xa thù hận /
Không xa nồng nàn và cũng không xa lạnh lùng

Cũng có khi là đối xứng trong kết hợp bốn câu hai vế (mỗi vế hai câu). Hai vế đối nhau, và các phần tử trong mỗi vế cũng đối nhau. Các ý tưởng và hình ảnh trong mỗi câu của từng vế cũng đối nhau.

Đối xứng trăm năm và hạnh ngộ. Lạnh lùng và thiết tha. Tàn tạ và rực rỡ:

Đã có nghìn trùng trên môi người tình /
Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng //
Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn /
Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn //



Có khi là sự đối xứng liên tục trong một kết hợp chuỗi. Chuỗi đó là một chuỗi tình:

Tình xa như trời / tình gần như khói mây / tình trầm như bóng cây / tình reo vui như nắng / tình buồn làm cơn say

Tình thắp cơn sầu / Tình dìu qua hố sâu / tình vời lên núi cao / rồi trong cơn yêu dấu tình đầy tình xa nhau


Có khi là đối xứng trong cấu trúc của cả một bài. Vì vấn đề mỹ thuật, tôi không thể chép cả bài ra đây, nhưng Tình Sầu (xin xem toàn bài trong phần Phụ Lục) là một trong những bài hát được cấu trúc chủ yếu trên nét đẹp cân đối một cách hết sức thơ mộng của Trịnh Công Sơn. Cả bài, ngoài một đoạn giữa gồm có năm câu hát ngắn, coi như một thứ coda, được dùng để nối kết trong sự trở đi trở về của nó với cấu trúc của toàn bài, Cuộc tình lên cao vút / như chim mỏi cánh rồi / như chim xa lìa trời / như chim xa lìa bầy / như chim bỏ đường bay, tất cả phần còn lại được xây dựng trên tám đoạn ngắn để diễn tả cuộc tình sầu. Cấu trúc của tám đoạn đó là một cấu trúc đối xứng. Đối xứng về câu, đối xứng về ý, đối xứng về hình. Đối xứng hình ảnh trong một câu hát: tình gần như khói / mây; vội vàng / nhưng chóng quên // rộn ràng / nhưng biến nhanh… Đối xứng trong hai câu song song: hình hài xưa đã thay / mặn nồng xưa cũng phai // hồn mình như vá khâu / buồn mình như lũng sâu // nghìn trùng như vết sương / lạnh lùng như dấu chim… Đối xứng trong một chuỗi: Tình xa như trời / tình gần như khói mây… // Tình thắp cơn sầu / tình dìu qua hố sâu… (hai đoạn này đã dẫn ở trên). Tóm lại, Tình Sầu mang trong nó một cấu trúc đối xứng, ở nhiều cấp độ, trên một quy mô lớn là một bài hát hoàn chỉnh. Đây cũng là một trong những bài hát của Trịnh Công Sơn mà những biện pháp tu từ được sử dụng đến mức tối đa.

Chúng ta hãy hát lại Tình Sầu, cũng như những bài Quét Lá Mùa Xuân, Đời Cho Ta Thế, Rồi Như Đá Ngây Ngô, Tôi Ru Em Ngủ…, ta sẽ thấy cấu trúc đối xứng đã được Trịnh Công Sơn sử dụng một cách nhuần nhuyễn, thật thơ và đẹp như thế nào. Chính nó, cái cấu trúc ấy, đã là một hòa điệu đầy nét thẩm mỹ trong cái nghe, cái nhìn, cái cảm của con người. Cùng với những hình ảnh lạ và đẹp của người nhạc sĩ, nó mang chúng ta vào một thế giới không mòn, với những cánh cửa mãi mở ra, tiếp tục dẫn chúng ta đi tới. Trịnh Công Sơn đã nhìn ra những nét sống muôn đời của thiên nhiên ấy và ôm lấy chúng trong cuộc hành trình mình. Mâu/thuẫn, trắng/đen, khóc/cười, buồn/vui, xa/gần, ấm/lạnh, v.v…, tất cả những điều ấy là cuộc đời. Là con người. Là điều kiện của cuộc sống con người. La condition humaine, nói như Malraux. Tất cả nằm lẫn trong nhau, nằm trong lòng nhau. Tất cả đều sinh ra nhau. Nếu đã hát Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng / rơi rất gần rơi xuống trong tôi, thì cũng hãy hát Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Nếu đã hát Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng và Đóa hoa hồng vùi quên trong tay, thì cũng hãy hát Quỳnh thơm hay môi em thơm và Cuộc đời cho tôi trái cấm trên đôi môi em. Bởi lẽ, em là tôi và tôi cũng là em. Và tất cả cuộc đời này là những điều đắp đổi, gắn bó, nằm trong lòng nhau và xoay chuyển bốn mùa.



bùi vĩnh phúc

(trích trong Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ & Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005/Sài gòn: Văn hoá Sài Gòn, 2008—sắp xếp lại và bổ sung cho bản đăng trên Da Màu, 4/2009)

_____________________


Chú thích:

(1) Tựa đề bài hát là “Mưa hồng”. Có lẽ trên cuộc đời này, Trịnh Công Sơn là người duy nhất giữ

được mầu nắng hồng trong mây và giữ được mầu mưa hồng trong nắng. Thật ra, khoảng gần năm trăm năm trước, Thang Hiển Tổ, một kịch tác gia vĩ đại của Trung Quốc thế kỷ XVI, đã nói đến hình ảnh mưa hồng (“hồng vũ hạ”). Ông bảo là “đi vào tình yêu giống như đi dưới mưa hồng”. Cách ví von thật đẹp. Nhưng có lẽ cái mưa hồng mà Thang Hiển Tổ thấy ở đây là cái mưa trong tâm lý nhiều hơn. Khi đang yêu, con người thấy thế giới chung quanh toàn một mầu hồng, “la vie en rose”. Cái thú vị là sao Thang Hiển Tổ không nói đến “cái hồng” nào khác giữa cuộc đời này dưới mắt những người đang yêu, mà lại nói đến “mưa hồng”. Và Trịnh Công Sơn, người nhìn thấy “mưa hồng”, có thật đã nhìn thấy cái mầu hồng ấy một cách “vật lý”, từ nắng, từ mây, đến cơn mưa đổ chụp lên thành phố khi hai người yêu vừa nắm tay nhau vừa chạy trốn cơn mưa? Hay đã nhìn thấy mầu mưa bay chéo trong ánh phượng? “Em đi về cầu mưa ướt áo / Đường phượng bay mù không lối vào / Hàng cây lá xanh gần với nhau”? Bâng khuâng, ta tự hỏi, “Ngày xưa, bên Tàu, thời Thang Hiển Tổ, không biết có những cây hoa phượng hay không?” (cho dù, một cách ý thức, ta biết rằng cây hoa phượng, còn được gọi là cây hoa soan Tây, do người Pháp đem vào Việt Nam. Nó có tên khoa học là “Delonix regia”, gốc ở Madagascar; còn được gọi là “flamboyant flower” hay “Royal Poinciana” trong tiếng Anh, để nhớ vị thống đốc Pháp, Phillipe de Longviliers de Poincy, người đã có công đem nó vào châu Mỹ, qua ngả Caribbean, vào thế kỷ XVII.)

(2) Thế giới của Trịnh Công Sơn là một thế giới thơ, không phải là thế giới của văn xuôi hay của cuộc sống đời thường; bởi thế, gần như bất cứ câu hỏi nào mà Trịnh Công Sơn đặt ra trong thế giới của mình cũng là một câu hỏi tu từ. Nó là một câu hỏi để nhấn mạnh tâm ý của tác giả. Nó không cần một câu trả lời theo thể điệu bình thường của cuộc sống văn xuôi.

(3) Xem Heinz R. Pagels, Perfect Symmetry / The Search for the Beginning of Time. New York: Simon and Schuster, 1985.

Bùi Vĩnh Phúc

Bùi Vĩnh Phúc : Trên những đường bay của chữ

Trên những đường bay của chữ
Bùi Vĩnh Phúc

2.11.2009 .







Bài viết này muốn đóng góp một vài ý nhỏ vào câu chuyện ngôn ngữ được thảo luận trong thời gian qua trên diễn đàn Da Màu. Đặc biệt, tôi cũng muốn chia sẻ và bổ túc một số những suy nghĩ được trình bày trong bài "Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi" của anh Lê Hữu.

Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp. Nói "ngôn ngữ" là "công cụ" có nghĩa là xem ngôn ngữ, ở một khía cạnh nào đó, như cái đục, cái cưa, cái bào, thậm chí cái khẩu súng, cái máy bay, v.v…, để con người sử dụng trong ý hướng của mình. Là một công cụ, nhưng, không như những công cụ khác, ngôn ngữ lại là một công cụ gắn chặt với cuộc sống con người và, rất nhiều khi, cho cái cuộc sống ấy một ý nghĩa. Bởi thế, ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, "Ngôn ngữ làm nên con người", hay "Anh nói năng ra sao thì con người anh hiển hiện ra đó".

Tạm thời, ở đây, chúng ta không bàn đến khía cạnh đặc thù của ngôn ngữ trên phương diện khảo sát nhân chủng học (cho rằng chính ngôn ngữ, nói chung, đã khiến con người tự thể hiện mình bằng cách tách biệt mình ra khỏi các bầy đàn khác; cũng như, một phần lớn, chính sự giải phóng hai chi trên, để con người có thể đứng thẳng trên hai chân, đã khiến nó vượt cao hơn các con vật khác, trở thành homo erectus, và từ đó, giúp nó tiến bộ và trở nên một con vật "có văn hoá"). Trong bài này, ta chỉ nhấn mạnh đến sự gắn bó của ngôn ngữ với cuộc sống của con người. Nó không chỉ như một vật thiết thân mà ta lúc nào cũng mang giữ bên mình (như có người ví von, ngôn ngữ như một tấm chăn rách, tẩm đẫm mùi khai mà thằng bé con–là chúng ta đây– lúc nào cũng muốn lôi theo người, không chịu rời bỏ). Ngôn ngữ cũng không chỉ như một lớp áo, lớp quần, phủ lên thân xác để, từ đó, bầy ra, để hiển lộ ra, hình ảnh, phong cách của một con người. Một cách nào đó, ngôn ngữ chính là một lớp da bám sát vào ta. Con người không thể cởi bỏ hay thay đổi nó trong một sáng một chiều được. Bởi thế, ngôn ngữ chính là con người trong mọi lốt vỏ của nó.

Nói như Heidegger, ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể. Con người (nói chung) và mỗi người (nói riêng) xây dựng cái thế giới của mình qua mắt nhìn từ ngôi nhà đó.

Từ, ngữ là những sinh thể. Chúng có cuộc sống của mình: được sinh ra, phát triển/lớn lên, già cỗi, rồi chết đi. Trong một số trường hợp, một số từ ngữ cũng có thể tái sinh, trong những hoàn cảnh đặc thù của chúng. Nếu, có lúc, nhìn thấy sự tàn tạ hoặc biến mất dần dần của một lớp từ ngữ nào đó, chẳng hạn một số từ ngữ của miền Nam, thời trước 1975, ta ngậm ngùi bảo: "(…) ‘tiếng Việt cũ’ từng làm nên văn hoá miền Nam một thời, nay chìm dần trong lãng quên… " (1) , thì cái "ngậm ngùi" đó là một sự ngậm ngùi rất tự nhiên, thậm chí rất "cảm tính", khởi đi từ lòng thiết tha đến những kỷ niệm cũ, gắn bó với những cung cách ăn nói cũ, gắn bó với một số khía cạnh văn hoá, xã hội mà những từ ngữ kia mang chứa trong mình.

Đó là một phản ứng tự nhiên, vì con người, xét về mặt văn hoá, nói chung, luôn muốn tiếp xúc với sự quen thuộc. Ngoài ra, cái quen thuộc, xét về mặt mỹ học cũng như sinh học, thường đem lại cho ta những cảm giác bình yên, thoải mái, hạnh phúc. Ngược lại, cái khác lạ, đem đến sự căng thẳng. Nó làm tăng lượng adrenalin trong máu, dẫn đến sự bực bội, hồi hộp, khó chịu. Từ đó, cũng không có gì lạ khi, trong vấn đề thẩm thức nghệ thuật nói chung, và trong tiếp cận văn học nghệ thuật nói riêng, người ta dễ bị "dị ứng", thậm chí từ chối những cái mới, những cái thường làm cho con người vấp vào những kinh nghiệm của sự căng thẳng , "lên máu".

Nhưng, nếu, giả sử, những hoàn cảnh lịch sử , chính trị, xã hội tạo nên biến cố 30 tháng Tư 1975 khác đi, và nếu, lại giả sử, miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc sống của nó như từ trước tháng Tư 1975 đến bây giờ, liệu tất cả những từ ngữ, thành ngữ, lời ăn tiếng nói, thậm chí một số nét văn hoá phản ánh xã hội miền Nam thời tiền-tháng Tư 1975, có còn được gìn giữ nguyên vẹn hay không? Hay chắc chắn là, cũng như hoàn cảnh thực tế hiện tại, nhưng với những mức độ gia giảm khác nhau, một số từ ngữ, thành ngữ, lời ăn tiếng nói, thậm chí một số nét văn hoá phản ánh xã hội đó, cũng sẽ tàn tạ hay dần dần biến mất, để thay vào đó là một số những lớp từ ngữ mới, những nét văn hoá mới, phản ánh những thay đổi về mặt đời sống xã hội mà, lại chắc chắn, theo quy luật tự nhiên của bất cứ một xã hội nào, cũng sẽ xảy ra.

Tóm lại, điều tôi muốn nói là, trong nhãn giới của xã hội học, văn hoá học và ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics), một cách khách quan, những sự chuyển biến về văn hoá của một xã hội, trong đó bao gồm cả sự chuyển biến về mặt ngôn ngữ, là một lẽ tất yếu, một sự phải xẩy ra, cho dù là lịch sử có sự can thiệp của nó, để những sự chuyển biến kia có sự tăng tốc hay giảm tốc tương ứng, tuỳ vào hướng tới và tiến trình thay đổi hay quành quặt của lịch sử.

Trở lại với sự thảo luận về vấn đề từ ngữ. Trước hết, xin có một vài chia sẻ về vấn đề khái niệm mà tôi muốn đóng góp ở đây.

Thứ nhất là về những khái niệm "văn phạm" và "ngữ pháp". Đúng là trước 1975, đa số sách vở miền Nam dùng từ "văn phạm", chứ không dùng từ "ngữ pháp", để diễn tả khái niệm tương ứng "grammar" (trong tiếng Anh) và "grammaire" (trong tiếng Pháp). Hiện giờ, trong nước dùng từ "ngữ pháp", và, ngoài nước, trong đa số trường hợp, cũng dùng từ này. Sự khác biệt hay thay đổi ấy, theo tôi, không phải chỉ thuần là sự thay đổi từ ngữ. Mà nó chính là một sự thay đổi nội hàm của khái niệm.

Trước, có lẽ các cụ ta xem việc dạy "văn phạm" không những chỉ là dạy phép tắc đặt câu, cách phân biệt các từ loại và sự sử dụng chúng trong câu, v.v…. , mà còn là dạy luôn về các phép tắc để làm văn, viết câu sao cho hay, cho khéo, cho đẹp. Như thế, "văn phạm" như có vẻ muốn lấn sang phạm vi của Rhetoric ("art of using words in speaking or writing" –Thorndike Barnhart Comprehensive Desk Dictionary / "nghệ thuật dùng ngôn ngữ trong việc nói và viết"), trong đó có dính líu đến cả những nghệ thuật tu từ ("figures of speech"). "Phạm", trong nghĩa của từ "quy phạm" chẳng hạn, là để nói về "khuôn phép, cách thức" (Một nghĩa của"phạm", theo Đào Duy Anh, là "khuôn", là "phép tắc", và một nghĩa khác nữa là "khuôn bằng tre"). Tuy thế, cụ Đào không định nghĩa "văn phạm" hay "ngữ pháp" là gì, mà chỉ định nghĩa "văn pháp" là "quy luật để làm văn".

Còn cách sử dụng từ "ngữ pháp" bây giờ, cả ở trong lẫn ngoài nước, theo tôi, là sự giới hạn việc giảng dạy, như môn "Grammaire" và "Grammar" của tiếng Pháp và tiếng Anh, vào những khuôn phép, quy tắc đặt câu, hành từ, vào việc học biết về các từ loại và cách thức sử dụng chúng trong câu mà thôi. "Pháp", theo cụ Đào, là "phép tắc nhất định". Trong Hán-Việt Tự-Điển của Nguyễn Văn Khôn thì "phạm" cũng được định nghĩa là "khuôn bằng tre", còn "pháp" là "phép, khuôn phép". Cụ Nguyễn định nghĩa "văn phạm" là "mẹo luật làm văn", "văn pháp" là "phép làm văn"; còn "ngữ pháp" là "phép tắc của ngôn ngữ".

Với sự tiến bộ và phát triển của ngành ngữ học nhiều thập niên qua, kéo theo nó là sự phân ngành, chuyên biệt hoá trong các ngành, dạy "ngữ pháp" bây giờ, nói chung, trong sự hiểu biết của tôi, là dạy về các quy tắc căn bản của ngôn ngữ như đã nói. Người ta muốn tách riêng, và giới hạn, nó vào những công việc chính yếu như thế mà thôi. Còn những việc sâu xa hơn trong vấn đề nói và viết sao cho hay, cho khéo thì đã có những môn học khác, như đã đề cập ở trên, cũng trong lĩnh vực văn chương, bổ túc. Vậy, sự thay đổi từ "văn phạm" sang "ngữ pháp" là một sự thay đổi sâu xa cả về nội hàm của khái niệm, chứ không phải chỉ là về mặt từ ngữ.

Khái niệm thứ hai là khái niệm về "từ", trong thế đối sánh với "chữ". Cũng giống như sự khác biệt giữa "văn phạm" và "ngữ pháp", sự khác biệt giữa "từ" và "chữ" không phải chỉ là sự khác biệt về cái vỏ âm thanh bên ngoài hay về cách dùng từ ngữ. Trước 1975, tại miền Nam, để nói về một tập hợp từ ngữ chưa diễn tả được một ý trọn vẹn, có nghĩa là tập hợp này, xét về mặt ngữ pháp, cao hơn cấp từ nhưng chưa đến cấp câu, chúng ta thường dùng "nhóm chữ". Bây giờ, trong các bài viết, các tài liệu giáo khoa hay sách vở bàn về ngôn ngữ, cả trong lẫn ngoài nước, thường, cũng để chỉ tập hợp đó, ta thấy sự xuất hiện của "cụm từ".

"Từ" là một khái niệm rất phức tạp, khó có một định nghĩa chung nhất, được sự đồng thuận của tất cả các nhà ngôn ngữ. (2) Dù sao, nói chung, nó là một đơn vị của ngôn ngữ, phản ánh một sự vật hay một hiện tượng của thế giới khách quan bên ngoài vào nhận thức của con người. Đứng riêng lẻ, biệt lập, nó đã là một bức tranh hoàn chỉnh về thực tại, vì, qua một vỏ ngữ âm [(enveloppe sonore (P.), sound envelope (A.)], bằng một cách thâu tóm cô đọng nhất, nó cho thấy nhận thức của con người về một sự vật, một hiện tượng trước mắt.

Trong cái nhìn truyền thống, tuy thế, "từ "ở vào một cấp độ ngôn ngữ cao hơn "chữ". Trong tiếng Việt, "tiếng" gắn với "âm tiết", còn "chữ" gắn với "hình vị", "từ". Nhưng một từ lại có thể bao gồm nhiều chữ. Nhà, cửa, râu, tóc… là những chữ, đồng thời cũng là những từ; nhưng cô đơn, sạch sẽ, thiết tha, ngây thơ, sạch sành sanh ("Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham", Kiều), tất tần tật, tiềm thuỷ đĩnh, v.v…, thì là những từ bao gồm trong nó hai hay ba chữ. Chính vì thế, khi đọc những câu thơ như của Hàn Mặc Tử, Chiều nay chẳng có mưa dầm / Mình sao nước mắt lại đầm đầm tuôn (Nỗi buồn vô duyên – Cẩm Châu Duyên), hay của Du Tử Lê, Ngày tôi. Trôi trên lưng đời / Cây khô gốc đợi, lá bồi hồi, reo (Khúc 19 tháng Chín), ta phải thấy "đầm đầm" là một từ và "bồi hồi" là một từ. Ta không thể, theo quán tính, bập vào nhịp chẵn bình thường của lục bát để cắt hai từ "đầm đầm" ra khỏi nhau. Cũng thế với từ "bồi hồi" của Du Tử Lê. Ở đây, hai nhà thơ đã gieo nhịp lẻ. Những kiểu từ như "bồi hồi", "xao xuyến" như thế, bao gồm hai chữ, nhưng chỉ là một từ; chúng phải gắn bó vào nhau, làm thành một khái niệm, một ý nghĩa riêng biệt. Ngoại trừ khi tác giả, đặc biệt trong thơ, cố tình chơi chữ, kiểu Biết bao bướm lả ong lơi / Cuộc vui đầy tháng trận cười thâu đêm (Kiều), hay Làm người phải đắn phải đo / Phải cân nặng nhẹ phải dò nông sâu (Ca dao), thì những chữ như "lả", "lơi" và "đắn", "đo" mới được xem là những từ riêng biệt, có ý nghĩa thi ca riêng của nó. Cái hay, cái đẹp và cái cuốn hút của văn thơ cũng bật ra từ những cách dùng chữ thần tình như thế.

Khi nói "nhóm chữ", để chỉ khái niệm "phrase" trong tiếng Anh, hay "syntagme" trong tiếng Pháp (3), ngày xưa, có thể chúng ta chưa phân biệt sự khác nhau có tính cách khá phức tạp giữa "từ" và "chữ" đó. Lê Văn Lý không dùng cả "cụm từ" lẫn "nhóm chữ", mà dùng từ "ngữ tuyến", một từ Hán-Việt, tránh khỏi sự vướng mắc đặt ra giữa "từ" và "chữ". Bây giờ, ở trong nước, trong sự tìm hiểu của tôi, ít nhất chúng ta có những từ/cụm từ sau: ngữ, ý đoạn, cụm từ, nhóm từ, ngữ đoạn, từ tổ… để chỉ khái niệm đó. Vì thế, một "adverbial phrase" trong tiếng Anh có thể được dịch thành một "ngữ trạng từ", một "trạng ngữ", hay một "cụm trạng từ". Cũng thế với một "adjective/noun/verb/prepositional phrase". Sự thay đổi từ "nhóm chữ" sang "cụm từ", như thế, không hẳn chỉ là một sự thay đổi bên ngoài. Nó còn là một sự thay đổi suy nghĩ bên trong nữa.

Khái niệm thứ ba là về từ láy. "Từ láy" hay "từ lấp láy" không hẳn chỉ gồm "một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả" [Xin xem lại bài của Lê Hữu, chú thích (1)]. Thật ra thì từ láy có thể được dùng để làm cho lời văn uyển chuyển, dịu dàng hơn, mà cũng có thể làm cho lời văn mạnh mẽ, dồn dập hơn, tuỳ trường hợp và tuỳ cách láy. Cùng với từ kép, từ láy làm cho lời văn tiếng Việt trở nên giàu sắc điệu hơn, nghĩa là làm cho lời văn có nhiều mầu sắc và nhịp điệu để thể hiện ý tứ, tình cảm và tâm tư của người viết. Từ kép có thể là danh từ (chợ búa, cửa nhà…), mà cũng có thể là động từ (cáu gắt, la mắng…), hay tính từ (giận dữ, vui tươi, buồn chán…), hay theo lối lắp ghép (một tính từ cộng một động từ: buồn thương, vui cười…), v.v…; còn từ láy thường là tính từ, và có thể nói hầu hết từ láy là từ thuần Việt. Ngoài tính từ, những từ loại khác rất hiếm khi được tìm thấy trong dạng từ láy, mặc dù cũng có thể có (như nghỉ ngơi, chạy nhảy, nảy nở…).

Có thể xét từ láy theo những tiêu chuẩn sau:

* Về mặt cấu tạo:

- Láy phụ âm đầu: lả lơi, tơi tả, tức tối, toe toét, buồn bã, thắc thỏm…

- Láy vần: lang thang, tần ngần, bắng nhắng, lông bông, loanh quanh…

- Từ lặp: ầm ầm, đo đỏ, xanh xanh, tim tím, mền (mệt) mệt…

* Về mặt ý nghĩa:

- Một chữ có nghĩa (chữ gốc) + một chữ vô nghĩa (chữ đệm): nhỏ nhắn, ngoan ngoãn, sạch sẽ, sợ sệt…

- Hai chữ đều có nghĩa: thở than, tung toé, tươi tốt …

- Hai chữ đều vô nghĩa: lóng ngóng, ngô nghê, thỏ thẻ, thậm thụt…

Từ láy là một đề tài lớn và cũng là một nét đặc thù của tiếng Việt/ngôn ngữ Việt. Chúng ta chưa xét đến các kiểu láy cá biệt khác ở đây. Tạm thời, tôi xin phép chỉ đưa ra mấy khái niệm "chìa khoá", cũng như một vài kiến giải căn bản để, khi cần, chúng ta có một vài điều thiết yếu nhất về khái niệm này để chia sẻ, hướng dẫn những ai cần tìm hiểu về nó, nhất là đối với những người nước ngoài.

Bàn về sự khác biệt giữa cách dùng từ, đặt câu của thời tiền-1975 và bây giờ, ở cả trong nước lẫn ngoài nước, chắc chắn là phải nhắc đến những sự khác biệt và thay đổi. Dù sao, ta nên nhìn thấy và phân biệt những mặt tiêu cực và tích cực của những thay đổi hay khác biệt ấy. Để ý tìm hiểu về nguồn gốc của những sự khác biệt hay thay đổi, ta mới có thể nhìn ra được những mặt mạnh và yếu của chúng. Trong cái nhìn của tôi, tiếng Việt/ngôn ngữ Việt mà người Việt chúng ta mang ra khỏi nước, đặc biệt từ thời điểm 1975, có thể, ở một số giác độ và mức độ nào đó, cũng giống như trường hợp của tiếng Pháp/ngôn ngữ Pháp mà những người Quebec gốc Pháp đã và đang sử dụng từ một vài thế kỷ nay, hay giống loại tiếng Pháp/ngôn ngữ Pháp của những bậc cha ông, chú bác chúng ta hiện đang sống tại Việt Nam (nếu không có sự cập nhật, chẳng hạn bằng cách nghe đài phát thanh hoặc xem các chương trình truyền hình tiếng Pháp, hoặc đọc sách báo mới của Pháp) sử dụng khi có dịp.

Nói một cách hình tượng và có ít nhiều đau đớn, một số người trong chúng ta xem những ngôn ngữ đó gần như chỉ còn là những bộ xương, phần thịt da tươi tắn đã không còn nữa. Nó đã bị mục nát theo thời gian. Chúng là những thân xác không còn được tiếp tục bồi bổ bằng những dưỡng chất sống, hay đúng hơn, những dưỡng chất đưa đến sự sống. Cái sự sống của một sinh thể vẫn tiếp tục phát triển và nhận chịu những ảnh hưởng của môi trường sống chung quanh. Ngôn ngữ, tôi lại muốn lặp lại, là một sinh thể. Và chính là vì nó là một sinh thể, nó có thể phát triển èo uột hay cường tráng. Và nó cũng có thể bị đau ốm, nhiễm trùng, quặt quẹo. Những bộ xương thì không thể, nếu thật sự là những bộ xương. Hay, nếu không phải là xương cốt, những ngôn ngữ không còn thay đổi, không còn những vấn đề, những vấn đề bật ra trong tự thân chúng như là những "phản ứng" của một sinh thể, một ngôn ngữ sống, với môi trường xung quanh, không còn sinh sôi nảy nở ra những từ, những ngữ mới, những cách nói mới, những lối diễn đạt mới, không còn được phát triển hoặc bị "nhiễm trùng", bị "quặt quẹo" vì những hoàn cảnh xã hội, vì lối sống của những nhóm xã hội khác nhau, những groups và những sub-groups khác nhau, may lắm, để lặp lại, nếu không phải là những bộ xương, chúng có thể trở thành những mummies, những "xác ướp Ai-Cập". Như những mummies mà người ta vừa tìm thấy tại Sicily. (4) Có thể là chúng còn giữ được nguyên vẹn hay gần nguyên vẹn thân xác cũ ngày xưa, nhưng sự sống thì không còn nữa. Sự sống đã xa rời thân xác.

Tiếng Việt/ngôn ngữ Việt ở ngoài nước, trong cái nhìn của tôi, cho dù ta có khách quan hay bi quan mà nhìn ngắm nó, có lẽ cũng không rơi vào tình trạng đáng buồn này. Ở một mức độ nào đó, nó vẫn còn đang sống và có sự thay đổi. Với ảnh hưởng của ngôn ngữ các quốc gia sở tại. Với sự cố gắng bồi đắp của một số hiếm hoi những người Việt, hay những nhà ngôn ngữ Việt sống ở nước ngoài, muốn tạo những tân từ để diễn đạt những khái niệm mới mà trước đây tiếng ta không có. Nhưng nếu không có những cố gắng bồi đắp của những thế hệ kế tiếp, viễn tượng "hoá thạch" của tiếng Việt/ngôn ngữ Việt ngoài nước là một điều khó tránh khỏi, có những người có thể nói như thế. Tôi nghĩ, một vật hoá thạch có thể chỉ có giá trị lịch sử, xã hội, hay nhân chủng; nhưng một ngôn ngữ như tiếng Pháp, hay tiếng Việt, dù có bị mang ra khỏi quê hương hằng trăm năm, tôi không nghĩ những ngôn ngữ ấy sẽ trở nên "bất động" hoàn toàn. Còn có sự tiếp xúc, trao đổi, với môi trường xung quanh là còn có sự sống. Cho dù sự sống ấy thể hiện ra bằng cách nào đi nữa.

Với ý thức rõ rệt về sự tồn tại của ngôn ngữ Việt mà người Việt đã mang theo khi rời quê nhà, ngoài sự gìn giữ, bảo bọc và trau dồi cần thiết, phần lớn sự tồn tại này gắn bó với những thay đổi, phát triển, hoặc những "trở mình", những "cơn sốt" nặng hay nhẹ do sự "nhiễm trùng" hay "tiếp máu" từ sự tiếp xúc với môi trường xung quanh, qua những ngôn ngữ bản xứ hay ngôn ngữ gốc từ quê nhà, chúng ta có lẽ không nên buồn bã hay hốt hoảng khi nhìn thấy hay nhìn ra những sự thay đổi đó. Mà, ngược lại, có lẽ chúng ta nên mừng mới đúng. Vì đa số, nếu không nói là tất cả, những sự "thay hình đổi dạng" ấy chính là dấu chỉ của sự sống. Của phản ứng. Của tự vệ và hoà nhập. Để phát triển và vươn lên. Chính sự bất động mới nên là điều đáng lo. Vì nó chỉ cho thấy sự giữ lại mà không có sự trao đổi, tiếp xúc. Một cơ thể sống là một cơ thể cho thấy những chỉ dấu kia. Điều này, nói chung, đúng trong sinh học mà cũng đúng trong ngôn ngữ nữa.

Tiếng Việt/ngôn ngữ Việt trong nước, theo sự quan sát của tôi, cũng không thoát, không ra khỏi tiến trình đó. Thời "mở cửa" và … "hậu mở cửa" mà! Và cũng có những tiếng nói lo ngại trong nước đã, đang, và chắc chắn sẽ vẫn tiếp tục cất lên , đòi hỏi sự bảo tồn trong sáng cho tiếng Việt. Những lời kêu gọi cả ở trong lẫn ngoài nước như thế, nhằm vào sự bảo tồn tiếng Việt, là những tiếng nói thiết tha và có tâm huyết. Chúng cần thiết trước những hiện tượng làm biến chất tiếng Việt, làm mất đi sự trong sáng của nó. Nhưng, có lẽ, người ở trong nước và cả ở ngoài nước, cũng nên để ý đến những "cơn sốt", nặng hay nhẹ, vì "sự "nhiễm trùng" kia. Lên tiếng cảnh báo là điều tốt, và nhiều lúc lại là một sự cần thiết nữa, nhưng có lẽ chúng ta cũng nên hiểu rằng một ngôn ngữ còn sống, còn sinh động, là phải có trong mình những sự phát triển và "vật vã" như thế, của những sự du nhập, kết hợp và tiếp biến. Ngôn ngữ là văn hoá, và, cũng như văn hoá, nó cũng cần trải qua những quá trình tương tự. Nhìn trong nhãn tuyến đó, chúng ta sẽ không quá lo lắng về những mặt biểu hiện sinh động kia của ngôn ngữ nữa.

*

Sau khi đã nói được những điều trên rồi, dưới đây tôi sẽ thử đưa ra một số cách hành từ, dùng câu trong tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, tạo nên sự khác nhau giữa trong và ngoài nước, hoặc giữa giai đoạn tiền-1975 và giai đoạn sau đó. Hy vọng, qua sự trình bày, và, có lúc, thử phân tích, ở đây, ta có thể nhìn ra, ít nhất, một vài cái lý của sự sử dụng đó. Những sự trình bày và phân tích, nếu có, này chỉ là một nỗ lực giải thích trong hiểu biết giới hạn của tác giả bài viết. Chúng không biểu tỏ một thái độ hay một cái nhìn mang tính chung quyết nào, mà chỉ mang ý hướng chia sẻ, trong thiện chí tìm hiểu về tiếng Việt mến yêu của tất cả chúng ta mà thôi.

* "Tính từ". Đa số mọi người, cả trong lẫn ngoài nước, bây giờ đều dùng từ này để dịch từ "adjective" (A.) và "adjectif" (P.). Ngày xưa, chúng ta dùng "hình dung từ" để dịch "adjectif qualificatif" trong tiếng Pháp. Sau, ta dùng "tĩnh từ" để đối lại với "động từ" . Giờ, khi thấy rằng tính từ được dùng không chỉ để chỉ hình dung của một sự vật, sự việc mà thôi, mà còn được dùng, chủ yếu, để chỉ tính chất nữa; ngoài ra, cũng vì thấy rằng nhiều tính từ không hề "tĩnh", mà lại rất động, chẳng hạn "náo loạn" (một khung cảnh), "ầm ĩ" (một cuộc cãi vả), "tán loạn" (một cuộc tháo lui), "kinh hoàng" (một trận chiến), "quằn quại" (một cơn đau), v.v… (5), nên từ "tính từ" đã được dùng để thay thế những tên gọi cũ.

* "Dân oan". Đây là một từ mới được sáng tạo và sử dụng sau này, sau những đợt dân đen nghèo khổ khiếu kiện vì đất đai, nhà cửa của họ bị chiếm dụng mà không được đền bù gì, hoặc không được đền bù hợp lý. Tôi nghĩ đây là một từ hay. Gọn và rõ. Mang nhiều tính biểu hình. Nó cho thấy hình ảnh sắc nét và cụ thể của một (lớp) người dân. Nó rõ hơn, và cũng sinh động hơn cụm từ "dân đen", chỉ dân nghèo nói chung; từ "dân đen", phần nào đã bị mòn đi, bị cliché-hoá vì dùng nhiều. Nếu "trình độ" hơn, hay sính dùng tiếng Hán-Việt hơn, ta có thể biến nó thành từ "oan dân". Xin lưu ý: cả hai từ "oan" và "dân" đều là từ Hán-Việt, nhưng khi đặt nó chung lại là "dân oan", với cấu tạo thuần Việt về mặt từ pháp, trong đó cả hai từ "dân" và "oan" đều đã được dùng như những từ được Việt hoá ở một cấp độ cao, thì nó là một cụm từ. "Oan", là một tính từ, hay một quá khứ phân từ được dùng như tính từ (trong nước gọi là động tính từ quá khứ: quá khứ phân từ được dùng như tính từ), bổ nghĩa cho "dân" là một danh từ. Kết hợp này khiến nó trở thành một cụm, chứ không phải là một từ. Cụm "dân đen" cũng được đặt theo cách ấy. Nhưng, nếu lật ngược lại để đặt theo từ pháp Hán-Việt, là "oan dân", thì, bấy giờ, nó sẽ là một từ. Một từ Hán-Việt. Nó cũng là một từ theo cấu trúc từ pháp như những từ "oan gia","lê dân" (dân đen), hay "xích tử" (con đỏ), v.v….

* "Biểu diễn" / "Thể hiện": Từ trong nước. Trước 1975, người Việt trong Nam dùng từ "trình diễn". Bây giờ, ngoài "biểu diễn" ra, nhiều người trong nước còn dùng từ "thể hiện", có thể là dịch hay lấy ý tưởng từ cụm "interpreted by" trong tiếng Anh. "Xin mời quý vị nghe bài ‘Mắt Nai’ (hay nghe bài…’Trăng Rụng Xuống Cầu’) qua sự thể hiện đáng yêu của ca sĩ H.N." (vỗ tay). Tôi thấy từ này cũng đặc biệt, thậm chí "dễ thương", không có vấn đề gì.

* "Tản mạn", được dùng theo nghĩa là một động từ, có nghĩa là "nói chuyện lan man", không tập trung hoặc không đào sâu vào một đề tài nhất định. Đây là một từ được dùng theo lối biến chuyển từ loại, từ tính từ biến thành động từ. Ai thích (vì thấy nó mới, nó sinh động, nó nên thơ) thì dùng. Ai "nhậy cảm" hoặc theo chủ trương bảo thủ, "giữ nếp cũ", thì có thể dùng "mạn đàm" (nếu ngồi trong khi "mạn đàm" thì dùng "toạ đàm", chẳng hạn như trong "toạ đàm văn học"). Nếu không, dùng "trò chuyện" hay "phiếm đàm", "phiếm luận" đều tốt.

* "Nằm cứng", "nằm mềm", những từ dùng trong nước, nói gọn lại, để chỉ những loại vé (đi xe lửa) khác nhau. "Nằm mềm", nghĩa là nằm trên giường có lót nệm, giá vé cao hơn. Ngược lại là "nằm cứng", nghĩa là nằm trên giường "chay", không có nệm lót, xương xẩu sẽ chịu sự ê ẩm; bù lại, giá vé sẽ "mềm" hơn. Ấy là một sự éo le hay "tréo ngoe" về ngôn ngữ: nằm "giường cứng" thì lại được "giá mềm". ("Giá mềm", đây cũng là một từ mới được phát sinh sau này, ý chỉ "giá rẻ" hay "giá cả thoải mái": "Mua bộ bàn ghế này đi anh, em sẽ để cho anh một giá rất mềm"). Trước đây, ta chỉ có "nằm sấp", "nằm ngửa", "nằm nghiêng" (như tên một tập thơ của một thi sĩ trong nước, hay từ dùng trong một câu thơ cũng của một thi sĩ khác trong nước, "Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến / Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo" – Phạm Tiến Duật), thậm chí "nằm ườn", "nằm ưỡn" hay "nằm phễnh (bụng)"; bây giờ, ngoài những lối nằm trên, phải ghi nhận thêm sự xuất hiện của "nằm cứng" và "nằm mềm" nữa. Cho dù là những lối nằm trước đó là dựa vào cách thế nằm; còn hai lối nằm dưới là dựa vào "túi tiền" có căng hay không của… chủ thể nằm.

* "Tiếp đất", từ trong nước, được một số "bộ phận" dân chúng dùng. Từ này, được dùng thay thế hoặc dùng thay đổi qua lại với từ "hạ cánh" (liên hệ đến máy bay) thường được dùng trước đây, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. "Cất cánh" ("take off") được dùng đối với "hạ cánh" là đẹp. Nhưng từ "tiếp đất" này, dịch rất sát từ "landing" trong tiếng Anh, cũng là một từ hay. Nó đi vào sự cụ thể, không trừu tượng (vớ vẩn) hay dùng hình ảnh, chữ nghĩa thơ mộng nữa. Nó chỉ rõ: bánh xe của máy bay tiếp xúc với mặt đất, chạm đất.

* "Khủng" / "Siêu khủng". Từ trong nước, được một "bộ phận" giới trẻ và giới báo chí dùng. Từ cũ là "kinh khủng" hay " khủng khiếp" (dịch từ "awful" / "awfully" trong tiếng Anh). Bây giờ, người ta cắt gọn lại cho nó "khủng" hơn. Thí dụ: nói về một món hàng, một thiết bị công nghệ "tối tân", "mới ra lò" chẳng hạn, toà báo có thể chạy tít, "Microsoft vừa tung ra thị trường một thiết bị ’siêu khủng’". Hoặc, thậm chí, tít chạy trong một bản tin xã hội hay giải trí: "Mười mỹ nhân sở hữu vòng một ‘khủng’ nhất thế giới", hay "Những người đẹp có vòng ba ‘khủng’ nhất hành tinh" (!!!).

Ngoài ra, cách nói tóm gọn như thế ở trong nước cũng được thấy trong việc dùng các từ sau:

- "Sĩ" , thay cho "sĩ diện (hão)", như trong tên một vở kịch của Lưu Quang Vũ, "Bệnh sĩ". Vợ chồng có thể càu nhàu nhau: "’Sĩ’ lắm nữa! Thật, tôi khổ vì ông"

- "Vất" , thay cho "vất vả", như trong "Cuộc sống của chúng tôi bây giờ ‘vất’ quá. Không còn được thảnh thơi như ngày xưa."

- "Phát", thay cho "phát biểu" (như trong, "Xin mời anh ‘phát’ cho. Chúng tôi đang chờ.)

- "Quyết", thay cho "quyết định" (như trong, "Anh lớn ‘quyết’ cho một cái, để đàn em yên tâm!)

- "Máu", thay cho "hăng máu", "hăng tiết" (vịt hay không vịt, tính sau). "Máu", bề ngoài nhìn như một danh từ, nhưng thật ra lại là một tính từ. Xin xem thí dụ về "máu" ngay sau đây.

- "Cực", thay cho "cực kỳ", "rất", "thậm", như trong, "Thằng đó máu cực!", hay "Thằng đó cực máu!", (có nghĩa là "thằng đó rất ‘hăng máu’, chơi ‘tới bến’ luôn, không cản nổi). Người ta chỉ dùng từ "cực" chứ không dùng từ "thậm" để chỉ sự "rất" và "quá mức" này ("quá độ" thì lại có thể bị hiểu nhầm sang một phạm vi khác, phạm vi lịch sử, được dùng như một tính từ, chỉ một giai đoạn "chuyển tiếp"). Từ "thậm" thường được dùng với một từ Hán-Việt khác, như trong "thậm tệ" hoặc "thậm phồn". Từ "thậm phồn" có lẽ được Hoàng Ngọc-Tuấn dùng đầu tiên trong kết hợp "hiện thực thậm phồn" khi giới thiệu về chủ nghĩa hậu hiện đại (dịch rất hay cụm "hyper reality" trong tiếng Anh; từ "thậm phồn" để dịch tiếp đầu tố "hyper", và còn mạnh hơn cả "hyper" nữa vì kết hợp được cả hai từ "thậm" và "phồn", vốn, tự bản chất, mỗi từ đều đã chứa nội hàm "hyper" trong mình. "Hiện thực thậm phồn" nghe rất… "phồn thực"; từ đó, có thể nói đến một thứ "văn bản thậm phồn"( "hypertext"): đó chính là một loại văn bản liên tục sản sinh ra những văn bản khác, chồng chéo, bám víu vào nhau và bám víu vào văn bản chính. Hyper reality được Đào Tuấn Ảnh, trong nước, dịch khá rõ và chân phương là "hiện thực phì đại") .

Những từ được cắt gọn thế này có thể còn nhiều nữa, và chúng tạo một "hiệu ứng" rất mạnh khi được phát biểu. Dù sao, xem xét lại, cho đến giờ, từ cắt gọn mang tính chất "khủng" nhất có lẽ lại chính là từ "khủng". Dù cho nó có thể "chờn vờn" dẫn đến những khái niệm hay hình ảnh khác như "khủng long", "khủng bố", "khủng cụ", v.v … , làm hoang mang đầu óc người nghe, đi chăng nữa.

Lối nói vừa "khủng" vừa "ngộ nghĩnh" này cũng làm tôi nghĩ đến những kiểu nói lóng và những cách chế từ của những người trẻ trong nước. Lúc đầu, chắc hẳn là chúng chỉ được lưu hành trong một nhóm nhỏ, một sub-sub-group nào đó. Rồi từ từ, chúng ăn lan ra, vượt ra khỏi giới hạn vòng sử dụng nguyên thuỷ của chúng, thành một thứ tiếng lóng không còn chịu sự bó hẹp của một nhóm xã hội nhỏ bé. Chúng đòi quyền có tiếng nói trong một tập thể rộng lớn hơn.

Những từ/cụm từ như đứt cước (thất bại hay hỏng việc); nộp tiền ngu (nộp lệ phí thi lại); Trần văn Chuồn (trốn, bỏ đi); vitamin T (tiền), vitamin E (phụ nữ, mấy em); pro, kute, kul, chuối, khoai (để chỉ những ý niệm chuyên nghiệp, xinh đẹp, dễ thương, xấu xí, ngu ngốc), v.v…, thường được thấy dùng trong một số nhóm trẻ. Cũng thế là lối nói "nhỏ như con thỏ", "sến như cây nến", "xấu như con gấu", "gầy như con cầy", "chán như con gián", v.v… Thì đó cũng giống một lối nói vui theo kiểu Gút-bai, crô-crô-đai ("Goodbye, crocodile") của tuổi trẻ Mỹ mà thôi.

Ở một khía cạnh nào đó, như một người vừa nghiêm chỉnh vừa hồn nhiên theo dõi ngôn ngữ trong cái nghĩa khách quan, cũng như trong môi trường tự nhiên của nó, tôi thấy những từ ngữ ấy cũng có cái vui nhộn và đáng yêu của chúng. Chúng tôi còn tuổi trẻ, xin cho chúng tôi được vui nhộn tí chút. Đừng bắt chúng tôi nghiêm trang quá! Nghe như có những tiếng nói cất lên như vậy. Các nhà đạo đức và những người muốn giữ chuẩn có thể lên tiếng cảnh báo và nghiêm nghị theo dõi. Điều ấy, theo một cách nhìn nào đó, cũng là điều đúng và cần, như tôi đã có dịp nói. Nó tạo nên một đối trọng cần thiết đối với một sự sử dụng ngôn ngữ có thể là sẽ đi đến chỗ bừa bãi, một thứ phanh để bảo đảm (?), hay đúng hơn, đế tránh cho chiếc xe ngôn ngữ không tuột dốc. Nhưng, tôi nghĩ, ngôn ngữ có sức mạnh, có con đường riêng và cũng có cơ chế tự điều chỉnh riêng của nó. Tôi không lo sợ lắm. Nhưng điều gì ta thấy cần làm thì vẫn phải làm.

* "Hoành tráng", với nghĩa là "có quy mô đồ sộ (nhằm thể hiện những đề tài lớn)". Từ này bị lạm dụng rất nặng. Bất cứ một điều gì cũng có thể được gán ghép với thuộc tính này. "Sân khấu" cũng "hoành tráng", mà vòng một hay vòng ba của một "nữ nhân" cũng có thể "hoành tráng". Trong một số văn cảnh, đôi khi, "hoành tráng" cũng có thể được dùng theo nghĩa "đẹp nức nở" hoặc "rực rỡ, tráng lệ", như: "Bức chân dung của em trông ‘hoành tráng’ quá". Nó cũng có thể là "căng đầy", "mập mạp", như, "Cái ví của anh hôm nay, sau khi lãnh lương, trông thật ‘hoành tráng’", hay "Thân hình ‘hoành tráng’ của bà chủ, sau khi nạp vào bữa điểm tâm cũng ‘hoành tráng’ không kém, uốn éo đi ra khỏi cửa". Và, còn gì ‘hoành tráng’ nữa trong cuộc sống hôm nay?!!

* "Mộc" , dùng trong nước. Để chỉ sự tự nhiên, không sơn phết hay trang điểm gì. Như ,"Hôm nay, cô ấy để mặt mộc ra đường". Hoặc, chiếu mộc, vải để mộc (không nhuộm). Tuy nhiên, từ "mộc" cũng đã được dùng tại miền Nam trước 1975 trong những cụm từ như "đôi guốc mộc" hay "đôi đũa mộc" (có nghĩa là guốc hay đũa để "chay", không sơn phết hay tô điểm gì cả). Tôi thích cách dùng từ "mặt mộc" này ở trong nước. Nhưng, cẩn thận, phải đánh dấu thanh cho đúng; bởi lẽ, "mặt mốc" thì lại mang một nghĩa khác hẳn!

* "Phản hồi", từ được dùng rộng rãi cả ở trong lẫn ngoài nước. Nó có thể thay thế cho "hồi đáp", "ý kiến", "phản ứng", v.v…, tuỳ theo văn cảnh. Nó dịch từ "feedback" của tiếng Anh. Tôi nhớ, khoảng gần 30 năm trước, vì nhu cầu làm việc, tôi cũng có ý muốn dịch từ này. Và tôi thấy một nhà ngôn ngữ ngoài nước, bác sĩ Trần Ngọc Ninh, tác giả của "Cơ Cấu Việt Ngữ" xuất bản tại miền Nam trong nước trước 1975, trong một bài viết tại Mỹ, đã dịch nó là "nghịch dưỡng" (rất sát về mặt từ nguyên của "feedback", với "nghịch" để dịch "back" và "dưỡng" để dịch "feed"). Dù sao, tôi vẫn cảm thấy có sự không an tâm, vì tuy "back" có thể là "nghịch", là "ngược", nhưng "dưỡng", ở đây, lại không thật sự là "dưỡng" ("nuôi nấng"). Nhưng rồi tôi nhớ lại là người xưa có từ "dưỡng khấu", là "nuôi giặc" (có nghĩa là "nuôi thành hoạ hoạn cho mình", có thể là nuôi một thói quen xấu chẳng hạn). Vậy thì "nghịch dưỡng" thì có sao, đặc biệt khi từ này được dùng trong lĩnh vực gốc của nó là công nghệ máy tính; nhất là trong từ gốc, feedback, đã có "feed" được dùng theo nghĩa bóng rồi. Nhưng rồi tôi cũng thử nghĩ một từ khác.

"Feedback", khởi nguyên, chỉ là một từ phát xuất từ lĩnh vực computer mà ra. (6) Vì thế, theo định nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh, tôi thử dịch lại là "hồi dưỡng". Sau, bỏ "dưỡng" đi, tập trung vào "sự quay ngược lại" (như từ "phản hồi" bây giờ đã làm như vậy), tôi dịch lại là "hồi nghịch"; rồi, cuối cùng, đổi lại là "nghịch hồi". Khi dịch như thế, tôi nghĩ đến các từ nghịch phong (gió ngược) và nghịch lưu (dòng nước chảy ngược). Trong nét nghĩa chính, "feedback" liên quan đến một tiến trình quay ngược lại. Từ "phản hồi" hiện đang được sử dụng phổ biến là một từ khá hay, cho dù trong ý nghĩa cũ, vẫn được dẫn trong các tự điển Hán-Việt, nó chỉ có nghĩa gọn là "trở về". Như thế, có nghĩa là nó cũng chỉ tập trung vào từ "back" mà bỏ đi từ "feed".

Tôi cũng nghĩ đến một từ khác, từ cũ thôi (cũng như "phản hồi" là một từ cũ), nhưng diễn được khá rõ ý của từ "feedback", là từ "phản hưởng" (có nghĩa là "tiếng vang lại", "tiếng dội lại"). Tôi chưa thấy ai dùng nó để dịch "feedback", nhưng tôi thấy nó diễn được rất sát ý của "feedback" mà từ "phản hồi", hiện nay, đang được dùng trong lĩnh vực truyền thông. Trước 1975 tại miền Nam Việt Nam, trong mục "Thư độc giả" của một vài tờ báo, người ta cũng có khi dùng cụm "Tiếng vang", để nói về những ý kiến dội lại từ phía người đọc. Dù sao, hiện tại, "phản hồi" đã có một nghĩa mới và một đời sống mới trong truyền thông thời @. Nó nhận được sự yêu thích của một số đông người đọc và người làm việc trong lĩnh vực truyền thông. Tôi nghĩ , "phản hồi" sẽ tiếp tục sống hùng và sống mạnh.

(Một điều cũng nên ghi nhận ở đây là, dân tộc Pháp, với sự bảo thủ nổi tiếng về mặt ngôn ngữ, thường tránh tối đa những trường hợp phải dùng, phải mượn tiếng nước ngoài, và luôn tìm cách tránh tối đa để không bị "nhiễm trùng" về mặt ngôn ngữ, lại dùng feed-back như một danh từ giống đực để "dịch" từ feedback của Mỹ. Từ weekend của Mỹ cũng được "dịch" là week-end, cũng là một danh từ giống đực (như "week-end prolongé: long weekend; partir en week-end: to go away for the weekend"). Dù sao, đối với weekend, người Pháp còn có cụm "fin de semaine". Nhưng tuổi trẻ Pháp chắc thích nói vắn gọn là week-end hơn.)

* "Nhắc nhở" / "Nhắc nhớ". Trước đây, có thể là trước cả thời điểm 1975, người ta dùng "nhắc nhở"; sau này, có người chợt thấy ra là "ý nghĩa nằm bên trong" của từ này là "nhắc" để cho người khác "nhớ", đừng quên một chuyện gì đó, nên đã sửa lại là "nhắc nhớ". Từ đó, "nhắc nhớ" lan tràn. Rất nhiều người đã dùng nó, có lẽ vì nghĩ rằng khi dùng như thế, mình cho người nghe thấy được là mình đã hiểu vào "cốt lõi" của từ "nhắc nhở". Thật ra, đúng là trong "nhắc nhở" có ý nghĩa của việc "nhắc" cho "nhớ", nhưng, qua biện pháp biến âm để làm cho từ được phát ra một cách mềm mại hơn ("nhắc nhớ" có hai âm trắc, không gẫy, nghe không êm tai), như "tím tím" được đổi thành "tim tím", trắng trắng" thành "trăng trắng", "mệt mệt" thành "mền mệt", "đỏ đỏ" thành "đo đỏ", v.v… , ông bà ta đã làm cho nhiều từ được dùng một cách mềm mại hơn. (7)

Tôi nghĩ, chính vì lý do vừa nói, ta không nên đổi từ "nhắc nhở" rất dịu dàng sang từ "nhắc nhớ" khá chói gắt. Cho dù, khi đổi như thế, ta bóc được cái "cốt lõi" của nó ra.

* "Phản biện", từ dùng trong nước lan ra đến ngoài, có nghĩa là "biện luận, đối đáp ngược lại". Ai đã chấp nhận từ "phản hồi" thì cũng dễ chấp nhận từ này. Từ cũ có thể là "tranh luận", "tranh biện" hay "bút chiến", tuỳ theo ngữ cảnh.

* "Tiếp thị", từ dùng trong nước lan ra đến ngoài, dịch từ "marketing" của Anh Mỹ. "Thị " là để dịch "market" thì đúng rồi; nhưng chữ "tiếp" của từ này được sử dụng rất khéo. Vỹ tố -ing, trong marketing, gợi ý "đưa vào market, đưa vào thị trường". Theo tôi, dịch "tiếp" là rất hay. Nó chuyển được cái ý mời mọc của từ gốc, làm cho tiến trình "chào mời hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ…" được trơn tru, dễ dàng hơn.

* "Thông tin thương mại", cũng thế, từ dùng trong nước lan ra đến ngoài, là một lối nói "mềm" đi, nói "khéo" hơn. Một thứ uyển từ, uyển ngữ (euphemism). Có lẽ cũng phải để cho những nhà buôn "ăn nói khéo léo" một tí chứ, cho dù gọi như thế thì hình như người ta đã không "gọi đúng sự vật bằng cái tên của nó". Dù sao, cách dùng này vẫn còn đỡ hơn cách dùng những cụm từ như "kế hoạch hoá gia đình", "diễn biến hoà bình", "Việt Nam hoá chiến tranh", v.v… Thật sự, George Orwell cũng đã trình bày rất kỹ về cách nói vòng, nói tránh này, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, với những hệ quả hết sức tiêu cực của nó. (8)

* "Ấn phí", đã được dùng rất lâu ở ngoài nước, ít nhất là trên dưới hai mươi năm nay. Không biết phát xuất từ trong hay ngoài. Cũng là một thứ uyển ngữ, hiểu theo một cách nào đó. Nhưng, có lẽ đúng hơn, đó là một lối "nói giảm" (understatement). Giống như kiểu nữ hoàng Anh khi được hỏi ý kiến về một số việc làm hay thái độ "rất gây phiền, gây nhiễu" cho hoàng gia của công nương Diana khi cô còn sống, thay vì nói thẳng là "Tôi rất bực (vì chuyện ấy)", bà chỉ nói nhẹ đi là "Tôi không vui" ("I am not amused"). "Ấn phí" là một lối nói giảm, nhưng lại mang tính "cường điệu". Vì nếu giá đề trên cuốn sách chỉ là "ấn phí" (tiền in) mà thôi, không bao gồm tiền lời trong ấy, thì ai còn dám "in ấn", bán buôn gì nữa.

* "Cường điệu", từ dùng sau 1975, cả ở trong nước lẫn ngoài nước. Để dịch từ "hyperbole" trong tiếng Anh. Nó có nghĩa là dùng giọng điệu mạnh lên, và đồng nghĩa với "phóng đại", "thậm xưng". Biện pháp tu từ "phóng đại", vì thế, còn được gọi là "cường điệu", "thậm xưng" và "ngoa dụ". Ngoài ra, nó còn được gọi là "nói quá" ("overstatement"), ngược lại với biện pháp "nói giảm" (understatement) ở trên.

* "Biện pháp tu từ" hay "tu từ pháp", từ dùng trong nước, mở rộng ra ngoài nước. Trong Nam, xưa, được gọi "mỹ từ pháp". Nhưng "tu từ" là một từ có trong tự điển được xuất bản tại miền Nam trước 1975. Cả hai từ đều hay. Dù sao, xét về mặt cấu tạo từ pháp, từ "tu từ pháp", với nghĩa là "phương pháp (sửa đổi để) làm đẹp từ ngữ", có vẻ hợp lý hơn là cấu tạo "mỹ từ pháp". "Mỹ" là một tính từ; "mỹ từ" là "từ đẹp". Vậy, "phương pháp từ đẹp" là gì? Có phải nó là hiểu ngầm của "phương pháp (làm cho) từ (ngữ) đẹp hơn/lên", hoặc "phương pháp làm đẹp từ ngữ". Nếu thế, ta lại sẽ trở về với ý nghĩa của "tu từ pháp", trong đó, "tu" là một động từ, có nghĩa là "sửa lại", "sửa sang cho tốt đẹp hơn", như "tu kỷ" là "sửa mình". Hán-Việt Tự -Điển của Nguyễn Văn Khôn định nghĩa "tu từ" là "sửa sang, trau chuốt văn chương cho trôi chảy, gọn gàng và sáng sủa"; còn Hán-Việt Từ-Điển của Đào Duy Anh thì định nghĩa "tu từ" là "sửa sang văn từ cho hay". Cả hai quyển sách này, dù không có từ "tu từ pháp" nhưng đều lại có từ "tu từ học". Quyển đầu định nghĩa "tu từ học" là "môn học nghiên cứu cách viết văn cho trôi chảy, gọn gàng và sáng sủa"; quyển sau định nghĩa là "môn học nghiên cứu các phép tắc để trau dồi từ cú cho hay (rhétorique)". Cả hai sách này đều không có những mục từ "mỹ từ" và "mỹ từ pháp".

* "Trọng tải" và "tải trọng". Từ đầu được dùng trong Nam trước 1975. Từ sau, được dùng trong Nam sau 1975, kèm với từ đầu, như một thứ chị em sinh đôi. Hai từ này tôi đã bàn kỹ trong một bài viết khác về ngôn ngữ của mình (9) mấy năm trước, nên tôi xin phép không trình bày lại ở đây nữa.

* "Khuyến mãi" / "khuyến mại". Hai từ này rất dễ bị dùng lộn. Ta thấy sự sai lầm này xảy ra rất thường xuyên trên báo chí và trên các đài phát thanh cũng như truyền hình cả trong lẫn ngoài nước. Mãi là mua và mại là bán. Khi mở một dịp promotion và quảng cáo để khuyến khích người ta mua hàng, thì đó là một "quảng cáo khuyến mãi". Rất hiếm khi có trường hợp "khuyến mại" (khuyến khích bán), cho dù rằng có thể cũng có trường hợp như thế xảy ra.

* "Mãi dâm" / "mại dâm" là hai từ cũng thường xuyên bị dùng sai vì sự lẫn lộn của người sử dụng giữa ý nghĩa của hai từ. Và tỷ lệ phần trăm mà hai từ này được sử dụng có thể nói là 50/50. Vì trong vấn đề này, phải có kẻ bán và người mua. Từ đó, có những từ "gái mại dâm" và "khách mãi dâm". Chứ không phải ngược lại.

Sự lẫn lộn giữa hai từ "mãi" và "mại" này, theo tôi, đã bắt đầu từ rất lâu rồi. Khi còn nhỏ, đi học, tôi hay được nghe cụm từ "mãi quốc cầu vinh", để răn dạy người đời không nên vì mối lợi mà phải đi bán nước để được "vinh thân phì gia". Lớn lên, tôi vẫn nghe nhiều người lớn nói như vậy. Cả trong sách giáo khoa cũng viết như thế. Trong khi đáng lẽ người ta phải nói và viết là "mại quốc cầu vinh" mới đúng. Để phân biệt hai từ "mãi" và "mại" này, ta có thể thử nhớ mấy từ sau đây (tuy tất cả gần như đều có nghĩa tiêu cực, nhưng chúng có thể giúp người ta nhớ lâu vì các ý nghĩa xa xôi, bóng bẩy của chúng): mại hôn: gả con gái mà đòi lễ cưới quá nhiều (một hủ tục xưa, coi như là bán con gái đi); mại nhãn/mại tiếu: con gái lấy mắt liếc, lấy môi cười cho người ta mê mẩn để kiếm tiền [cũng giống như mại xuân (đem cái xuân của mình bán đi cho khách mua hoa)]; và mãi tiếu: mua cười [cụ Đào Duy Anh thẳng thắn phụ chú thêm là "chơi đĩ" (sic)].

Chúng ta cũng có thể, thay cho những từ trên, thử nhớ một vài từ/cụm từ sau: mãi sơn: mua núi (tức "lui về ở ẩn"), mãi lân: mua láng giềng (tức là "lựa chọn láng giềng một cách cẩn thận". Việc chọn lựa kỹ láng giềng này làm ta nhớ đến tích "Mạnh mẫu trạch lân" của bà mẹ thày Mạnh Tử ); mại giao/mại hữu: bán giao tình, vì tư lợi của mình mà hy sinh bè bạn; và mại kiếm mãi ngưu: bán gươm mà mua trâu, ý nói bỏ nghề trộm cướp mà theo nghề làm ruộng.

* "Áo ấm" / "áo lạnh". Được dùng rộng rãi ở cả trong lẫn ngoài nước. Theo tôi, cả hai từ đều đúng, không từ nào sai. "Áo lạnh" có nghĩa là áo có mục đích, có khả năng ngăn chặn cái lạnh ở bên ngoài, giữ cho cơ thể được ấm; là cái áo mặc khi trời lạnh cho mục đích vừa nói. "Áo ấm" là áo giúp ta giữ lại hơi ấm cho cơ thể khi trời lạnh. Một đằng hướng đến sự chống trả; đằng kia, hướng đến sự giữ gìn. Nhưng mục đích đều là để giữ ấm. Ở một khía cạnh nào đó, cặp từ này khá giống trường hợp cặp "insure against" và "insure for" trong tiếng Anh. (Ấm và lạnh ngược hẳn nhau, cũng như against và for ngược hẳn nhau). Một đằng là "bảo hiểm để phòng chống lại một cái gì không hay có thể xảy ra (để mình có thể được đền bù khi nó xảy ra)", còn đằng kia thì là "bảo hiểm để tránh thua thiệt/để được đền bù (khi xảy ra một sự rủi ro gì)" (như trong insure against ill health while you are abroad và insure for personal accident injuries). Mục đích cuối cùng thì cũng là để được đền bù.

* "Ấn tượng", dùng như tính từ (to be impressed, theo kiểu Anh Mỹ), được một số người (đặc biệt là giới trẻ) trong nước dùng. Cách dùng như thế tạo một hiệu ứng nhấn mạnh, vì nó biến một danh từ thành tính từ. Chẳng hạn, "Màn trình diễn ấy rất ấn tượng". Cũng thế, với những đối tượng trên, từ "thần tượng", vốn là một danh từ, cũng có thể được sử dụng như một động từ (to idolize), "Chúng em rất ‘thần tượng’ nhà thơ X". Lối dùng này, đa số từ giới trẻ, nhiều phần là do ảnh hưởng về mặt từ pháp theo kiểu Anh Mỹ. Anh ngữ đang được một tầng lớp đông đảo người Việt Nam trong nước, đặc biệt là giới trẻ, ưa thích. Sự vay mượn này cũng là một điều dễ hiểu, và chính sự vay mượn như thế cũng nằm trong những quy luật của sự trao đổi và tiếp biến ngôn ngữ nói chung trên thế giới. Vấn đề còn lại chỉ là sự ý thức. Để không biến những biểu hiện của một quy luật chung thành một sự hào hứng, quá đà, có thể đi đến chỗ làm mất bản sắc ngôn ngữ dân tộc.

Thật sự, trong những bối cảnh khác, và trong những giai đoạn khác nhau của tiến trình trao đổi, vay mượn và tiếp biến ngôn ngữ, hiện tượng áp dụng từ pháp, cú pháp của những ngôn ngữ khác vào ngôn ngữ ta cũng không phải chỉ mới xảy ra gần đây. Và cũng không phải chỉ xảy ra trong giới trẻ ở trong nước. Trước 1975, chúng ta đã từng nhận thấy là có một số nhà văn, nhà báo trong Nam đã từng rập khuôn cú pháp của Anh Mỹ trong việc viết những câu theo kiểu "Cuộc chiến được mô tả là kinh hoàng" (theo mẫu " to be described as… "). Và cho đến bây giờ, có biết bao nhiêu người, cả ở trong lẫn ngoài nước, thuộc đủ mọi lứa tuổi, đã đặt nhiều câu văn của mình theo thể passive voice của Anh Mỹ một cách không cần thiết, trong khi các thầy cô dạy Anh văn tại các đại học Anh Mỹ thì lại luôn luôn phải nhắc bảo sinh viên của mình việc tránh sử dụng những câu theo dạng ấy khi không thực sự cần.

Tất cả chúng ta đều có những lúc bị vấp phạm vào những điều ấy. Lý do chỉ vì quán tính, vì chúng ta đã không để ý đủ. Ở ngoài nước, trên dưới 30 năm nay, tôi thường hay gặp cụm từ sau đây trong các trang quảng cáo bán nhà trong cộng đồng người Việt: "Nhà bán bởi chủ" (dịch từ "Home for sale by owner"). Sao không ai chịu dịch lại là "Nhà do chủ (đứng) bán" (cũng chỉ sử dụng bốn hay năm từ thôi). Còn rất nhiều câu quảng cáo bán nhà hết sức "lạ" mà, do giới hạn bài viết, tôi không tiện liệt kê hết ra đây.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể tìm thấy những kết cấu theo dạng "… như nó đã là." hay "như nó đã từng." để chấm dứt một câu văn. Kết cấu này chính là từ cụm "… as it was." hoặc "… as it had ever been.", một đặc điểm trong lối viết của cú pháp Anh, Mỹ. Như trong: "Hãy trả ngôn ngữ về vị trí độc lập như nó đã từng." , hay "Cần phải trả ngôn ngữ về với ngôn ngữ, về đúng vị trí và chức năng của nó, như nó đã từng." So với kết cấu "được mô tả là" đã nói ở trên, kết cấu này có nhiều phần xa lạ hơn. Hiện tại, nó chưa có nét Việt lắm (cụm "được mô tả là" bây giờ ta đã nghe khá quen); nhưng rồi dần dần, với thời gian, nếu được dùng rộng rãi, có thể nó sẽ trở nên Việt hơn.

Quan sát như thế để thấy rằng: những cách nói, cách viết ấy đang là một hiện thực ngôn ngữ. Những cách dùng từ, đặt câu, diễn ý mới. Chúng bám vào cách nói, cách viết, vào tập quán nói và viết của ta. Rồi dần dần, chúng trở nên những thói quen mới. Nhưng ngôn ngữ là một sự trao đổi, vay mượn, lan toả; ta khó chống cưỡng lại một khi đã nằm trong vòng ảnh hưởng của nó. Thời gian sẽ giúp ta làm công việc lọc lựa. Sự "nhập lưu" khá ồ ạt những yếu tố ngôn ngữ bên ngoài vào dòng chảy của ngôn ngữ Việt, đặc biệt là nơi một số thành phần giới trẻ (vì tuổi trẻ là tuổi dễ mở chính mình ra để tiếp nhận và thử nghiệm những cái mới), dù sao, có những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Bởi thế, điều ta có thể làm là khêu lại cho sáng hơn ngọn lửa ý thức của chính mình. Nơi mỗi người. Để, trong khi ngụp lặn tắm táp và chơi đùa trong dòng, ta không để cho dòng chảy của ngôn ngữ cuốn siết mình qua mọi bãi bờ của nó, và vất đẩy chúng ta vào bất cứ nơi đâu. Điều tối thiểu ấy để tự gìn giữ những nét riêng của ngôn ngữ dân tộc, trong khi vẫn nhận ra nhu cầu hội nhập với toàn thể nhân loại, không hẳn là một điều "bất khả thi", nhưng nó đòi hỏi những nỗ lực của mỗi người và mọi người trong chúng ta, cả ở trong lẫn ở ngoài nước.

Ngược lại, việc thử nghiệm, tìm đến những cái mới, những cái lạ, những cái ở bên ngoài, không hẳn sẽ đưa ta mất dấu, xa lạc khỏi dòng sông ngôn ngữ Việt. Nó cũng có thể đưa ta đến những vùng đất phì nhiêu cho những mùa gặt hái tốt đẹp. Để ta làm giàu thêm cho tiếng nói, chữ viết quê hương. Và, để lặp lại, thời gian sẽ làm công việc của nó. Nó sẽ giúp ta lọc lựa, giữ lại những gì tốt đẹp và cần thiết cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.

*

Nhớ, trong "Tình Ca" của Phạm Duy, quê hương và tiếng quê hương đã là những nét dịu dàng và êm đẹp, nuôi dưỡng ta từ những lúc ta còn thấy mình bé dại bên chân mẹ cho đến khi ta hăm hở những bước vào đời. Từ những bài ca dao, những câu lục bát mềm mại như cánh cò cánh vạc, như con diều lơ lửng trên cao, đến những câu hò câu ví sóng sánh ngập lòng… Tất cả đã là những dưỡng chất nuôi ta lớn lên:

Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên (…)

Tôi yêu những sông trường
Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong (…)

(Tình Ca)

Cũng thế, trong thơ của Lưu Quang Vũ, tiếng Việt đã là tiếng mẹ gọi con thiết tha trong hoàng hôn khói sẫm, tiếng cha dặn lúc gieo mạ trên đồng, tiếng mưa dội vỡ oà trên mái cọ, tiếng kéo gỗ, tiếng gọi đò, tiếng cánh đồng rì rào, tiếng cau tre gió thổi. Nó ánh lên hình ảnh của vầng trăng ngọc, hay lấp lánh như những ánh sao rơi trong những đêm quê hương ngày cũ. Nó toả ra mùi đất cày ải ban trưa hay mùi lửa bếp những buổi chiều hôm. Nó mang mùi thơm của bùn đất ướt đẫm lưng trâu hay mùi thơm của những cánh đồng lúa chín… Trong tiếng nói của ta, từ đó vút bay lên thành những dòng chữ viết, có cả một bầu trời quê hương ấm áp. Và tiếng sáo diều vi vút mãi trên đê. Hãy đọc lại ít câu thơ cũ của người thi sĩ đã mất ấy:

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thỏi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời. (…)

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường. (…)

(Tiếng Việt)

Hy vọng là tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, với những chữ và nghĩa của chúng, sẽ giống như một cánh chim bay cao, đưa cặp mắt sáng của nó nhìn khắp núi sông bể cả của đất nước và của nhân loại. Hy vọng nó hít lấy hơi thở của đồng lúa và non sông Việt, cũng như mùi hương xa đem lại từ những phương trời thế giới. Và, hy vọng, với tất cả những của cải tinh thần ấy, những "dưỡng chất trần gian" ấy, nó sẽ đem lại cho chúng ta những niềm vui của cuộc lên đường. Lên đường làm một con người Việt.

Với tự tín, hạnh phúc và bình an.

Bùi Vĩnh Phúc

25 tháng X, 2009

Tustin Ranch, California

_________________________

Chú thích:

(1) Xem Lê Hữu, Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi, tại diễn đàn Da Màu, ngày 21 tháng Mười, 2009, http://damau.org/archives/9635 [1] .

(2) Xem các ý kiến, suy nghĩ, thảo luận của Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Kim Thản, Đỗ Hữu Châu, Trương Văn Tu, Trương Đông San, Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Nguyễn Thiện Giáp, Hồ Lê, L.C. Thompson, G. Aubaret, v.v…, trong những biên khảo hay giáo trình ngôn ngữ của họ.

(3) Hai từ "phrase’ trong tiếng Anh và tiếng Pháp là "những người bạn xấu" ("faux amis") của nhau. Trong tiếng Anh, nó có nghĩa là một cụm từ, diễn tả một ý chưa hoàn chỉnh; còn trong tiếng Pháp, nó là một câu, diễn một ý hoàn chỉnh. Nghĩa của "cụm từ", trong tiếng Pháp, trong cái nhìn phân tích ngôn ngữ, đặc biệt trong "ngữ pháp biến-tạo" (transformational grammar, hay transformational-generative grammar / TGG) xuất phát từ Chomsky, là "syntagme". Còn "locution" và "expression" thì cũng là một "cụm từ", nhưng là một cụm từ có sẵn, như một thứ thành ngữ, một dạng "cliché, stock phrase" hay một thứ "fixed colloquation" trong tiếng Anh. Còn "phrase" trong tiếng Pháp thì lại được dùng nhiều trong âm nhạc.

(4) Xem A.A. Gill, Where the Dead Don’t Sleep, trong National Geographic, số tháng Hai, 2009. Hình ảnh của Vincent J. Musi.

(5) Trong tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, có nhiều từ có thể vừa là tính từ vừa là trạng từ (kể cả những từ kể trên), tuỳ thuộc vào vai trò của nó trong câu. Có nghĩa là tuỳ vào việc nó bổ nghĩa cho từ nào trong câu. Là một ngôn ngữ không biến hình, không có các vỹ tố, như đa số các ngôn ngữ Ấn-Âu, Việt ngữ không cần thay đổi về mặt hình vị cũng như âm vị khi chuyển một từ từ tính từ sang trạng từ hoặc ngược lại. Ngoại trừ khi người ta muốn thêm hai chữ "một cách" trước một tính từ khi biến nó thành trạng từ để nhấn mạnh (như: "một cách ngây thơ"). (Tuy nhiên, trong tiếng Anh, Pháp, trong đa số trường hợp, khi chuyển một từ từ tính từ sang trạng từ, một vỹ tố, là -ly (charming, charmingly), hay -ment (lente, lentement) sẽ được thêm vào.)

Chẳng hạn từ "ngây thơ", như trong "Đôi mắt nàng nhìn tôi ngây thơ" (trạng từ, nó bổ nghĩa cho "nhìn"), và "Đôi mắt ngây thơ của nàng nhìn tôi dò hỏi " (tính từ, nó bổ nghĩa cho "đôi mắt"). Tuy nhiên, nếu nói "Đôi mắt nàng ngây thơ nhìn tôi " thì phải cẩn thận hơn, vì câu nói này, về mặt ngữ pháp, có thể bị coi là "nhập nhằng", có hai nghĩa: hoặc "ngây thơ" bổ nghĩa cho động từ "nhìn" đứng ngay sau nó, hoặc nó bổ nghĩa cho nguyên cụm từ đứng ngay trước nó là "đôi mắt nàng". Trong ý kiến riêng của mình, đối với câu này, tôi nghiêng về việc cho "ngây thơ" là trạng từ, bổ nghĩa cho động từ "nhìn" đứng ngay phía sau nó. Nếu muốn dùng nó như tính từ, tốt hơn hết, nên viết là "Ngây thơ, đôi mắt nàng nhìn tôi ", hoặc "Đôi mắt nàng, ngây thơ, nhìn tôi ". (Câu cuối cùng này, nếu kéo dài phần vị ngữ ra,ta sẽ nhìn thấy vấn đề rõ ràng hơn: "Đôi mắt nàng, ngây thơ, nhìn tôi dò hỏi.").

Trong tiếng Anh, tiếng Pháp, khi chuyển một tính từ/danh từ sang một động từ (tiếng Việt ít có), có những trường hợp không thay đổi dạng từ (như từ "kiss" trong tiếng Anh), lại có những trường hợp khác đòi hỏi phải có sự thay đổi (như từ "blanc/ blanche" hay "noir" trong tiếng Pháp, thành "blanchir" (làm cho trắng), "noircir" (làm cho đen); hay như "idol" trong tiếng Anh, thành "idolize" (thần tượng hoá (một ai, một cái gì)).

(6) Định nghĩa của "feedback": " the process in which part of the output of a system is returned to its input in order to regulate its further output " (theo wordnetweb.princeton.edu/perl/webwn [2] .)

(7) Về mặt ngôn ngữ, đơn vị ngữ âm âm đoạn (segmental) nhỏ nhất là âm (âm tố), sau đó là âm tiết, âm tự, âm cú. Các đơn vị âm đoạn này luôn gắn với các âm vị siêu âm đoạn (suprasegmental) là thanh điệu, ngữ điệu, trọng âm. Thanh điệu được miêu tả bằng hai tiêu chí là cao độ và đường nét. Về mặt cao độ, trong tiếng Việt, có thanh điệu cao (ngang, ngã, sắc) và thanh điệu thấp (huyền, hỏi, nặng). Về mặt đường nét (âm điệu), có thanh bằng phẳng (ngang, huyền) và thanh không bằng phẳng hay thanh trắc (ngã, sắc, hỏi, nặng). Thanh trắc lại chia thành thanh gãy (ngã, hỏi) và không gãy (sắc, nặng).

Người viết văn, làm thơ, đến một độ nào đó, ý thức hay không ý thức, đều biết lợi dụng những tính chất về thanh điệu này của từ ngữ để tạo thêm, cũng như để kiểm soát, sắc điệu trong những câu văn, câu thơ của mình. Từ đó, đi đến việc tạo hiệu ứng mỹ học tối đa cho sự diễn đạt.

(8) Xem George Orwell, Politics and the English Language, in trong rất nhiều tuyển tập về ngôn ngữ và giáo trình văn học được sử dụng trong các đại học Mỹ.

(9) Xin xem Bùi Vĩnh Phúc, Chữ & Nghĩa, Quo Vadis?, đăng làm hai kỳ trên diễn đàn Talawas, ngày mồng 2 tháng Hai, 2005, tại http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=3760&rb=06 [3] .

Bùi Vĩnh Phúc



--------------------------------------------------------------------
12 bình luận »
Trinh - Trung Lap viết:
Thưa GS. Bùi Vĩnh Phúc !

Bài viết của GS. cũng như bài viết của Anh Lê Hữu vừa qua, có những dẫn dụ rất lôi cuốn, sinh động, và quan trọng nhất là rất hữu ích !

Bài viết thật chí lí, và chí tình ! Tôi có cảm tưởng GS. đã giải thích vấn đề ngôn ngữ(đang nóng trên Damau) chuyên nghiệp như 1 nhà ngôn ngữ học cũng như 1 nhà xã hội học ! (mặc dù tôi chưa có hân hạnh được biết GS. chuyên nghiên cứu lãnh vực nào!)

Tất nhiên có 1 số chi tiết trong bài viết của GS. thể hiện quan điểm khác với bài viết của Anh Lê Hữu nhưng điều đó “bình thường thôi”, vì như GS. nói “Ngôn ngữ làm nên con người” mà !

Tuy nhiên, bài viết của GS. và bài viết của Anh Lê Hữu có 1 điểm chung là chưa phân loại tách bạch 2 phong cách của ngôn ngữ “formal language” và “informal one”. Mong 2 tác giả nếu có điều kiện hãy viết thêm về 2 “styles” này cho độc giả thoả lòng mong đợi ! Ý kiến của tôi là trong những tình huống nào đó đòi hỏi người ta phải sử dụng “formal language”, như đàm phán chính trị, hợp đồng kinh tế, diễn thuyết 1 vấn đề nào đó,trình bày 1 vấn đề có tính nghiêm túc,….Nhưng có hằng hà sa số tình huống của cuộc sống mà chỉ bằng “informal lang.” mới làm cho người ta “đáng yêu hơn”, và cuộc sống “funny hơn” (như GS. BVP và Anh LH cũng có đôi chỗ đề cập vấn đề này).

Tôi nghĩ nếu phân loại rõ ra 2 văn phong/lối nói rõ ràng như vậy sẽ hữu ích hơn nữa cho độc giả, nhất là các cháu nhỏ “trong nuớc” và “hải ngoại” dùng “đúng” tiếng Việt hơn.

Tôi nhớ có 2 Linh mục Việt kiều kể 1 câu chuyện vui như sau :
“…1 người đến khoe với chúng tôi : “ 2 Cha ơi ! con của con bữa nay chào hỏi tiếng Việt giỏi lắm, 2 Cha hãy xem này” và ông ấy quay sang đứa bé, nói : “con chào 2 Cha đi con”.
Thật bất ngờ và thú vị, đứa bé quay sang nhìn chúng rồi nhìn bố nó và lanh lẹ tươi cười hỏi “Dạ vâng, nhưng con chào “đứa” nào trước ạ….!!!!!!!!”……??????

Câu chuyện của các vị Linh mục (về Việt nam chơi) hôm ấy đã làm cho cả nhà thờ phải cười “vỡ” chảy cả nước mắt….vì rất “đáng yêu” cho đứa bé ! hii hiii

Trân trọng chúc GS. và Anh Lê Hữu nhiều sức khoẻ và có thêm nhiều bài viết thú vị nữa về….ngôn ngữ. Xin chân thành cám ơn !

Yours faithfully !
(không dám diễn tả tiếng Việt vì sợ “sến” như anh Ngô Nguyên Dũng, nhân tiện chúc anh NND sức khoẻ ….tiếp tục nhé !)

TTL
.- 03.11.2009 vào lúc 4:20 am
Bùi Vĩnh Phúc viết:
Kính gửi anh Trinh-Trung Lap,

Xin cám ơn lời khen tặng của anh. Tưởng chỉ viết lách cho vui, được anh cho biết là bài viết có ích, tôi rất cám ơn. Đã lâu, tôi cũng không viết gì về vấn đề ngôn ngữ. Nhân bài viết của anh Lê Hữu, đưa ra được nhiều vấn đề đáng thảo luận, tôi lại được đọc thêm một số chia sẻ đáng quý và thú vị của một số bạn đọc, nên tôi cũng có đôi chút hứng thú.

Anh hỏi, tôi xin đáp vắn gọn là tôi có được học và đào luyện trong cả hai ngành Xã hội học và Ngôn ngữ học, nhất là về ngôn ngữ. Nhưng cái học ở nhà trường, dù sao, cũng chỉ giúp ta có một cái nền, một căn bản để làm việc thôi. Tôi học được trong đời sống và trong sách vở nhiều hơn.

Câu hỏi của anh về "formal/informal language" là một câu hỏi rất rộng. Khó trả lời vắn tắt được. Anh dùng các từ tiếng Anh ("formal/informal language") đế hỏi, vậy tôi xin phép nói qua về vấn đề đó trong tiếng Anh, rất vắn tắt , rồi thử liên hệ chút ít qua tiếng Việt xem sao. Những điều sau đây là nói một cách tổng quát.

Trong tiếng Anh, "formal language" thường không dùng lối nói hay viết tắt ("contractions"): "I will see you later.", chứ không "I’ll see later."; hay "I have to use a different pen because this one is out of ink!", chứ không "I have to use a different pen cuz this one is outta ink!".

"Formal language" thường dùng ít/ít dùng những "phrasal verbs" (verbs đi với một "particle" như một preposition hay một adverb, hay với cả hai, như: eat out, eat up, eat away, eat in, get over with...). "Phrasal verbs" thường xuyên được dùng trong đàm thoại hàng ngày thay cho việc dùng những động từ gốc Latin; thí dụ, dùng “to put off” hơn là dùng “to postpone”, hay dùng “to get together” thay vì dùng “to congregate”, v.v… Đối với "formal language", các giáo sư Anh văn thường khuyên ta không nên dùng hoặc tránh dùng các "phrasal verbs", để giúp cho câu văn được trở nên trang trọng hơn. Dù sao, các "phrasal verbs" rất quan trọng trong tiếng Anh, vì chúng làm câu văn thêm mắm muối đậm đà với các ý nghĩa bóng bẩy, nhiều khi mang đầy chất ẩn dụ của chúng.

"Formal language" thường dùng nhiều từ vựng có gốc Latin và Pháp, đại khái là dùng chữ lớn, chữ nghiêm trọng, đôi khi có vẻ như "nổ" (Nói cho vui thôi! Dĩ nhiên là những từ được "nổ" đúng trong văn cảnh và ngôn cảnh của chúng thì sẽ được kêu là "chính xác" chứ không phải là "nổ" nữa). Người ta dùng nhiều thì quá khứ của trợ động từ hơn: dùng "should" thay vì dùng "must". Dùng ngôn ngữ gián tiếp (passive voice chẳng hạn) nhiều hơn để tạo sự gián cách, để không có vẻ cá nhân quá, hay "gần gũi" quá. Dùng nhiều tiếng đồng nghĩa ("synonyms") hơn để tránh phải lập lại các từ ngữ đã dùng. Và, câu nói hay lời viết được "tổ chức" một cách kỹ lưỡng và sâu sắc hơn.

Chuyển qua tiếng Việt, ta có thể tạm đưa ra thí dụ giản dị sau. Hãy xét những từ "xài", "dùng", và "sử dụng". Không xét vào những sắc thái khác biệt tế nhị ("nuances") giữa chúng mà gần như tất cả các từ đồng nghĩa đều có, so với nhau, một cách tổng quát thì cả ba từ này đều dùng để chỉ chung một khái niệm. Nhưng "xài" thì ít tính nghi thức nhất; ở đầu bên kia, có tính "nghi thức" nhiều hơn, là từ "sử dụng". "Dùng" nằm ở giữa hai cực đó; vì thế, nó có thể được dùng trong cả hai bối cảnh. Hai từ "đầu mút" kia không có được sự "thoải mái" đó.

Một từ gần gũi hơn: chết. Ta thử liệt kê ra đây một số từ/cụm từ, từ "ít nghi thức" nhất đến "hết sức nghi thức, trang trọng": ngủm củ tỏi, ngủm cù-đeo, đi mò tôm, chầu Diêm Vương, đi chầu tổ, đi bán muối, đi ăn xôi, chết, mất, qua đời, từ trần, thất lộc, đi theo các cụ, về với Chúa, về hưởng nhan thánh Chúa, về đất Phật, về Niết Bàn, về cõi Cực Lạc, về Thiên Đàng, v.v... Không thể trả lời người khác rằng "Bố tôi ‘ngủm củ tỏi’ rồi!" khi người ta hỏi, "Không dám, cho tôi hỏi ông cụ nhà anh có khoẻ không?". Trong trường hợp đó, ta không thể dùng "informal language" được, mà phải dùng một ngôn ngữ "formal" hay "very formal" để trả lời câu hỏi, thì mới được xem là người "tỉnh táo" và "có văn hoá". Phải dùng một trong những từ có tính phần nào trang trọng như "mất", "qua đời", "từ trần" trở đi, tuỳ hoàn cảnh cho thích hợp. Ngay trong một mẫu đơn tiếng Anh, hỏi về người thân của đương đơn, nếu người ấy đã qua đời, đương đơn phải ghi là "deceased", hay "passed away", chứ không thể ghi là "kicked the bucket" (!) được.

Nói về chuyện "chết chóc", không vui tí nào. Xin chia sẻ hai câu thơ dưới đây, cũng liên hệ đến "đề tài" chết, nhưng rất vui. Một lần, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, trong khi chở tôi đi lang thang, lòng vòng Hà Nội, đã đọc cho tôi nghe câu thơ lục bát "nổi tiếng" sau đây của Hà thành lúc ấy (trong đó câu bát rất đáng nhớ). Nhà phê bình chỉ đọc, không phụ chú, không "có lời bàn Mao Tôn Cương" chi cả, nhưng tôi hiểu và "suy rộng ra" là: câu thơ… khuyên bảo người ta phải ăn ở cho đàng hoàng, tử tế, cho nhân ái, trung hậu, vì, tất cả, ai rồi thì cũng sẽ phải "đi đến chỗ ấy": Rồi ra tất cả chúng ta / Đều lên nóc tủ …ngắm gà khoả thân (nếu tôi nhớ không nhầm thì là của nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh).

Trong cuộc sống bình thường, vâng, đúng như anh nói, dùng "informal language" giúp chúng ta thư giãn và dễ thở hơn. Và, đúng thế, nhiều lúc nó làm cho chúng ta cười vui thoải mái nữa. Nhưng khi nào cần dùng "formal language" thì ta vẫn phải dùng nó. Dùng ngôn ngữ đúng ngữ cảnh cũng là một thứ quy ước xã hội.

Còn câu nói mà cháu bé hỏi bố trước khi trả lời hai vị linh mục trẻ, trong câu chuyện của anh, theo tôi, không phải là một thứ "informal language", nhưng là một cách nói chưa "thấm nhuần văn hoá", chưa "nhuyễn", vì sức học chưa tới, đối với một em nhỏ dùng tiếng Việt không phải như tiếng mẹ đẻ. Nó buồn cười và ngộ nghĩnh, thậm chí "đáng yêu"–như anh nói–, trong khung cảnh riêng của nó.

Trân trọng,

Bùi Vĩnh Phúc
.- 04.11.2009 vào lúc 7:46 am
My Khanh viết:
Câu hỏi hay. Câu trả lời rất rõ ràng.

Cám ơn tác giả đã cho người đọc thêm nhiều kiến thức.
.- 04.11.2009 vào lúc 10:44 am
Trịnh - Trung Lập viết:
Kính thưa GS. Bùi Vĩnh Phúc !

Chân thành cám ơn GS. đã dành thời gian đọc và trả lời comment của tôi.

Những ví dụ minh hoạ của GS. về formal/informal language, đặc biệt trong tiếng Anh, thật tuyệt vời đối với tôi (người đang học tiếng Anh as a beginner ! ). Thật bổ ích với tôi, thưa GS. !

Cũng xin cám ơn GS. đã cất công “trích ngang chút xíu lý lịch” vì câu hỏi hơi đường đột (personal) của tôi… Do lâu nay, thấy các anh trên Damau rất vui tính, nên tôi sử dụng informal language hơi “bị nhiều” (nhất là từ khi anh Đặng Tiến cứ chủ trương “vui thôi mà”…). Nay, đọc comment của GS., cách GS. trả lời cho độc giả, tôi cảm nhận được 1 phong cách làm việc rất nghiêm túc và rất mô phạm của GS. Thưa GS. thật may, trong khi chờ đợi hồi âm của GS., tôi đã đọc được trên mạng về học vấn và quá trình làm việc, cũng như các bài viết (có liên quan đến ngôn ngữ) của GS. Xin được phép chân thành bày tỏ lòng cảm mến đối với GS. (nhất là những bài của GS. về Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn).

Tôi cũng xin đính chính 1 chút nhầm lẫn trong cách diễn tả chưa rõ ràng của tôi về ví dụ đứa bé “Việt kiều” trong comment lần trước. Đó không phải là “informal language” như GS. đã trả lời. Tôi đưa ra ví dụ đó chỉ nhằm kết luận rằng 2 bài viết của GS. và Anh Lê Hữu quả rất hữu ích cho những người đang “sử dụng” (chứ không phải “nói”) tiếng Việt, nhất là những thế hệ thứ 2,3,4-người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, nhiều khi nói tiếng Việt rất…buồn cười.

Cuối cùng, 1 lần nữa xin chân thành cám ơn GS. và mong được đọc nhiều hơn nữa những bài viết của GS.

Trân trọng kính chào GS !

Trịnh Trung Lập
.- 04.11.2009 vào lúc 6:19 pm
Túc Trí viết:
Bài viết của ông Bùi Vĩnh Phúc và của ông Lê Hữu, theo tôi, là hai bài có những đóng góp hữu ích về ngôn ngữ và tiếng Việt. Tôi đánh giá cao cả hai bài và không có ý định so sánh, tuy nhiên, do phản hồi của anh Trinh Trung Lap nói là “có một số chi tiết trong bài viết của GS. thể hiện quan điểm khác với bài viết của Anh Lê Hữu”, tôi thử tìm hiểu “quan điểm khác” ấy là gì?
– Ông LH nói : “Ngôn ngữ không làm nên con người”. Ông BVP nói : “Ngôn ngữ làm nên con người” (đúng ra, ông BVP viết là “ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, ‘Ngôn ngữ làm nên con người’”, nên không chắc lắm đấy là quan điểm của ông).
– Ông LH nói: “Đành ngậm ngùi cho ‘tiếng Việt cũ’ từng làm nên văn hóa miền Nam Việt Nam một thời, nay chìm dần trong lãng quên”. Ông BVP nói : “Cái ‘ngậm ngùi’ đó là một sự ngậm ngùi rất tự nhiên, thậm chí rất ‘cảm tính’, khởi đi từ lòng thiết tha đến những kỷ niệm cũ, gắn bó với những cung cách ăn nói cũ, gắn bó với một số khía cạnh văn hoá, xã hội mà những từ ngữ kia mang chứa trong mình.
Đó là một phản ứng tự nhiên, vì con người, xét về mặt văn hoá, nói chung, luôn muốn tiếp xúc với sự quen thuộc…”
Tôi thấy hai quan điểm ấy không hẳn là khác nhau, chỉ là một bên “ngậm ngùi”, một bên “giải thích” cái ngậm ngùi ấy.
Các khác nhau về quan điểm, nếu có, theo tôi là ở phần kết của hai bài : ông LH tỏ ra ngậm ngùi rằng ngôn ngữ đôi lúc đã khiến cho con người phải xa nhau: “Bao giờ cho đến bao giờ, những con người cùng chung tiếng nói, cùng một chữ viết không còn nữa những ‘bất đồng ngôn ngữ’, để cho ngôn ngữ không phải… ngậm ngùi”. Trong lúc ấy, ông BVP không đề cập gì đến chuyện “ngậm ngùi” ấy, và tỏ ra lạc quan : “Hy vọng là tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, với những chữ và nghĩa của chúng, sẽ giống như một cánh chim bay cao….., nó sẽ đem lại cho chúng ta những niềm vui của cuộc lên đường”.
Không rõ kết luận ấy có phải là “thể hiện quan điểm khác với bài viết của Anh Lê Hữu” như anh Trinh Trung Lap nói?

Ngoài ra, những khác biệt về chi tiết ở hai bài ấy không có nhiều và không phải là “khác quan điểm”.
Nói về chi tiết, có một chỗ tôi cho là ông BVP hiểu “lệch” ý (không dám nói là sai ý) của ông LH, khi viết: “‘Từ láy’ hay ‘từ lấp láy’ không hẳn chỉ gồm ‘một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả’” [Xin xem lại bài của Lê Hữu, chú thích (1)]”. Theo chỗ tôi hiểu, ông LH không làm công việc “định nghĩa” từ láy. Câu ấy (“từ ngữ láy, một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả”) được ông LH cho vào trong ngoặc đơn, tiếp theo sau các từ “khe khẽ”, “nhẹ nhàng”, “êm ả”, “ồn ào”, “gần gũi”, “lạ lùng”…, là để chỉ ra cái tên gọi (từ láy), và cái “dạng” của từ láy ấy (một chữ có nghĩa, chữ kia không có nghĩa), nhằm thuyết phục người đọc chấp nhận những “từ láy mới” có cùng một cái “dạng” (form) láy y như thế, như “khẽ khàng”, “im ả”, “yên ắng”, “ồn ã”, “gần gụi”, “lạ lẫm”… (Nếu cách hiểu của tôi ở phần này là sai, xin ông LH cho biết).
Do cách hiểu như thế, ông BVP bèn đưa ra…định nghĩa, giải thích, phân loại từ láy.
Dù sao, qua hai bài viết về ngôn ngữ, chúng ta thấy hai tác giả đã gặp nhau ở điểm chung là tình yêu tiếng Việt/ngôn ngữ Việt.
Xin có một vài ý như trên về bài viết công phu của ông BVP.


.- 05.11.2009 vào lúc 11:18 am
Bùi Vĩnh Phúc viết:
Kính gửi ông/bà My Khanh,
Xin được cám ơn nhận xét và ý kiến quý báu của của ông/bà.
***
Kính anh Trinh-Trung Lap,
Thành thật cám ơn những đánh giá rộng rãi của anh về tôi. Tôi cũng rất trọng và quý sự chân thành của anh trong vấn đề cầu học. Trong sự học hỏi để tiến bộ mỗi ngày, chúng ta ai cũng phải cố gắng, vì mình có thể học được từ mọi người và từ mọi điều trong cuộc sống.


Lần trước, về vấn đề “formal/informal language”, tôi quên chưa chia sẻ thêm với anh là, trong tiếng Việt, ngôn ngữ mang tính nghi thức thường dùng nhiều từ Hán-Việt, vì lớp từ này, với những âm vang và dấu ấn của nó, thường đem lại sắc thái trang trọng, nghiêm cẩn cho ý tưởng được trình bày hay diễn đạt. “Xài” với “sử dụng”, hay “chết” với “thất lộc”, khác nhau là ở chỗ đó. Điều ấy cũng giống như trong tiếng Anh, từ ngữ gốc Latin nghe trang trọng hơn những từ bình thường; từ đó, “to congregate” (Middle English, gốc Latin) nghe “trang trọng” và “nhã nhặn” hơn “to get together”. Cho dù, mỗi từ và mỗi cách dùng đều có giá trị và chỗ đứng của nó trong ngôn ngữ. Vấn đề là dùng đúng chỗ, đúng văn cảnh hay ngôn cảnh thôi.

Trong văn chương Việt, phong cách và ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan cho thấy khá rõ sự đối chọi đó và giá trị của chúng. “Một đèo, một đèo, lại một đèo…”, hay “Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi / Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi / Quân tử có thương thì bóc yếm / Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi” thì khác hẳn ” Gác mái ngư ông về viễn phố / Gõ sừng mục tử lại cô thôn” và “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”… Hai lớp ngôn từ khác hẳn nhau, đưa đến những cảm xúc, những giá trị văn chương cũng khác nhau. Nhưng cả hai đều có chỗ đứng của chúng.
Ngoài ra, một chuyện khác. Cách dùng từ “ấn tượng” ở Việt Nam. Trong bài, tôi trình bày chưa thật kỹ. Dùng theo kiểu Anh Mỹ, như một thứ động từ (thể thụ động), to be impressed with : “He cannot fail to be impressed with her new ‘ao dai’.” (”Hắn không thể nào không ấn tượng với chiếc áo dài mới của nàng.”–Nàng chỉ mong được khoe áo mới, hắn mà không “ấn tượng” thì chết với nàng. Sẽ phụng phịu đòi “nghỉ chơi” ngay!). Người ta có thể dễ dàng bắt gặp kiểu nói “Tôi thật ấn tượng với cách trình diễn của ca sĩ X” nơi những người trẻ trong nước. Còn dùng theo lối tính từ, impressive : “Điệu nhảy ấy thật là ấn tượng!” (theo kiểu tiếng Anh: “Bali Dance is very impressive for me for its unique style.”).
Một lần nữa, cám ơn những ý kiến của anh. Về cung cách trình bày, diễn đạt, tôi nghĩ mỗi người có thể có một phong cách khác nhau. Tôi thấy anh, cũng như các anh chị khác, mỗi người mỗi cách, góp những ý kiến hữu ích, vui, và thú vị lắm.
Trân trọng,
Bùi Vĩnh Phúc
.- 05.11.2009 vào lúc 5:25 pm
Bùi Vĩnh Phúc viết:
Kính anh Túc Trí,
Cách nhận xét của anh cho thấy anh đã đọc các bài vở rất kỹ.
Nhận xét về bài viết của anh Lê Hữu và bài của tôi, anh Trinh-Trung Lap cho là có một số chi tiết trong bài viết của tôi thể hiện quan điểm khác với bài viết của anh Lê Hữu, còn anh thì cho là quan điểm của hai bài viết “không hẳn là khác nhau”. Nếu được phép có ý kiến, tôi cho là anh TTL có cái lý của anh ấy, và anh cũng thế. Chỉ là góc độ nhìn và cách nhìn.
Cũng như ta có những câu “Không Thày đố mày làm nên“, và “Muốn sang thì bắc phù kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy Thày”, nhưng lại cũng có “Học Thày không tày học bạn”. Không phán đoán hay chia sẻ nào về vai trò của thày, của bạn, hay về cái nhìn về vị trí của người thày, người bạn trong cuộc sống ta, nơi những câu nói trên là sai, mặc dù, nhìn trên mặt chữ, câu tục ngữ đầu và câu ca dao có vẻ như đưa ra những phát biểu khác với câu tục ngữ cuối. Ngôn ngữ, văn hoá cũng giống như một viên kim cương. Nó có nhiều mặt khác nhau. Các cụ ta không “ba phải” hay tự mâu thuẫn khi đưa ra những “phát biểu” có vẻ trái chiều nhau này. Chỉ là các cụ nói về những khía cạnh khác nhau của vấn đề.
Cũng thế, hai cách nói “Ngôn ngữ không làm nên con người” và “Ngôn ngữ làm nên con người”, theo tôi, cũng là hai cách nhìn về một vấn đề, với hàm ý nhấn mạnh vào góc độ nhìn. Còn quan điểm của những người đưa ra hai cách nhìn (có vẻ trái chiều) như thế về vai trò (quan trọng) của ngôn ngữ (trong cuộc sống con người) thì chưa chắc là khác nhau. Cùng một sự kiện, chỉ có cách nhìn là khác nhau thôi. Cũng như nói “Ly nước cam này đã vơi một nửa!”, và nói “Ly nước cam này còn một nửa.” thì cũng không khác nhau đâu, trong cái nhìn sự kiện. Thật sự, chúng chỉ khác nhau ở cái dấu chấm thường và cái dấu chấm than thôi. Những cái dấu biểu tỏ cảm xúc và thái độ của người nhìn, người phát biểu.
Tóm lại, chỉ là những cái nhìn, từ những góc độ khác nhau, về cùng một vật, một sự. Vậy thì anh TTL cũng có lý, mà anh cũng rất sắc, nhìn ngay ra sự có thể nói là “đồng thuận” ấy nơi quan điểm của hai bài viết.
Về chuyện từ láy, cũng cám ơn nhận xét của anh. Tôi cũng không cho là anh LH trình bày không đúng hay hiểu sai về từ láy, nhưng tôi ngại là cách trình bày trong bài của anh LH có thể đưa đến việc có những người sẽ hiểu từ láy một cách quá giới hạn. Anh LH viết: “Công bằng mà nói, bên mình có những từ ngữ “khe khẽ”, “nhẹ nhàng”, “êm ả”, “gần gũi”, “lạ lùng”… (từ ngữ láy, một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả) thì cũng phải cho người ta… “. Nếu câu giải thích trong ngoặc đơn ấy là: “(từ ngữ láy, theo dạng một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là …)” thì ta sẽ loại trừ được khả năng có thể có người sẽ hiểu sai đi, cho rằng “từ láy” chỉ có một cách kết hợp. Chính vì thấy câu giải thích của anh LH không sai (chỉ có thể là chưa đủ), nên tôi đã cẩn thận viết trong bài của mình: “‘Từ láy’ hay ‘từ lấp láy’ không hẳn chỉ gồm ‘một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả’” [Xin xem lại bài của Lê Hữu, chú thích (1)]”. Tôi in nghiêng cụm “không hẳn” ở đây. Tôi đã tránh dùng cụm “không phải”, và trình bày đôi chút về “từ láy” trong bài của mình, vì những suy nghĩ tôi đã trình bày ở trên.
Bài của anh LH là một bài viết thiết tha, tâm huyết, lại đưa ra được những vấn đề đáng quan tâm, cho dù là từ những khía cạnh và góc độ khác nhau. Còn phần góp ý của anh đã đưa ra nhiều nhận xét thích đáng và quý báu.
Xin cám ơn anh Lê Hữu. Xin cám ơn anh Túc Trí. Chúc các anh luôn vui mạnh.
Trân trọng,
Bùi Vĩnh Phúc
.- 05.11.2009 vào lúc 7:21 pm
Trinh - Trung Lap viết:
Ông Túc Trí nói : “……..– Ông LH nói : “Ngôn ngữ không làm nên con người”. Ông BVP nói : “Ngôn ngữ làm nên con người” (đúng ra, ông BVP viết là “ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, ‘Ngôn ngữ làm nên con người’”, nên không chắc lắm đấy là quan điểm của ông).”

-Ông Lê Hữu nói : “…….Ngôn ngữ là tài sản chung của dân tộc, chắc không ai phủ nhận điều này. Ngôn ngữ là sản phẩm của con người, chứ không… làm nên con người. Tiếng Việt cũng không ra khỏi lẽ ấy. Tiếng Việt dùng chung cho cả nước. “Người phát minh” ra tiếng Việt không hề có ý định cấp giấy phép cho “bên” nào đặc quyền sử dụng; vì vậy, thiết tưởng ta cũng không nên làm cho tiếng Việt–ngôn ngữ của nước ta–trở nên “phức tạp” 1.
Nếu ta có thể “nhất trí” được với nhau, tiếng Việt là những “tiếng” được ghi lại trong các bộ tự điển tiếng Việt của cả miền Bắc lẫn miền Nam thuở trước (tất nhiên những bộ tự điển này luôn cần được bổ sung) thì không có chữ nào, tiếng nào là độc quyền của “bên” nào. Bên nào xài cũng được, miễn là chịu khó xài cho đúng…..”

- Ông Bùi Vĩnh Phúc nói : “……Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp. Nói “ngôn ngữ” là “công cụ” có nghĩa là xem ngôn ngữ, ở một khía cạnh nào đó, như cái đục, cái cưa, cái bào, thậm chí cái khẩu súng, cái máy bay, v.v…, để con người sử dụng trong ý hướng của mình. Là một công cụ, nhưng, không như những công cụ khác, ngôn ngữ lại là một công cụ gắn chặt với cuộc sống con người và, rất nhiều khi, cho cái cuộc sống ấy một ý nghĩa. Bởi thế, ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, “Ngôn ngữ làm nên con người”, hay “Anh nói năng ra sao thì con người anh hiển hiện ra đó”….”

-Theo Trịnh Trung Lập hiểu :
1. Ý Ông Lê Hữu : Ngôn ngữ là tài sản chung (từ chung có nghĩa tợ tợ như “của chồng công vợ vậy”), không được và càng không nên phân chia Việt nam bằng những vĩ tuyến ngôn ngữ
2. Ý Ông Bùi Vĩnh Phúc : Ngôn ngữ phản ánh quan điểm, tính cách,…….nói chung là những gì rất “personal” của người phát ra/viết ra nó. Và trong 1 nghĩa rộng hơn (có thể là từ lí trí tự do liên tưởng của độc giả) ngôn ngữ địa phương, sự phân chia ngôn ngữ do ranh giới chính trị, tính giai cấp của ngôn ngữ,…… có thể phản ánh một cách hiển hiện con người địa phương, con người chính trị, bản chất giai cấp của con người đó.

Ông Túc Trí có thể nhầm lẫn ở chỗ, khi Tác giả BVP trích dẫn : “….Bởi thế, ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, “Ngôn ngữ làm nên con người”, hay “Anh nói năng ra sao thì con người anh hiển hiện ra đó”….” tức là Ông BVP đã đồng ý với quan điểm đang được trích dẫn.

Thật ra những liên tưởng của tôi có thể không nằm trong ý định diễn tả của 2 tác giả. Thế nhưng, cái tuyệt vời của văn chương là chỗ ấy “Khơi gợi lí trí tự do nơi người đọc” và cứ thế những hệ quả (xin lưu ý không phải là hệ luỵ) của những định đề văn chương cứ tiếp diễn trên diễn đàn này và trong sáng tạo nghệ thuật…
.- 05.11.2009 vào lúc 8:09 pm
Lê Hữu viết:

Xin được trả lời anh Túc Trí: anh đúng, và anh Bùi Vĩnh Phúc đúng. Người sai là tôi.
Câu ấy lẽ ra phải viết như câu anh Bùi Vĩnh Phúc đề nghị, hoặc: “… (một dạng từ ngữ láy: một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả)…” Nói/viết mà người nghe/đọc không hiểu, không hiểu rõ, không hiểu đúng… là cái lỗi của người nói/viết. Xin nhận lỗi này. Cái sai của tôi cũng là cái sai của người không sử dụng thành thạo “công cụ ngôn ngữ”.
Tôi cũng “nhất trí” với anh Trịnh Trung Lập và anh Túc Trí là nội dung hai bài có khác chút chút về quan điểm, và tôi cho là có “khác” như vậy mới vui, mới thú vị và mới bổ ích (hơn là “mình nói mình nghe” thì chán chết!). Hơn nữa, nếu anh Bùi Vĩnh Phúc “nhất trí 100%” nội dung bài tôi viết thì anh ấy đã chẳng viết ra làm gì, và như thế thì thiệt thòi cho chúng ta biết mấy!!! Có phải không hai anh?

Phần diễn giải về formal/informal language của anh BVP rất rành rẽ và lý thú!
Xin cám ơn anh Bùi Vĩnh Phúc đã dành thì giờ đọc bài tôi “tản mạn về tiếng Việt”, và phát triển thêm nhiều ý mới trong bài viết của anh. Nhân nói về cái tính từ “tản mạn”, nhất trí với anh là ta có thể “dùng theo nghĩa là một động từ, có nghĩa là ‘nói chuyện lan man’”; tuy nhiên, cách dùng này vẫn chỉ là…“informal” (và chỉ trở thành “formal” khi nào cái “nghĩa mới” ấy được chính thức thừa nhận và được cập nhật trong tự điển tiếng Việt). Có một trường hợp tính từ được dùng theo nghĩa là một động từ, có nghĩa là “đấu hót”, “chuyện trò linh tinh lang tang” mà tôi rất “chịu”, đó là cái từ “lai rai” trong tựa sách “Lai rai chén rượu giang hồ” (Tiểu luận về Kim Dung, Huỳnh Ngọc Chiến), nghe rất là “khẩu khí Kim Dung”. Và chỉ có “lai rai” thôi, chứ không “lai rai về…” Tôi thích nói “Lai rai tiếng Việt trong và ngoài nước” hơn là nói “Tản mạn về tiếng Việt trong và ngoài nước”. Tuy nhiên cả hai cách nói này đều là…“informal language”.

Và cũng “tản mạn” thêm một chút về từ “biểu diễn” mà anh đề cập trong bài. Cái từ này theo tôi biết, từng được người ngoài Bắc sử dụng từ ngày xửa ngày xưa, và đến nay vẫn tiếp tục sử dụng. Nói “Đoàn văn công biểu diễn phục vụ bộ đội trong chiến dịch ĐBP” nghe được hơn là nói “Cô văn công biểu diễn bài ‘Ngày mùa’ của Văn Cao”. Biểu diễn, theo tôi, nghiêng về động tác hơn là lời. Ta vẫn nghe “biểu diễn ảo thuật / đu bay / múa rối dưới nước / khiêu vũ trên băng…” Về các tiết mục văn nghệ, ta nói “biểu diễn” một điệu múa, một nhạc cụ, hơn là biểu diễn một bài hát, một bài thơ… (ngoại trừ nhái giọng muông thú, giả giọng nhân vật nào đó…). Giới thiệu một màn đơn ca, MC thường nói: “Ca sĩ TT sẽ trình diễn/trình bày/diễn tả/thể hiện một ca khúc…” (hơn là “‘biểu diễn’ một ca khúc”).

Chỉ xin “trao đổi” chút chút với anh cho vui vậy. Cá nhân tôi vẫn chủ trương “thông thoáng”, “mềm dẻo”, “linh hoạt” (tôi thích những từ “mới” này) trong việc sử dụng ngôn ngữ, có nghĩa là muốn nói, muốn viết thế nào tùy nghi, miễn sao đối tượng “get the message thru” là ok. (Tất nhiên “chủ trương” này không áp dụng cho…formal language).
Trân trọng.
.- 05.11.2009 vào lúc 11:50 pm
Điền L. viết:
Cám ơn GS Bùi vĩnh Phúc về bài viết rất hữu ích và nhất là với giọng văn lôi cuốn. Tiện đây tôi cũn chia xẻ một kinh nghiệm về đề tiếng Việt trước vả sau 75.
Một lần về VN tôi tỏ ra khó chịu với những từ như “bóng đá” thay thế cho “đá banh”, “đăng ký” cho “ghi tên” và những từ dùng tiếng Hán Việt thay vì dùng tiếng thuần Việt như “bức xúc” thay vì “khó chịu”. Tôi than phiền với ông anh họ. Tưởng ông đồng ý với tôi, ai ngờ ông hỏi vặn “nếu gọi bóng rổ, bóng chuyền, bóng bàn được thì bóng đá có gì sai?”. Ông bảo tôi “đăng ký” là register còn “ghi tên” là enrolment. Còn “tổng cuộc túc cầu” mà bảo hay hơn “liên đoàn bóng đá” thì có thể, nhưng bảo sai hay thuần Việt thì không đúng. Tôi không cãi được.
.- 06.11.2009 vào lúc 6:36 am
Huỳnh Phan viết:
Bài viết của tác giả với việc đưa ra mốt số khá niệm,/quy luật ngôn ngữ cơ bản cùng với việc mổ xẻ một số ví dụ cụ thể có tác dụng refresh kiến thức ngôn ngữ, làm sáng tỏ thêm những bàn luận trong bài viết “Ngôn ngữ ngậm ngùi” của anh LH, nhất là cho thấy rõ hơn tiếng Việt là một thực thể sống động chớ không tĩnh tại.

Về từ “văn phạm” và “ngữ pháp” xin có vài ý bàn thêm với anh. Theo tôi, từ “văn phạm”’ bên cạnh khả năng xuất phát cách quan niệm của các cụ như tác giả đã nêu cũng có thể còn do “các cụ” dịch từ “grammaire” (tiếng Pháp) bằng cách truy từ gốc grammatike techne (nghệ thuật viết) tiếng Hi Lạp (dù đã có cụ “đi trước” dịch là “ngữ pháp”). Đồng ý với anh là ‘sự thay đổi từ “văn phạm” sang “ngữ pháp” là một sự thay đổi sâu xa cả về nội hàm của khái niệm, chứ không phải chỉ là về mặt từ ngữ’, Tuy nhiên, nói rằng ‘cách sử dụng từ “ngữ pháp” bây giờ…. là sự giới hạn việc giảng dạy….vào những khuôn phép, quy tắc ‘đặt câu, hành từ, vào việc học biết về các từ loại và cách thức sử dụng chúng trong câu mà thôi’ có lẽ cân bàn bạc thêm. Bởi vì phạm vị nghiện cứu của ngữ pháp hiện nay, nhờ những thành tựu trong các ngành có liên quan, đặc biệt ngành IT, đã cho phép phát triển theo cả hai chiều rộng lẫn chiều sâu nên nội hàm ngữ pháp bây giờ rộng hơn rất nhiều, các cụ có muốn đưa vào cũng chưa available. Nói riêng về ngữ pháp dạy trong trường phổ thông hiện nay, nếu tôi không lầm, thì vẫn còn bao gồm cả phép tu từ (nhờ bạn đọc nào ở trong nước xác nhận lại dùm) như trong “văn phạm” của các cụ..
Cũng xin góp thêm một ý nữa vể ý ”Feedback”, khởi nguyên, chỉ là một từ phát xuất từ lĩnh vực computer mà ra. Vì thế, theo định nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh, tôi thử dịch lại là “hồi dưỡng . Theo tôi biết, ít ra từ feedback đã được dùng trước đó trong điện tử (phần nghiên cứu vê máy khuếch đại [âm thanh]), từ này còn được dùng cả trong cơ học, sinh học…nhưng tôi không chắc trước hay sau trong điện tử. Cũng xin mách thêm là trước 1975, trong giáo trình các ngành tương ứng ở trường ĐH Khoa học SàiGòn và Kĩ Thuật Phú Thọ, từ này cũng đã được dịch là “hồi dưỡng” (như tác giả đã thử dịch). Hiện nay từ này được dùng trong rất nhiều ngành và trong nước dịch là hồi tiếp, hoàn ngược, phản hồi… (xem thêm http://tratu.vn/dict/en_vn/Feedback )
Cũng xin giới thiệu ở đây một bài viết có liên quan “Tiếng Việt SOS” của Dương Tường về việc sử dụng tiếng Việt trong nước để bạn đọc nào có quan tâm tham khảo thêm.
.- 08.11.2009 vào lúc 7:56 am
Bùi Vĩnh Phúc viết:
Xin cám ơn anh Lê Hữu về “phản hồi” của anh. Tôi cũng thích từ “trình diễn” hơn, khi dùng để giới thiệu một ca sĩ ra hát. Đặc biệt là đối với “lỗ tai” của người miền Nam, nghe “trình diễn” thấy “hay” và “hợp lý” hơn. Hợp lý, như cách anh đã phân tích và trình bày. Khi tôi liệt kê “mục từ” “Biểu diễn”/”Thể hiện” trong bài của mình, tôi chỉ muốn cho thấy đó là những từ khác biệt đối với người miền Nam, so với từ “trình diễn” mà họ đã quen thuộc. Sau đó, tôi tập trung nói về từ “thể hiện”. Kết của “mục” đó, tôi viết: “Tôi thấy từ này cũng đặc biệt, thậm chí “dễ thương”, không có vấn đề gì”. Đó là tôi đưa ra nhận xét về từ “thể hiện”. Còn, như đã nói ở trên, tôi cũng thích dùng từ “trình diễn” (hơn là “biểu diễn”. Có chuyện “phân biệt đối xử” ở đây hay không, hay là vì một lý do khác, tôi sẽ giải thích sau) để giới thiệu một “tiết mục hát” của một ca sĩ. Ngoài ra, “thể hiện”, như tôi nghĩ và viết trong bài, cũng là một từ hay, dùng cũng tốt. Rất nhiều MC trong nước sử dụng từ này.
Dù sao, chuyện thích “trình diễn” hơn là “biểu diễn” của đa số người sống trong Nam (đặc biệt để giới thiệu một ca sĩ), tôi nghĩ, cũng là một vấn đề thói quen và “dấu ấn” của thói quen. Nghĩa là gắn bó với một “khung văn hoá” nào đó. Ta đã quen dùng “trình diễn” để giới thiệu một ca sĩ hát , và dùng “biểu diễn” cho những mục giải trí khác, có gắn bó nhiều với những động tác khi “trình diễn”, như anh giải thích: “‘biểu diễn’ ảo thuật / đu bay / múa rối dưới nước / khiêu vũ trên băng…” và “‘biểu diễn’ một điệu múa, một nhạc cụ…”. Sự quen dùng như thế, tôi cho là do một “khung văn hoá” quy định, chứ không hẳn là do sự chính xác, hoặc đúng hay sai, của hai từ đó. Cho dù về mặt sắc thái ngữ nghĩa (giữa các từ đồng nghĩa), có một sự khác biệt giữa chúng.
Trong Từ Điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007), định nghĩa 1 của “biểu diễn” ghi: “diễn [các loại hình nghệ thuật hay võ thuật] cho công chúng thưởng thức: biểu diễn văn nghệ; biểu diễn một điệu múa; biểu diễn vài đường quyền”. Sau đó, có ghi từ đồng nghĩa là “trình diễn”. Ở mục từ “trình diễn”, ta thấy ghi định nghĩa: “đưa ra diễn trước công chúng: trình diễn thời trang; màn trình diễn xiếc; vở kịch đang trình diễn ở rạp”. Sau đó, cũng có ghi từ đồng nghĩa là “biểu diễn”. Đặc biệt, trong mục từ “trình diễn” có ghi chú thêm [trtr], có nghĩa là “trang trọng”.
Trong Hán-Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, “Trình”, 呈 , được giải thích là “bày tỏ; lộ bày ra; đưa lên kẻ trên”, và “Biểu”, 表 , được giải thích là “bày ra ngoài; cái đồ tính giờ, như đồng hồ; cái bảng chia loài mà chép cho dễ nhận biết; tờ tấu đưa cho vua”. Như thế, “Trình” hay “Biểu” gì thì cũng là “bày tỏ; lộ bày ra; bày ra ngoài”. Không có sự phân biệt là “bày ra” với “động tác” hay không” (và, nếu có, thì cái nào gắn với nhiều động tác hơn!). Sách của cụ Đào không thấy những mục từ “trình diễn” và “biểu diễn”. Hán-Việt Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn cũng không có mục từ “trình diễn”, còn định nghĩa của “biểu diễn” trong sách đó là “bày ra ngoài, phô diễn ra cho người ta xem”.
Tóm lại, tôi nghĩ, việc thích sử dụng “trình diễn” hơn “biểu diễn” (trong việc giới thiệu một người ca sĩ ra hát chẳng hạn), như trong trường hợp của chúng ta, và, tôi nghĩ, của nhiều người miền Nam khác, là do cái “khung văn hoá”, “khung sống”, của miền Nam quy định. Trong “khung” đó, có thể có cả thái độ “trang trọng” mình đặt vào lời giới thiệu và cung cách thưởng thức (trang trọng) của giới thưởng ngoạn. Trong quyển Từ Điển do Hoàng Phê chủ biên, cho dù xem hai từ là đồng nghĩa, vẫn ghi nhận sắc thái “trang trọng” của “trình diễn” so với “biểu diễn”.
Cách “xử lý” từ của anh như vậy là hợp lý, cho thấy sự quan sát rất kỹ của anh về mặt “ngữ dụng học”, cho dù có thể anh chưa quan tâm (đủ) đến sắc thái “trang trọng” hay “không trang trọng” giữa hai từ. Còn trong nưourceớc, trong cái “khung văn hoá” của thời kỳ “mở cửa” và “hậu mở cửa”, cũng có thể có đôi chút khác biệt. Đặc biệt trong sự sử dụng của người dân nơi công cộng, so với sự sử dụng của những người kỹ hơn, hay chuyên môn hơn, trên sách báo.
Một lần nữa, xin cám ơn các ý kiến của anh.
Trân trọng,

Bùi Vĩnh Phúc
.- 08.11.2009 vào lúc 1:38 pm

Source : DA MAU