1/7/07

Kitsch và toàn trị

Linh Vũ

Kitsch và toàn trị


Trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết, Milan Kundera có nhắc tới truyện Bay trên tổ chim cúc cu của Kent Kesey. Câu chuyện diễn ra ở một trại điên, nơi các bệnh nhân chịu đựng sự cai trị tàn nhẫn và xúc phạm nhân phẩm của mụ y tá trưởng. Khi nhân vật chính trong truyện tìm được cách giải phóng cho những người này thì ban đầu họ tỏ ra vui sướng. Nhưng chẳng mấy chốc, thái độ vui sướng ấy chuyển thành nỗi sợ hãi đối với tự do trong một thế giới mà họ không biết và không hiểu. Họ chọn cách ở lại với sự an toàn, nỗi sợ hãi và cả sự ty tiện được biết trước thay vì tự do và những trắc trở của nó. Kundera so sánh những bệnh nhân này với người dân của nước Nga, những người dường như lựa chọn chấp nhận trong hơn 70 năm chế độ toàn trị và cảnh sát "của mình" - một chế độ mà chính người Nga tự mỉa mai là "họ giả vờ trả lương cho chúng tôi và chúng tôi giả vờ làm việc” - hơn là tự do. Tất nhiên, lỗi không hoàn toàn là ở những người dân này. Nhiều kẻ trước khi vào trại điên vẫn hoàn toàn bình thường, còn người “tỉnh táo” và mạnh mẽ nhất trong trại điên của Kesey phải nhận lấy một kết cục bi thảm, bị biến thành một cái xác chết vật vờ sống thực vật.

Trong bộ phim The Shawshank Redemption cũng có chuyện kể những người tù được ra khỏi tù sợ hãi vì thế giới bên ngoài xa lạ và nằng nặc xin ở lại trong tù. Một người trong số đó cuối cùng đã phải tự treo cổ sau khi được trả tự do.

Có lẽ cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi những người cộng sản tỏ ra rất thích câu nói của Marx "Tự do là nhận thức được sự tất yếu", diễn đạt nôm na thì “tự do” là biết được vùng vẫy đến đâu trong sợi dây trói "tất yếu". Tất nhiên, kẻ nào vùng vẫy mạnh quá, hoặc quá ngây thơ không nhận ra dây trói hoặc ngược lại, gọi đích danh nó là sợi dây trói thì chẳng sớm thì muộn, sẽ không còn cơ hội được hưởng "tự do" rồi! Hay nói theo kiểu chính trị viên, anh không xứng đáng được hưởng tự do vì anh không biết quý trọng tự do mà anh có được nhờ công ơn của abc.

Sự giả dối, suy cho cùng vừa là hệ quả vừa là bạn song hành của sự hèn nhát và nỗi mặc cảm mà thôi. Nó sinh ra từ hèn nhát và mặc cảm và tồn tại để che giấu cho chúng. Hay sử dụng một định nghĩa từ của Kundera, thì nó là một sản phẩm kitsch tồi tệ nhất mà đến lượt mình, sẽ đẻ ra vô số những cái kitsch khác, những thứ giả nghệ thuật, giả cảm xúc, giả nhân văn, phục vụ cho những thói quen ăn sáng [1] .

Một chủ đề quan trọng mà Kafka đề cập tới là tội lỗi tưởng tượng. Một buổi sáng đẹp trời hay xấu trời nào đó, nhân vật Joseph K. trong tác phẩm Vụ án của Kafka tỉnh dậy và bị kết tội. Và anh ta cứ hoài hơi đi loanh quanh tìm cho ra tội lỗi của mình như để xác nhận sự thống nhất và hợp lý của thế giới mà anh ta đang sống. Anh thuê luật sư, đến toà án, diễn thuyết trước cử toạ, tìm cách xin giảm tội nhưng tuyệt nhiên không nghĩ hay tìm cách chứng minh là mình vô tội. Việc phủ nhận tội đó dường như là một cái gì đó vượt ra khỏi khả năng nhận thức của anh ta, vì nó đe doạ tính hợp lý của thế giới mà anh ta đang sống và coi mình là một thành phần. Ở đây, có thể nói là dường như kẻ bị kết tội đồng cảm và đồng loã với tên đao phủ. Trong tiểu thuyết Lâu đài, người cha nàng Amalia van xin Lâu đài hãy tuyên bố tội lỗi của nàng đi. Tuy ẩn ý của Kafka phức tạp và có thể có nhiều diễn giải trong các môi trường khác nhau, nhưng dường như có nhiều sự tương đồng hơn giữa những Joseph K., Amalia, nhân viên đạc điền K. với thân phận của những người sống trong các xã hội toàn trị, nơi cá nhân không tồn tại, con người chỉ là một cái mắt xích trong một bộ máy khổng lồ và người ta ít xa lạ với những thứ khá quái gở như "tự phê bình", "kiểm điểm".

Nếu như Kafka nói tới tội lỗi mặc định của mỗi cá nhân thì Orwell nhắc tới sự lãng quên trong một xã hội phi cá nhân, nơi những ký ức bị nhào lặn và xuyên tạc. Lịch sử trở thành một công cụ của chính trị. Và khi người ta đánh mất lịch sử, khi ký ức không còn tồn tại nữa thì tất cả các cá nhân sẽ giống hệt nhau, tất cả các nền văn minh sẽ đều cùng một khuôn và mọi lời nói dối sẽ trở thành chân lý, hay nói chính xác hơn là người ta sẽ không còn hoài công tìm cách phân biệt lời nói dối với sự thật làm gì nữa. Hay hiểu như Descartes thì con người hiện đại sẽ chết đi vì lúc đó không còn có chuyện "tôi suy nghĩ là tôi tồn tại" nữa. Chính vì thế sự phản kháng của Winston trong tác phẩm 1984 của Orwell không phải bằng cách cố gắng căm ghét Big Brother hay bằng những hành động truỵ lạc và bất tuân lệnh nho nhỏ như người tình Julia của anh. Winston tìm đến quá khứ, coi đó là điểm níu duy nhất để giữ lấy nhân cách và nhân tính.

K. của Kafka vẫn còn là một con người cá thể với những mục đích và ý nghĩ của riêng mình (tuy rằng anh luôn phải làm tình với vợ chưa cưới trước sự chứng kiến của hai gã giúp việc) nhưng tới George Orwell, con người cá nhân và sự riêng tư đã bị hoàn toàn triệt tiêu. Các nhân vật của Orwell cũng luôn cảm thấy có tội nhưng không chỉ có vậy, họ còn bị tước đoạt đi cảm xúc thật và suy nghĩ của riêng mình bằng những bài luyện tập kiểu Hai phút Căm ghét mỗi ngày và màn hình theo dõi ở mọi nơi, mọi lúc. Họ bị bắt buộc phải có cách nghĩ nước đôi (doublethink - từ sáng tạo của Orwell) để tồn tại. Một ví dụ về cách nghĩ nước đôi mà người ta dễ mắc phải: một mặt tôi thấy việc đưa và nhận hối lộ là xấu, một mặt tôi thấy nó là hợp lý và tôi vẫn làm việc đó mà không một chút hổ thẹn và không thấy là nó xấu vì "tất cả đều làm thế".

Điều đáng sợ của một xã hội như vậy là gì? Là việc tất cả đều giả vờ: chúng tôi giả vờ làm việc và họ giả vờ trả lương. Đảng giả vờ là đại diện cho giai cấp vô sản và chúng tôi giả vờ là chúng tôi tin điều đó. Giống như thể một tấn hài kịch. Nhưng trong một tấn hài kịch trên sân khấu thì cả khán giả và diễn viên đều cười. Trong tấn hài kịch-cuộc sống này thì người ta không được phép cười và sự giả vờ đó cũng được coi (tất nhiên là theo một cách giả vờ) như điều thiêng liêng. Họ vẫn có thể dung thứ cho sự tồn tại của bạn nếu bạn căm ghét hay hờn dỗi họ (thậm chí bạn còn có thể trở thành một celebrity [2] trong một chừng mực nào đó) nhưng họ sẽ không để cho bạn cười cợt vào mũi họ, nói với họ là họ đang "diễn". Nói cách khác, bạn sẽ bị bắt buộc phải đóng vai diễn viên và cùng diễn với họ chứ không được phép làm khán giả.

Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm văn học "cười cợt" đích thực ở nước Nga chỉ dừng lại ở Bulgakov từ những năm 30. Và ở Việt Nam thì nền văn học "cười cợt" ấy cũng chấm dứt ở Vũ Trọng Phụng. Những nhà trào phúng không có chỗ trong một xã hội phi cá tính. Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ đều phải khoác một bộ mặt nghiêm túc nhất khi đi theo cách mạng. Và người Việt Nam đành phải cười cùng một nhà văn sống ở một nước tư sản là Azit Nesil. Ngay cả trong 20 năm gần đây, trong khi có rất nhiều chua cay, hờn giận, buồn tủi, đau thương tuôn trào trên các trang viết thì cũng không có người viết nào biết cười cợt cả, có chăng chỉ Nguyễn Việt Hà là tiến gần nhất tới một nụ cười. Thế mà sao cụ Nguyễn Văn Vĩnh từng bảo dân mình cái gì cũng cười được. Nhưng mà cũng đúng, vì cái gì cũng cười được nên không hiểu được ý nghĩa và sức mạnh của nụ cười và sự hài hước, nhất là hài hước đen - cái mà người Việt luôn thiếu.

Trong chương The Grand Inquisitor (tạm dịch Đại quan toà dị giáo) ở cuốn Anh em nhà Kazamazov của Dostoievski, viên Đại quan toà dị giáo biện minh cho hành vi thiêu sống những kẻ dị giáo và sẵn sàng đóng đinh cả chính Chúa Jesus một lần nữa nếu Người sống lại là vì hạnh phúc của đám dân đen - những kẻ ngu dốt, luôn sợ hãi tự do và việc phải lựa chọn. Theo y, nếu đặt đám dân này phải lựa chọn giữa hạnh phúc trong ngu dốt và tự do thì bọn chúng luôn chọn hạnh phúc và hy sinh tự do, chúng chỉ cần đến bánh mỳ chứ không cần tri thức. Vì thế, những kẻ có trí tuệ và thương xót con người như y phải gánh chịu trách nhiệm lựa chọn cho dân chúng để rồi phải chấp nhận những đau khổ và hệ luỵ của công việc này.

Lời biện minh ấy có giả dối không? Không hoàn toàn là giả dối vì hình như y thực sự tin tưởng vào điều đó. Nhưng lý giải theo Orwell thì đó là doublethink. Y tin thế vì y muốn tin thế (một cách vừa có ý thức vừa không có ý thức). Hay theo Kundera thì đó là kitsch, là những mỹ từ được đặt ra để tự lừa dối mình và lừa dối người khác. Những cái kitsch ấy tồn tại như những nếp gấp trong vỏ não mà người ta thường trượt vào để có thể cảm thấy yên tâm chứ không phải xuất phát từ sự lựa chọn có ý thức. Orwell có câu trả lời khác về mục đích thực sự của bọn chúng qua lời một “viên quan toà dị giáo khác” của ông "chúng tôi muốn quyền lực chỉ vì quyền lực". Không vì hạnh phúc của dân chúng? Không vì sự thoả mãn của bản thân? Nghe tưởng nghịch lý nhưng chẳng phải Nietzsche từng coi ý chí quyền lực là động cơ của loài người đó sao. Chính vì thế mà những người cộng sản ghét Nietzsche. Không phải vì tư tưởng của Nietzsche đã phần nào góp phần cho sự ra đời của chủ nghĩa Quốc xã như họ vẫn nói. Mà vì cũng như Dostoievski, cũng như Orwell, Nietzsche đã bóc trần trụi sự hào nhoáng của những mỹ từ mà họ đang "giả vờ". Có Hoàng đế nào lại thích thú khi một đứa trẻ kêu lên là "Hoàng đế cởi truồng". Nhưng để có thể kêu lên được như thế thì lại phải là trẻ con! Mà những đứa trẻ thực sự trong một xã hội giả dối, nơi những cái kitsch trở thành chuẩn mực, tiếc thay, lại quá ít.

© 2006 talawas



[1]Kundera dành nhiều trang trong cuốn Nhẹ kiếp khôn kham (The Unbearable Lightness of Being) để luận về chữ Kitsch. Trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết, Kundera có hẳn một mục từ để bàn về chữ này. Xin trích một đoạn “Trong bản dịch ra tiếng Pháp của thiên tiểu luận nổi tiếng của Herman Broch, từ “Kitsch” được dịch là nghệ thuật tầm tầm. Một phản nghĩa, bởi vì Broch chứng minh rằng Kitsch là cái khác với một tác phẩm chỉ đơn giản là thị hiếu tồi. Có thái độ Kitsch. Cách ứng xử Kitsch. Nhu cầu Kitsch của con người-Kitsch (Kitschmensch): đấy là nhu cầu tự nhìn mình trong tấm gương dối trá làm đẹp người lên và tự nhận ra mình trong đó với một sự thoả mãn đầy xúc động.” (Nghệ thuật tiểu thuyết - bản dịch của Nguyên Ngọc 2001).
[2]Người nổi tiếng.

Con đường sáng tạo -Rimbaud

Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu

Rimbaud
Để trở thành thi sĩ


Giới thiệu

“Tiến lên! Đi, gánh nặng, sa mạc, chán chường và cuồng nộ.”

Câu thơ niên thiếu đó gói trọn cuộc sống Rimbaud. Cuộc sống tình cảm cũng như cuộc sống tâm linh, cuộc sống thực tế cũng như cuộc sống mộng tưởng, cuộc sống làm ăn cũng như cuộc sống sáng tạo. Đó là cuộc đi không mỏi, là làm việc không ngừng, là sa mạc không cùng, là chán chường không nguôi và là cuồng nộ không dứt. Và cũng là khám phá vô tận, kinh nghiệm vô biên. “Đây là một người mà một ngàn cuộc đời cũng không đủ để khám phá những kỳ diệu của trần gian”, Henry Miller viết trong một thiên nghiên cứu về Rimbaud, “một người đã cắt đứt với bạn bè và thân quyến từ lúc tuổi còn xanh để cảm nghiệm cuộc đời trong tất cả sự tròn đầy của nó.” [1]

Ở một thanh niên mà sự chín muồi của minh triết đã cho phép khẳng định rằng: “Cuối cùng tôi khám phá thấy sự hỗn loạn của tâm trí tôi là thiêng liêng” thì sự thái quá là một điều dễ hiểu. Nơi chàng, tất cả đều thái quá.

Trước hết là sự đi của chàng. Đây là lộ trình của hai chân chàng: Charleroi – Paris – Mazas – Charleville – Bỉ - Charleroi – Bruxelles – Douai – Charleville – Paris – Charleville – Paris – Charleville – Paris – Ardennes – Paris – Bỉ – Anh – Charleville – Roche – London – Roche – London – Charleville – Stuttgart - Milan – Charleville – Vienne - Hòa Lan – Batavia – Charleville – Brême – Hambourg – Thụy Điển –Đan Mạch – Marseille – Alexandrie – Civita – Vecchia – Rome – Charleville – Hambourg – Charleville – Vosges - Thụy Sĩ – Gênes – Alexandrie – Charleville - Chypre – Roche – Chypre – Aden – Hara – Choa – Harar – Babussa – Ongadine – Tadjourah – Harar – Abyssinie – Aden – Le Caire – Harar – Zeilah – Aden – Marseille – Roche – Marseille.

Chàng đi, đi hoài, lúc nào cũng ở trên đường như một gã du đãng có sao thiên mã cư mệnh mà nếu không đi thì ắt là ngọa bệnh và chỉ ngừng đi khi phải nằm xuống để người ta cưa chân đi. Mà trong cuộc đi như ma đưa quỉ dắt ấy nào phải được lên xe xuống ngựa gì. Chỉ rặt những đi bộ là đi bộ với đói và khát, cảnh sát với nhà giam. Chúng ta hãy nghe Henry Miller tả: “Ba lần trong thời gian dưới hai mươi tuổi, chàng đã tới Bruxelles và Paris: hai lần chàng tới London. Từ Stuttgart, sau khi đã thông thạo Đức ngữ đủ dùng, chàng lang thang đi bộ qua Wurtemberg và Thụy Sĩ tới Ý Đại Lợi. Từ Milan chàng khởi hành đi bộ tới Cyclades qua Brindisi, chỉ để bị trúng nắng và quay trở về Marseille qua ngả Leghorn. Chàng vượt qua bán đảo Scandinavine và Đan Mạch với một đoàn xiếc dạo; chàng đáp tầu từ Hambourg, Antwerp; Rotterdam: chàng đến Java bằng cách gia nhập đạo quân Hà Lan, chỉ để đào ngũ sau khi nếm qua mùi vị của nó. Một lần vượt qua đảo St. Hélène trên một con tầu Anh từ chối không ngừng lại đảo, chàng phóng qua lan can tầu xuống biển nhưng bị bắt trở lại trước khi chàng có thể tới đảo. Từ Vienne chàng bị cảnh sát dẫn độ về bến cảng Baravi vì tội du đãng; từ đó chàng lại bị áp giải về biên cảnh Lorraine. Trong tất cả những chuyến tẩu thoát và bỏ nhà ra đi đột ngột đó, chàng luôn luôn không một xu dính túi, luôn luôn đi bộ, và luôn luôn đi bộ với một cái dạ dầy lép kẹp. Tại Civita Vecchia chàng bị đưa xuống đất liền với chứng sốt đau dạ dầy mắc phải vì màng dạ dầy sưng lên bởi sự cọ xát của xương sườn vào bụng. Đi bộ thái quá. Ở Abyssinic là sự cưỡi ngựa thái quá. Tất cả mọi sự đều thái quá. Chàng bắt buộc mình một cách phi nhân. Mục đích thì bao giờ cũng ở phía bên kia.”

Năm mười chín tuổi, khi “Giã từ cõi mộng điêu linh, Anh về buôn bán với mình phôi pha” [2] thì chàng hoàn toàn là một tên lái buôn thực thụ, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi lợi lộc, bởi công việc. Chàng làm việc không ngừng, đầu tắt mặt tối quá mọi đen. Chàng đoạn tuyệt hoàn toàn với giới văn nghệ và thế giới văn chương để trầm luân miệt mài trong cõi làm ăn buôn bán. Trong những lá thư gửi về cho gia đình, chàng làm khổ mẹ và em gái không ít, thúc bách gia đình gửi cho chàng những chuyên thư, tự điển kỹ thuật, nông lâm, sách dậy tiếng địa phương man di mọi rợ. Chàng muốn trở thành một kỹ sư, chàng muốn con chàng, nếu chàng có con, cũng sẽ trở thành một kỹ sư nổi tiếng, “một người có thế lực và giầu sang vì khoa học.”

Chàng đi vào sa mạc, phiêu lưu vào những vùng chưa một người da trắng nào dám hẻo lánh tới, giao thiệp với mọi sắc dân, mọi quốc tịch. Văn chương chữ nghĩa bay đi đâu hết chỉ còn lại café, hương liệu, ngà voi, da thú, súng ống, nô lệ… và công việc, công việc, công việc mà chàng chán mứa, mà chàng xốc vác đến hụt hơi. Nhưng trên tất cả là chán chường và giận dữ: “Tôi luôn luôn chán nản vô cùng”, chàng viết cho gia đình ngày 1 tháng tám 1888; “tôi chưa từng biết có người nào phiền muộn hơn tôi. Và rồi, có khốn khổ không, cuộc sống gia đình; không công việc trí thức, bơ vơ lơ láo giữa đám mọi mà mình muốn cải thiện số phận chúng, trong khi chính chúng tìm cách lợi dụng mình và ngăn trở không cho mình giải quyết công việc một cách chóng vánh! Bắt buộc phải nói ngôn ngữ tạp loạn của chúng, ăn những món ăn bẩn thỉu của chúng, chịu đựng muôn ngàn phiền muộn do sự lười biếng, phản phúc, ngu ngốc của chúng đem lại!”.

Nhưng đó chưa phải là điều buồn bã nhất. “Điều buốn bã nhất là sự chính mình dần dần trở nên đần độn u mê vì cô độc và xa cách mọi xã hội văn minh.”

Đâu là ý nghĩa của tất cả những cái thái quá đó, hỡi chàng Rimbaud, kẻ “sinh ra dưới cung Thiên Xứng” lại chọn những cái thái quá “với đam mê của một kẻ đi đây (equilibrist)” kia? [3] Một trong những châm ngôn tinh yếu nhất của “Châm Ngôn của Địa Ngục” (The Proverbs of Hell) của Blake – một người anh em của Rimbaud là:

“Con đường thái quá dẫn tới lâu đài minh triết,” (The road of excess leads to the palace of wisdom).

Phải chăng Rimbaud muốn đi trên con đường đó? Đúng là chàng đã đi trên con đường đó và con đường mâu thuẫn. Suốt đời chàng, chàng đã đi ngược lại tất cả những gì chàng đã linh tưởng từ ấu thời. Suốt đời chàng, chàng đã phá hủy tất cả những gì chàng đã xây dựng tự ấu thời. Suốt đời chàng, chàng đã phản bội tất cả những gì chàng đã tin tưởng từ ấu thời. Để làm gì vậy? – Để biết mặt sau của mặt trăng, mặt trái của thiên đàng, để trở thành thi nhân theo quan niệm của chàng, nghĩa là trở thành một tiên tri thấu thị (voyant), có thể “thấy tất cả, cảm tất cả, tiêu thụ tất cả, thám hiểm tất cả, nói tất cả”. Vì chàng chủ trương rằng thi nhân cần phải “đi đến cái vị tri (hay mới lạ) bằng sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan” (“Thư cho Izambard”), “cần phải biến tâm hồn thành quái dị”, phải biết tất cả mọi hình thức tình yêu, mọi hình thức đau khổ, mọi hình thức điên cuồng, phải nuốt hết tất cả mọi chất ma túy để chỉ giữ lại tinh túy, phải biết “tất cả giày vò trong đó hắn cần tất cả mọi đức tin, cần tất cả mọi sức mạnh siêu nhân trong đó hắn trở thành một tên bệnh nhân vĩ đại, tên tội nhân vĩ đại, tên bị nguyền rủa vĩ đại, - và nhà Bác Học siêu phàm! – Vì hắn đi tới cái vị tri! (“Thư cho Paul Demeny”). Dù cho cuối cùng, điên cuồng, hắn mất tất cả mọi ý niệm về những viễn tưởng của hắn. Song le, hắn đã nhìn thấy chúng tận mắt. “Vậy hãy để hắn nổ tung trong cơn chấn động bởi những điều dị thường và vô danh; những nhân công khủng khiếp khác sẽ tới; họ sẽ bắt đầu lại những chân trời nơi hắn tắt nghỉ!” (Một Mùa Địa Ngục)

Như thế, thi nhân của Rimbaud đã tiếp nối truyền thống những thi nhân đầu tiên của nhân loại (bị gián đoạn bởi những thi sĩ): thi nhân đồng thời là một tiên tri, một Prométhée ăn cắp lửa cho con người. Rimbaud cũng chính là một Prométhée: chàng đã hy sinh cuộc đời chàng để thể hiện linh tưởng của chàng theo sứ mệnh của thi nhân: “Thi sĩ có ích lợi gì trừ khi hắn đạt tới một viễn tưởng về cuộc đời, trừ khi hắn sẵn sàng hy sinh cuộc đời để chứng minh chân lý và vẻ rực rỡ của thị kiến hắn?” (Henry Miller, Sđd, tr. 107) Rimbaud đã can đảm lao ra khỏi Thiên Đàng tuổi thơ, như Lucifer, để sống, không phải một mùa mà là tất cả những mùa còn lại của đời chàng trong chốn Địa Ngục Trần Gian. Chàng, - đứa con của mặt trời, chàng muốn biết thế nào là đêm tối địa ngục, Chàng, - kẻ mà định mệnh là hạnh phúc, “không hề nghĩ tới lạc thú đào thoát những đau khổ của thời đại mới”. Chàng, - kẻ mà cuộc đời là một bữa yến tiệc nơi tất cả mọi trái tim đều mở phơi, tất cả rượu ngọt tuôn trào” đã tự nguyện vùi dập đời mình trong sa mạc cát bỏng tịch liêu.

Những đau khổ thời đại mới là gì? – là máy móc, là bạc tiền. Chàng muốn trở thành kỹ sư – lý tưởng của thời hiện đại. Chàng đi làm tiền, lúc nào cũng quấn một cái ruột tượng đầy tiền quanh bụng – ám ảnh của thời đại mới.

Tất cả những kẻ chê bai khinh bỉ, chế giễu chàng đều sai lầm. Tất cả những kẻ tự nhận là hậu thân của chàng còn sai lầm hơn nữa. Không phải chàng bỏ làm thơ vì thấy rõ sự thất bại của thi ca. Bài hát chỉ được nghe với tất cả xúc động khi âm thanh đã dứt, người ca sĩ là ca sĩ thực thụ, sống bài hát, khi đã ngừng hát. Chàng là thi sĩ (Poète) khi chàng đang làm thơ, chàng là thi nhân (Poète) khi chàng không còn làm thơ nữa. Chàng thôi làm thơ để sống thơ. Chàng muốn “thủ đắc chân lý trong hồn và xác”. Chân lý ấy là gì? – là “tất cả đều có một định mệnh hạnh phúc” mà sự sợ hãi, đau khổ, sự hồ nghi hạnh phúc, sự thiếu tin tưởng ở thiên đàng - đã làm lạc lõng, mà sự tin tưởng và địa ngục, đã khuất lấp.

Trong cuộc sống người ta sợ gì nhất? – thất bại. Cuối cuộc đời người ta kinh hãi gì nhất? – địa ngục.

Rimbaud không phải là hiện thân của thất bại như những kẻ chê bai chàng nhận định. Chàng cũng không muốn là biểu tượng của sự thất bại như những kẻ ca ngợi chàng đề cao. Chàng muốn đeo đuổi ôm ghì sự thất bại; cách duy nhất để chiến thắng nó.

Tại sao chúng ta tin tưởng rằng, cuối cùng, tất cả đều thất bại mà chúng ta lại không dám chấp nhận thất bại, một cách tiên thiên, không dám nhận là sự thất bại, để cuộc đời chúng ta, với tất cả công nghiệp, đam mê dần dần trở thành thất bại? Tại sao chúng ta tin tưởng rằng cuộc sống là địa ngục, cuối cùng của cuộc sống cũng sẽ là địa ngục, tại sao chúng ta không dám chấp nhận địa ngục, một cách tiên thiên, không dám sống trong địa ngục, để địa ngục ám ảnh chúng ta? để cuộc đời chúng ta, với tất cả hân hoan, say đắm, dần trở thành địa ngục? Và quả thực cuộc đời chúng ta là địa ngục, chỉ bởi chúng ta tin ở nó. “Tôi tin vào địa ngục, vậy tôi đang ở địa ngục” (Je crois en enfer, donc j’y suis – “Nuit de l’enfer”). Con đường dẫn tới thiên đàng bao giờ cũng đi qua địa ngục. Ánh sáng của thiên đàng chỉ ở địa ngục, tôi khát vọng Thiên Đàng. Vậy…

Con người sẽ thất bại, ở mọi chiều hướng, người ta nói như thế. Con người sẽ đi tới sa mạc cô đơn, tới địa ngục, người đe dọa thế. Vậy tại sao ta không chấp nhận thất bại, sa mạc, địa ngục? Sao ta trở gót, quẩy lại gánh nặng và sống trong run sợ? Tại sao chúng ta không chấp nhận những điều kiện thiết yếu của cuộc đời? “Lý trí đã ra đời. Thế giới tốt lành. Tôi sẽ chúc phúc cuộc đời. Tôi sẽ yêu anh em tôi. Đây không phải là những lời hứa hẹn trẻ con nữa. Cũng không phải hy vọng thoát khỏi tuổi già và cái chết. Thượng Đế làm thành sức mạnh của tôi và tôi ca ngợi Thượng đế.”

“Chán chường không phải là tình yêu của tôi nữa. Những cuồng nộ, trác táng, điên dại, mà tôi biết tất cả xung động đẩy đưa và tác hại, - tất cả gánh nặng của tôi đều được đặt xuống – Hãy thẩm định không choáng váng vẻ mênh mông của lòng ngây thơ tôi – Une saison en enfer, “Mauvais sang” ). Với lòng ngây thơ ấy, người ta trở lại Thiên Đàng. Chính trong “cùng sa mạc đó, cùng đêm tối đó”, khi ý thức hóa thân: lạc đà trở thành sư tử, sư tử trở thành hài nhi ngây thơ, chàng giục giã chúng ta lên đường sáng tạo những giá trị hân hoan: “khi nào chúng ta sẽ lên đường, qua những đụn cát, qua núi đồi, đón chào sự ra đời của cần lao mới, minh triết mới, sự chạy trốn của những bạo chúa và quỉ dữ, sự chấm dứt của mê tín, và sùng bái – như những kẻ thứ nhất! – Giáng Sinh trên trần gian!”

Henry Miller thấu suốt ruột gan Rimbaud khi viết: “Điều tôi vô cùng quan tâm nơi Rimbaud là viễn tượng Thiên Đàng chiếm lại được của chàng. Thiên Đàng kiếm được.”.(That interests me extremely in Rimbaud is his vision of Paradise regained, Paradise earned).

Cuộc đời Rimbaud, sự tàn lụi tự ý, đầu độc tự ý, đánh mất Thiên Đàng tự ý, những gánh nặng, sa mạc, những chuyến đi vào cô đơn cuồng điên không mỏi đó chính là hình ảnh rực rỡ nhất, ngút lửa nhất, rõ rệt nhất của CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO.


*

Rimbaud

Thư gửi Georges Izambard, 27 đường l’Abbaye – des – Champs, Douai (Bắc)


Charleville, (13) tháng năm 1871

Ông thân mến!

Thế là ông lại làm giáo sư nữa rồi! Người ta mắc nợ xã hội, ông đã nói với tôi như vậy; ông tham dự vào ban giảng huấn: ông đang đi lối đường mòn êm đẹp! – Tôi cũng theo tôn chỉ của tôi: tôi tìm cách bảo tồn tôi một cách ngang chướng; tôi khai quật những tên đần độn ở trường cũ, tất cả những gì ngu ngốc, bẩn thỉu, xấu xa nhất tôi có thể bầy đặt ra, bằng hành động và bằng lời nói, trao cho họ: tôi được đãi nhậu nhẹt và em út thả cửa. Stat mater dolorosa, dum pendet filius, - Tôi mắc nợ xã hội, đúng như vậy; - và tôi có lý. – Ông nữa, ông cũng có lý, hôm nay. Thực sự, ông chỉ nhìn thấy trong tôn chỉ của ông thi ca chủ quan: sự ông khăng khăng trở lại máng ăn cám đại học – xin lỗi – chứng tỏ điều đó. Nhưng bao giờ cũng kết thúc như một kẻ thỏa mãn không làm gì cả, không muốn làm bất cứ việc gì cả. Chưa kể thi ca chủ quan của ông bao giờ cũng sẽ nhạt thếch một cách khủng khiếp. Một ngày kia, tôi hy vọng, - nhiều người cũng hy vọng như vậy – tôi sẽ nhìn thấy thi ca khách quan trong tôn chỉ của ông, tôi sẽ nhìn thấy nó một cách chân thành hơn ông nhiều! – Tôi sẽ là một người lao động: đó là ý tưởng cầm giữ tôi lại khi những cơn giận giữ điên cuồng xô đẩy tôi về phía cuộc tranh đấu Paris – nơi biết bao dân lao động hãy còn đang chết trong khi tôi viết cho ông! Làm việc bây giờ, không bao giờ, không bao giờ; tôi đang đình công.

Bây giờ tôi dấn mình vào đường phóng đãng càng sâu bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Tại sao vậy? Tôi muốn làm thi nhân, và tôi làm để khiến mình trở thành tiên tri thấu thị: ông không thể hiểu được đâu và tôi hầu như cũng không biết cách nào giảng giải cho ông hiểu được. Cần phải đi tới cái mới lạ chưa từng biết bằng sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan. Những nỗi đau khổ sẽ chất ngất, nhưng phải mạnh, phải là thi nhân bẩm sinh, và tôi biết mình là một thi nhân. Tôi không có lỗi chút nào. Nói rằng: tôi suy tưởng là sai. Người ta phải nói: Tôi bị suy tưởng. Xin lỗi trò chơi chữ.

TÔI là một kẻ khác. Thây kệ nếu cây gỗ khám phá thấy mình là một cây vĩ cầm, và mặc xác những tên xuẩn ngốc cãi chầy cãi cối về những điều chúng mù tịt!

Ông không phải là một ông thầy đối với tôi. Tôi cho ông điều này: đây có phải là phúng thi không, như ông có thể sẽ nói! Đây có phải là thi ca không? Đây là ý ngông, dù sao – Nhưng tôi xin ông đừng gạch dưới bằng bút chì, cũng đừng quá quan tâm:

TRÁI TIM ĐAU
Trái tim đau nhỏ giọt ở đuôi
…………………………….

Điều ấy không phải là không có ý nói gì.
Hồi âm: Gửi Ô. Deverrière, nhờ chuyển cho A. R.
Thân mến,
Arth. RimBaud


À Georges Izambard, 27 rue de l’Abbaye –des – Champs, à Douai (Nord)

Charleville, (13) mai 1871.

Cher Monsieur!

Vous revoilà professeur. On se doit à la Société, m’avez – vous dit; vous faites partie des corps enseingnants: vous roulez dans la bonne ornière. – Moi aussi, je suis le principe: je me fais cyniquement entretenir; je déterre d’ anciens imbèciles de collège: tout ce que je puis inventer de bête, de sale, de mauvais, en action et en paroles, je le leur livre; on me paie en bocks et en filles. Stat mater dolorosa, dum pendet filius. – Je me dois à la Société, c’est juste, - et j’ai raison. - Vous aussi, vous avez raison, pour aujourd’hui. Au fond, vous ne voyez en votre pricinpe que poesie subjective: votre obstination à regagner le râtelier universitaire – pardon! – le prouve. Mais vous finirez toujours comme un satisfait qui n’a rich fait, n’ayant rien voulu faire. Sans compter que votre poésie subjective sera toujours horriblement fadasse. Un jour, j’espère, - bien d’autres espèrent la même chose, - je verrai dans votre principe la poésie objective, je la verrai plus sincèrement que vous ne le feriez! – Je serai un travailleur: c’est l’idée qui me retient quand les colères folles me poussent vers la bataille de Paris, - où tant de travailleurs la bataille de Paris, - où tant de travailleurs meurent pourtant encore tandis que je vous écris! Travailler maintenant, jamais, jamais; je suis en grève.

Maintenant, je m’encrapule le plus possible. Pourquoi? Je veux être poète, et je travaille à me rendre voyant: vous ne comprendrez pas du tout, et je ne saurais presque vous expliquer. Il s’agit d’arriver à l’inconnu, par le dérèglement de tous les sens. Les souffrances sont énormes, mais il faut être fort, être né poète, et je me suis reconnu poète. Ce n’est pas du tout ma aute. C’est faux de dire: Je pense. On devrait dire: On me pense. Pardon du jeu de mots.

JE est un autre. Tant pis pour le bois qui se trouve violon, et nargue aux inconscients, qui ergotent sur ce qu’ils ignorent tout à fait!

Vous n’êtes pas enseignant pour moi: Je vous donne ceci: est – ce de la satire, comme vous diriez? Est – ce de la poésie? C’est de la fantaisie, toujours. Mais, je vous en supplie, ne soulignez ni du crayon, ni trop de la pensée:

LE COEUR SUPPLICIÉ
Mon triste cour bave à la poupe
………………………………
Ça ne vent pas rien dire.
Répondez – moi: chez M. Deverrière, pour A. R. Bonjour de cour,

Arth. Rimbaud


*


Gửi Paul Demeny
Ở Douai,Charleville, ngày 15 tháng năm 1871

Tôi đã quyết định cho bạn một giờ văn học mới. Tôi bắt đầu ngay bằng một thành thi có tính cách thời sự:

CHIẾN CA THÀNH PARIS
Mùa xuân đã hiển nhiên rồi, vì….
…………………………………..
A. Rimbaud

- Đây là luận thuyết về tương lai của thi ca: Tất cả thi ca thượng cổ lên đến chóp đỉnh trong thi ca Hy Lạp, cuộc sống hòa điệu. – Từ Hy Lạp đến phong trào lãng mạn, - thời trung cổ, - có những văn nhân, những thợ thơ. Từ Ennius tới Theroldus, từ Theroldus tới Casimir Delavigne, toàn là văn vần, một trò tiêu khiển, sự sa đọa yếu đuối và danh vọng của nhiều thế hệ xuẩn ngốc: Racine là đấng tinh khiết, mãnh liệt, vĩ đại . – Nếu người ta xóa thơ người, thì Thánh Gàn ngày nay cũng vô danh tiểu tốt như những tác giả đầu tiên của Khởi Nguyên. – Sau Racine, trò chơi bị bỏ xó mốc meo. Nó kéo dài hai nghìn năm.

Không đùa bỡn, không nghịch lý. Lý trí gợi cho tôi nhiều xác tín về vấn đề này nhiều hơn bất cứ một Tân - Pháp quốc nào với thịnh nộ. Vả lại những người mới tha hồ kết án tiền nhân: người ta thong dong tự tại và người ta có vô khối thì giờ.

Chưa bao giờ người ta phê phán đúng đắn phong trào lãng mạn. Những kẻ nào ắt sẽ phê phán nó? Bọn Phê Bình!! Bọn Lãng Mạn ư? Những kẻ đã chứng minh rõ rệt rằng bài hát hiếm khi là tác phẩm, nghĩa là, tư tưởng được hát lên và được hiểu bởi người ca.

Bởi vì TÔI là một kẻ khác. Nếu chất đồng bỗng một đêm thức giấc thấy mình là cái kèn đồng, thì không phải là lỗi tại nó chút nào. Điều này quá hiển nhiên đối với tôi: tôi chứng kiến sự phát tiết của tư tưởng tôi: tôi nhìn, tôi nghe nó; tôi nhấn mạnh cung đàn; hòa tấu khúc rung lên trong những niềm sâu thẳm, hay nhẩy vọt lên sân khấu.

Nếu những tên khốn khiếp ngày xưa không chỉ tìm thấy ở cái Tôi ý nghĩa sai lầm thì ngày nay chúng ta đã không phải quét đi hàng triệu bộ xương khô, từ ngày xửa ngày xưa, đã chồng chất lên thành những sản phẩm của trí thông minh thông manh của chúng, trong khi tự vỗ ngực xưng là tác giả!

Ở Hy Lạp, như tôi đã nói, thơ và thất huyền cầm đánh nhịp cho Hành Động. Sau đó, âm nhạc và thi vận là trò chơi tiêu khiển. Sự nghiên cứu thời quá khứ này quyến rũ những kẻ tò mò; nhiều kẻ thích thú phục hồi lại mỹ thuật cổ thời: - đó là công việc của họ. Tâm vũ trụ luôn luôn phóng những ý tưởng của mình ra một cách tự nhiên: người ta lượm lặt một phần của hoa trái của đầu óc này: người ta hành động bằng, người ta viết sách bằng những hoa trái ấy: sự việc tiến hành như vậy, con người không làm việc tự lực, chưa tỉnh thức, hoặc chưa mơ mộng chín mùi trong giấc mộng lớn. Nhà văn; những công bộc: tác giả, kẻ sáng tạo, thi nhân, con người đó chưa hiện hữu!

Sự nghiên cứu đầu tiên của con người muốn trở thành thi nhân là sự hiểu biết về chính hắn, toàn bộ; hắn tìm kiếm tâm hồn hắn, hắn tra xét, khảo sát, học hỏi nó. Ngay sau khi hiểu nó, hắn phải đào luyện nó! Việc đó có vẻ đơn giản: trong bất kỳ bộ óc nào một cuộc phát triển tự nhiên cũng tự viên thành; dù bao nhiêu kẻ ích kỷ tự nhận mình là tác giả thì cũng có bao người góp phần vào sự tiến bộ tinh thần của họ! – Nhưng cần phải làm tâm hồn trở nên dị thường: theo kiểu những comprachicos, nếu bạn muốn! Hãy tưởng tượng một người trồng và nuôi dưỡng những mụn cóc trên mặt mình.

Tôi nói người ta phải là tiên tri thấu thị, tự khiến mình trở thành tiên tri thấu thị.

Thi Nhân tự biến mình thành tiên tri thấu thị bằng một sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan lâu dài, rộng lớn phi thường và hợp lý. Tất cả mọi hình thức tình yêu, đau khổ, điên cuồng: hắn tìm kiếm chính hắn, hắn nuốt trọn mọi độc tố trong hắn để giữ lại tinh túy. Cực hình khôn tả trong đó hắn cần tất cả sức mạnh siêu nhân, trong đó hắn trở thành kẻ bệnh nhân vĩ đại, kẻ tội nhân vĩ đại, kẻ bị nguyền rủa vĩ đại, - và nhà Bác Học siêu phàm! – Bởi vì hắn đi tới cái vị tri! Vì hắn đã đào luyện tâm hồn, vốn phong phú hơn bất kỳ người nào! Hắn đi tới cái vị tri, và cuối cùng, phát điên, hắn mất trí không hiểu những linh tượng của hắn, ít nhất hắn cũng đã nhìn thấy chúng! Hãy để hắn chết trong cơn chấn động bởi những điều kỳ dị và không thể gọi tên: những lao công kinh khủng khác sẽ tới: họ sẽ bắt đầu từ những chân trời mà hắn quỵ xuống!

- Đoạn tiếp theo sáu phút sau - Ở tôi đây chêm vào một thánh thi thứ hai phụ bản; xin hãy ân cần lắng tai nghe, - và tất cả thế giới sẽ bị quyến rũ. – Tôi đã cầm cung đàn nơi tay, tôi xin bắt đầu:

NHỮNG CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ CỦA TÔI
Một mầu nước mắt phai nhòa.
………………………………..
A.R

Thế đó. Và lưu ý cho rằng, nếu tôi không sợ làm ông tốt hơn 60x, tiền tem, tôi, kẻ lưu đãng cố cùng, từ bẩy tháng nay, không được sờ tới một trinh – thì tôi đã gửi thêm cho ông bài “Những Tình Nhân Paris’’ của tôi, một trăm câu sáu chữ thưa ông, và bài “Paris chết’’ của tôi, gồm hai trăm câu sáu chữ!

Tôi nói tiếp:

Vậy thi nhân đúng là kẻ ăn trộm lửa.

Hắn có trách nhiệm với nhân loại, cả thú vật nữa! hắn phải làm cho những sáng tác của hắn có thể ngửi, sờ mó, nghe thấy được; nếu điều hắn ghi nhận từ nơi đó có hình thể hắn phải cho nó hình thể; nếu vô hình, hắn phải cho nó vô hình, phải tìm một ngôn ngữ; - Vả lại, mọi lời nói đều là ý tưởng, thời của ngôn ngữ đại đồng sẽ tới! Phải là một ông hàn – chết chóc hơn một vật hóa thạch – để hoàn thành một cuốn từ điển, của bất cứ ngôn ngữ nào. Những kẻ yếu đuối, bắt đầu suy tưởng về chữ đầu tiên của mẫu tự chẳng bao lâu có thể phát điên lên!

Ngôn ngữ này sẽ là ngôn ngữ của tâm hồn nói với tâm hồn, thâu tóm tất cả, hương sắc, thanh âm, tư tưởng bám lấy tư tưởng và lôi kéo. Thi nhân xác định số lượng vị trí thức tỉnh trong tâm vũ trụ ở thời đại hắn: hắn tạo tác nhiều hơn thể thức của tư tưởng hắn, hơn sự đo lường con đường đi tới Tiến Bộ của hắn! Sự phi thường trở thành bình thường [4] , hấp thụ bởi tất cả, quả thực hắn sẽ là một thừa số của tiến bộ!

Tương lai này sẽ hiện thực như ông thấy. – Luôn luôn đầy Số và Hòa Âm, những bài thơ này sẽ được làm ra để tồn tại. – Quả thực, hãy còn một chút thi ca Hy Lạp.

Nghệ thuật vĩnh cửu sẽ có chức vụ của nó, bởi thi nhân là những công dân. Thi ca sẽ không đánh nhịp cho hành động nữa, nó sẽ đi tiên phong.

Những thi nhân sẽ hiện hữu! Khi nào ách nô lệ vô cùng tận của đàn bà đổ gẫy, khi nào người đàn bà sống cho mình và tự mình, người đàn ông, - khả ố từ xưa tới nay, - đã trả lại cho người đàn bà tự do, chính người đàn bà cũng sẽ là thi nhân nữa! Người đàn bà sẽ khám phá thấy cái vị tri! Thế giới tự do của nàng có khác thế giới của chúng ta không? – Nàng tìm thấy những điều kỳ lạ, khôn lường, gớm ghê, dịu ngọt; chúng ta sẽ thu nạp, chúng ta sẽ hiểu.

Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy đòi hỏi thi nhân cái mới lạ, - nội dung và hình thức. Tất cả những kẻ quỉ quái tinh ma chẳng bao lâu tưởng có thể thỏa mãn chúng ta đòi hỏi này: - Đâu phải như vậy!

Những kẻ đầu tiên theo chủ trương lãng mạn đều là tiên tri thấu thị mà không hoàn toàn ý thức điều đó: sự đào luyện của tâm hồn họ bắt đầu một cách tình cờ: những đầu tầu hỏa bị thải đi, nhưng vẫn cháy bỏng, mà thỉnh thoảng thiết lộ còn đẩy đưa đi. – Lamartine đôi khi là tiên tri thấu thị, nhưng bị bóp nghẹt bởi hình thức cũ. – Hugo, quá cứng đầu, đích thực đã có nhiều thị kiến trong những tác phẩm cuối cùng: Les Misérables đúng là một bài thơ. Tôi có bộ Les Châtiments bên mình; Stella gần cho thấy giới hạn của thị lực của Hugo. Quá nhiều tính chất Belmontet và Lamenais. Jehovahs và đội ngũ, những kẻvĩ đại già cỗi đã chết.

Musset đáng ghét gấp mười bốn lần hơn đối với chúng ta, những thế hệ đau khổ bị ảo tưởng lôi cuốn, mà sự làm biếng thần thánh của hắn là một sự sỉ nhục! Ôi những tiểu thoại và những châm ngôn nhạt nhẽo! Ôi những Nuits! Ôi Rolla, ôi Namouna, ôi la Coupe! Tất cả đều có tính chất Pháp quốc, nghĩa là đáng ghét đến cùng độ; tính chất Pháp quốc chứ không phải parisien! Còn một tác phẩm nữa của thiên tài khả ố này đã làm hứng khởi Rabelais, Voltaire, Jean La Fontaine, chú giải bởi Ô. Taine! Tươi như hoa xuân, cái tinh thần của Musset! Quyến rũ, tình yêu của hắn! Đó là hội họa đồ sứ, thi ca vững bền trường cửu! Thi ca Pháp sẽ được thưởng thức lâu dài, nhưng chỉ ở Pháp. Tất cả mọi cậu bé bán hàng đều có thể gỡ rối phép hô khởi Rolla, tất cả mọi chủng sinh đều có năm trăm vần thơ giấu kín trong sổ ghi. Ở tuổi mười lăm, những xung động của đam mê khiến những thanh niên động cỡn: ở tuổi mười sáu, họ đã bằng lòng đọc thuộc lòng với tất cả tâm tình, ở tuổi mười tám, ngay cả ở tuổi mười bẩy, tất cả mọi học sinh trung học cơ phương sách làm Rolla đều viết một cuốn Rolla! Có thể có vài kẻ còn chết được vì nó nữa. Musset không biết làm gì cả: có những linh tượng sau tấm vải mỏng của màn cửa: hắn nhắm mắt. Dân Pháp, èo ượt, lê lết từ quán rượu tới phòng học, thi thể mỹ miều đã chết thực và, từ nay chúng ta chẳng mất công đâu đánh thức nó với sự ghê tởm của chúng ta!

Lớp lãng mạn thứ nhì đúng là những tiên tri thấu thị; Théophile Gautier, Leconte de Lisle, Théodore de Banville. Nhưng thám sát cái không thể thấy và lắng nghe cái chưa từng nghe hoàn toàn khác việc lấy lại tinh thần những sự việc đã chết, Baudelaire là một tiên tri thấu trị đầu tiên, vua của những thi nhân, một Thượng Đế đích thực. Tiếc thay ông sống trong một môi trường quá nghệ sĩ và hình thức được tán dương quá đáng nơi ông hèn mọn chứ không có chi đặc sắc. Những khám phá cái vị trí đòi hỏi những hình thức mới.

Đoạn tuyệt những hình thức cũ – trong đám những kẻ ngây thơ. A. Renaud, - đã thực hiện tác phẩm Rolla của mình; - L. Grandet, - đã thực hiện những tác phẩm Rolla của mình; - L, Grandet, - đã thực hiện những tác phẩm Rolla của mình; - những tên gaulois và những tên Musset, G. Lafenestre, Coran, Cl. Popelin, Soulary, L. Salles; những tên học trò, Marc, Aicard, Theuriet; những đã kẻ chết và và những tên khốn khiếp, Autran, Barbier, L. Cladel, Robert Luzarches, X. de Aicard; những tên nghệ sĩ ngông, C. Mendès; những tên lưu đãng; những mụ đàn bà; những tên có tài, Léon Dierx và Sully - Prudhomme, Coppée, - trường phái mới, gọi là thi sơn, có hai tiên tri thấu thị, Albert Mérat và Paul Verlaine, một thi nhân đích thực. Vậy đó.

Bởi thế tôi làm để khiến mình trở thành tiên tri thấu thị. – Và chúng ta kết thúc bằng một bài ca thành kinh.

NGỒI XỔM
Đêm khuya, khi chàng cảm thấy dạ dầy nôn nao.
………………………………………………….

Ông sẽ đáng ghét vô cùng nếu không trả lời: trả lời ngay, bởi vì có thể tám ngày nữa, tôi đã ở Paris rồi.
Tạm biệt.
A. Rimbaud.


À Paul Demeny
à Douai

Charleville, 15 mai 1871

J’ ai résolu de vous donner une heure de littérature nouvelle. Je commence de suite par un psaume d’actualité:

CHANT DE GUERRE PARISIEN
Le printemps est evident, car…
…………………..
A. Rimbaud.

- Voici de la prose sur l’avenir de la poésie: - Toute poésie antique aboutie à la poésie greeque. Vie harmonieuse . – De la Grèce au mouvement romantique, - moyen âge, - il y a des lettrés, des versificateurs. D’Ennius à Theroldus, de Theroldus à Casimir Delavigne, tout est prose rimé un jeu, avachissement et gloire d’inombrables générations idiotes: Racine est le pur, le fort, le grand. – On eût, soufflé sur ses rimes, brouillé ses hémistiches, que le Divin Sot serait aujourd’hui aussi ignoré que le premier venu auteur d’ Origines. – Après Racine, le jeu moisit. Il a duré deux mille ans!

Ni plaisanterie, ni paradoxe. La raison m’inspire plus de certitudes sur le sujet que n’aurait jamais eu de colère un Jeune France. Du reste, libre aux nouveaux d’exécrer les ancêtres: on est chez soi et l’on a le temps.

On n’a jamais bien jugé le romantisme. Qui aurait jugé? Les Critiques!! Les Roman tiques? Qui prouvent si bien que la chanson est si peu souvent l’œuvre, c’est – à- dire la pensée chantée et comprise du chanteur?

Car JE est un autre. Si le cuivre s’éveille clairon, il n’y a rien de sa faute. Cela m’est évident: j’assiste à l’éclosion de ma pensée: je la regarde, je l’écoute: je lance un coup d’archet: la symphonie fait son remuement dans les profondeurs, ou vient d’un bond sur la scène.

Si les vieux imbéciles n’avaient pas trouvé du Moi que la signification fausse, nous n’aurions pas à balayer ces millions de squelettes qui, depuis un temps infini, ont accumulé les produits de leur intilligence borgnesse, en s’en clamant les auteurs!

En Grèce, ai – je dit, vers et lyres rhythment l’Action. Après. Musique et rimes sont jeux, délassements. L’étude de ce passé charme les curieux: plusieurs s’ejouissent à renouveler ces antiquités: - c’est pour eux. L’intelligence universelle a toujours jeté ses idées naturellement; les hommes ramassaient une partie de ces fruits du cerveau: on agissait par, on en ecrivait des livres: telle allait la marche, l’homme ne se travaillant pas, n’étant pas encore éveillé, ou pas encore dans la plénitude du grand songe. Des fonctionnaires, des ecrivains: auteur, créateur, poète, cet homme n’a jamais existé!

La première étude de l’homme qui veut être poète est sa propre connaisance, entière; il cherche son âme, il l’inspecte, il la tente, l’apprend. Des qu’il la sait, il doit la cultiver: cela semble simple: en tout cerveau s’accomplit un développement naturel, tant d’égoistes se proclament auteurs: il en est bien d’autres qui s’attribuent leur progrès intellecture! – Mais il s’agit de fair l’âme monstrueuse: à l’instar des comprachicos, quoi! Imaginez un homme s’implantant et se cultivant des verrues sur le visage.

Je dis qu’il faut être voyant, se faire voyant.

Le Poète se fait voyant par un long, immense et raisonné dérèglement de tous les sens. Toutes les formes d’amour, de souffrance, de folie; il cherche lui même, il épuise que les tous les poisons, pour n’en garder que les quintessences Ineffable torture où il besion de toute la foi, de toute la force surhumaine, où il devient entre tous le grand malade, le grand criminel, le grand maudit, - et le suprême Savant! – Car il arrive à l’inconnu! Puisqu’il a cultive son âme, déjà riche, plus qu’aucun! ll arrive à l’inconnu et quand, affolé, il finirait par perdre, l’intelligence de ses visions, il les a vues! Qu’il crève dans son boudissement par les choses inoures et innommables: viendront d’autres horriblé travailleurs; ils commenceront par les horizons où l’autre c’est affaissé!

- la suite à six minutes –

Ici j’intercale un second psaume, hors du texte: veuillez tendre une oreille complaicante, - et tout le moude sera charmé – J’ai l’archet en main, je commence:

MES PETITES AMOUREUSES
Un hydrolat lacrymal lave…
…………………………..
A. R

Voilà. Et remarquez bien que, si je ne eraignais de vous faire débourser plus de 60 c. de port, - moi pauvre effaré qui, depuis sept mois, n’ai pas tenu un seul rond de bronze! – je vous livrais encore mes “Amants de Paris’’, cent hexamètres, Monsieur, et ma “Mort de Paris’’, deux cents hexamètres!

Je reprends:

Done le poète est vraiment voleur de feu.

ll est chargé de l’humanité, des animaux même; il devra faire sentir, palper, écouter ses inventions; si ce qu’il rapporte de là – bas a forme, il donne forme; si c’est informe, il donne de informe. Trouver une langue; - Du reste, toute parole étant idée, le temps d’un langage universel viendra! ll faut être académicien, - plus mort qu’un fossile, - pour parfaire un dictionnaire, de quelque langue que ce soit. Des faibles ce mettraient à penser sur la première lettre de l’alphabet, qui pourraient vile ruer dans la folie!

Cette langue sera de l’âme pour l’âme, résumant tout, parfums, sons, couleurs, de la pensée accrochant la pensée et tirant. Le poète définirait la quantité d’inconnu s’éveillant en son temps dans l’âme universelle: il donnerait plus que la formule de sa pensée, que l’annotation de sa marche au Progrès ! Énormité devenant norme, absorbée par tous, il serait vraiment un multiplicateur de progrès!

Cet avenir sera matérialiste, vous le voyez; - Toujour pleins du Nombre et de l’Harmonie, ces poèmes seront faits pour rester. – Au fond, ce serait encore un peu la Poésie grècque.

L’art éternel aurail ses fonctions, comme les poetes sont citoyens. La Poésie ne rhythmera plus l’action; elle sera en avant.

Ces petes seront! Quand sera brisé l’infini servage de la femme, quand elle vivra pour elle et par elle, l’homme, - jusqu’ici abominable, - lui ayant donné son renvoi; elle sera poete, elle aussi! La femme trouvera de l’inconnu! Ses mondes d’idées différeront – ils des notres? – Elle trouvera des choses étranges, insondables, repousantes, délicieuses; nous les prendrons, nous les comprendrons.

En attendant, demandons aux poètes du nouveau, - idées et formes. Tous les habiles croiraient bientôt avoir satisfait à cette demande: - Ce n’est pas cela!

Les premièrs romantiques ont été voyants sans trop bien s’en rende compte; la culture de leurs âmes s’est commencée aux accidents: locomotives abandonnées, mais brûlantes, que prennent quelque temps les rails. – Lamartine est quelquefois voyant, mais étranglé par la forme vieille. – Hugo, trop cabochard, a bien du vu dans les derniers volumes: Les Châtiment sont un vrai poème. J’ai Les Châtiments sous main; Stella donne à peu près la mesure de la vue de Hugo. Trop de Belmontet et de Lamennais, de Jéhovahs et de colonnes, vieilles énormités crevées.

Musset est quatorze fois exécrable pour nous, générations douloureuses et prises de visions –que sa paresse d’ange a insultées! Ô ! les contes et les proverbess fadasses! Ô les Nuit! Ô Rolla, Ô Namouna, Ô la Coupe! Tout est français, c’est – à – dire haissable au suprême degré; français, pas parisien! Encore une œuvre de cet odieux génie qui a insprié Rabelais, Voltaire, Jean La Fontaine! Commenté par M. Taine! Printainier, l’esprit de Musset! Charmant, son amour! En voilà, de la peinture à l’émail, de la poésie solide! On savourera longtemps la poésie française, mais en France. Tout garçon épicier est en mesure de déhobiner une apostrophe Rollaque, tout séminariste emporte les cinq cents rimes dans le secret d’un carnet. A quinze ans, ces élans de passion mettent les jeunes en rut; à seize ans, ils se contentent dèjà de les réciter avec cœur; à dix – huit ans, à dix – sept même, tout collégien qui a le moyen fait le Rolla, écrit un Rolla! Quelques uns en meurent peut – être encore. Musset n’a rien su faire: il y avait des visions derrière la gaze des rideaux: il a fermé les yeux. Francais, panadis, traîné de l’estaminet au pupitre de collége, le beau mort est mort, et, désormais, ne nous donnons même plus la peine de le réveiller par nos abominations!

Les seconds romantiques sont très voyants: Theophile Gautier, Leconte de Lisle, Théodore de Banville. Mais inspecter l’invisible et entendre l’inoui étant autre chose que reprendre l’esprit des choses mortes, Baudelaire est le premier voyant, roi des poetes, un vrai Dieu. Encore a – t – il vécu dans un milieu trop artiste; et la forme si vantée en lui est mesquine. Les inventions d’inconnu réclament des formes nouvelles.

Rompue aux formes vieilles, - parmi les innocents, A. Renaud, - a fait son Rolla; I. Grandet, a- fait son Rolla;- les gaulois et les Mussets, G. Lafenestre, Coran, Cl. Poipelin, Soulary, L. Salles; les écoliers, et les imbéciles, Autran, Barbier, L. Pichat, Lemoyne, les Deschamps, les Des Essarts; les journalistes, L. Cladel, Robert Luzarches, X. de Ricard; les fantaisistes, C. Mendès; les bohèmes; les femmes; les talents, Léon Dierx, Sully – Prudhomme, Coppée; - la nouvelle école, dite parnassienne, a deux voyant, Albert Mérat et Paul Verlaine, un vrai poète. – Voilà.

Ainsi je travaille à me rendre voyant. – Et finissions par un chant pieux.

Accroupissements

Bien tard, quand il se sent l’estonmac écocuré,
…………………………………………………
Vous seriez exécrable de ne pas répondre; vite, car dans huit jours, je serai à Paris, peut – être.

Au revoir,
A. Rimbaud.



*


Gửi gia đình

Harar, 4 tháng năm 1881

Gia đình mến,

Ở bên ấy đang là mùa hè, và ở bên này là mùa đông, nghĩa là trời khá nóng, nhưng mưa luôn. Thời tiết này còn kéo dài vài tháng nữa.

Trong vòng sáu tháng nữa sẽ tới mùa hái café.

Phần tôi, tôi tính sắp rời tỉnh này để đi buôn bán trong vùng đất lạ. Có một cái hồ lớn cách đây dăm ngày đường và đó là xứ ngà voi: tôi sắp cố gắng đi tới. Nhưng xứ đó chắc phải thù nghịch lắm.

Tôi sắp mua một con ngựa và ra đi. Trong trường hợp sự việc hung hiểm và tôi ở lại đó, tôi xin báo trước cho gia đình rõ là tôi có một số tiền bẩy lần 129 roupie thuộc về tôi gửi ở phân cục Aden, và gia đình cứ việc đòi nếu thấy bõ công.

Gửi cho tôi xin một số báo nào đó cũng được nói về việc công để tôi biết qua tình hình. Có phải người ta làm việc ở Panama không?

Hãy viết cho Ô. Wurster và Cty giám đốc xuất bản ở Zurich, Thụy Sĩ và yêu cầu họ gửi ngay cho nhà cuốn “Chuyên Thư Du Lịch” của Ô. Kaltbrünner, theo thể thức lãnh hóa giao ngân hay cách nào cũng được tùy ý ông ta. Cũng xin gửi cho cuốn “Xây cất ở biển” của Bonniceau, nhà sách Lacroix.

Gửi cho phân cục Aden.

Chúc gia đình an khang. Bái biệt.

A. Rimbaud


Aux Siens

Harar, 4 mai 1881.

Chers amis,

Vous êtes en été, et c’est l’hiver ici, c’est – à – dire qu’il fait assez chaud, mais il pleut souvent. Cela va durer quelques mois.

La récolte du café aura lieu dans six mois.

Pour moi, je compte quitter prochainenment cette ville – ci pour aller trafiquer dans l’inconnu. ll y a un grand lac à quelques journées, et c’est en pays d’ivoire: je vais tâcher d’y arriver. Mais le pays doit être hostile.

Je vais acheter un cheval et m’en aller. Dans le cas où cela tournerait mal, et vue j’y reste, je vous préviens que j’ai une somme de 7 fois 150 roupie m’ appartenant déposé à l’agence d’ Aden, et que vous réclamerez, si ça vous semble en valoir la peine.

Envoyez – moi un numéro d’un journal quelconque de travaux publics que je sache ce qui se passe. Est – ce qu’on travaille à Panama?

Écrivez à MM Wurster et Cie, éditeurs à Zurich, Suissse, et demandez de vous envoyer de suite la Manuel du Voyageur, par M. Kaltbrünner, contre remboursement on comme il lui plaira. Envoyez aussi les Constructions à la mer par Bonniceau, librairie Lacroix.

Expédiez à l’agence d’Aden.
Portez – vous bien. Adieu.

A. Rimbaud



[1]Thời của những kẻ giết người, Nghiên cứu về Rimbaud, Hồng Hà xuất bản.
[2]Thơ Bùi Giáng
[3]cf. Henry Miller, Sđd, tr. 96
[4]Hay cực đại trở thành quy phạm nguyên tắc

Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.

con duong sang tao

22.8.2006
Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
William Faulkner

Sứ mệnh của nhà văn


Giới thiệu

1.

William Faulkner sinh năm 1897 tại New Albany, Mississipi. Ít lâu sau gia đình ông dọn tới Oxford, nơi cậu Falkner (không có “u”), dầu đọc sách rất rộng, thi trượt trung học. Năm 1918 ông gia nhập Không Quân Hoàng Gia Gia Nã Đại. Bị thương nhẹ, ông trở về đi học đại học lại rồi bỏ dở.

Được Sherwood Anderson khuyến khích, Faulkner viết Soldier’s Pay, (1926), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông được nhiều người đọc là cuốn Sanctuary (1931), một cuốn sách kích động ông viết sau Mosquitoes (1927), Sartoris (1929), The Sound and the Fury (1929) và As I Lay Dying (1930). Một loạt tiểu thuyết kế tiếp tạo thành Yoknaptawpha huyền sử: Light in August (1932), Pylon (1935), Absalom, Absalom! (1936) The Unvanquished (1938), The Wild Palms (1939), The Hamlet (1940) và Go Down Moses (1941), Những tác phẩm quan trọng của ông sau Thế Chiến II là: Intruder in the Dust (1948), A Fable (1954) và The Town (1957). William Faulkner được giải thưởng Nobel văn chương năm 1949.

Tất cả những nhân vật của Faulkner đều cảm nghiệm sự quyến rũ của bất hạnh, của suy đồi hay của cái chết. Những nhân vật lớn của Faulkner đều có thái độ nhẫn nhục khôn ngoan của nhân vật Sophocle. Khuất lụy định mệnh, chấp nhận định mệnh khốc liệt một cách thầm lặng, gánh tất cả gánh nặng quá khứ, một cách gan góc. Can trường, rộng lượng, lương thiện, dịu dàng, đau khổ, nhẫn nại và kiêu hãnh vươn thẳng lên sau giông tố, là điều Faulkner muốn truyền đạt qua tác phẩm của ông. Vì lẽ đó ông ca ngợi những người da đen, những nông dân, những kẻ ngây dại, những trẻ em, những kẻ sống bằng bản năng, những kẻ nghèo khó, những kẻ tin vào cuộc đời, vào tình người, vào quá khứ. Bởi họ sẽ tồn tại như cỏ già trên sa mạc cằn khô.


2.

“Con người là tổng số của những nỗi bất hạnh của hắn. Người ta có thể nghĩ rằng nỗi bất hạnh một ngày kia sẽ kết liễu bằng cách mỏi mòn đi, nhưng lúc đó chính thời gian lại trở thành nỗi bất hạnh của ta” (a man is the sum of his misfortunes. One day you’d think misfortune would get tired, but then time is your misfortune…)

Tư tưởng thường được trích dẫn trên trong cuốn Âm thanh và cuồng nộ khiến người ta hiểu lầm Faulkner rất nhiều. Tiểu thuyết Faulkner không riêng gì cuốn Sanctuary chính là “sự thâm nhập của bi kịch Hy Lạp vào tiểu thuyết trinh thám” (l’intrusion de la tragédie grècque dans le roman policier) như nhận xét của Malraux. Có lẽ phải nói đó là một cuộc phục hồi và canh tân của Bi Kịch.


3.

Bàn về tác dụng của bi kịch, Aristote chỉ nói đúng một nửa khi nhận định rằng trong bi kịch đó có mầm kinh hoàng và bi thương, Schopenhauer cũng chỉ đúng bán phần khi cho rằng bi kịch dậy người ta nhẫn nhục. Không, bi kịch là một cái gì khác thế và hơn thế nữa. Nếu Aristote có lý thì bi kịch sẽ là một nghệ thuật tai hại cho cuộc đời; ta phải đề phòng chống lại nó như một nguy hại chung và như một nỗi ô nhục. Nghệ thuật thông thường là kích thích mãnh liệt của cuộc đời, một nỗi say sưa cuộc đời, một ý chí sống, trong trường hợp này lại phục vụ cho sự đồi bại, phục vụ cho bi quan chủ nghĩa nguy hại cho sức khỏe chung. [1] Nếu Schopenhauer có lý thì bi kịch lúc đó sẽ là một hiện tượng phân hóa, băng hoại. “Bi kịch sẽ là một triệu chứng suy đồi” (Sđd.)

Bi kịch, theo Nietzsche, trước hết là một phương thuốc phòng ngừa, “một cuộc chủng đậu chống lại định mệnh không thể tránh khỏi” (eine Inoculation des unvermeidlichen Schicksals). Từng chút, từng chút một, qua bi kịch, cảm xúc bi tráng được tiêm nhiễm, trồng độc vào trong chúng ta, để sửa soạn cho chúng ta sẵn sàng đón nhận những mối kinh hoàng thật có. [2] Và để chúng ta thấu hiểu định mệnh thê thảm bao la chung của con người mà trên đó những nỗi đau khổ của ta chỉ là một phần tử rất nhỏ, để chúng ta thấy rõ rằng tất cả những nỗi đau khổ của cuộc đời chúng ta chỉ triệt tiêu khi chúng gia tăng và bằng mẫu số chung, nghĩa là khi con người phóng lớn định mệnh riêng tư đến độ tương đồng trùng khít với định mệnh con người.

Vì hiểu mệnh là yêu mệnh
Amor fati
hiểu mệnh là giải mệnh
understanding destiny is its undoing [3]

Chuyến xe luân lạc chở người truân chuyên chỉ dừng lại khi người bạc mệnh bằng lòng nhận phận.


4.

Faulkner còn đi xa hơn nữa. Con người không những phải nhẫn nhục chấp nhận định mệnh, con người còn phải chiến thắng cả định mệnh nữa.

Và nâng đỡ con người và khuyến khích con người trong cuộc chiến đấu để sinh tồn và trường tồn ghê gớm này là chức vụ của nhà văn. Nhà văn không được chiều theo sự yếu đuối và sa đọa của con người. Không thể có một thứ nghệ thuật hư vô. Không thể có một thứ nghệ thuật đòi chết. Không thể có một thứ nghệ thuật bi quan. Nghệ thuật bao giờ cũng phải khẳng định.

It n’y a pas d’art pessimiste… L’art affirme.
Nietzsche, Volonté de Puissance, II 460.


5.

Như thế nghĩa là Nhà Văn không được nói về cô đơn; hắn phải nói về cô đơn và sức mạnh. Nhà văn không được nói về đau khổ; hắn phải nói về đau khổ và giải thoát. Nghĩa là hắn phải trình bầy “Cuộc Đời Toàn Diện”. Và hắn không được nói về trái cật thay vì trái tim Hắn phải nói về trái cật để bổ túc trái tim. Hắn không được nói về tình dục thay vì tình yêu. Hắn phải nói về tình dục để hỗ trợ tình yêu. Hắn không được nói về sa đọa thay vì thánh thiện. Hắn phải nói về sa đọa như một cám dỗ của thánh thiện và như một bước đầu của trưởng thành. Nghĩa là hắn phải nói về “Con Người Toàn Diện” vậy.


6.

Nghệ thuật là phải đến cùng, (L’art consiste à aller jusqu’à bout – Henry Miller). Nhà văn không được bỏ nhân vật của mình bơ vơ giữa mê lộ. Hắn phải đẩy con người tới tận cùng giới hạn của nó và cho thấy rằng ngoài vòm trời này còn có những vòm trời khác và tất cả mọi con đường, nếu được theo đuổi đến cùng kiệt, đều dẫn tới thiên đàng. Một thiên đàng thích hợp với ước vọng và kích thước của mỗi người.


7.

Chính trong thời gian đau ốm, chúng ta không được phép bi quan [4] . Cũng vậy chính trong thời đại bi thảm, chúng ta phải chấm dứt mọi triết lý bi đát. Đó là sự đề kháng cần thiết. Đoạn văn dưới đây không phải chỉ là đoạn mở đầu tầm thường của một cuốn “dâm thư” bị lên án nhiều lần ở đầu thời đại chúng ta. Nó phải được coi là một phương châm.

“Thời đại chúng ta cốt yếu là một thời đại bi thảm, bởi thế chúng ta từ chối coi nó một cách bi thảm. Cuộc đại biến động đã xẩy ra, chúng ta đang ở giữa những đổ nát, chúng ta bắt đầu xây dựng những nơi cư trú nhỏ bé mới, có những hy vọng nhỏ bé mới. Đó là công việc khó nhọc nhằn: bây giờ không có một con đường bằng phẳng nào dẫn tới tương lai: nhưng chúng ta đi vòng quanh hay bò qua những trở ngại. Chúng ta phải sống, thây kệ biết bao nhiêu bầu trời đã sụp.”

(Ours is essentially a tragic age, so we refuse to take it tragically. The cataclysm has happened, we are mong the ruins, we start to build up new little habitats, to have new little hopes. It is rather hard work: there is now no smooth road into the future; but we go round, of scramble over the obstacles. We’ve got to live, no matter how many skies have fallen.)
D.H. Lawrence, Lady Chatterley’s Lover, p.1.


8.

Khuyến khích con người rằng: Chúng ta phải sống, thây kệ biết bao nhiêu bầu trời đã sụp. (II faut bien que nous vivions, malgré la chute de tant de cieux.)

Là cứu cánh của nghệ thuật. Đó cũng là vinh quang, lao khổ và nhục nhằn của nhà văn, bởi trước ai hết, hắn phải cảm nghiệm sự phá sản của những giá trị mà thời đại hắn đang tôn sùng, xuống đến cùng đáy tuyệt vọng bởi sự sụp đổ của những bầu trời cũ, và cũng trước ai hết, hắn phải gợi lại những chân lý cổ xưa đồng thời sáng tạo những giá trị mới, tạo dựng những chân trời mới làm phương châm, làm hành trang, làm thực phẩm cho những thế hệ tương lai, giúp con người đủ sức chịu đựng và chiến thắng.

Đó chính là sứ mệnh cao cả của nhà văn.


*


Sứ mệnh

I feel that this award was not made to me as a man but to my work – a life’s work in the agony and sweat of the human spirit, not for glory and least of all for profit, but to create out of the materials of the human spirit something which did not exist there before. So this award is only mine in trust. It will not be difficult to find a dedication for the money part of it commensurate with the purpose and significance of its origin. But I would like to do the same with the acclaim too, by using this moment as a pinnacle from which I might be listened to by the young men and women already dedicated to the same anguish anh travail, among whom is already that one who will some day stand here where I am standing.

Our tragedy today is a general and universal physical fear so long sustained by now that we can even bear it. There are no longer problems of the spirit. There is only the question: When will I be blown up? Because of this, the young man or woman writing today has forgotten the problems of the human heart in conflict with itself which alone can make good writing because only that is worth writing about, worth the agony and the sweat.

He must learn them again. He must teach himself that the basest of all things is to be afraid; and, teaching himself that, forget it forever, leaving no room in his workshop for anything but the old verities, and truths of the heart, the old universal truths lacking which any story is ephemeral and doomed – love and honor and pity and pride and compassion and sacrifice. Until he does so he labors under a curse. He writes not of love but of lust, of defeats in which nobody loses anything of value, of victories without hope and, worst of all, without pity or compassion. His griefs grieve on no universal bones, leaving no scars. He writes not of the heart but of the glands.

Until he relearns these things he will write as though he stood among and watched the end of man. I decline to accept the end of man. It is easy enough to say that man is immortal simply because he will endure; that when the last ding-dong of doom has clanged and faded from the last worthless rock hanging tideless in the last red and dying evening, that even then there will still be one more sound: that of his puny inexhaustible voice, still talking. I refuse to accept this. I believe that man will not merely endure: he will prevail. He is immortal, not because he alone among creatures has an inexhaustible voice, but because he has a soul, a spirit capable of compassion and sacrifice and endurance. The poet’s, the writer’s duty is to write about these things. It is his privilege to help man endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor and hope and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the glory of his past. The poet’s voice need not merely be the record of man, it can be one of the props, the pillars to help him endure and prevail.


Sứ mệnh của nhà văn

Tôi cảm thấy rằng giải thưởng này không được trao cho tôi với tư cách một con người nhưng cho tác phẩm của tôi – tác phẩm một đời tạo tác trong khắc khoải và lao khổ của tinh thần con người, không phải vì lợi lộc mà là sáng tạo từ những chất liệu của tinh thần con người một cái gì chưa từng có đó trước kia. Bởi thế giải thưởng này chỉ là giải thưởng của tôi trong kỳ vọng. Tìm cách cung hiến số tiền trích từ giải thưởng này cho tương xứng với mục đích và ý nghĩa khởi nguyên của nó không phải là việc khó khăn. Nhưng tôi cũng muốn xử sự tương tự như vậy với lời hoan hô nồng nhiệt, bằng cách dùng giây phút này như một chóp đỉnh từ đó tôi có thể được lắng nghe bởi những thanh niên và phụ nữ đã sẵn sàng hiến mình cho sự khắc khoải và lao khổ tương tự, giữa những người đó chắc chắn đã sẵn có một người một ngày kia sẽ đứng nơi tôi đang đứng hôm nay đây.

Thảm kịch của chúng ta hôm nay là sự sợ hãi vật chất chung và phổ quát đến nay đã được chịu đựng quá lâu đến nỗi chúng ta vẫn còn có thể chịu đựng nổi. Không còn có những vấn đề tinh thần nữa. Chỉ còn có một vấn đề duy nhất: Chừng nào thì tôi sẽ bị nổ tung đây? Bởi lẽ đó, người thanh niên hay phụ nữ viết lách hôm nay đã quên mất những vấn đề của tâm hồn con người giao chiến với chính nó, điều duy nhất tạo nên tác phẩm hay bởi vì duy điều đó đáng viết, đáng khắc khoải và lao tâm khổ trí.

Hắn phải học lại những vấn đề ấy lần nữa. Hắn phải tự dậy hắn rằng điều đê tiện nhất trong hắn rằng, hãy quên nó đi mãi mãi, đừng để một khoảng trống nào trong phòng làm việc hắn cho bất cứ điều gì ngoài những chân lý và sự thực xưa cũ của tâm hồn, những sự thực phổ quát cổ điển mà thiếu chúng bất cứ câu chuyện nào cũng chỉ có tích cách phù phiếm và đáng trách bị - đó là tình yêu và danh dự và từ bi và kiêu hãnh và bác ái và hy sinh. Cho đến khi nào làm như vậy hắn tiếp tục làm việc quần quật dưới một lời nguyền rủa. Hắn không viết về tình yêu mà viết về tình dục, về những sự thất bại mà không ai mất mát mảy may gì có giá trị, về những cuộc chiến thắng không hy vọng và tệ hơn cả không từ bi hay bác ái. Những nỗi phiền muộn của hắn không hằn sâu trên một lóng xương nhân loại nào, không để lại một vết sẹo nào. Hắn không viết về trái tim mà viết về trái cật.

Cho đến khi nào hắn học lại những điều đó, hắn sẽ viết như thể hắn đứng giữa đám đông và ngắm nhìn sự tàn lụi của con người. Tôi từ chối không chấp nhận sự tàn lụi của con người. Thật khá dễ dàng khi nói rằng con người bất tử chỉ vì nó sẽ chịu đựng, rằng khi tiếng chuông tận thế cuối cùng vang rền và tiêu tan từ mỏm đá cheo leo vô giá trị không dòng nước muộn tới viếng trong ánh chiều tà le lói cuối cùng, rằng ngay cả khi đó nữa vẫn còn có một âm thanh; đó là tiếng nói mong manh không thể dập tắt hãy còn tiếp nối. Tôi khước từ không chấp nhận điều này. Tôi tin rằng con người không những chịu đựng; nó sẽ chiến thắng nữa. Nó bất tử, không phải vì giữa muôn sinh vât một mình nó có tiếng nói không thể dập tắt được mà bởi vì nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng bác ái và hy sinh và chịu đựng. Bổn phận của thi sĩ, của nhà văn, là viết về những điều này. Đặc ân của hắn là giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn con người, bằng cách nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và hy vọng và kiêu hãnh và bác ái và từ bi và hy sinh đã là vinh quang huy hoàng của quá khứ nó. Tiếng nói của thi sĩ không cần chỉ là bia kỷ niệm ghi dấu con người, tiếng nói đó còn có thể là một trong những vật chống đỡ, những cột trụ giúp cho con người chịu đựng và chiến thắng nữa.



[1]Nietzsche, Der Wille zur Macht.
[2]Cf. Charles Andler; Nietszche, sa vie et sa pensés, t. I p. 45 f.f. Schiller
[3]Jean Pouillon, Time and Destiny in Faulkner.
[4]Nietzsche, Ecce Homo
Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của dịch giả.























23.8.2006
Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu

Friedrich Nietzsche

Ba biến thái con đường của kẻ sáng tạo


Giới thiệu

“Tôi là con người tiền định chỉ định những giá trị cho muôn ngàn năm. Một người ẩn khuất, bị thúc bách đủ trăm chiều, một người không hoan lạc, đã khước từ mọi tổ quốc, mọi nghỉ ngơi” (Der Wille zur Macht).

Nhận định trên thâu tóm cả cuộc đời và tư tưởng Nietzsche, một trong những triết gia vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng Tây phương, một khuôn mặt định mệnh, cưỡng bách ta phải có những quyết định tối hậu, một người mà tên tuổi một ngày kia sẽ nối kết với những kỷ niệm của một biến cố khủng khiếp, “kỷ niệm của một cơn khủng hoảng độc nhất trong lịch sử của trái đất, của cuộc xô xát sâu xa giữa những ý thức, một nghị quyết chống lại tất cả những gì đã được tin tưởng, yêu sách và thần thánh hóa từ xưa tới nay” (Ecce Homo). Biến cố đó, cơn khủng hoảng đó, cuộc xô xát đó là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị” Nietzsche đã thực hiện. Và hiện thân lý tưởng của sự đảo hoán giá trị Nietzsche gọi là kẻ Sáng tạo (der Schaffende). Nietzsche đã khai chiến chống lại siêu hình học, chống lại tư tưởng trừu tượng về hữu thể. Nietzsche thay thế hữu thể học bằng giá trị học (axiologie). Ông khước từ khái niệm, chủ thuyết duy lý, sự áp chế thực tại của tư tưởng, sự đầu độc cuộc đời của luân lý, tôn giáo, sự nghèo nàn và bất lực hóa con người của Thượng Đế. Ông muốn đòi lại coi như sở hữu và sản phẩm của con người tất cả vẻ đẹp, tất cả sự cao quí mà con người đã cho những sự vật thực hay tưởng tượng vay mượn. “Con người trong vai trò thi sĩ, tư tưởng gia, Thượng Đế, tình yêu, sức mạnh – ôi! Hắn đã lạc quyên cho sự vật, để tự làm nghèo mình đi và cảm thấy khốn khổ với lòng đại lượng vương giả xiết bao! Sự khắc kỷ lớn lao nhất của hắn, cho đến giớ, khi hắn ngưỡng mộ hay tôn thờ, là biết giấu đi không cho mình hay rằng chính hắn đã sáng tạo cái mà hắn tôn thờ ngưỡng mộ” (Der Wille zur Macht). Vì “Con người đã cho sự vật giá trị, để tự bảo tồn; chính hắn đã cho sự vật một ý nghĩa – một ý nghĩa nhân loại. Vì lẽ đó hắn được gọi là người – kẻ thẩm định giá trị”.

Thẩm định giá trị là sáng tạo (Schätzen ist schaffen) (Also sprach Zarathustra). Nếu không có sự sáng tạo này “cuộc đời chỉ là một trái hồ đào rỗng ruột”. Vì cuộc sống không ngừng nên sự sáng tạo cũng phải không ngừng và triệt để. Cái mà chúng ta gọi là thế giới, là cuộc đời, chúng ta phải bắt đầu bằng cách sáng tạo nó: lý trí chúng ta, óc tưởng tượng của chúng ta, ý chí chúng ta, tình yêu chúng ta phải trở thành thế giới ấy, cuộc đời ấy! Trước hết những kẻ sáng tạo là những cá nhân. Luôn luôn kẻ tình nhân và kẻ khổ đau sáng tạo. Lửa yêu thương, lửa hận thù, lửa sưởi ấm tâm hồn cháy đỏ trong mọi giá trị. “Cái gì đã cho sự vật mượn một ý nghĩa, một giá trị, một ý vị?” Trái tim đã sáng tạo, đã khát vọng và đã sáng tạo bởi khát vọng. Nó đã tạo ra lạc thú và đau khổ. Nó muốn phiền não chán chê. Chúng ta phải cảm nghiệm và chấp nhận mọi khổ đau mà người và vật đã từng chịu đựng, và chúng ta phải có một mục đích để cho sự khổ đau có một ý nghĩa”. Không những thế chúng ta còn phải “Tạo khổ đau”. Cho mình và cho người khác để khiến họ “có thể vươn tới một cuộc sống cao cả, cuộc sống của kẻ chiến thắng”.

Con đường sáng tạo là con đường cô đơn, trắc trở; trải qua nhiều hóa thân.

Trước hết tinh thần trở thành lạc đà, lạc đà đi vào sa mạc và trở thành sư tử, sau cùng, sư tử trở thành hài nhi. Lạc đà là con vật chở đồ qua sa mạc, trên lưng nó gánh nặng của văn hóa, truyền thống giáo dục: những giá trị cũ. Sư tử là chúa tể sa mạc, con vật hung hăng đập phá những giá trị đã thiết định. Hài nhi là Trò Chơi, là sự hồn nhiên, là bước khởi đầu, là bánh xe quay trên chính mình, sáng tạo những giá trị mới. Ba biến thái trên tương ứng khít khao với sự tiến triển của tư tưởng và tác phẩm Nietzsche.

Năm 1871, Nietzsche viết Khởi nguyên của bi kịch. Ông diễn dịch, phục hồi nghệ thuật và văn minh Hy Lạp trong ánh sáng tư tưởng hai bậc thầy Schopenhauer và Wagner, theo thị quan nghệ thuật. Đó là thời kỳ lạc đà, thời kỳ thẩm mỹ - tâm lý (esthetico – psychologique) với những tác phẩm: Những suy tưởng phi thời; David Strauss, nhà văn và kẻ nhiệt tin (1873), Schopenhauer nhà giáo dục (1874), Richard Wagner ở Bayreuth (1876).

Năm 1878 bắt đầu giai đoạn sư tử, giai đoạn khoa học – lột mặt nạ (scientico - démystificatrice), phê phán mọi giá trị theo thị quan khoa học duy nghiệm, giai đoạn bất nhẫn, đau yếu, tàn bạo: “Không thể nào đọc được! Không thể nào viết được, trừ họa hoằn! Không giao thiệp với ai! không thể nào nghe được âm nhạc!” Đó là thời kỳ của những tác phẩm bút chiến dữ dội: Phàm phu – quá phàm phu (1878), Viễn khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1884).

Năm 1882, tác phẩm Tri thức hân hoan mở đầu cho giai đoạn cuối cùng: giai đoạn hài nhi, khẳng định mọi sự và sáng tạo giá trị mới theo thị quan Phục hồi vĩnh cửu với Zarathustra đã nói như thế (1883 - 85), Bên kia Thiện Ác (1886), Phổ hệ luân lý (1887), Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Phản vương, Ecce Homo và Nietzsche chống Wagner (1888). Sau đó là mười năm im lặng câm nín cho đến ngày nhắm mắt. Như thế, trong khoảng thời gian gần hai mươi năm, Nietzsche đã tạo ra một tác phẩm tuyệt vời, gây một cơn chấn động bửa đôi lịch sử tâm linh Tây Phương.

Siêu sử bắt đầu.

La surhistoire commence.

Bắt đầu như thế nào, bắt đầu từ bao giờ? Hỡi kẻ sáng tạo hãy trả lời câu hỏi đó!


*


Về ba biến thể

Ta sắp thuyết minh cho các ngươi về ba biến thái của tinh thần: cách nào tinh thần trở thành lạc đà, cách nào lạc đà trở thành sư tử, và cuối cùng cách nào sư tử trở thành hài nhi.

Có biết bao gánh nặng dành cho tinh thần, cho tinh thần dũng mãnh và kiên trì mà sự kính trọng ngự trị: dũng lực của nó khẩn nài những gánh nặng nặng nề nhất.

Có gì nặng nề đâu? Tinh thần dũng mãnh hỏi: rồi nó quì xuống như con lạc đà và muốn người ta chồng chất nặng.

Đâu là gánh nặng nề nhất, hỡi người anh hùng? Tinh thần dũng mãnh hỏi, để ta chồng chất lên ta và để cho sức mạnh của ta thỏa nguyện.

Há chẳng phải thế này: tự hạ mình để làm đau nhức lòng kiêu hãnh mình? Làm lóe lên cơn cuồng điên của mình để hiến minh triết mình thành trò cười?

Hoặc phải chăng là thế này: bỏ rơi chính nghĩa vào lúc nó mừng chiến thắng? Trèo lên núi cao để cám dỗ ma vương?

Hay là thế này: dinh dưỡng bằng trái dẻ rừng vả cỏ rau trí thức và chịu đói khát trong tâm hồn vì tình yêu chân lý?

Hoặc là thế này: đau bệnh và đuổi về những kẻ chăm sóc, kết bạn với những kẻ điếc không bao giờ nghe thấy điều bạn muốn?

Hoặc là thế này: yêu kẻ khinh bỉ ta và chia tay cho ma quỉ lúc nó muốn nhát ta?

Tinh thần dũng mãnh gánh vác tất cả những gánh nặng đó; như con lạc đà ngay sau khi được chồng chất nặng vội vã hướng về sa mặc, cũng thế tinh thần vội vã hướng về sa mạc của mình.

Nhưng trong thẳm cùng sa mạc tịch liêu nhất viên thành biến thể thứ hai: nơi đây tinh thần trở thành sư tử; nó muốn chinh phục tự do và làm chủ sa mạc của chính mình.

Nó tìm kiếm nơi đây bậc thầy cuối cùng của nó; nó muốn kẻ thù của bậc thầy này và cũng như kẻ thù của thần thánh cuối cùng của nó; nó muốn tranh thắng với con rồng vĩ đại.

Con rồng vĩ đại mà tinh thần không muốn gọi là thần thánh cũng chẳng muốn tôn là thầy là gì? “Mi phải” là tên gọi của con rồng vĩ đại. Nhưng tinh thần của sư tử nói: “Ta muốn”.

“Mi phải” rình rập nó bên đường, lấp lánh ánh vàng dưới lớp vỏ hàng ngàn vẩy và trên mỗi cái vẩy chói sáng bằng những chữ rực vàng: “Mi phải!”.

Những giá trị ngàn đời chói sáng trên những vẩy này và con rồng mạnh mẽ nhất trong những con rồng nói thế này: “Giá trị của mọi sự chói sáng trên ta”.

Tất cả mọi giá trị đều đã được sáng tạo, và tất cả mọi giá trị đã được sáng tạo là ta. Quả thực, không được quyền có thêm “Ta muốn” nữa! Con rồng nói như vậy.

Hỡi anh em, tại sao lại cần sư tử của tinh thần? Con vật mạnh mẽ khắc kỷ và khuất phục chưa đủ sao?

Sáng tạo những giá trị mới, - ngay cả con sư tử cũng chưa đủ khả năng: nhưng trở nên thung dung cho sự sáng tạo mới, - đó là điều quyền năng con sư tử có thể.

Tự giải phóng, đối trị một tiếng “Không” thiêng liêng ngay cả với bổn phận: hỡi anh em, đó là chức phận thuộc sư tử.

Chinh phục quyền sáng tạo những giá trị mới, - đó là một cuộc chinh phục khủng khiếp cho một tinh thần kiên nhẫn và cung kính. Quả thực, đó là một hành động cướp bóc và việc thích hợp với một con vật săn mồi.

Ngày xưa nó yêu chuộng: “Mi phải” như tài sản thiêng liêng nhất của nó: bây giờ nó phải tìm ảo tưởng và sự chuyên chế, ngay cả trong cái thiêng liêng nhất, ngõ hầu bảo đảm tự do của nó nhờ vào tình yêu của nó: phải có một con sư tử cho một hành động cướp bóc này,

Nhưng hãy nói cho ta biết, hỡi anh em, đứa hài nhi có thế làm được điều gì mà con sư tử không làm được? Tại sao con sư tử tàn bạo phải trở thành hài nhi?

Hài nhi là hồn nhiên và quên lãng, một khởi đầu mới mẻ và một trò chơi, một bánh xe quay trên chính mình, một nguyên động đệ nhất, một tiếng “Ừ” thiêng liêng.

Vâng, để cho trò chơi sáng tạo, hỡi anh em, cần phải có tiếng “Ừ” thiêng liêng: chính ý chí nó là điều bây giờ tinh thần muốn, chính thế giới của nó là cái mà kẻ lạc lõng bơ vơ ở đời muốn tiếp thu.

Ta đã trần thuyết cho anh em ba biến thể của tinh thần: cách nào tinh thần trở thành lạc đà, cách nào lạc đà trở thành sư tử, và cách nào cuối cùng sư tử thành hài nhi.

Zarathustra đã nói như vậy. Và trong thời gian đó người tạm lưu lại một thành phố mà người ta gọi là Con Bò Cái nhiều mầu.


Von den drei Verwandlungen

Drei Verwandlungen nenne ich euch des Geistes: wie der Geist zum Kamele wird, und zum Löwen das Kamel, und zum Kinde zuletzt der Löwe.

Vieles Schwere gibt es dem Geiste, dem starken, tragsamen Geiste, dem Ehrfurcht innewohnt: nach dem Schweren und Schwersten verlangt seine Stärke.

Was ist schwer? So fragt der tragsame Geist, so kniet er nieder dem Kamele gleich, und will gut beladen sein.

Was ist das Schwerste, ihr Helden? So fragt der tragsame Geist, daß ich es auf mich nehme und meiner Stärke froh werde.

Ist es nicht das: sich erniedrigen, um seinem Hochmut wehe zu tun? Seine Torheit leuchten lassen, um seiner Weisheit zu spotten?

Oder ist es das: von unserer Sache scheiden, wenn sie ihren Sieg feiert? Auf hohe Berge steigen, um den Versucher zu versuchen?

Oder ist es das: sich von Eicheln und Gras der Erkenntnis nähren und um der Wahrheit willen an der Seele Hunger leiden?

Oder ist es das: krank sein und die Tröster heimschicken und mit Tauben Freundschaft schlieBen, die niemals hören, was du willst?

Oder ist es das: in schmutziges Wasser steigen, wenn es das Wasser der Wahrheit ist, und kalte Frösche und heiBe Kröten nicht von sich weisen?

Oder ist es das: die lieben, die uns verachten, und dem Gespenste die Hand reichen, wenn es uns fürchten machen will?

Alles dies Schwerste ninmt der tragsame Geist auf sich: dem Kamele gleich, das belanden in die Wüste, also eilt er in seine Wüste.

Aber in der einsamsten Wüste geschieht die zweite Verwandlung: zum Löwen wird hier der Geist, Freiheit will er sich erbeuten und Herr sein in seiner eignen Wüste.

Seinen letzten Herrn sucht er sich hier: Feind will er ihm werden und scinem letzten Gotte, um Sieg will er mit dem groBen Drachen ringen.

Welches ist der groBe Drache, den der Geist nicht mehr Herr und Gott heßen mag? "Du sollst" heiBt der große Drache. Aber der Geist des Löwen sagt “Ich will”.

“Du sollst" liegt ihm am Wege, goldfunkelnd, ein Schuppentier, und an jeder Schuppe glänzt golden "Du sollst!”.

Tausendjährige Werte glänzen an diesen Schuppen, und also spricht der mächtigste aller Drachen: “Aller Wert der Dinge – der glänzt an mir.”

“Aller Wert ward schon geschaffen, und aller geschaffene Wert – das bin ich. Wahrlich, es soll kein “Ich will” mehr geben!” Also spricht der Drache.

Meine Bruder, wozu bedarf es des Löwen im Geiste? Was genügt nich das lastbare Tier, das entsagt und ehrfürchtig ist?

Neuw Werte schaffen – das vermag auch der Löwe noch nicht: aber Freiheit sich schaffen zu neuem Schaffen – das vermag die Macht des Löwen.

Freiheit sich schaffen und ein heiliges Nein auch vor der Pflicht: dazu, meine Brüder, bedarf es des Löwen.

Recht sich nehmen zu neuen Werten – das ist das furchtbarste Nehmen für einen tragsamen und ehrfürchtigen Geist. Wahrlich, ein Rauben ist es ihm und eines raubenden Tieres Sache.

Als sein Heiligstes liebte er einst das “Du solls”: nun muß er Wahn und Willkür auch noch im Heiligsten finden, daß er sich Freiheit raube von seiner Liebe: des Löwen bedarf es zu diesem Raube.

Aber sagt, meinn Brüder, was vermag noch das Kind, das auch der Löwe nicht vermochte? Was muß der raubende Löwe auch noch zum Kinde werden?

Unschuld ist das Kind und Vergessen, ein Neubeginnen, ein Spiel, ein aus sich rollendes Rad, eine erste Bewegung, ein heiliges Ja–sagen.

Ja, zum Spiele des Schaffens, meine Brüder, bedarf es eines heiligen Ja–sagens: seinen Willen will nun der Geist, seine Welt gewinnt sich der Weltverlorene.

Drei Verwandlungen nannte ich euch des Geistes: wie der Geist zum Kamele ward, und zum Löwen das Kamel, und der Löwe zuletzt zum Kinde.

Also sprach Zarathustra. Und damals weilte er in der Stadt, welche genannt wird: Die bunte Kuh.


*


Về con đường của kẻ sáng tạo

Bạn muốn đi vào trong cô đơn, hỡi người anh em? Bạn muốn tìm đường dẫn về chính mình? Xin hãy dừng chân giây lát và lắng nghe ta.

“Kẻ nào tìm kiếm sẽ hư mất dễ dàng. Tất cả cô đơn đều lầm lỗi”: bầy thú vật nói như thế. Và lâu nay bạn đã thuộc về bầy thú.

Ngay chính trong bạn nữa, tiếng nói của bầy thú hãy còn vang vọng. Và khi bạn nói: “Ta không chia sẻ ý thức với người nữa,” thì đó sẽ là lời than thở và nỗi đớn đau.

Đây, chính cái ý thức cộng đồng ấy đã sinh ra niềm đau đớn này và ánh sáng cuối cùng của ý thức hãy còn soi tỏ nỗi phiền não bạn.

Nhưng bạn muốn đi theo con đường của nỗi phiền não bạn, con đường dẫn về chính mình. Vậy hãy cho ta thấy bạn có đủ quyền uy và sức mạnh.

Bạn có phải là một sức mạnh mới và một quyền uy mới? Một nguyên động đệ nhất? Một bánh xe quay trên chính mình? Bạn có thể cưỡng bức những vì sao châu tuần quanh bạn?

Than ôi! Biết bao tham muốn hướng về những đỉnh cao! Bao dao động của những kẻ nhiều xa vọng. Hãy cho ta thấy bạn không phải là kẻ tham lam cũng chẳng phải là kẻ nhiều xa vọng!

Than ôi! Biết bao tư tưởng vĩ đại của tác động không hơn bào ảnh bọt bèo. Chúng phồng lên và tan vỡ còn nhanh hơn hết nữa.

Bạn nói bạn giải thoát! Ta muốn biết tư tưởng chủ yếu của bạn chứ không muốn biết rằng bạn đã thoát khỏi một cái ách.

Bạn có phải là kẻ có quyền thoát khỏi ách không? Có những kẻ đánh mất giá trị cuối cùng của họ khi rũ bỏ ách phục tòng.

Giải thoát khỏi cái gì? Điều đó không liên quan gì tới Zarathustra! Nhưng con mắt sáng ngời của bạn phải báo gì cho ta biết: giải thoát để làm gì?

Bạn có kế hoạch định cho chính mình điều thiện ác của chính bạn, và treo ý chí của bạn trên đầu mình như một luật lệ chăng? Bạn có thể là phán quan của chính luật lệ bạn chăng?

Thật là khủng khiếp khi ở một mình với phán quan và kẻ hành hình của chính luật lệ mình. Bởi thế một vì sao lao vào thinh không và vào cơn gió lạnh của cô đơn.

Hôm nay bạn hãy còn đau khổ vì đám đông, bạn kẻ độc nhất: hôm nay lòng can đảm và hy vọng của bạn hãy còn nguyên vẹn.

Nhưng một ngày kia bạn sẽ chán nỗi cô đơn của bạn, lòng kiêu hãnh của bạn cúi đầu và lòng can đảm của bạn nghiến răng. Một ngày kia bạn sẽ la lên: “Ta cô đơn!”.

Một ngày kia bạn sẽ không nhìn thấy cái cao cả trong bạn nữa, và cái thấp hèn sẽ rất gần kề. Ngay cả điều trác tuyệt của bạn cũng khiến bạn sợ hãi như một bóng ma. Một ngày kia bạn sẽ la lên: “Tất cả đều sai lầm!”.

Có những tình cảm muốn giết chết kẻ cô đơn: nếu chúng không đạt mục đích, thì chính chúng phải hủy hoại nhau! Nhưng bạn có thể là kẻ sát nhân chăng?

Bạn ơi, bạn đã hiểu chữ “khinh bỉ” là thế nào chưa? Và nỗi giày vò của công lý bạn buộc bạn phải công bình đối với những kẻ khinh bỉ bạn?

Bạn ép buộc nhiều người phải đổi ý kiến về bạn quá; họ oán hận bạn vô cùng. Bạn lại gần họ và bạn đi qua; họ sẽ không bao giờ tha thứ bạn đâu.

Bạn vượt quá họ: nhưng bạn càng lên cao, con mắt của những kẻ tị hiềm càng nhìn thấy bạn nhỏ bé đi. Và, kẻ bay lên cao nhất chính là kẻ người ta khinh ghét nhất.

“Làm sao các người có thể thành công bình đối với ta! – bạn sẽ phải nói như vậy. – Ta chọn cho ta sự bất công của các ngươi, như phần dành cho ta vậy.

Bất công và rác rưởi, đó là những cái họ ném với theo kẻ cô đơn: tuy nhiên, bạn ơi, nếu bạn muốn là một vì sao, thì bạn phải soi sáng họ dù sao mặc lòng!

Và hãy coi chừng những kẻ tốt và những kẻ công chính! Họ muốn đóng đinh những kẻ sáng tạo ra đức hạnh mình, - họ ghét kẻ cô đơn.

Hãy coi chừng cả sự hồn nhiên thánh thiện nữa! Tất cả cái gì không đơn giản đối với nó đều trái luân thường đạo lý; nó cũng muốn đùa rỡn với lửa – lửa của những đống củi thiêu đốt tội nhân.

Và coi chừng những thái quá của tình yêu bạn! Vội vã thay kẻ cô đơn chìa tay về phía người đầu tiên gặp gỡ.

Có rất nhiều kẻ bạn không được chìa tay ra mà chỉ có thể giơ chân: và ta còn muốn chân bạn phải có móng vuốt nữa.

Nhưng kẻ thù nguy hiểm nhất bạn có thể gặp bao giờ cũng sẽ là chính bạn; bạn rình rập bạn trong tận cùng cốc thâm sơn.

Cô đơn, bạn đi theo con đường dẫn về chính bạn! và con đường của bạn vượt qua trước bạn và trước bầy quỉ của bạn.

Bạn sẽ dị đoan với chính bạn, phù thủy và thầy bói, điên cuồng và bất tín, trái luân thường và hiểm độc.

Bạn phải muốn tự thiêu trong chính ngọn lửa của bạn: làm sao bạn muốn đổi mới mà trước hết lại không hóa thành than!

Cô đơn, bạn đi theo con đường của kẻ sáng tạo: bạn muốn tạo ra một thần thánh và bảy con quỉ của bạn!

Cô đơn, bạn đi theo con đường của tình nhân: bạn yêu chính bạn, vì lẽ đó bạn khinh bỉ bạn, như chỉ những kẻ tình nhân biết khinh bỉ.

Kẻ tình nhân muốn sáng tạo, bởi hắn khinh bỉ! Biết gì về tình yêu, kẻ không biết khinh bỉ chính cái mình yêu cầu.

Hãy đi vào nỗi cô đơn của bạn, hỡi người anh em, với tình yêu của bạn và ý chí sáng tạo của bạn; vào buổi xế chiều công lý sẽ khập khễnh lết lê theo bạn.

Hãy đi vào nỗi cô đơn của bạn, với nước mắt ta, hỡi người anh em. Ta yêu kẻ muốn sáng tạo vượt quá mình và tàn tạ như vậy.”

Zarathustra đã nói như thế.


Vom Wege des Schaffenden

Willst du, mein Bruder, in die Wereinsamung gehen? Willst du den Weg zu dir selber suchen? Zaudere noch ein wenig und höre mich.

“Wer sucht, der geht leicht selber verloren. Alle Vereinsamung ist Schuld”: Also spricht die Herde. Und du gehörtst lange zur Herde.

Die Stimme der Herde wird auch in dir noch tönen. Und wenn du sagen wirst: “ich habe nicht mehr ein Gewissen mit euch”, so wird es eine Klage und ein Schmerz sein.

Siehe, diesen Schmerz selber gebar noch das eine Gewissen: und dieses Gewissens letzter Schimmer glüht noch auf deiner Trübsal.

Aber du wills den Weg deiner Trübsal gehen, welches ist der Weg zu dir selber? So zeige mir dein Recht und deine Kraft dazu!

Bist du eine neue Kraft und ein neues Recht? Eine erste Bewegung? Ein aus sich rollendes Rad? Kannst du auch Sterne zwingen, daß sie um dich sich drehen?

Ach, es gibt so viel Lüsternheit nach Höhe! Es gibt so viel Krämpfe der Ehrgeizigen! Zeige mir, daß ku keiner der Lüsternen und Ehrgeizigen bist!

Ach, es gibt so viel große Gedanken, die tun nicht mehr als ein Blasebalg: sie balsen auf und machen leerer.

Frei nennst du dich? Deinen herrschenden Gedanken will ich hören und nicht, daß du einem Joche entronnen bist.

Bist du ein solcher, der einem Joche entrinnem durfle? Es gibt manchen, der seinen letzten Wert wegwarf, als er seine Dienstbarkeit wegwarf.

Frei wovon? Was schiert das Zarathustra! Hell aber soll mir dein Auge kunden: frei wozu?

Kannst du dir selber dein Böses und dein Gutes geben und deinen Willen über dich aufhängen wie ein Gesetz? Kannst du dir selber Richter sein und Rächer deines Gesetzes?

Furchtbar ist das Alleinsein mit dem Richter und Rächer des eignen Gesetzes. Also wird ein Stern hinausgeworfen in den öden Raum und in den eisigen Atem des Alleinseins.

Heute noch leidest du an den Vielen, du Einer: heute noch hast du deinen Mut ganz und deine Hoffnungen.

Aber einst wird dich die Einsamkeit müdemachen, einst wird dein Stolz sich krümmen und dem Mut knirschen. Schreien wirst du einst “ich bin allein!”.

Einst wirst du dein Hohes nich mehr sehn und dein Niedriges allzunahe; dein Erhabnes selbst wird dich fürchten machen wie ein Gespenst. Schreien wirst du einst: “Alles ist falsch!”.

Es gibt Gefühle, die den Einsamen töten wollen; gelingt es ihnen nicht, nun, so müssen sie selber sterben! Aber vermagst du das, Mörder zu sein?

Kennst du, mein Bruder, schon das Wort “Verachtung”? Und die Qual deiner Gerechtigkeit, solchen gerecht zu sein, die dich verachten?

Du zwingst viele, über dich umzulernen; das rechnen sie dir hart an. Du kamst ihnen nahe und gingst doch vorüber: das verzeihen sie dir niemals.

Du gehst über sie hiaus: aber je höher du steigst, um so kleiner sieht dich das Auge des Neides. Am meisten aber wird der Fliegende gehaßt.

“Wie wolltet ihr gegen mich gerecht sein!” - “mußt du sprechen” – ich erwähle mir eure Ungerchtigkeit als den mir zugemessnen Teil.”

Ungerechtigkeit und Schmutz werfen sie nach dem Einsamen: aber, mein Bruder, wenn du ein Stern sein willst, so mußt du ihnen deshalb nicht weniger leuchten!

Und hüte dich vor den Guten und Gerechten! Sie kreuzigen gerne die, welche sich ihre einge Tugend erfinden, - sie hassen den Einsamen.

Hüte dich auch vor der heiligen Einfalt!

Alles ist ihr unheilig, was nicht einfältig ist; sie spielt auch gerne mit dem Feuer – der Scheiterhaufen.

Und hüte dich auch vor den Anfällen deiner Liebe! Zu schnell streckt der Einsame dem die Hand entgegen, der ihm begegnet.

Manchem Menschen darfst du nich die Hand geben, sondern nur die Tatze: und ich will, daB deine Tatze auch Krallen habe.

Aber der schlimmste Feind, dem du begegnen kannst, wirst du immer dir selber sein; du selber lauerst dir auf in Höhlen und Wäldern.

Einsamer, du gehst den Weg zu dir selber! Und an dir selber führt dein Weg vorbei, und an deinen sichen Teufeln!

Verbrennen mußt du dich wollen in deiner eignen Flamme: wie wolltest du neu werden, wenn du nicht erst Asche geworden bist!

Einsamer, du gehst den Weg des Schaffenden: einen Gott willst du dir schaffen aus deinen sieben Teufeln!

Einsamer, du gehst den Weg des Liebenden: dich sellber liebst du und deshalb verachtest du dich, wie nur Liebende verachten.

Schaffen will der Liebende, weil er verachtet! Was weiß der von Liebe, der nicht gerade verachten mußte, was er liebte!

Mit deiner Lieber gehe in deine Vereinsamung und mit deinem Schaffen, mein Bruder; und spät erst wird die Gerechtigkeit dir nachhinken.

Mit meinen Tränen gehe in deine Vereinsamung, mein Bruder. Ich liebe den, der über sich selber hinaus schaffen will und so zugrunde geht.

Also sprach Zarathustra.

Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.

Về tiểu thuyết "Ba người khác" -Lại Nguyên Ân

Lại Nguyên Ân

Về tiểu thuyết "Ba người khác"

Cuốn tiểu thuyết 250 trang của nhà văn Tô Hoài (NXB Đà Nẵng vừa ấn hành) đang làm xôn xao dư luận trong và ngoài giới văn học. Cuộc toạ đàm về tiểu thuyết này do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức tại trụ sở Viện Văn học sáng ngày 22 tháng 12 năm 2006 đã hầu như một cuộc vinh danh lão tướng văn chương 87 tuổi. talawas sẽ lần lượt đăng tải những phát biểu quan trọng của các nhà nghiên cứu phê bình, nhà văn tham dự toạ đàm này.
talawas
Tôi được đọc tác phẩm này tương đối sớm, trong dạng bản đánh máy, kiểu đọc “samizdat”, vào khoảng sau khi đọc Cát bụi chân ai, trước khi đọc Chiều chiều. Hàng chục năm nay chỉ biết nó vẫn chưa được đến với công chúng. Bây giờ nó đã được in ra, rất mừng! Quả thật, vào cái buổi sáng mà nhà báo Thu Hà của báo Tuổi Trẻ cho tôi biết tin cuốn này ra mắt, tôi còn ngạc nhiên và chưa tin!

Ngành xuất bản ở Việt Nam bây giờ có thể in đủ thứ, nhưng những cuốn như Chuyện kể năm 2000 hoặc cuốn này thì thường thường vẫn bị ngăn chặn, cho nên mỗi khi có một cuốn như cuốn này ra mắt được thì tức là tự do trong xuất bản lại được nới rộng thêm một ít.

Phải nói đây là một tiểu thuyết lịch sử, chẳng những vì đã 50 năm từ sau Cải cách ruộng đất (CCRĐ) mà còn vì tác phẩm nói thẳng về sự kiện đó, một sự kiện rung chuyển đời sống của hàng triệu người Việt, một sự kiện không thể tẩy xoá được của lịch sử nước Việt.

Cái không khí nó gợi ra rất ghê. Nó đưa người đọc vào bên trong sự kiện, theo gót một nhân vật, một “anh đội”. Chợt nhớ, Ác mộng của Ngô Ngọc Bội (ra hồi đầu đổi mới) cũng mô tả thời CCRĐ, nhưng nhân vật chính được đưa thêm nét ảo tưởng đến độ “anh đội” ấy ngay đương thời đã nhìn thấy cái sai của CCRĐ; anh ấy có vẻ khôn hơn cái thời của mình, mà chính điều ấy lại làm giảm cái thật của sự kiện lịch sử bao trùm kia. Nhân vật chính của Ba người khác thì ngang tầm, có khi thấp hơn, nhưng nói chung là vừa tầm cái thời của anh ta, là nhân vật bình thường trong cuộc, ngang tầm sự kiện; ngay đến khi đội sửa sai về thay đội cải cách, anh ta vẫn còn chưa biết chưa thấy cải cách có gì sai.

Những sự biến thời ấy, nghĩ lại thấy rất ghê gớm. Thời đó tôi là đứa trẻ 11-12 tuổi. Những cảnh vui của CCRĐ mà mình biết, ví dụ các nhà bần cố nông làm biển đề tên nhận ruộng thì được phản ảnh nhiều rồi qua phim ảnh. Nhưng còn các cảnh khác mà ở miền Bắc nơi nào cũng có, để lại sự kinh hoàng khó phai trong đầu óc non trẻ, ấy là những cảnh đấu tố, dựng rạp xử án, bắn người bị quy là địa chủ, cường hào. Ba người khác khiến tôi nhớ lại mấy cuộc mít-tinh đấu tố có xử bắn mà mình xem hồi ấy, từ háo hức đến hãi hùng.

Viết về một nhân vật, một xã nhưng Ba người khác khái quát về cả cái cuộc CCRĐ đó, cả khoảng thời gian đó. Quả thật là một tiểu thuyết cho đến giờ phút này là ấn tượng nhất về sự kiện CCRĐ.

Tôi nghĩ, đối với xã hội ta, sự xuất hiện những cuốn sách như cuốn này là một cách giải toả cho một trong những chấn thương của xã hội ta. Sự kiện CCRĐ để lại một chấn thương trầm trọng ai cũng biết, nhưng những người giữ quyền ăn quyền nói ở xã hội ta lại muốn xoá đi bằng cách cấm mọi người nhắc đến. Và đó là một giải pháp sai lầm hiển nhiên, vì các chấn thương tinh thần không thể được chữa khỏi bằng bắt buộc người ta im lặng; ngược lại, chỉ bằng việc thường xuyên nhắc nhớ, ôn lại, phân tích nguồn cơn, tính đếm thiệt hại, v.v… mới là phương cách tốt, chẳng những làm nguôi chấn thương mà còn đề phòng khả năng lặp lại những tai hoạ tương tự cho cộng đồng.

Trước hội thảo này, tôi có gửi đến ban tổ chức một đề cương tham gia thảo luận; nhân tiểu thuyết Ba người khác, tôi nêu 2 điểm:

1. Có một “chủ nghĩa đồ vật” (chosisme) trong văn xuôi Việt Nam từ trước 1945 và được tiếp tục sau thời gian đó.

Đây là một nhận xét do nhà nghiên cứu Phan Ngọc nêu lên hồi 1987- 88 khi nói về sáng tác của Nguyễn Tuân. Tôi nghĩ cũng có thể nói đến một thứ chosisme trong sáng tác văn xuôi của Tô Hoài mà Ba người khác không hề là tác phẩm duy nhất.

Chosisme hay “chủ nghĩa đồ vật” nói đây, nếu cần sơ bộ “định nghĩa”, thì đó là một mỹ cảm được định hình trong tâm thức tác giả và một kỹ năng văn chương thể hiện mỹ cảm ấy.

Tính đồ vật ở văn xuôi Nguyễn Tuân là rất rõ. Nhà văn thường cảm nhận cuộc đời thông qua các đồ vật, sự vật. Miêu tả, nhìn ngắm, sờ nắn đồ vật, là những thao tác nghệ thuật thường thấy trong văn Nguyễn Tuân.

Ở Tô Hoài cũng thấy một xu thế tương tự. Ý hướng nhìn ngắm con người như những “vật thể” lạ, thậm chí những “con thú” lạ, đã có ở văn xuôi Tô Hoài từ trước 1945.

Ngay ở văn xuôi ông viết đầu kháng chiến 1946-54 cũng vậy. Tôi nhớ trong một bài phê bình tập truyện Núi Cứu Quốc (của Tô Hoài), nhà phê bình văn nghệ Nguyễn Đình Thi cảm thấy nhà văn này luôn “đứng ngoài”, “đứng quá xa” để đưa “cái nhìn tinh ác” “nhận xét sắc mắc” về những tập tục, những màu sắc lạ ở những người và vật mình gặp trên đường; Nguyễn Đình Thi thậm chí còn bảo rằng một đôi đoạn trong tập truyện ấy khiến người ta muốn so sánh với “những tiểu thuyết thực dân của Jean Marquet, Emile Nolly”(xem tạp chí Văn nghệ, số 11&12, Văn nghệ bộ đội, tháng Tư 1949). Ý nhà phê bình Nguyễn Đình Thi là mong ở cây bút cán bộ Tô Hoài khi ấy sớm có thêm nhiều nét ấm cúng yêu thương đối với người và vật mình miêu tả, cho phù hợp với tính chất của “văn nghệ kháng chiến”, “văn nghệ nhân dân”.

Nhưng phải nói dứt khoát: cái nhìn “đồ vật hoá” vị tất đã là bất lợi trong tay nhà văn.

Thật ra, kỹ năng “đồ vật hoá” có thể dùng cho những mục đích khác nhau. Ở một vài truyện ngắn của Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn) viết tại chiến trường những năm 1960 chẳng hạn, ta bắt gặp lối diễn tả những con người, nhất là trẻ nhỏ, ở phương diện những cảm nhận chập chờn giữa lý tính và bản năng, bằng cách đó ghi nhận lòng yêu nước, ghi nhận ý muốn tham gia đánh giặc giữ làng như những tình cảm và nguyện vọng hết sức tự nhiên ở con người miệt ruộng vườn Nam Bộ đương thời.

Trong văn xuôi Tô Hoài, như ở tiểu thuyết Ba người khác này, tính chất “đồ vật hoá” được khai thác từ một hướng khác. Có lẽ khoảng cách thời gian từ cuộc CCRĐ đến nay là nửa thế kỷ, đã đủ để nhận ra những đường nét chính, ngẫm nghĩ về thuộc tính của một trong những cuộc nổi dậy mang tính quần chúng trong cái thế kỷ nhiều cuộc nổi dậy mang tính quần chúng nhất từ xưa tới nay. Có vẻ như nhà văn, với tiểu thuyết này, đã nhận thấy rằng cuộc nổi dậy của lớp người dưới đáy xã hội cũ ấy, đã kéo theo sự nổi dậy của chất đồ vật, của chất loài vật nơi những con người dưới đáy. Chất “đồ vật”, “loài vật” được nhấn mạnh trong sự thể hiện nhiều nhân vật, nhiều cảnh sống ở đây, đặc biệt là về hai phương diện ăn uống và tính giao, tuy được mô tả tự nhiên như rút lấy từ trải nghiệm, thật ra là đáp ứng sự “lý giải”, “cắt nghĩa” của nhà văn về sự kiện rung trời chuyển đất những năm 1950 trên đất Việt, khi mà cơn thác bùn này cho thấy nó có thể làm tha hoá con người đến mức nào.

2. Về chất “quỷ” như một phẩm chất nên có ở nhà văn, nhà tư tưởng

Tôi chợt nhớ, trong một vài lần chuyện phiếm với nhau, chúng tôi đã từng nói tới “cái tinh anh của quỷ” nơi nhà văn Tô Hoài.

Ở các nền văn học khác, người ta sớm thấy hình tượng “con quỷ”, “quỷ sứ”, chẳng hạn trong thơ Pushkin, Lermontov (Nga), trong văn Goethe (Đức). Yếu tố quỷ với ý nghĩa “tượng trưng cho một sự thiên khải cao hơn các chuẩn mực thông thường, khiến cho con người có thể nhìn được xa hơn và chắc chắn hơn với cái nhìn không thể quy lại thành lý lẽ”, “cho phép con người vi phạm các quy tắc của lý trí nhân danh một thứ ánh sáng siêu việt không chỉ thuộc về tri thức mà còn thuộc về số mệnh” (Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, bản dịch, Nxb. Đà Nẵng và Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997, tr. 755)

Thật sự thì việc nhìn một cách tọc mạch, “tinh ác”, “hiểm ác” vào con người và xã hội, phát hiện và tố cáo những tai ách, tai họa, những xấu xa ghê tởm không xứng đáng với con người, v.v… đó luôn luôn là phẩm chất cần có của các nhà tư tưởng, nhà nghệ sĩ ở bất cứ thời đại nào; vì đó là cách nhà tư tưởng hay nhà văn thực hiện thiên chức bảo vệ tính nhân bản, tố giác những vi phạm, những nguy cơ làm giảm thiểu tính nhân bản trong cộng đồng người.

Không nên nghĩ rằng chỉ những tác gia bị thế quyền đương thời bạc đãi thì mới có những phẩm chất trên đây, ngược lại, nhà tư tưởng hay người nghệ sĩ nào vì được trọng đãi mà từ bỏ những trọng trách, từ bỏ thiên chức cao, chỉ giữ vai trò người tung hô vỗ tay đơn thuần, thì mới càng đáng chê trách. Dư luận xã hội chúng ta, nay có thể xem là đã trưởng thành hơn, đã có thể đem bàn những điều không đơn giản, không dễ hiểu, như điều đang nói đây chẳng hạn.

Ở nhà tư tưởng và nhất là ở nhà văn, chất “quỷ”, “chất Mephisto” là nên có, cần có. Những phát hiện “tinh ác”, “hiểm ác” về cộng đồng mình, về nhân loại quanh mình, rõ ràng là điều đem lại thành công cho một số tác giả người Việt chúng ta đã biết, từ Vũ Trọng Phụng trước kia cho đến Nguyễn Huy Thiệp ngày nay. Sáng tác của Tô Hoài, ví dụ tiểu thuyết Ba người khác này, hẳn cũng thuộc trường hợp như thế.

Không nên chấp nhận lối nghĩ đơn giản và sai lầm theo đó thì dường như nhà văn kiểu này lập công bằng cách nói xấu con người, nói xấu cộng đồng mình (!). Nên nhìn nhận chiều sâu của sự khám phá do nhà văn thực hiện được bằng sáng tác nghệ thuật. Nhìn ra, giúp con người cùng nhận ra chiều sâu, uẩn khúc của những tai ách đã và đang chặn đường đi tới, đó đã là một sự thắng lợi, thắng lợi của nhận thức. Còn hành động để đạt tới thắng lợi cho nhận thức đó trên thực tế đời sống xã hội, đó là việc không phải của một mình nhà văn.

18/12/2006

(Trong toạ đàm 22/12/2006, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân chỉ phát biểu một ý nhỏ của bài viết này. Báo Thể thao & Văn hoá ra ngày 22/12/2006 cũng trích đăng một đoạn ngắn trong bài viết. Toàn văn bài viết do ông gửi trực tiếp cho talawas.)

© 2006 talawas