24/6/09

Kinh-Nghiệm Thành-Đạt của Cuộc Đời Đức Khổng-Tử

I. Kinh-Nghiệm Thành-Đạt của Cuộc Đời Đức Khổng-Tử

Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý).
Trong lời phát-biểu trên, Đức Khổng-Tử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào đó mới có khả-năng nhận-thức và thực-hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-thức và thực-hành được. Để giúp các bạn trẻ hiểu rõ trọn-vẹn ý-nghĩa lời phát-biểu của Khổng-Tử trên đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời phát-biểu này.

1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học

Trong câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học," chúng tôi thấy có mấy chữ cần phải được giải-thích để giúp các bạn trẻ hiểu cho rõ. Chữ "hữu" có nghĩa là "thêm" (thập hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15), chữ "chí" có nghĩa là "để hết tâm ý," và chữ "vu" có nghĩa là "đối với" Cả câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học" có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tự-mình chuyên-tâm vào việc học. Có biết như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn-phiền khi thấy các con mình mải chơi đùa và không chịu chuyên tâm học-hành trước khi chúng chưa tới lứa tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các bậc cha mẹ mới đem hết kiên-nhẫn, kỹ-năng, và nghệ-thuật để chăm-nom săn-sóc cho các con mình ngay từ khi chúng còn nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành-công trong việc học.

2- Tam Thập Nhi Lập
"Tam thập nhi lập" có nghĩa là khi người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắc-chắn và vững-vàng. Thực vậy, khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự-lập và gây-dựng nên sự-nghiệp cho mình với điều-kiện là họ phải có chí tự-lập cũng như được cha mẹ săn-sóc và giáo-dục chu đáo. Chí tự-lập của con người giữ vai-trò quyết-định trong việc tự-ập. Trong thực-tế đã có nhiều người tự-lập từ trước lứa tuổi 30 và cũng có người không tự-lập được ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường-hợp của những người có chí tư- lập hay không. Nếu không có chí tự-lập thì dù cha mẹ có săn-sóc và giáo-dục cũng vẫn không tự-lập được. Họ là những người ăn bám gia-đình và xã-hội.

3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc


"Tứ thập nhi bất hoặc" có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự-lý trong thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không. Không phải người nào ở cái tuổi 40 cũng được như vậy. Muốn đạt tới trình độ "nhi bất hoặc," con người phải được giáo-dục kỹ-lưỡng và tự mình cố công học-hỏi chuyên-cần ngay từ khi còn nhỏ.

4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh

"Ngũ thập nhi tri thiên-mệnh" có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thông-suốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới 50 tuổi là đạt được trình-độ "tri thiện-mệnh" Muốn đạt được trình độ "tri thiên-mệnh," con người cũng phải có căn-bản vững-vàng về giáo-dục, kiến-văn, và kinh-nghiệm sống.

5- Lục Thập Nhi Nhĩ-Thuận

"Lục thập nhi nhĩ-thuận" có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ hoàn-hảo về mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể nhận-xét và phán- đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong thiên-hạ. Khi nhìn hay nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Không phải tự-nhiên mà ta đạt được trình-độ "nhi nhĩ thuận" Muốn đạt được trình-độ này, con người cũng phải có căn-bản giáo-dục, đạo-đức, kiến-văn, và kinh-nghiệm từng-trải về sự đời.

6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ

"Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" có nghĩa là tới 70 tuổi, con người sẽ đạt đến tình- trạng rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy, và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường. Đây là trình-độ tuyệt-hảo của con người ở vào tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo-dục đúng cách, tự tìm tòi học-hỏi, có kiến-văn quảng-bác, có tu-tâm dưỡng-tánh, và đã từng-trải cũng như rút được ưu khuyết-điểm trong các kinh-nghiệm về nỗi ê-chề đớn-đau của cuộc đời.

Tuy rằng Khổng-Tử đã trình bày về những lứa tuổi cuộc đời cụ-thể của ngài như đã nói ở trên, chúng ta phải hiểu rằng đây cũng là ý của ngài muốn nói về từng giai-đoạn tác-thành-của các lứa tuổi cuộc đời con người. Muốn đạt tới khả-năng nhận-thức và thực-hành ở mỗi lứa tuổi như đã đề-cập ở trên, người ta phải được giáo-dục và tự mình chuyên-tâm vào việc học-hỏi liên-tục ngay từ khi còn trẻ, tức là từ trước khi tới lứa tuổi 15 và tiếp-tục cho tới 70 tuổi, để trau-giồi kiến-văn, đạo-đức, và rút-tỉa kinh-nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.

Mỗi lứa tuổi 15, 30, 40, 50, 60, và 70 thể-hiện kết-quả của việc giáo-dục trong gia-đình và học-đường cùng kiến-văn có được qua sự học-hỏi ở trường đời. Nếu không được giáo-dục đúng cách và nếu không biết tự tu tâm dưỡng tánh, tự trau-giồi kiến-văn cho hoàn-hảo, và tự rút tỉa kinh-nghiệm trường đời thì con người giống như "ông bình vôi," càng sống lâu càng ngu và càng làm hại dân hại nước dù rằng có bằng cấp cao đến thế nào đi nữa.

Có tuổi là một việc, nếu không được giáo-dục đúng cách và không tự trau-giồi kiến-văn cùng kinh-nghiệm sống thì dù tới 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, hay 70 tuổi đi nữa, người ta cũng không có sức tự-lập, không hiểu hết sự lý, không biết được mệnh trời, không thông-suốt mọi lẽ, và không thể làm chủ được hành-động và tư-tưởng của mình nhiên-hậu sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý. Việc quan- trọng nhất là nếu đã tới 30 tuổi mà không tự-lập được vững-vàng, ta sẽ gặp nhiều gian-truân chứ đừng nói chi đến việc có thể giúp mình và giúp đời một cách có hiệu-quả được.



II. Việc Học và Trau Giồi Kiến-Văn

1. Học Kinh-Nghiệm Của Người

Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú-tâm vào việc học. Học không phải có nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở để biết chữ nghĩa hay học được một nghề để kiếm nhiều tiền hầu vinh-thân phì-gia là đuViệc học phải gồm đủ mọi mặt và nhiều cách.
Mục-đích của việc học là để thành con người với đúng nghĩa của nó, tức là con người hoàn-hảo, có đạo-đức, và hữu-dụng cho nhà cho nước. Học là noi gương sáng của tiền-nhân và các bậc vĩ-nhân quân-tử, tức là bắt-chước những việc làm ích quốc lợi dân mà các bậc tiền-nhân đã làm. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải bắt-chước những việc làm của các người đồng thời với ta khi việc làm của họ có ý-nghĩa và đáng cho ta học-hỏi và noi theo để cứu-nhân độ-thế.
Cần phải giao-thiệp rộng và lăn-lộn với đời để học kinh-nghiệm sống và trau-giồi kiến-văn cho quảng-bác. Học để phân-biệt được điều phải điều trái. Thấy điều tốt điều phải, ta phải bắt-chước. Thấy điều sai quấy, ta phải tránh. Người khôn là người biết học kinh-nghiệm của người khác, người dại là người chỉ biết học kinh-nghiệm của chính mình.

2. Học Một Biết Mười

Từ những hiểu-biết căn-bản của việc học có được tại học-đường và trong gia-đình, ta có thể nghiên-cứu thêm và nhiên-hậu phát-minh ra những điều mới. Làm sao học một để biết mười, tức là học cách tìm tòi nghiên-cứu, suy-diễn, nhận-xét, và phê-phán. Không nên quá tin vào sách-vở vì sách-vở cũng có nhiều cái sai trái trong đó. Người xưa có nói "Tận tín ư thư bất như vô thư," tức là quá tin vào sách thà đừng có sách còn hơn. Điều này là để cảnh-cáo những người thuộc loại mọt-sách. Đọc sách mà không chịu phân-tích và nhận-xét thì chỉ có hại mà thôi. Thậm-chí có người còn cho là những gì cổ- nhân viết ra để lại cho hậu-thế chỉ là những "tao-phách" (cặn bã) mà thôi. Những người biết cách học- hỏi thì phải coi những "tao-phách" này như là một tài-liệu để nghiên-cứu thêm mà thôi chứ không có thể nào hoàn-toàn tin vào đó được.

3. Học phải Hành

Những điều gì học được phải đem thực-hành để giúp-ích cho đời. Biết mà để đó cũng giống như không biết và cái biết đó là một điều vô-ích. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có ích gì cho nhân-quần xã-hội. Hơn-nữa, khi ta học được điều hay mà không đem ra phổ-biến và thực- hành thì cái học của ta cũng mai-một đi. Chính vì thế mà việc học ở các nước tân-tiến đều đi từ kiến- thức tới thí-nghiệm, trắc-nghiệm, áp-dụng, rồi thi-hành, và cuối cùng lượng-giá cùng rút ưu-khuyết- điểm để cải-tiến hầu giúp-ích cho đời-sống con người tốt đẹp hơn.

4. Học để Làm Người

Đây là cái học quan-trọng nhất. Cái học của Á-Đông chúng ta chú-trọng tới việc xây-dựng con người toàn-diện về kiến-thức cũng như về đạo-đức. Cái học của Tây-Âu chú-trọng về mặt chuyên-môn để đào-tạo các chuyên-gia hơn là đào-tạo con người. Tuổi trẻ Việt-Nam ở hải-ngoại đã có lõi-cốt của cái học Á-Đông ta, nay lại được học thêm cái tinh-tuý về khoa-học kỹ-thuật Tây-Âu thì thật là điều tuyệt-diệu. Học để có kiến-thức và chuyên-môn cao thì dễ, nhưng muốn học để làm người, con người toàn-diện, thì rất khó. Chính vì thế mà các bạn trẻ cần phải chú-ý các mặt sau để việc học của ta thêm hoàn-hảo:

- Ở trong Gia-Đình Phải Học sao để Làm Người Con Hiếu-Thảo.

"Hiếu-Thảo" là rường- mối của mọi nết ăn-ở trên đời. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn-sóc và nuôi-nấng mình rất vất-vả, và còn lo giáo-dục cho mình nên người tử-tế nữa. Công-đức ấy kể sao cho xiết được! Chính vì thế mà con cái phải biết kính-yêu và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, con cái chỉ cần thể-hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách vâng-lời cha mẹ, chăm-chỉ học-hành, và yêu mến cha mẹ. Khi lớn lên, con cái thể-hiện sự biết ơn cha mẹ bằng cách hết lòng phụng-dưỡng mẹ cha, ân-cần săn-sóc cha mẹ, kính-trọng cha mẹ, và giúp-đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến. Có được như thế thì con cái mới được gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có giáo-dục. Nếu làm trái các điều này, ta là người con bất-hiếu. Con người đã mang tội bất-hiếu thì chắc-chắn họ chỉ là kẻ sâu-dân mọt-nước.

Học Sao để Có Đễ với Anh Chị Em của Mình.

"Đễ" có nghĩa là kính yêu, thương yêu, và hoà-thuận đối với anh chị em. Nói một cách khác, đối-xử tử-tế, hợp đạo-lý, và giữ trọn tình-nghĩa trước sau với anh chị em đều được gọi là "đễ" Có đễ thì anh chị em mới hoà, đồng-bào mới thương yêu nhau, và nhiên-hậu xã-hội mới thịnh-vượng.

- Học sao để Đạt Được Đức-Tính Cẩn-Trọng và Chân-Thành

Khi làm việc gì và khi tiếp- đãi ai, "cẩn-trọng" là điều ta phải chú tâm. Điều này có nghĩa là khi giao-tiếp với tha-nhân, ta phải giữ lễ và tôn-trọng ý-kiến của họ.
Khi đã nhận làm việc gì, ta phải chú-tâm để làm cho bằng được. Khi đã hứa với ai điều gì, ta phải giữ lời và nếu vì lẽ gì không giữ được lời đã hứa, ta phải thông-báo kịp thời để người ta tìm người khác thay thế.
Đã có quan-niệm cho là người Việt mình quá nhiều tự-ái và thiếu chân-thành. Trong thực- tế, nhận-xét này rất đúng. Chính vì lẽ đó, muốn thành-công và giúp ích cho dân cho nước, ta phải bớt tự-ái và thêm chân-thành. Chân-thành là nghĩa là duyên, Bớt phần tự-ái tạo nên thân tình (thơ Khải Chính). Sự chân-thành phải coi là nòng-cốt vì có chân-thành mới có tín. Tín là báu-vật của cả nhân- loại. Không có tín, con người sẽ biến thành kẻ bất-lương và là hạng sâu-dân mọt-nước. Khi làm việc, ta phải cẩn-trọng và chân-thành, tức là có tín, thì mọi việc sẽ thành-công. Muốn thế, khi làm một công việc gì, ta phải có kế-hoạch thi-hành, đôn-đốc, và kiểm-soát trong tinh-thần cộng-tác, tương-kính, khoa-học, và dân-chủ.
Có cẩn-trọng và có tín thì ta mới có thể làm việc ích-quốc lợi-dân được. Ở Bắc-Mỹ này nếu ta bị coi là người "no trust," tức là kẻ bất-tín, thì không thể nào tiến-thân được và suốt đời phải sống trong sự khinh-khi của người đời.

- Phải Học Sao Có Được Lòng Từ-Ái, Khoan-Dung, và Độ-Lượng.

Đạo Phật coi trọng các hạnh "đại-từ ,đại-bi, đại-hỷ, đại-xậu" Đại-từ là lòng hiền-lành lớn nhằm đem lại niềm-vui cho tất-cả chúng-sinh, đại-bi là lòng thương-xót lớn nhằm cứu-khổ cho tất cả chúng-sinh, đại-hỷ là tạo sự vui-vẻ với tất-cả chúng-sinh, và đại-xả là đem tất-cả mọi sự vui thích của mình mà thí cho người khác.

Đạo Thiên-Chúa coi trọng đức "bác-ái" Bác-ái là yêu thương tất-cả mọi người mọi vật và giúp ích cho đời, yêu người như yêu mình và yêu cả kẻ thù.

Khổng-Giáo coi trọng lòng "nhân" Nhân là tính tốt ở trong lòng mà trời đã phú sẵn cho ta, đó là cái lòng tốt của con người. Lòng nhân là điều cốt-yếu giúp ta để trở thành con người vì nếu con người đã bất-nhân thì không còn phải là con người nữa mà là con vật! Ngoài ra, Khổng Tử còn nói: "Khắc kỷ phục lễ vi nhận" Điều này có nghĩa là bỏ hết cái bệnh tư-dục của mình là khắc-kỷ, hồi-phục được chân-lý của trời là phục lễ, đó là nhân. Nói tóm-lại, nhân là lòng thương yêu và kính-trọng người.

Phật-Giáo,Thiên-Chúa-Giáo, và Khổng-Giáo đều dậy ta tấm lòng yêu thương tha-nhân, khoan-dung độ-lượng với mọi người, và ăn ở phải có lòng nhân. Ta phải sáng-suốt để gần-gũi người có nhân
"Khoan- dung độ-lượng" có nghĩa là tha-thứ và thương yêu mọi người khi họ vô-ý vướng phải lỗi-lầm.

-[b] Phải Học Sao Để Lập-Chí. Khi muốn làm việc gì, ta quyết-định làm cho bằng được, đó là chí. Người xưa thường nói: "Hữu chí giả, sự cánh thành (người đã có chí thì việc chắc phải nên); có chí thì nên; có chí làm quan, có gan làm giàu; làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con; làm trai có chí lập-thân, rồi ra gặp hội phong-vân có ngày; làm trai quyết-chí tang-bồng, sao cho tỏ mặt anh-hùng mới cạm" Vậy chí là cái lòng muốn làm và quyết-định làm một việc gì cho đến thành-công mới thôi. Ta phải học-tập làm sao để thực-hiện được "lòng muốn và quyết-định" này mỗi khi ta bắt tay vào làm một công-việc gì. Có như thế thì mọi việc ta theo-đuổi mới thành-công tốt đẹp.

Khi đã có hiếu, đễ, cẩn-trọng, chân-thành, từ-ái, khoan-dung độ-lượng, và lập được chí thì cái học của ta mới toàn-vẹn. Tuy-nhiên, cuộc đời vẫn có nhiều ngoại-lệ, nhất là ở thời nay. Hoàn-cảnh và dòng-giống cũng có ảnh-hưởng đến sự hiểu-biết và sự lập-nghiệp của con người. Xưa cũng như nay, vẫn có người lập-nghiệp và tự-lập được ở cái tuổi hai mươi và có người còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người ở ngoài cái tuổi 30 mà vẫn không lập-nghiệp và tự-lập được.
Cùng một trình-độ học-vấn mà ở mỗi tuổi người ta hiểu sự-vật một khác. Cùng một tác-phẩm mà mỗi lần đọc lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và sự học-hỏi giúp ta hiểu đời càng ngày càng kỹ hơn. Chính vì thế mà đến tuổi 60, nếu đã có kiến-văn và kinh-nghiệm vững-vàng thì mỗi khi thấy sự việc gì dù trái hay phải, dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, ta cũng không lấy gì làm ngạc-nhiên. Bởi thế cái tuổi 60 mươi mới được gọi là tuổi "nhi nhĩ thuận" Đến tuổi 70, nếu ta có kiến-văn quảng-bác, kinh-nghiệm chín-chắn, và sở-học uyên-thâm thì mọi việc ta suy-nghĩ, phát-biểu, hay làm đều theo dúng với lương-tâm cùng khuôn-khổ của đạo-lý. Bởi thế, cái tuổi 70 mới được gọi là tuổi "tùng tâm sở dục bất du cụ"

III. Kết-Luận

Không phải cứ có nhiều tuổi ta mới thông-minh tài giỏi. Thông-minh có thể do nòi-giống và sự bẩm-sinh mà có. Người xưa thường cho là "lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh" (con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng-hoàng mới sinh ra) hay "hậu sinh khả uý" là vậy. Tuy nhiên, kiến-thức và kinh-nghiệm phải do học-hỏi mới thành. Tuổi đời cộng thêm việc học-hỏi và từng-trải mới đạt được các trình-độ "tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cụ" Ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp-tục học mãi cho đến già. Việc học phải bao-gồm từ sự bắt-chước, trau-giồi kiến-thức, nghiên-cứu, áp-dụng, thực-hành, đến việc học làm người. Ngoài ra, ta phải cố-gắng và có quyết-tâm học-hỏi thì mới mong đạt tới trình-độ từ "tam thập nhi lập" đến "tùng tâm sở dục bất du củ" một cách đúng nghĩa của nó được


© http://vietsciences.free.fr KCPKT

214 BỘ THỦ HÁN TỰ 漢 字 部 首 表

214 BỘ THỦ HÁN TỰ 漢 字 部 首 表






1 筆

1. 一 nhất

2. 〡 cổn

3. 丶 chủ

4. 丿 phiệt

5. 乙 ất

6. 亅 quyết

2 筆

7. 二 nhị

8. 亠 đầu

9. 人 nhân (亻)

10. 儿 nhân

11. 入 nhập

12. 八 bát

13. 冂 quynh

14. 冖 mịch

15. 冫 băng

16. 几 kỷ

17. 凵 khảm

18. 刀 đao (刂)

19. 力 lực

20. 勹 bao

21. 匕 chủy

22. 匚 phương

23. 匚 hệ

24. 十 thập

25. 卜 bốc

26. 卩 tiết

27. 厂 hán

28. 厶 khư

29. 又 hựu

3 筆

30. 口 khẩu

31. 囗 vi

32. 土 thổ

33. 士 sĩ

34. 夂 trĩ

35. 夊 tuy

36. 夕 tịch

37. 大 đại

38. 女 nữ

39. 子 tử

40. 宀 miên

41. 寸 thốn

42. 小 tiểu

43. 尢 uông

44. 尸 thi

45. 屮 triệt

46. 山 sơn

47. 巛 xuyên

48. 工 công

49. 己 kỷ

50. 巾 cân

51. 干 can

52. 幺yêu

53. 广 nghiễm

54. 廴 dẫn

55. 廾 củng

56. 弋 dặc

57. 弓 cung

58. 彐 kệ

59. 彡 sam


60. 彳 xích

忄 tâm 61

扌 thủ 64

氵 thủy 85

犭 khuyển 94

艹 thảo 140

辶 sước 162

阝+ ấp 163

阝- phụ 170

4 筆

61. 心 tâm (忄)

62. 戈 qua

63. 戶 hộ

64. 手 thủ (扌)

65. 支 chi

66. 攴 phộc (攵)

67. 文 văn

68. 斗 đẩu

69. 斤 cân

70. 方 phương

71. 无 vô

72. 日 nhật

73. 曰 viết

74. 月 nguyệt

75. 木 mộc

76. 欠 khiếm

77. 止 chỉ

78. 歹 đãi

79. 殳 thù

80. 毋 vô

81. 比 tỷ

82. 毛 mao

83. 氏 thị

84. 气 khí

85. 水 thuỷ (氵)

86. 火 hỏa (灬)

87. 爪 trảo

88. 父 phụ

89. 爻 hào

90. 爿 tường

91. 片 phiến

92. 牙 nha

93. 牛 ngưu

94. 犬 khuyển (犭)

王 ngọc 96

匹 thất 103

礻 kỳ 113

月 nhục 130

艹 thảo 140

辶 sước 162

5 筆

95. 玄 huyền

96. 玉 ngọc

97. 瓜 qua

98. 瓦 ngoã

99. 甘 cam

100. 生 sinh

101. 用 dụng

102. 田 điền

103. 疋 thất (匹 )

104. 疒 nạch

105. 癶 bát

106. 白 bạch

107. 皮 bì

108. 皿 mãnh

109. 目 mục

110. 矛 mâu

111. 矢 thỉ

112. 石 thạch

113. 示 thị; kỳ

114. 禸 nhựu

115. 禾 hoà

116. 穴 huyệt

117. 立 lập

衤 y 145

6 筆

118. 竹 trúc

119. 米 mễ

120. 糸 mịch

121. 缶 phẫu

122. 网 võng

123. 羊 dương

124. 羽 vũ

125. 老 lão

126. 而 nhi

127. 耒 lỗi

128. 耳 nhi

129. 聿 duật

130. 肉 nhục (月)

131. 臣 thần

132. 自 tự

133. 至 chí

134. 臼 cữu

135. 舌 thiệt

136. 舛 suyễn

137. 舟 chu

138. 艮 cấn

139. 色 sắc

140. 艸 thảo (艹)

141. 虍 hô

142. 虫 trùng

143. 血 huyết

144. 行 hành

145. 衣 y (衤)

146. 襾 á

7 筆

147. 見 kiến

148. 角 giác

149. 言 ngôn

150. 谷 cốc

151. 豆 đậu

152. 豕 thỉ

153. 豸 trãi

154. 貝 bối

155. 赤 xích

156. 走 tẩu

157. 足 túc

158. 身 thân

159. 車 xa

160. 辛 tân

161. 辰 thần

162. 辵 sước (辶)

163. 邑 ấp (阝+)

164. 酉 dậu




165. 釆 biện

166. 里 lý

8 筆

167. 金 kim

168. 長 trường

169. 門 môn

170. 阜 phụ (阝-)

171. 隶 đãi

172. 隹 truy

173. 雨 vũ

174. 青 thanh

175. 非 phi

9 筆

176. 面 diện

177. 革 cách

178. 韋 vi

179. 韭 phỉ, cửu

180. 音 âm

181. 頁 hiệt

182. 風 phong

183. 飛 phi

184. 食 thực

185. 首 thủ

186. 香 hương

10 筆

187. 馬 mã

188. 骨 cốt

189. 高 cao

190. 髟 bưu

191. 鬥 đấu

192. 鬯 sưởng

193. 鬲 cách

194. 鬼 quỉ

11 筆

195. 魚 ngư

196. 鳥 điểu

197. 鹵 lỗ

198. 鹿 lộc

199. 麥 mạch

200. 麻 ma

12 筆

201. 黃 hoàng

202. 黍 thử

203. 黑 hắc

204. 黹 chỉ

13 筆

205. 黽 mãnh

206. 鼎 đỉnh

207. 鼓 cổ

208. 鼠 thử

14 筆

209. 鼻 tỵ

210. 齊 tề

15 筆

211. 齒 xỉ

16 筆

212. 龍 long

213. 龜 quy

17 筆

214. 龠 dược











Ý NGHĨA 214 BỘ THỦ





Bộ thủ là một yếu tố quan trọng của Hán tự, giúp việc tra cứu Hán tự tương đối dễ dàng vì nhiều chữ được gom thành nhóm có chung một bộ thủ. Từ đời Hán, Hứa Thận 許慎 phân loại chữ Hán thành 540 nhóm hay còn gọi là 540 bộ. Thí dụ, những chữ 論 , 謂 , 語 đều liên quan tới ngôn ngữ, lời nói, đàm luận v.v... nên được xếp chung vào một bộ, lấy bộ phận 言 (ngôn) làm bộ thủ (cũng gọi là «thiên bàng» 偏旁). Đến đời Minh, Mai Ưng Tộ 梅膺祚 xếp gọn lại còn 214 bộ thủ và được dùng làm tiêu chuẩn cho đến nay. Phần lớn các bộ thủ của 214 bộ đều là chữ tượng hình và hầu như dùng làm bộ phận chỉ ý nghĩa trong các chữ theo cấu tạo hình thanh (hay hài thanh). Mỗi chữ hình thanh gồm bộ phận chỉ ý nghĩa (hay nghĩa phù 義符 ) và bộ phận chỉ âm (hay âm phù 音符 ). Đa số Hán tự là chữ hình thanh, nên tinh thông bộ thủ là một điều kiện thuận lợi tìm hiểu hình-âm-nghĩa của Hán tự. Phần sau đây giải thích ý nghĩa 214 bộ, trình bày như sau:



Số thứ tự – tự dạng & biến thể – âm Hán Việt – âm Bắc Kinh – mã Unicode – ý nghĩa.



1. 一 nhất (yi) 4E00= số một

2. 〡 cổn (kǔn) 4E28= nét sổ

3. 丶 chủ (zhǔ) 4E36= điểm, chấm

4. 丿 phiệt (piě) 4E3F= nét sổ xiên qua trái

5. 乙 ất (yī) 4E59= vị trí thứ 2 trong thiên can

6. 亅 quyết (jué) 4E85= nét sổ có móc

7. 二 nhị (ér) 4E8C= số hai

8. 亠 đầu (tóu) 4EA0= (không có nghĩa)

9. 人 nhân (rén) 4EBA (亻4EBB)= người

10. 儿 nhân (rén) 513F= người

11. 入 nhập (rù) 5165= vào

12. 八 bát (bā) 516B= số tám

13. 冂 quynh (jiǒng) 5182= vùng biên giới xa; hoang địa

14. 冖 mịch (mì) 5196= trùm khăn lên

15. 冫 băng (bīng) 51AB= nước đá

16. 几 kỷ (jī) 51E0= ghế dựa

17. 凵 khảm (kǎn) 51F5= há miệng

18. 刀 đao (dāo) 5200 (刂5202)= con dao, cây đao (vũ khí)

19. 力 lực (lì) 529B, F98A= sức mạnh

20. 勹 bao (bā) 52F9= bao bọc

21. 匕 chuỷ (bǐ) 5315= cái thìa (cái muỗng)

22. 匚 phương (fāng) 531A= tủ đựng

23. 匚 hệ (xǐ) 5338= che đậy, giấu giếm

24. 十 thập (shí) 5341= số mười

25. 卜 bốc (bǔ) 535C= xem bói

26. 卩 tiết (jié) 5369= đốt tre

27. 厂 hán (hàn) 5382= sườn núi, vách đá

28. 厶 khư, tư (sī) 53B6= riêng tư

29. 又 hựu (yòu) 53C8= lại nữa, một lần nữa

30. 口 khẩu (kǒu) 53E3= cái miệng

31. 囗 vi (wéi) 56D7= vây quanh

32. 土 thổ (tǔ) 571F= đất

33. 士 sĩ (shì) 58EB= kẻ sĩ

34. 夂 trĩ (zhǐ) 5902= đến ở phía sau

35. 夊 tuy (sūi) 590A= đi chậm

36. 夕 tịch (xì) 5915= đêm tối

37. 大 đại (dà) 5927= to lớn

38. 女 nữ (nǚ) 5973= nữ giới, con gái, đàn bà

39. 子 tử (zǐ) 5B50= con; tiếng tôn xưng: «Thầy», «Ngài»

40. 宀 miên (mián) 5B80= mái nhà mái che

41. 寸 thốn (cùn) 5BF8= đơn vị «tấc» (đo chiều dài)

42. 小 tiểu (xiǎo) 5C0F= nhỏ bé

43. 尢 uông (wāng) 5C22= yếu đuối

44. 尸 thi (shī) 5C38= xác chết, thây ma

45. 屮 triệt (chè) 5C6E= mầm non, cỏ non mới mọc

46. 山 sơn (shān) 5C71= núi non

47. 巛 xuyên (chuān) 5DDB= sông ngòi

48. 工 công (gōng) 5DE5= người thợ, công việc

49. 己 kỷ (jǐ) 5DF1= bản thân mình

50. 巾 cân (jīn) 5DFE= cái khăn

51. 干 can (gān) 5E72= thiên can, can dự

52. 幺 yêu (yāo) 4E61, 5E7A= nhỏ nhắn

53. 广 nghiễm (ān) 5E7F= mái nhà

54. 廴 dẫn (yǐn) 5EF4= bước dài

55. 廾 củng (gǒng) 5EFE= chắp tay

56. 弋 dặc (yì) 5F0B= bắn, chiếm lấy

57. 弓 cung (gōng) 5F13= cái cung (để bắn tên)

58. 彐 kệ (jì) 5F50= đầu con nhím

59 彡 sam (shān) 5F61= lông tóc dài

60. 彳 xích (chì) 5F73= bước chân trái

61. 心 tâm (xīn) 5FC3 (忄 5FC4)= quả tim, tâm trí, tấm lòng

62. 戈 qua (gē) 6208= cây qua (một thứ binh khí dài)

63. 戶 hộ (hù) 6236= cửa một cánh

64. 手 thủ (shǒu) 624B (扌624C)= tay

65. 支 chi (zhī) 652F= cành nhánh

66. 攴 phộc (pù) 6534 (攵6535)= đánh khẽ

67. 文 văn (wén) 6587= văn vẻ, văn chương, vẻ sáng

68. 斗 đẩu (dōu) 6597= cái đấu để đong

69. 斤 cân (jīn) 65A4= cái búa, rìu

70. 方 phương (fāng) 65B9= vuông

71. 无 vô (wú) 65E0= không

72. 日 nhật (rì) 65E5= ngày, mặt trời

73. 曰 viết (yuē) 66F0= nói rằng

74. 月 nguyệt (yuè) 6708= tháng, mặt trăng

75. 木 mộc (mù) 6728= gỗ, cây cối

76. 欠 khiếm (qiàn) 6B20= khiếm khuyết, thiếu vắng

77. 止 chỉ (zhǐ) 6B62= dừng lại

78. 歹 đãi (dǎi) 6B79= xấu xa, tệ hại

79. 殳 thù (shū) 6BB3= binh khí dài

80. 毋 vô (wú) 6BCB= chớ, đừng

81. 比 tỷ (bǐ) 6BD4= so sánh

82. 毛 mao (máo) 6BDB= lông

83. 氏 thị (shì) 6C0F= họ

84. 气 khí (qì) 6C14= hơi nước

85. 水 thuỷ (shǔi) 6C34 (氵6C35)= nước

86. 火 hỏa (huǒ) 706B (灬706C)= lửa

87. 爪 trảo (zhǎo) 722A= móng vuốt cầm thú

88. 父 phụ (fù) 7236= cha

89. 爻 hào (yáo) 723B= hào âm, hào dương (Kinh Dịch)

90. 爿 tường (qiáng) 723F (丬4E2C)= mảnh gỗ, cái giường

91. 片 phiến (piàn) 7247= mảnh, tấm, miếng

92. 牙 nha (yá) 7259= răng

93. 牛 ngưu (níu) 725B, 牜725C= trâu

94. 犬 khuyển (quản) 72AC (犭72AD)= con chó

95. 玄 huyền (xuán) 7384= màu đen huyền, huyền bí

96. 玉 ngọc (yù) 7389= đá quý, ngọc

97. 瓜 qua (guā) 74DC= quả dưa

98. 瓦 ngõa (wǎ) 74E6= ngói

99. 甘 cam (gān) 7518= ngọt

100. 生 sinh (shēng) 751F= sinh đẻ, sinh sống

101. 用 dụng (yòng) 7528= dùng

102. 田 điền (tián) 7530= ruộng

103. 疋 thất (pǐ) 758B ( 匹5339)=đơn vị đo chiều dài, tấm (vải)

104. 疒 nạch (nǐ) 7592= bệnh tật

105. 癶 bát (bǒ) 7676= gạt ngược lại, trở lại

106. 白 bạch (bái) 767D= màu trắng

107. 皮 bì (pí) 76AE= da

108. 皿 mãnh (mǐn) 76BF= bát dĩa

109. 目 mục (mù) 76EE= mắt

110. 矛 mâu (máo) 77DB= cây giáo để đâm

111. 矢 thỉ (shǐ) 77E2= cây tên, mũi tên

112. 石 thạch (shí) 77F3= đá

113. 示 thị; kỳ (shì) 793A (礻793B)= chỉ thị; thần đất

114. 禸 nhựu (róu) 79B8= vết chân, lốt chân

115. 禾 hòa (hé) 79BE= lúa

116. 穴 huyệt (xué) 7A74= hang lỗ

117. 立 lập (lì) 7ACB= đứng, thành lập

118. 竹 trúc (zhú) 7AF9= tre trúc

119. 米 mễ (mǐ) 7C73= gạo

120. 糸 mịch (mì) 7CF8 (糹7CF9, 纟7E9F)= sợi tơ nhỏ

121. 缶 phẫu (fǒu) 7F36= đồ sành

122. 网 võng (wǎng) 7F51 (罒7F52, 罓7F53)= cái lưới

123. 羊 dương (yáng) 7F8A= con dê

124. 羽 vũ (yǚ) FA1E (羽7FBD)= lông vũ

125. 老 lão (lǎo) 8001= già

126. 而 nhi (ér) 800C= mà, và

127. 耒 lỗi (lěi) 8012= cái cày

128. 耳 nhĩ (ěr) 8033= tai (lỗ tai)

129. 聿 duật (yù) 807F= cây bút

130. 肉 nhục (ròu) 8089= thịt

131. 臣 thần (chén) 81E3= bầy tôi

132. 自 tự (zì) 81EA= tự bản thân, kể từ

133. 至 chí (zhì) 81F3= đến

134. 臼 cữu (jiù) 81FC= cái cối giã gạo

135. 舌 thiệt (shé) 820C= cái lưỡi

136. 舛 suyễn (chuǎn) 821B= sai suyễn, sai lầm

137. 舟 chu (zhōu) 821F= cái thuyền

138. 艮 cấn (gèn) 826E= quẻ Cấn (Kinh Dịch); dừng, bền cứng

139. 色 sắc (sè) 8272= màu, dáng vẻ, nữ sắc

140. 艸 thảo (cǎo) 8278 (艹8279)= cỏ

141. 虍 hô (hū) 864D= vằn vện của con hổ

142. 虫 trùng (chóng) 866B= sâu bọ

143. 血 huyết (xuè) 8840= máu

144. 行 hành (xíng) 884C, FA08= đi, thi hành, làm được

145. 衣 y (yī) 8863 (衤8864)= áo

146. 襾 á (yà) 897E, 8980= che đậy, úp lên

147. 見 kiến (jiàn) 898B, FA0A (见89C1)= trông thấy

148. 角 giác (jué) 89D2= góc, sừng thú

149. 言 ngôn (yán) 8A00, 8A01, 8BA0= nói

150. 谷 cốc (gǔ) 8C37= khe nước chảy giữa hai núi, thung lũng

151. 豆 đậu (dòu) 8C46= hạt đậu, cây đậu

152. 豕 thỉ (shǐ) 8C55= con heo, con lợn

153. 豸 trãi (zhì) 8C78= loài sâu không chân

154. 貝 bối (bèi) 8C9D (贝8D1D)=vật báu

155. 赤 xích (chì) 8D64= màu đỏ

156. 走 tẩu (zǒu) 8D70, 赱8D71= đi, chạy

157. 足 túc (zú) 8DB3= chân, đầy đủ

158. 身 thân (shēn) 8EAB= thân thể, thân mình

159. 車 xa (chē) 8ECA, F902 (车8F66)= chiếc xe

160. 辛 tân (xīn) 8F9B= cay

161. 辰 thần (chén) 8FB0, F971=nhật, nguyệt, tinh; thìn (12 chi)

162. 辵 sước (chuò) 8FB5 (辶 8FB6)=chợt bước đi chợt dừng lại

163. 邑 ấp (yì) 9091(阝+ 961D)= vùng đất, đất phong cho quan

164. 酉 dậu (yǒu) 9149= một trong 12 địa chi

165. 釆 biện (biàn) 91C6= phân biệt

166. 里 lý (lǐ) 91CC, F9E9= dặm; làng xóm

167. 金 kim (jīn) 91D1, 91D2, 9485, F90A= kim loại; vàng

168. 長 trường (cháng) 9577 (镸 9578, 长957F)= dài; lớn (trưởng)

169. 門 môn (mén) 9580 (门95E8)= cửa hai cánh

170. 阜 phụ (fù) 961C (阝- 961D)=đống đất, gò đất

171. 隶 đãi (dài) 96B6= kịp, kịp đến

172. 隹 truy, chuy (zhuī) 96B9= chim đuôi ngắn

173. 雨 vũ (yǚ) 96E8= mưa

174. 青 thanh (qīng) 9752 (靑9751)= màu xanh

175. 非 phi (fēi) 975E= không

176. 面 diện (miàn) 9762 (靣9763)= mặt, bề mặt

177. 革 cách (gé) 9769= da thú; thay đổi, cải cách

178. 韋 vi (wéi) 97CB (韦97E6)= da đã thuộc rồi

179. 韭 phỉ, cửu (jiǔ) 97ED= rau phỉ (hẹ)

180. 音 âm (yīn) 97F3= âm thanh, tiếng

181. 頁 hiệt (yè) 9801 (页9875)= đầu; trang giấy

182. 風 phong (fēng) 98A8 (凬51EC, 风98CE)= gió

183. 飛 phi (fēi) 98DB (飞 98DE)= bay

184. 食 thực (shí) 98DF (飠98E0, 饣 9963)= ăn

185. 首 thủ (shǒu) 9996= đầu

186. 香 hương (xiāng) 9999= mùi hương, hương thơm

187. 馬 mã (mǎ) 99AC (马9A6C)= con ngựa

188. 骫 cốt (gǔ) 9AAB= xương

189. 高 cao (gāo) 9AD8, 9AD9= cao

190. 髟 bưu, tiêu (biāo) 9ADF= tóc dài; sam (shān)=cỏ phủ mái nhà

191. 鬥 đấu (dòu) 9B25= chống nhau, chiến đấu

192. 鬯 sưởng (chàng) 9B2F= rượu nếp; bao đựng cây cung

193. 鬲 cách (gé) 9B32=tên một con sông xưa; (lì)= cái đỉnh

194. 鬼 quỷ (gǔi) 9B3C=con quỷ

195. 魚 ngư (yú) 9B5A (鱼9C7C)= con cá

196. 鳥 điểu (niǎo) 9CE5 (鸟9E1F)= con chim

197. 鹵 lỗ (lǔ) 9E75= đất mặn

198. 鹿 lộc (lù) 9E7F, F940= con hươu

199. 麥 mạch (mò) 9EA5 (麦9EA6)= lúa mạch

200. 麻 ma (má) 9EBB= cây gai

201. 黃 hoàng (huáng) 9EC3, 9EC4= màu vàng

202. 黍 thử (shǔ) 9ECD= lúa nếp

203. 黑 hắc (hēi) 9ED1, 9ED2= màu đen

204. 黹 chỉ (zhǐ) 9EF9= may áo, khâu vá

205. 黽 mãnh (mǐn) 9EFD, 9EFE= con ếch; cố gắng (mãnh miễn)

206. 鼎 đỉnh (dǐng) 9F0E= cái đỉnh

207. 鼓 cổ (gǔ) 9F13, 9F14= cái trống

208. 鼠 thử (shǔ) 9F20= con chuột

209. 鼻 tỵ (bí) 9F3B= cái mũi

210. 齊 tề (qí) 9F4A (斉 6589, 齐 9F50)= ngang bằng, cùng nhau

211. 齒 xỉ (chǐ) 9F52 (齿9F7F, 歯 6B6F)= răng

212. 龍 long (lóng) 9F8D, F9C4 (龙 9F99)= con rồng

213. 龜 quy (guī) F907, F908, 9F9C (亀4E80, 龟 9F9F)=con rùa

214. 龠 dược (yuè) 9FA0= sáo 3 lỗ







Theo thống kê của Đại học Yale (trong Dictionary of Spoken Chinese, 1966), các chữ Hán có tần số sử dụng cao nhất thường thường thuộc 50 bộ thủ sau đây:



1. 人 nhân (亻) - bộ 9

2. 刀 đao (刂) - bộ 18

3. 力 lực - bộ 19

4. 口 khẩu - bộ 30

5. 囗 vi - bộ 31

6. 土 thổ - bộ 32

7. 大 đại - bộ 37

8. 女 nữ - bộ 38

9. 宀 miên - bộ 40

10. 山 sơn - bộ 46

11. 巾 cân - bộ 50

12. 广 nghiễm - bộ 53

13. 彳 xích - bộ 60

14. 心 tâm (忄) - bộ 61

15. 手 thủ (扌) - bộ 64

16. 攴 phộc (攵) - bộ 66

17. 日 nhật - bộ 72

18. 木 mộc - bộ 75

19. 水 thuỷ (氵) - bộ 85

20. 火 hoả (灬) - bộ 86

21. 牛 ngưu - bộ 93

22. 犬 khuyển (犭) - bộ 94

23. 玉 ngọc - bộ 96

24. 田 điền - bộ 102

25. 疒 nạch - bộ 104




26. 目 mục - bộ 109

27. 石 thạch - bộ 112

28. 禾 hoà - bộ 115

29. 竹 trúc - bộ 118

30. 米 mễ - bộ 119

31. 糸 mịch - bộ 120

32. 肉 nhục (月 ) - bộ 130

33. 艸 thảo (艹) - bộ 140

34. 虫 trùng - bộ 142

35. 衣 y (衤) - bộ 145

36. 言 ngôn - bộ 149

37. 貝 bối - bộ 154

38. 足 túc - bộ 157

39. 車 xa - bộ 159

40. 辶 sước - bộ 162

41. 邑 ấp阝+ (phải) - bộ 163

42. 金 kim - bộ 167

43. 門 môn - bộ 169

44. 阜 phụ 阝- (trái) - bộ 170

45. 雨 vũ - bộ 173

46. 頁 hiệt - bộ 181

47. 食 thực - bộ 184

48. 馬 mã - bộ 187

49. 魚 ngư - bộ 195

50. 鳥 điểu - bộ 196


Nguồn: Lê Anh Minh, Nam Cực Tinh Toàn Cầu Thông, Nxb Đồng Nai, 2002, tr. 52-62.

23/6/09

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]


TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)

42. Sơn hạ túc 山 下 宿

獨 到 山 下 宿

Độc đáo sơn hạ túc.

靜 向 月 中 行

Tĩnh hướng nguyệt trung hành.

何 處 水 邊 碓

Hà xứ thủy biên đối,

夜 舂 雲 母 聲

Dạ thung vân mẫu thanh.



Ngủ trong núi

Một mình tới ngủ non xanh,

Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.

Suối đâu? Cối nước liền bên,

Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.



43. Trì thượng 池 上

小 娃 撐 小 艇

Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,

偷 採 白 蓮 迴

Thâu thái bạch liên hồi,

不 解 藏 蹤 跡

Bất giải tàng tung tích,

浮 萍 一 道 開

Phù bình nhất đạo khai.

Trên ao

Người xinh bơi chiếc thúng xinh,

Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.

Hớ hênh dấu vết không che,

Trên ao để một luồng chia mặt bèo.

Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)



44. Chu trung vũ dạ 舟 中 雨 夜

江 雲 闇 悠 悠

Giang vân ám du du,

江 風 冷 修 修

Giang phong lãnh tu tu,

夜 雨 滴 船 背

Dạ vũ trích thuyền bối,

夜 浪 打 船 頭

Dạ lãng đả thuyền đầu.

船 中 有 病 客

Thuyền trung hữu bệnh khách.

左 降 向 江 川

Tả giáng hướng Giang Châu.



Trong thuyền đêm mưa

Mây sông kéo tới đùn đùn,

Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông

Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,

Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.

Trong thuyền có bác ốm rên,

Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.

Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)



45. Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪

簷 間 清 風 簟

Thiềm gian thanh phong điệm.

松 下 明 月 盃

Tùng hạ minh nguyệt bôi.

幽 意 正 如 此

U ý chính như thử.

況 乃 故 人 來

Huống nãi cố nhân lai.



Người bạn đến thăm đêm

Thềm cao gió mát chiếu đan,

Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.

Lòng riêng đương thú với lòng.

Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.



46. Dạ vũ 夜 雨



早 蛩 啼 復 歇

Tảo cung đề phục yết.

殘 燈 滅 又 明

Tàn đăng diệt hựu minh.

隔 窗 知 夜 雨

Cách song tri dạ vũ.

芭 蕉 先 有 聲

Ba tiêu tiên hữu thanh.



Mưa đêm

Dế giun rên mỏi lại ngừng,

Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.

Cách song, đêm biết mưa sa,

Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.

Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)



47. Thu trùng 秋 蟲

切 切 闇 窗 下

Thiết thiết ám song hạ,

喓 喓 深 草 裏

Yêu yêu thâm thảo lý.

秋 天 思 婦 心

Thu thiên tư phụ tâm,

雨 夜 愁 人 耳

Vũ dạ sầu nhân nhĩ.



Trùng mùa thu

Tiếng đâu dưới vách kêu ran?

Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.

Trơi thu gái nhớ chồng son,

Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



48. Vấn Hoài Thủy 問 淮 水

自 嗟 名 利 客

Tự ta danh lợi khách,

擾 擾 在 人 間

Nhiễu nhiễu tại nhân gian.

何 事 長 淮 水

Hà sự trường Hoài thủy,

東 流 亦 不 閒

Đông lưu diệc bất nhàn?



Hỏi nước sông Hoài

Trong vòng danh lợi thương ta,

Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.

Việc chi, hỡi nước sông Hoài?

Cũng không thong thả, miệt mài về đông?

Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)



49. Tảo thu độc dạ 早 秋 獨 夜

井 梧 涼 葉 動

Tỉnh ngô lương diệp động,

鄰 杵 秋 聲 發

Lân chử thu thanh phát.

獨 向 簷 下 眠

Độc hướng thiềm hạ miên.

覺 來 半 床 月

Giác lai bán sàng nguyệt.



Mùa thu sớm, đêm một mình

Giếng vàng lay động lá ngô,

Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...

Một mình ngủ dưới mái hiên,

Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.

Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)



50. Thu mộ giao cư thư hoài 秋 暮 郊 居 書 懷

郊 居 人 事 少

Giao cư nhân sự thiểu,

晝 臥 對 林 巒

Trú ngọa đối lâm man.

窮 巷 厭 多 雨

Cùng hạng yếm đa vũ,

貧 家 愁 早 寒

Bần gia sầu tảo hàn.

葛 衣 秋 未 換

Cát y thu vị hoán,

書 卷 病 仍 看

Thư quyển bịnh nhưng khan.

若 問 生 涯 計

Nhược vấn sinh nhai kế,

前 溪 一 釣 竿

Tiền khê nhất điếu can.



Cuối thu, cảnh ở quê

Ở quê, thưa ít việc người,

Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.

Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,

Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.

Áo lương còn mặc mùa thu,

Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.

Lấy chi qua sống ngày trời?

Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



51. Thu giang tống khách 秋 江 送 客

秋 鴻 次 第 過

Thu hồng thứ đệ quá,

哀 猿 朝 夕 聞

Ai viên triêu tịch văn.

是 日 孤 舟 客

Thị nhật cô chu khách,

此 地 亦 離 群

Thử địa diệc ly quần.

濛 濛 潤 衣 雨

Mông mông nhuận y vũ,

漠 漠 冒 帆 雲

Mạc mạc mạo phàm vân,

不 醉 潯 陽 酒

Bất túy Tầm Dương tửu,

煙 波 愁 殺 人

Yên ba sầu sát nhân.



Sông thu tiễn khách

Nhàn thu lần lượt bay qua,

Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.

Ngày nay một chiếc thuyền ai,

Nước non này cũng chia phôi cách đàn.

Mưa đầm vạt áo như chan,

Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.

Chẳng say chén rượu Tầm Dương,

Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.

Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)



52. Thảo 草

離 離 原 上 草

Ly ly nguyên thượng thảo,

一 歲 一 枯 榮

Nhất tuế nhất khô vinh,

野 火 燒 不 盡

Dã hỏa thiêu bất tận,

春 風 吹 又 生

Xuân phong xuy hựu sinh.

遠 芳 侵 古 道

Viễn phương xâm cổ đạo,

晴 翠 接 荒 城

Tình thúy tiếp hoang thành

又 送 王 孫 去

Hựu tống Vương tôn khứ

萋 萋 滿 別 情

Thê thê mãn biệt tình.



Cỏ

Đồng cao cỏ mọc như chen,

Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.

Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,

Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.

Xa xa thơm ngát dặm dài,

Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.

Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,

Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp 和 杜 錄 事 題 紅 葉

寒 山 十 月 旦

Hàn sơn thập nguyệt đán,

霜 葉 一 時 新

Sương diệp nhất thời tân.

似 燒 非 因 火

Tự thiêu phi nhân hỏa,

如 花 不 待 春

Như hoa bất đãi xuân.

連 行 排 降 葉

Liên hàng bài giáng diệp,

亂 落 剪 紅 巾

Loạn lạc tiễn hồng cân.

解 駐 籃 轝 看

Giải trụ lam dư khán,

風 前 唯 兩 人

Phong tiền duy lưỡng nhân.



Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ

Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,

Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!

Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,

Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.

Liền hàng, màn tía bày ra,

Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!

Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,

Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.

Ngày Nay, số 139 (XII–1938)



54. Ký Vi Chi 寄 微 之

江 州 望 通 州

Giang Châu vọng Thông Châu,

天 涯 與 地 末

Thiên nhai dữ địa mạt.

有 山 萬 丈 高

Hữu sơn vạn trượng cao,

有 江 千 里 闊

Hữu giang thiên lý khoát.

間 之 以 雲 霧

Gián chi dĩ vân vụ,

飛 鳥 不 可 越

Phi điểu bất khả việt.

誰 知 千 古 險

Thùy tri thiên cổ hiểm,

為 我 二 人 設

Vị ngã nhị nhân thiết.

通 州 君 初 到

Thông Châu quân sơ đáo,

鬱 鬱 愁 如 結

Uất uất sầu như kết.

江 州 我 方 去

Giang châu ngã phương khứ,

迢 迢 行 未 歇

Thiều thiều hành vị yết.

道 路 日 乖 隔

Đạo lộ nhật quai cách.

音 信 日 斷 絕

Âm tín nhật đoạn tuyệt.

因 風 欲 寄 語

Nhân phong dục ký ngữ,

地 遠 聲 不 徹

Địa viễn thanh bất triệt.

生 當 復 相 逢

Sinh đương phục tương phùng.

死 當 從 此 別

Tử đương tòng thử biệt!



Gửi bạn Vi Chi

Châu Giang mà ngóng Châu Thông,

Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?

Núi đâu muôn trượng kìa cao,

Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!

Mây che mù tỏa bao la,

Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.

Hiểm xưa còn đó ngàn năm,

Ai hay trời để chơi khăm đôi người.

Châu Thông bác mới tới nơi,

Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.

Châu Giang tôi mới đi dần,

Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.

Quan hà ngày một chia khơi,

Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.

Gió đưa muốn gửi câu này,

Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.

Sống còn gặp gỡ đôi ta,

Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.



55. Dĩ kính tặng biệt 以 鏡 贈 別

人 言 似 明 月

Nhân ngôn tự minh nguyệt,

我 道 勝 明 月

Ngã đạo thắng minh nguyệt.

明 月 非 不 明

Minh nguyệt phi bất minh,

一 年 十 二 缺

Nhất niên thập nhị khuyết.

豈 如 玉 匣 裡

Khởi như ngọc hạp lý,

如 水 常 澄 澈

Như thủy thường trừng triệt,

月 破 天 闇 時

Nguyệt phá thiên ám thời,

圓 明 獨 不 歇

Viên minh độc bất yết.

我 慚 貌 醜 老

Ngã tâm mạo xú lão,

繞 鬢 班 班 雪

Nhiễu mấn ban ban tuyết,

不 如 贈 少 年

Bất như tặng thiếu niên,

迴 照 青 絲 髮

Hồi chiếu thanh ty phát,

因 君 千 里 去

Nhân quân thiên lý khứ,

持 此 將 為 別

Trì thử tương vi biệt.



Lấy gương làm quà tặng biệt

Ai rằng: gương sáng như trăng,

Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.

Trăng kia thật sáng vẹn mười,

Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.

Sao bằng trong hộp ngọc này,

Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.

Nào khi trăng khuyết trời âm.

Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.

Buồn ta già xấu hơn người,

Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.

Chẳng bằng cho bạn thanh niên,

Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.

Anh nay nghìn dặm đi xa,

Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.

Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)



56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ

自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟

岐 路 南 將 北

Kỳ lộ nam tương bắc,

離 憂 弟 與 兄

Ly ưu đệ dữ huynh.

關 河 千 里 別

Quan hà thiên lý biệt,

風 雪 一 身 行

Phong tuyết nhất thân hành.

夕 宿 勞 鄉 夢

Tịch túc lao hương mộng,

晨 裝 慘 旅 情

Thần trang thảm lữ tình.

家 貧 憂 後 事

Gia bần ưu hậu sự,

日 短 念 前 程

Nhật đoản niệm tiền trình.

煙 雁 翻 寒 渚

Yên nhạn phiên hàn chử,

霜 烏 聚 古 城

Sương ô tụ cổ thành.

誰 憐 陟 岡 者

Thùy liên trắc cương giả,

西 楚 望 南 荊

Tây Sở vọng Nam Kinh.



Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em

Đường kia sắp bắc từ nam,

Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.

Quan hà ngàn dặm xa nhau,

Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.

Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,

Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.

Nhà nghèo lo tính xa xôi,

Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.

Nhạn sa bến lạnh khói lồng

Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.

Ai thương kẻ bước lên gò?

Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.

Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)



57. Tùng thanh 松 聲

月 好 好 獨 坐

Nguyệt hảo, hảo độc tọa,

雙 松 在 前 軒

Song tùng tại tiền hiên.

西 南 微 風 來

Tây nam vi phong lai,

潛 入 枝 葉 間

Tiềm nhập chi diệp gian,

蕭 寥 發 為 聲

Tiêu liêu phát vi thanh,

半 夜 明 月 前

Bán dạ minh nguyệt tiền,

寒 山 颯 颯 雨

Hàn sơn táp táp vũ

秋 琴 冷 冷 絃

Thu cầm lãnh lãnh huyền.

一 聞 滌 炎 暑

Nhất văn địch viêm thử,

再 聽 破 昏 煩

Tái thính phá hôn phiền.

竟 夕 遂 不 寐

Cánh tịch toại bất mị,

心 體 俱 翛 然

Tâm thể câu diểu nhiên.

南 陌 車 馬 動

Nam mạch xa mã động,

西 鄰 歌 吹 繁

Tây lân ca xúy phồn,

誰 知 茲 簷 下

Thùy tri tư thiềm hạ,

滿 耳 不 為 喧

Mãn nhĩ bất vi huyên.



Tiếng thông reo

Trăng trong ngồi mát một mình,

Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên

Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,

Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.

Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,

Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.

Ào ào núi rét sa mưa,

Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.

Một nghe, rửa sạch cơn nồng,

Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.

Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,

Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.

Đường nam xe ngựa rình rình,

Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.

Ai hay này chỗ hành lang,

Đầy tai nghe vẫn êm thường như không

Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)



58. Thu san 秋 山

久 病 曠 心 賞

Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.

今 朝 一 登 山

Kim triêu nhất đăng san.

山 秋 雲 物 冷

San thu vân vật lãnh,

稱 我 清 羸 顏

Xứng ngã thanh luy nhan.

百 石 臥 可 枕

Bạch thạch ngọa khả trẩm,

青 蘿 行 可 攀

Thanh la hành khả phan.

意 中 如 有 得

Ý trung như hữu đắc,

盡 日 不 欲 還

Tận nhật bất dục hoàn.

人 生 無 幾 何

Nhân sinh vô kỷ hà,

如 寄 天 地 間

Như ký thiên địa gian.

心 有 千 載 憂

Tâm hữu thiên tải ưu,

身 無 一 日 閑

Thân vô nhất nhật nhàn.

何 時 解 塵 網

Hà thời giải trần võng,

此 地 來 掩 關

Thử địa lai yểm quan.



Núi mùa thu

Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!

Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.

Màu thu, mây núi lạnh lùng.

Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.

Nằm gối đá, đi vin dây,

Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!

Thú vui trong dạ một mình,

Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.

Người ta sống có bao lâu,

Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.

Mối lo mang lấy nghìn đời,

Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.

Bao giờ giũ sạch lụy trần?

Lại đây đóng cửa vui phần núi non.

Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)



59. Vọng giang lâu thượng tác
望 江 樓 上 作

江 畔 百 尺 樓

Giang bạn bách xích lâu,

樓 前 千 里 道

Lâu tiền thiên lý đạo.

憑 高 望 平 遠

Bằng cao vọng bình viễn,

亦 足 舒 懷 抱

Diệc túc thư hoài bão.

驛 路 使 憧 憧

Dịch lộ sứ đồng đồng.

關 防 兵 草 草

Quan phòng binh thảo thảo.

及 茲 多 事 日

Cập tư đa sự nhật,

猶 覺 閒 人 好

Do giác nhàn nhân hảo.

我 年 過 不 惑

Ngã niên quá bất hoặc,

休 退 誠 非 早

Hưu thoái thành phi tảo.

從 此 拂 塵 衣

Tòng thử phất trần y.

歸 山 未 為 老

Qui sơn vị vi lão.



Trên lầu trông ra sông

Bờ sông trăm thước lầu cao,

Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?

Tựa cao trông xuống dặm trường,

Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.

Đường quan rộn kẻ đưa thư,

Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.

Cuộc đời gặp lúc rối tung,

Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.

Đã hơn bốn chục tuổi đầu,

Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.

Từ nay giũ áo trần ai.

Non xanh tình thú vui chơi chửa già...



60. Tặng nội 贈 內

生 為 同 室 親

Sinh vi đồng thất thân,

死 為 同 穴 塵

Tử vi đồng huyệt trần.

他 人 尚 相 勉

Tha nhân thượng tương miễn,

而 況 我 與 君

Nhi huống ngã dữ quân.

黔 婁 固 窮 士

Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,

妻 賢 忘 其 貧

Thê hiền vong kỳ bần.

冀 缺 一 農 夫

Ký Khuyết nhất nông phu,

妻 敬 儼 如 賓

Thê kính nghiễm như tân.

陶 潛 不 營 生

Đào Tiềm bất doanh sinh,

翟 氏 自 爨 薪

Địch thị tự thoán tân.

梁 鴻 不 旨 仕

Lương Hồng bất khẳng sĩ,

孟 光 甘 布 裙

Mạnh Quang cam bố quần.

君 雖 不 讀 書

Quân tuy bất độc thư,

此 事 耳 亦 聞

Thử sự nhĩ diệc văn.

至 此 千 載 後

Chí thử thiên tải hậu,

傳 是 何 如 人

Truyền thị hà như nhân?

人 生 未 死 間

Nhân sinh vị tử gian.

不 能 忘 其 身

Bất năng vong kỳ thân.

所 須 者 衣 食

Sở tu giả y thực,

不 過 飽 與 溫

Bất quá bão dữ ôn.

蔬 食 足 充 飢

Sơ tự túc sung cơ,

何 必 膏 梁 珍

Hà tất cao lương trân?

繒 絮 足 禦 寒

Tăng nhứ túc ngự hàn,

何 必 錦 繡 文

Hà tất cẩm tú văn?

君 家 有 貽 訓

Quân gia hữu di huấn,

清 白 遺 子 孫

Thanh bạch di tử tôn.

我 亦 貞 苦 士

Ngã diệc trinh khổ sĩ,

與 君 新 結 婚

Dữ quân tân kết hôn.

庶 保 貧 與 素

Thứ bảo bần dữ tố,

偕 老 同 欣 欣

Giai lão đồng hân hân.



Thơ đưa vợ

Tình lúc sống một nhà cùng ở,

Chết ra tro, một hố cùng chung.

Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.

Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?

Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,

Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.

Nông phu Ký Khuyết cày đồng,

Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.

Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,

Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.

Lương Hồng quan chẳng chịu mần,

Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,

Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,

Các truyện kia hẳn thấy quen tai.

Nghìn năm còn lại ở đời,

Đến nay cùng nói là người như sao?

Người chưa chết lúc nào còn sống,

Chẳng ai mà quên bỗng được thân,

Cái ăn cái mặc là cần.

Cũng sao no ấm qua lần là xong.

Cơm rau đủ no lòng lúc đói.

Có cần chi thức tối cao lương,

Lụa the, rét đủ mặc thường,

Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?

Nhà mình có để đời câu dạy:

Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.

Ta đây cũng một lòng son.

Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,

Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,

Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.

Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)



61. Khinh phì 輕 肥

意 氣 驕 滿 路

Ý khí kiêu mãn lộ,

鞍 馬 光 照 塵

Yên mã quang chiếu trần

借 問 何 為 者

Tá vấn hà vi giả,

人 稱 是 內 臣

Nhân xưng thị nội thần.

朱 紱 皆 大 夫

Chu phất giai đại phu

紫 綬 或 將 軍

Tử thụ hoặc tương quân

誇 赴 軍 中 宴

Khoa phó quân trung yến.

走 馬 去 如 雲

Tẩu mã khứ như vân.

樽 罍 溢 九 醞

Tôn lôi dật cửu uấn,

水 陸 羅 八 珍

Thủy lục la bát trân.

果 擘 洞 庭 橘

Quả phách Đỗng Đình quất,

膾 切 天 池 鱗

Khoái thiết Thiên Trì lân.

食 飽 心 自 苦

Thực bão tâm tự nhược,

酒 酣 氣 益 振

Tửu hàm khí ích chân.

是 歲 江 南 旱

Thị tuế Giang Nam hạn,

衢 州 人 食 人

Cù Châu nhân thực nhân.



Nhẹ béo

Đầy đường dáng bộ con cưng,

Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.

Hỏi: Làm chi đó những ông?

Người ta rằng lũ quan trong đó mà.

Dải điều đều Đại phu ta,

Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân

Khuênh khoang đi chén trong quân,

Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.

Vò, ang chín thứ rượu đầy,

Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.

Quả dâng quít hái Động Đình,

Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.

Ăn no khoan khoái tâm hồn,

Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.

Năm nay hạn hán Giang Nam,

Cù Châu người mổ người làm thức ăn.

Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)



62. Văn khốc giả 聞 哭 者

昨 日 南 鄰 哭

Tạc nhật nam lân khốc,

哭 聲 一 何 苦

Khốc thanh nhất hà khổ?

云 是 妻 哭 夫

Vân thi thê khốc phu.

夫 年 二 十 五

Phu niên nhị thập ngũ,

今 朝 北 里 哭

Kim triêu bắc lý khốc,

哭 聲 又 何 切

Khốc thanh hựu hà thiết!

云 是 母 哭 兒

Vân thị mẫu khốc nhi,

兒 年 十 七 八

Nhi niên thập thất bát.

四 鄰 尚 如 此

Tứ lân thượng như thử,

天 下 多 夭 折

Thiên hạ đa yểu chiết.

乃 知 浮 世 人

Nãi tri phù thế nhân.

少 得 垂 白 髮

Thiểu đắc thùy bạch phát?

余 今 過 四 十

Dư kim quá tứ thập,

念 彼 聊 自 悅

Niệm bỉ, liêu tự duyệt.

從 此 明 鏡 中

Tùng thử minh kính trung

不 嫌 頭 似 雪

Bất hiềm đầu tự tuyết.



Nghe người khóc

Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,

Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?

Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,

Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,

Sớm nay lại khóc than xóm bắc,

Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?

Rằng: Đâu là mẹ khóc con,

Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.

Bốn hàng xóm chung quanh như thế.

Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.

Mới hay người thế bao nhiêu,

Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?

Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,

Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.

Từ nay trong bức gương trong,

Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.

Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)



63. Tam niên biệt 三 年 別

悠 悠 一 別 已 三 年

Du du nhất biệt dĩ tam niên,

相 望 相 思 明 月 天

Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,

腸 斷 青 天 望 明 月

Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,

別 來 三 十 六 回 園

Biệt lai tam thập lục hồi viên.



Xa nhau ba năm

Xa nhau một chuyến ba năm,

Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.

Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,

Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!



64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻

驚 風 吹 起 塞 鴻 群

Kính phong xuy khởi tái hồng quần,

半 入 平 沙 半 入 雲

Bán nhập bình sa bán nhập vân.

為 問 昭 君 月 下 聽

Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,

何 如 蘇 武 雪 中 聞

Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?



Nghe chim hồng ngoài biên ải

Đàn hồng rợn gió ngoài biên,

Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.

Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,

Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?

Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)



65. Tự khuyến 自 勸

憶 昔 饑 貧 應 舉 年

Ức tích cơ bần ứng cử niên,

脫 衣 典 酒 曲 江 邊

Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.

十 千 一 斗 猶 奢 飲

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

何 況 官 供 不 值 錢

Hà huống quan cung bất trị tiền.



Tự khuyên mình

Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.

Bến Khúc thèm men, cố áo đi.

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.

Nữa chi lộc nước mất tiền chi!



66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm 臨 江 送 夏 瞻

悲 君 老 別 淚 沾 巾

Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,

七 十 無 家 萬 里 身

Thất thập vô gia vạn lý thân.

愁 見 舟 行 風 又 起

Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,

白 頭 浪 裡 白 頭 人

Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.



Tới sông tiễn Hạ Chiêm

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,

Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?

Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,

Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



67. Đại Lâm tự đào hoa 大 林 寺 桃 花

人 間 四 月 芳 菲 盡

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,

山 寺 桃 花 始 盛 開

Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.

長 恨 春 歸 無 覓 處

Trường hận xuân qui vô mịch xứ,

不 知 轉 入 此 中 來

Bất tri chuyển nhập thử trung lai.



Hoa đào chùa Đại Lâm

Tháng tư hoa đã hết mùa,

Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.

Xuân về kín chốn ai hay,

Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.

Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)



68. Giang thượng địch 江上笛

江 上 何 人 夜 吹 笛

Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,

聲 聲 似 憶 故 園 春

Thanh thanh tự ức cố viên xuân,

此 時 聞 者 堪 頭 白

Thử thời văn giả kham đầu bạch,

況 是 多 愁 少 睡 人

Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.



Sáo trên sông

Đêm, ai thổi sáo trên sông,

Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?

Ai nghe, luống những bạc đầu,

Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?

Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)



69. Vương Chiêu Quân 王昭君

滿 面 朝 沙 滿 鬢 風

Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,

眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅

Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,

愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡

Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.

如 今 卻 似 畫 圖 中

Như kim khước tự họa đồ trung.



Vương Chiêu Quân

Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,

Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.

Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,

Mới là tranh vẽ giống như ai.

Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)



70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓

亂 蓬 為 鬢 布 為 巾

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,

曉 蹋 寒 山 自 負 薪

Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,

一 種 錢 塘 江 畔 女

Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,

著 紅 騎 馬 是 何 人

Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?



Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ

Đầu bù khăn vải trùm tai,

Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,

Tiền Đường cũng gái bên sông.

Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?



71. Túc chương đình dịch 宿樟亭驛

夜 半 樟 亭 驛

Dạ bán Chương Đình dịch,

愁 人 起 望 鄉

Sầu nhân khỉ vọng hương.

明 月 何 所 見

Nguyệt minh hà sở kiến,

潮 水 白 茫 茫

Trào thủy bạch mang mang.



Ngủ nhà trạm Chương Đình

Nửa đêm ở trạm Chương Đình,

Người buồn trở dậy nặng tình hương quan

Dưới trăng trông ngóng lan man,

Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.

Ngày Nay, số 148 (1939)

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [1]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [1]




TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



VƯƠNG BỘT 王勃 (649-676)

1. Thục trung cửu nhật 蜀中九日

九 月 九 日望 鄉 臺

Cửu nguyệt cửu nhật Vọng Hương đài.

他 席 他 鄉 送 客 杯

Tha tịch tha hương tống khách bôi.

人 情 已 厭 南 中 苦

Nhân tình dĩ yếm Nam Trung khổ,

鴻 鴈 那 從 北 地 來

Hồng nhạn na tòng bắc địa lai.



Trong đất Thục ngày mồng chín

Vọng Hương mồng chín lên đài,

Chén đưa tiệc khách quê người Nam Trung

Người đây chán chết nỗi lòng,

Cớ sao đất bắc chim hồng lại chi?

Ngày Nay, số 87 (28-11-1937)



LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王 (640?-684)

2. Dịch thủy tống biệt 易水送別

此 地 別 燕 丹

Thử địa biệt yên Đan,

壯 士 髮 衝 冠

Tráng sĩ phát xung quan.

昔 時 民 已 沒

Tích thời nhân dĩ một,

今 日 水 由 寒

Kim nhật thủy do hàn.



Sông Dịch tiễn biệt

Đất này biệt chú yên Đan

Tóc anh tráng sĩ tức gan dựng đầu.

Người xưa nay đã đi đâu,

Lạnh lùng sông nước cơn sầu chưa tan.

Ngày Nay, số 120 (24.7.1938)



TRẦN TỬ NGANG 陳子昂 (651-702)

3. Kế khâu lãm cổ 薊丘覽古

南 登 碣 石 館

Nam đăng Kệ Thạch quán,

遙 望 黃 金 臺

Dao vọng Hoàng Kim đài.

邱 陵 盡 喬 木

Khâu lăng tận kiều mộc

昭 王 安 在 哉

Chiêu Vương an tại tai

霸 圖 悵 已 矣

Bá đồ trướng dĩ hĩ,

驅 馬 復 歸 來

Khu mã phục quy lai.



Gò Kế xem cảnh năm xưa

Trèo lên Kệ Thạch quán nam,

Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài.

Cây cao phủ hết quanh đồi.

Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?

Cơ đồ bá chủ còn đâu!

Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.



TRƯƠNG NHƯỢC HƯ 張若虛

4. Xuân giang hoa nguyệt dạ 春 江 花 月 夜

春 江 潮 水 連 海 平

1. Xuân giang triều thủy liên hải bình,

海 上 明 月 共 潮 生

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.

灩 灩 隨 波 千 萬 里

Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,

何 處 春 江 無 月 明

Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh?

江 流 宛 轉 遶 芳 甸

5.Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện

月 照 花 林 皆 似 霰

Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tản.

空 裏 流 霜 不 覺 飛

Không lý lưu sương bất giác phi,

汀 上 白 沙 看 不 見

Đinh thượng bạch sa khan bất kiến

江 天 一 色 無 纖 塵

Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,

皎 皎 空 中 孤 月 輪

10. Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.

江 畔 何 人 初 見 月

Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?

江 月 何 年 初 照 人

Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?

人 生 代 代 無 窮 已

Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,

江 月 年 年 秖 相 似

Giang nguyệt niên niên kỳ tương tự.

不 知 江 月 待 何 人

15. Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,

但 見 長 江 送 流 水

Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.

白 雲 一 片 去 悠 悠

Bạch vân nhất phiến khứ du du,

青 楓 浦 上 不 勝 愁

Thanh phong phố thượng bất thăng sầu,

誰 家 今 夜 扁 舟 子

Thùy gia kim dạ biên chu tử,

何 處 相 思 明 月 樓

20. Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?

可 憐 樓 上 月 徘 徊

Khả lân lâu thượng nguyệt bồi hồi,

應 照 離 人 妝 鏡 臺

Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.

玉 戶 簾 中 卷 不 去

Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,

擣 衣 砧 上 拂 還 來

Đảo y châm thượng phất hoàn lai.

此 時 相 望 不 相 聞

25. Thử thời tương vọng bất tương văn,

願 逐 月 華 流 照 君

Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.

鴻 雁 長 飛 光 不 度

Hồng nhạn trường phi quang bất độ

魚 龍 潛 躍 水 成 文

Ngư long tiềm dược thủy thành văn.

昨 夜 閒 潭 夢 落 花

Tạc dạ nhàm đàm mộng lạc hoa.

可 憐 春 半 不 還 家

30. Khả lân xuân bán bất hoàn gia.

江 水 流 春 去 欲 盡

Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,

江 潭 落 月 復 西 斜

Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.

斜 月 沈 沈 藏 海 霧

Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,

碣 石 瀟 湘 無 限 路

Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.

不 知 乘 月 幾 人 歸

35. Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy?

落 月 搖 情 滿 江 樹

Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.



Đêm trăng hoa trên sông xuân

Sông xuân sáng nước liền ngang bể,

Vầng trăng trong mặt bể lên cao.

Ánh trăng theo sóng đẹp sao!

Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng?

5.Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát,

Trăng soi hoa như tán trập trùng.

Sương bay chẳng biết trong không

Trên soi cát trắng nhìn không thấy gì.

Trời in nước một ly không bụi.

10. Mảnh trăng trong ròi rọi giữa trời.

Thấy trăng thoạt mới là ai?

Trăng sông thoạt mới soi người năm nao?

Người sinh mãi, kiếp nào cho biết,

Nhìn trăng sông năm hệt không sai.

15. Trăng sông chẳng biết soi ai,

Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.

Đám mây trắng ngùi ngùi đi mãi,

Rặng phong xanh một dải sông sầu.

Đêm nay ai đó, ai đâu?

20. Chiếc thuyền để nhớ trên lầu trăng soi.

Trăng thờ thẩn nơi người xa ngóng,

Chốn đài gương tựa bóng thương ai.

Trong rèm cuốn chẳng đi thôi,

Trên bàn đập áo quét rồi lại ngay.

25. Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,

Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.

Hồng bay, ánh sáng không màng,

Nước sâu cá quẫy chỉ càng vẩn tăm.

Đêm nọ giấc trong đầm hoa rữa,

30. Ai xa nhà xuân nửa còn chi!

Nước sông trôi mãi xuân đi,

Trăng tà lặn xuống bên kia cánh đầm.

Vầng trăng lặn êm chìm khói bể,

Đường bao xa non kệ sông Tương.

35. Về trăng mấy kẻ thừa lương,

Trăng chìm lay bóng đầy hàng cây sông.



TRƯƠNG CỬU LINH 張 九 齡 (678-740)

5. Tự quân chi xuất hĩ 自 君 之 出 矣

自 君 之 出 矣

Tự quân chi xuất hĩ,

不 復 理 殘 機

Bất phục lý tàn ky.

思 君 如 月 滿

Tư quân như nguyệt mãn,

夜 夜 減 光 煇

Dạ dạ giảm quang huy



Từ ngày anh bước ra đi

Từ ngày anh bước ra đi,

Cửa canh bỏ dở, nghĩ gì sửa sang.

Nhớ anh như nguyệt tròn gương,

Tiêu hao ánh sáng, đêm thường lại đêm

Ngày Nay, số 116 (26-6-1938)



VƯƠNG XƯƠNG LINH 王 昌 齡 (698-756?)

6. Tống Hồ Đại 送 胡 大

荊 門 不 坩 別

Kinh Môn bất kham biệt,

況 乃 瀟 湘 秋

Huống nãi Tiêu Tương thu.

何 處 遙 望 君

Hà xứ dao vọng quân,

江 邊 明 月 樓

Giang biên mình nguyệt lâu.



Tiễn Hồ Đại

Non Kinh biệt đã đau lòng,

Nữa chi thu lại hai dòng Tiêu, Tương.

Nhớ anh, xa ngóng dặm trường,

Bên sông dưới bóng trăng suông tựa lầu.

Ngày Nay, số 122 (7-8-1938)



7. Khuê oán 閨 怨

閨 中 少 婦 不 知 愁

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,

春 日 凝 妝 上 翠 樓

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.

忽 見 陌 頭 楊 柳 色

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,

悔 教 夫 婿 覓 封 侯

Hối giao phu tế mịch phong hầu.



Nhớ chồng

Trẻ trung nàng biết đâu sầu,

Buồng xuân trang điểm, lên lầu ngắm gương.

Nhác trông vẻ liễu bên đường,

«Phong hầu» nghĩ dại xui chàng kiếm chi.

Ngày Nay, số 77 (19-9-1938)



VƯƠNG DUY 王 維 (701-761)

8. Quá Hương Tích tự 過香積寺

不 知 香 積 寺

Bất tri Hương Tích tự

數 里 入 雲 峰

Sổ lý nhập vân phong.

古 木 無 人 徑

Cổ mộc vô nhân kính,

深 山 何 處 鐘

Thâm sơn hà xứ chung.

泉 聲 咽 危 石

Tuyền thanh yết nguy thạch,

日 色 冷 青 松

Nhật sắc lãnh thanh tùng.

薄 暮 空 潭 曲

Bạc mộ không đàm khúc,

安 禪 制 毒 龍

An thiền chế độc long.



Qua chùa Hương Tích

(Chùa ở trong hang Tý Ngọ, núi Nam Sơn,
thuộc Trường An, Hồ Nam, Trung Quốc.)

Chẳng hay Hương Tích chùa đâu,

Đi đôi ba dặm, lên đầu non cao.

Cây um, đường tắt vắng teo,

Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa.

Suối kêu nghẽn đá ria bờ,

Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh.

Trời hôm, tấc dạ thanh minh,

Qui y đạo Phật sửa mình là hơn.

Ngày Nay, số 97 (13-2-1938)



9. Tây Thi vịnh 西 施 詠

艷 色 天 下 重

Diễm sắc thiên hạ trọng,

西 施 寧 久 微

Tây Thi ninh cửu vi

朝 為 越 溪 女

Triêu vi Việt Khê nữ,

暮 作 吳 宮 妃

Mộ tác Ngô cung phi,

賤 日 豈 殊 眾

Tiện nhật khởi thù chúng,

貴 來 方 悟 稀

Quý lai phương ngộ hi.

邀 人 傅 脂 粉

Yêu nhân phó chi phấn.

不 自 著 羅 衣

Bất tự trước la y

君 寵 益 嬌 態

Quân sủng ích kiêu thái,

君 憐 無 是 非

Quân lân vô thị phi.

當 時 浣 紗 伴

Đương thời hoán sa bạn,

莫 得 同 車 歸

Mạc đắc đồng xa quy

持 謝 鄰 家 子

Trì tạ lân gia tử,

效 顰 安 可 希

Hiệu tần an khả hi.



Vịnh Tây Thi

Thế gian sắc đẹp ai bì,

Tây Thi không nhẽ hàn vi suốt đời

Sớm còn gái Việt bên ngòi,

Cung Ngô tối đã lên ngồi cạnh vua.

Lúc hèn, ai chẳng hơn thua,

Khi sang mới biết đời chưa mấy người.

Phấn son gọi kẻ tô, giồi,

Áo là em mặc có người xỏ tay.

Vua yêu càng lắm vẻ hay,

Vua thương, phải trái mặc bay sá gì.

Giặt sa những bạn đương thì;

Cùng xe chẳng được đi về với ta.

Xin van cô ả bên nhà,

Cũng đòi «nhăn mặt» khó mà như nhau.



THÔI HIỆU 崔 顥 (704 – 754)

10. Hoàng Hạc lâu 黃 鶴 樓

昔 人 已 乘 黃 鶴 去

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

此 地 空 餘 黃 鶴 樓

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

黃 鶴 一 去 不 復 返

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

白 雲 千 載 空 悠 悠

Bạch vân thiên tải không du du.

晴 川 歷 歷 漢 陽 樹

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ.

芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

日 暮 鄉 關 何 處 是

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

煙 波 江 上 使 人 愁

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.



Gác Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày.

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Ngày Nay, số 80 (10-10-1937)



LÝ BẠCH 李 白 (701-762)

11. Oán tình 怨 情

美 人 捲 珠 簾

Mỹ nhân quyển châu liêm.

深 坐 蹙 蛾 眉

Thâm tọa tần nga my.

但 見 淚 痕 濕

Đãn kiến lệ ngân thấp,

不 知 心 恨 誰

Bất tri tâm hận thùy.



Buồn vì tình

Người xinh cuốn bức rèm châu.

Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày.

Chỉ hay giọt lệ vơi đầy,

Đố ai biết được lòng này giận ai!

Ngày Nay, số 119 (17.7.1938)



12. Tặng nội 贈 內

三 百 六 十 日

Tam bách lục thập nhật,

日 日 醉 如 泥

Nhật nhật túy như nê.

雖 為 李 白 婦

Tuy vi Lý Bạch phụ,

何 異 太 常 妻

Hà dị Thái thường thê?



Đưa cho vợ

Ba trăm sáu chục ngày trời,

Ngày ngày say bét như đời con nê.

Vợ chàng Lý Bạch ta kia,

Như ai vợ Thái thường xưa khác gì?

Ngày Nay, số 130 (1.10.1938)



13. Xuân tứ 春 思

燕 草 如 碧 絲

Yên thảo như bích ti,

秦 桑 低 綠 枝

Tần tang đê lục chi.

當 君 懷 歸 日

Đương quân hoài qui nhật,

是 妾 斷 腸 時

Thị thiếp đoạn trường thì.

春 風 不 相 識

Xuân phong bất tương thức,

何 事 入 羅 幃

Hà sự nhập la vi.



Ý xuân

Cỏ non xanh biếc vùng Yên,

Cành dâu xanh ngả ở bên đất Tần.

Lòng em đau đớn muôn phần,

Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà.

Gió xuân quen biết chi mà,

Cớ chi lọt bức màn là tới ai?

Ngày Nay, số 78 (26.9.1937)



14. Tống khách qui Ngô 送客歸吳

江 村 秋 雨 歇

Giang thôn thu vũ yết,

酒 盡 一 帆 飛

Tửu tận nhất phàm phi.

路 歷 波 濤 去

Lộ lịch ba đào khứ,

家 惟 坐 臥 歸

Gia duy tọa ngọa qui.

島 花 開 灼 灼

Đảo hoa khai chước chước,

汀 柳 細 依 依

Đinh liễu tế y y.

別 後 無 餘 事

Biệt hậu vô dư sự,

還 應 掃 釣 磯

Hoàn ưng tảo điếu ky.



Tiễn khách đi về Ngô

Sông thu ngớt hạt mưa tuôn,

Rượu vừa cạn chén, cánh buồm xa bay.

Đường đi trải mấy nước mây,

Ngồi nằm, ai chẳng khó thay đến nhà.

Cây đồi hớn hở ra hoa,

Lăn tăn lá liễu thướt tha bên ngàn.

Xa nhau rồi những thanh nhàn.

Thú chơi quét tấm thạch bàn ngồi câu.

Ngày Nay, số 119 (17.7.1938)



15. Xuân nhật túy khởi ngôn chí 春 日 醉 起 言 志

處 世 若 大 夢

Xử thế nhược đại mộng.

胡 為 勞 其 生

Hồ vi lao kỳ sinh?

所 以 終 日 醉

Sở dĩ chung nhật túy.

頹 然 臥 前 楹

Đồi nhiên ngọa tiền doanh.

覺 來 眄 庭 前

Giác lai miện đình tiền.

一 鳥 花 間 鳴

Nhất điểu hoa gian minh.

借 問 此 何 時

Tá vấn thử hà nhật?

春 風 語 流 鶯

Xuân phong ngữ lưu oanh.

感 之 欲 歎 息

Cảm chi dục thán tức,

對 酒 還 自 傾

Đối tửu hoàn tự khuynh.

浩 歌 待 明 月

Hạo ca đãi minh nguyệt.

曲 盡 已 忘 情

Khúc tận dĩ vong tình.



Ngày xuân say rượu dậy nói chí mình

Ở đời như giấc chiêm bao

Cái thân còn đó, lao đao làm gì?

Cho nên suốt buổi say lì,

Nằm lăn trước cột, biết gì có ta.

Tỉnh thôi đưa mắt sân nhà.

Một con chim hót bên hoa ngọt ngào.

Hỏi xem: nay đó ngày nào?

Ngày xuân gió mát, vui chào tiếng oanh.

Ngậm ngùi cám cảnh sinh tình,

Nghiêng bầu, mình lại với mình làm vui.

Hát ran, chờ tấm trăng soi,

Thoạt xong câu hát thời rồi đã quên.

Ngày Nay, số 91 (26.12.1937)



16. Tống hữu nhân 送 友 人

青 山 橫 北 郭

Thanh sơn hoành Bắc quách,

白 水 遶 東 城

Bạch thủy nhiễu Đông thành.

此 地 一 為 別

Thử địa nhất vi biệt.

孤 蓬 萬 里 征

Cô bồng vạn lý chinh.

浮 雲 游 子 意

Phù vân du tử ý,

落 日 故 人 情

Lạc nhật cố nhân tình.

揮 手 自 茲 去

Huy thủ tự tư khứ,

蕭 蕭 班 馬 鳴

Tiêu tiêu ban mã minh.



Tiễn bạn

Chạy dài cõi Bắc non xanh,

Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau.

Nước non này chỗ đưa nhau

Một xa muôn dặm biết đâu cánh bồng!

Chia phôi khác cả mối lòng,

Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.

Vẫy tay thôi đã rời xa,

Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo.

Ngày Nay, số 77 (19.9.1937)



17. Quan san nguyệt 關 山 月

明 月 出 天 山

Minh nguyệt xuất Thiên San,

蒼 茫 雲 海 間

Thương mang vân hải gian.

長 風 幾 萬 里

Trường phong kỷ vạn lý,

吹 度 玉 門 關

Xuy độ Ngọc Môn quan.

漢 下 白 登 道

Hán hạ Bạch Đăng đạo,

胡 窺 青 海 灣

Hồ khuy Thanh Hải loan.

由 來 征 戰 地

Do lai chinh chiến địa,

不 見 有 人 還

Bất kiến hữu nhân hoàn.

戍 客 望 邊 色

Thú khách vọng biên sắc,

思 歸 多 苦 顏

Tư quy đa khổ nhan.

高 樓 當 此 夜

Cao lâu đương thử dạ,

歎 息 未 應 閑

Thán tức vị ưng nhàn.



Trăng quan san

Vừng trăng ra núi Thiên San,

Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.

Gió đâu muôn dặm chạy dài,

Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.

Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,

Vụng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,

Đã ra đất chiến, về ru mấy người?

Buồn trông cảnh sắc bên trời,

Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.

Lầu cao, đêm vắng, ai mà,

Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.



18. Thu tịch lữ hoài 秋夕旅懷

涼 風 度 秋 海

Lương phong độ thu hải

吹 我 鄉 思 飛

Xuy ngã hương tứ phi.

連 山 去 無 際

Liên sơn khứ vô tế,

流 水 何 時 歸

Lưu thủy hà thời qui

目 極 浮 雲 色

Mục cực phù vân sắc,

心 斷 明 月 暉

Tâm đoạn minh nguyệt huy.

芳 草 歇 柔 豔

Phương thảo yết nhu diệm,

白 露 催 寒 衣

Bạch lộ thôi hàn y.

夢 長 銀 漢 落

Mộng trường Ngân hán lạc,

覺 罷 天 星 稀

Giác bãi thiên tinh hy.

含 悲 想 舊 國

Hàm bi tưởng cựu quốc,

泣 下 誰 能 揮

Khấp hạ thùy năng huy.



Tối mùa thu nhớ nhà

Lạnh lùng gió vượt bể thu,

Hồn quê theo gió như vù vù bay.

Chạy dài dãy núi liền mây,

Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng?

Đám mây vút mắt xa chừng,

Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.

Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,

Áo may mặc rét giục người móc sa!

Giấc mơ rơi dải Ngân hà,

Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.

Đoái thương nước cũ ngậm ngùi

Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai?



19. Kinh Hạ Bi Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng

經 下 邳 圯 橋 懷 張 子 房

子 房 未 虎 嘯

Tử Phòng vị hổ khiếu,

破 產 不 為 家

Phá sản bất vi gia.

滄 海 得 壯 士

Thương hải đắc tráng sĩ,

椎 秦 博 浪 沙

Chùy Tần Bác Lãng sa.

報 韓 雖 不 成

Báo Hàn tuy bất thành.

天 地 皆 振 動

Thiên địa giai chấn động.

潛 匿 遊 下 邳

Tiềm nặc du Hạ Bi.

豈 曰 非 智 勇

Khởi viết phi trí dũng.

我 來 圯 橋 上

Ngã lai Dĩ kiều thượng,

懷 古 欽 英 風

Hoài cổ khâm anh phong.

惟 見 碧 流 水

Duy kiến bích lưu thủy,

曾 無 黃 石 公

Tằng vô Hoàng Thạch công.

歎 息 此 人 去

Thán tức thử nhân khứ,

蕭 條 徐 泗 空

Tiêu điều Từ, Tứ không.



Qua cầu Dĩ đất Hạ Bi nhớ Trương Tử Phòng

Thầy Lương hổ chửa ra oai.

Phá tan của cải gia tài sạch không.

Biển xanh được kẻ anh hùng,

Vua Tần, đánh một dùi đồng thử coi.

Cánh đồng Bác Lãng công toi,

Thù Hàn chưa trả đất trời cũng kinh.

Hạ Bi trốn lánh nương mình,

Khôn ngoan mạnh bạo tài tình lắm thay!

Ta nay cầu Dĩ chơi đây

Nhớ ai thiên cổ lòng đầy kính yêu,

Trong veo nước biếc xuôi chiều,

Mà ông Hoàng Thạch đâu nào có đâu.

Than rằng ai đó đi đâu,

Vắng tanh Từ, Tứ để sầu nước non.

Ngày Nay, số 82 (24.10.1937)



20. Sơn trung vấn đáp 山 中 問 答

問 予 何 事 棲 碧 山

Vấn dư hà sự thê bích san?

笑 而 不 答 心 自 閒

Tiếu nhi bất đáp, tâm tự nhàn.

桃 花 流 水 窅 然 去

Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ,

別 有 天 地 非 人 間

Biệt hữu thiên địa, phi nhân gian.



Trả lời hỏi trong núi

Hỏi ta: Ở núi làm chi?

Thong dong chẳng nói, cười khì cho vui.

Hoa đào theo bẵng nước trôi,

Có riêng trời đất, cõi người đâu đây.

Ngày Nay, số 94 (16-1-1938)



21. Tặng Uông Luân 贈汪倫

李 白 乘 舟 將 欲 行

Lý Bạch thừa chu tương dục hành,

忽 聞 岸 上 踏 歌 聲

Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.

桃 花 潭 水 深 千 尺

Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích,

不 及 汪 倫 送 我 情

Bất cập Uông Luân tống ngã tình.



Tặng Uông Luân

Sắp đi Lý Bạch ngồi thuyền,

Trên bờ chân giậm, nghe liền tiếng ca

Nước đầm nghìn thước Đào Hoa,

Uông Luân, tình bác tiễn ta sâu nhiều.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



22. Tảo phát Bạch Đế thành 早 發 白 帝 城

朝 辭 白 帝 彩 雲 間

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,

千 里 江 凌 一 日 還

Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.

兩 岸 猿 聲 啼 不 住

Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ,

輕 舟 已 過 萬 重 山

Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.



Sớm ra đi từ thành Bạch Đế

Sớm ra Bạch Đế thành mây,

Giang Lăng nghìn dặm một ngày về luôn.

Hai bờ tiếng vượn véo von,

Thuyền lan đã vượt núi non vạn trùng

Ngày Nay, số 88 (5-12-1937)



23. Ô dạ đề 烏夜啼

黃 雲 城 邊 烏 欲 棲

Hoàng vân thành biên ô dục thê.

歸 飛 啞 啞 枝 上 啼

Quy phi «á á» chi thượng đề.

機 中 織 錦 秦 川 女

Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ.

碧 紗 如 湮 隔 窗 語

Bích sa như yên cách song ngữ.

停 梭 悵 然 憶 遠 人

Đình thoa trướng nhiên ức viễn nhân

獨 宿 孤 房 淚 如 雨

Độc túc cô phòng lệ như vũ.



Quạ kêu đêm

Mây vàng tiếng quạ bên thành,

Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu.

Tần Xuyên cô gái buồng thêu,

Song sa khói tỏa như khêu chuyện ngoài.

Dừng thoi buồn bã nhớ ai,

Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mưa.

Ngày Nay, số 83 (31-10-1937)



24. Thái liên khúc 採 蓮 曲

若 耶 溪 傍 採 蓮 女

Nhược Da khê bạng thái liên nữ,

笑 隔 菏 花 共 人 語

Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.

日 照 新 倀 水 底 明

Nhật chiếu tân trang thủy để minh,

風 飄 香 袂 空 中 舉

Phong phiêu hương duệ không trung cử.

岸 上 誰 家 遊 冶 郎

Ngạn thượng thùy gia du dã lang,

三 三 五 五 映 垂 楊

Tam tam ngũ ngũ ánh thùy dương.

紫 騮 嘶 入 落 花 去

Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ,

見 此 踟 躕 空 斷 腸

Kiến thử trì trù không đoạn trường.



Khúc hát hái sen

Có cô con gái nhà ai,

Hái sen, chơi ở bên ngòi Nhược Da.

Mặt hoa cười cách đóa hoa,

Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh.

Áo quần mặc mới sáng tinh,

Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng.

Thơm thơ vạt áo gió tung,

Bay lên phấp phới trong không ngạt ngào.

Năm, ba chàng trẻ nhà nào,

Ngựa hồng rặng liễu, bờ cao bóng người.

Ngựa kêu, lần bước hoa rơi,

Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương.

Ngày Nay, số 89 (10-12-1937)



ĐỖ PHỦ 杜甫 (712-770)

25. Nguyệt dạ 月 夜

今 夜 鄜 州 月

Kim dạ Phu Châu nguyệt,

閨 中 只 獨 看

Khuê trung chỉ độc khan.

遙 憐 小 兒 女

Dao liên tiểu nhi nữ,

未 解 憶 長 安

Vị giải ức Tràng An.

香 霧 雲 鬟 濕

Hương vụ vân hoàn thấp,

清 輝 玉 臂 寒

Thanh huy ngọc tý hàn.

何 時 倚 虛 幌

Hà thời ỷ hư hoảng,

雙 照 淚 痕 乾

Song chiếu lệ ngân can.



Đêm sáng trăng

Châu Phu này lúc trăng soi.

Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.

Đoái thương thơ dại đầu xanh,

Tràng An chửa biết đem tình nhớ nhau.

Sương sa thơm ướt mái đầu,

Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.

Bao giờ tựa bức màn không,

Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



26. Đăng Nhạc Dương lâu 登 岳 陽 樓

昔 聞 洞 庭 水

Tích văn Động Đình thủy,

今 上 岳 陽 樓

Kim thướng Nhạc Dương lâu.

吳 楚 東 南 坼

Ngô, Sở đông nam sách,

乾 坤 日 夜 浮

Càn khôn nhật dạ phù.

親 朋 無 一 字

Thân bằng vô nhất tự,

老 病 有 孤 舟

Lão bệnh hữu cô chu

戎 馬 關 山 北

Nhung mã quan sơn bắc.

憑 軒 涕 泗 流

Bằng hiên thế tứ lưu.



Lên lầu Nhạc Dương

Động Đình nghe tiếng từ xưa,

Nhạc Dương lâu mới bây giờ lên chơi.

Đông nam Ngô, Sở chia hai,

Ngày đêm như thấy đất trời nổi nênh.

Người quen, một chữ vắng tanh,

Tuổi già, mình ốm lênh bênh chiếc thuyền.

Quan san cõi Bắc giặc tràn,

Mái hiên đứng tựa giụa giàn giọt rơi.

Ngày Nay, số 87 (28-11-1937)



27. Tuyệt cú 絕 句

兩 個 黃 鸝 鳴 翠 柳

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu,

一 行 白 鷺 向 青 天

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.

窗 含 西 嶺 千 秋 雪

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,

門 泊 東 吳 萬 里 船

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.



Câu tứ tuyệt

Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,

Một hàng cò trắng vút trời xanh.

Nghìn năm tuyết núi song in sắc,

Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.

Ngày Nay, số 97 (13-2-1938)



28. Đăng Cao 登 高

風 急 天 高 猿 嘯 哀

Phong cấp thiên cao, viên khiếu ai.

渚 清 沙 白 鳥 飛 迴

Chử thanh sa bạch, điểu phi hồi.

無 邊 落 木 蕭 蕭 下

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,

不 盡 長 江 滾 滾 來

Bất tận trường giang cổn cổn lai.

萬 里 悲 秋 常 作 客

Vạn lý bi thu thường tác khách.

百 年 多 病 獨 登 臺

Bách niên đa bệnh độc đăng đài.

艱 難 苦 恨 繁 霜 鬢

Gian nan khổ hận phồn sương mấn,

潦 倒 新 停 濁 酒 杯

Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.



Lên núi

Gió mạnh, trời cao, vượn rúc sầu

Bến trong, cát trắng, lượn đàn âu.

Lào rào lá rụng, cây ai đếm,

Cuồn cuộn sông dài, nước đến đâu.

Muôn dặm quê người thu não cảnh,

Một thân già yếu bước lên lầu.

Khó khăn ngao ngán bao là nỗi,

Rượu uống không ngon chóng bạc đầu.

Ngày Nay, số 79 (3-10-1937)



29. Khúc giang 曲 江

朝 回 日 日 典 春 衣

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

每 日 江 頭 盡 醉 歸

Mỗi nhật giang đầu tận túy qui.

酒 債 尋 常 行 處 有

Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

人 生 七 十 古 來 稀

Nhân sinh thất thập cổ lai hi.

穿 花 蛺 蝶 深 深 見

Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,

點 水 蜻 蜓 款 款 飛

Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.

傳 語 風 光 共 流 轉

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

暫 時 相 賞 莫 相 違

Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.



Trên sông Khúc

Khỏi bệ vua ra, cố áo hoài,

Bên sông say khướt, tối lần mai.

Nợ tiền mua rượu đâu không thế,

Sống bảy mươi năm đã mấy người?

Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn.

Chuồn chuồn giỡn nước lửng lơ chơi.

Nhắn cho: quang cảnh thường thay đổi,

Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Ngày Nay, số 90 (19-12-1937)



SẦM THAM 岑 參 (715-770)

30. Sơn phòng xuân sự 山 房 春 事

梁 園 日 暮 亂 飛 鴉

Lương viên nhật mộ loạn phi nha,

極 目 蕭 條 三 兩 家

Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.

庭 樹 不 知 人 去 盡

Đình thụ bất tri nhân khứ tận,

春 來 還 發 舊 時 花

Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa



Cảnh xuân nhà trên núi

Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ,

Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa.

Cây xuân chẳng biết người đi hết,

Xuân đến hoa còn nở giống xưa.



CAO THÍCH 高 適 (702-765)

31. Vịnh sử 詠 史

尚 有 綈 袍 贈

Thượng hữu đề bào tặng,

應 憐 范 叔 寒

Ưng lân Phạm Thúc hàn.

不 知 天 下 士

Bất tri thiên hạ sĩ,

猶 作 布 衣 看

Do tác bố y khan.



Vịnh sử

Áo bông còn có cho nhau,

Cảm thương chàng Phạm bấy lâu lạnh lùng.

Cõi đời chẳng biết anh hùng,

Vẫn coi nhau thể bần cùng khố dây.

Ngày Nay, số 111 (22.5.1938)



32. Biệt Đổng Đại 別 董 大

十 里 黃 雲 白 日 曛

Thập lý hoàng vân bạch nhật huân,

北 風 吹 雁 雪 紛 紛

Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân.

莫 愁 前 路 無 知 己

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,

天 下 誰 人 不 識 君

Thiên hạ thùy nhân bất thức quân?



Tương biệt với Đổng Đại

Mười dặm vàng pha bóng nhật vân,

Nhàn xuôi gió bấc tuyết bay nhanh.

Chớ buồn nẻo trước không tri kỷ.

Thiên hạ ai người chẳng biết anh!

Ngày Nay, số 88 (5.12.1937)



GIẢ CHÍ 賈 至 (718-772)

33. Tống Lý Thị lang phó Thường Châu

送 李 侍 郎 赴 常 州

雪 晴 雲 散 北 風 寒

Tuyết tình vân tán bắc phong hàn,

楚 水 吳 山 道 路 難

Sở thủy Ngô sơn đạo lộ nan.

今 日 送 君 須 盡 醉

Kim nhật tống quân tu tận túy;

明 朝 相 憶 路 漫 漫

Minh triêu tương ức lộ man man.



Tiễn Lý Thị lang đổi tới Thường Châu

Tuyết tạnh mây tan gió lọt da,

Non sông Ngô Sở, nỗi đường xa.

Lúc này đưa bác nên say tít,

Tình nặng đường xa buổi sáng ra.

Ngày Nay, số 84 (7.11.1937)



TRƯƠNG VỊ 張 謂

34. Hồ trung đối tửu tác

湖 中 對 酒 作

夜 坐 不 厭 湖 上 月

Dạ tọa bất yếm hồ thượng nguyệt,

晝 行 不 厭 湖 上 山

Trú hành bất yếm hồ thượng san.

眼 前 一 樽 又 常 滿

Nhãn tiền nhất tôn hựu thường mãn,

心 中 萬 事 如 等 閒

Tâm trung vạn sự như đẳng nhàn.

主 人 有 黍 萬 餘 石

Chủ nhân hữu thử vạn dư thạch,

濁 醪 數 斗 應 不 惜

Trọc giao sổ đẩu ưng bất tích.

即 今 相 對 不 盡 歡

Tức kim tương đối bất tận hoan,

別 後 相 思 復 何 益

Biệt hậu tương tư phục hà ích.

茱 萸 灣 頭 歸 路 賒

Thù du loan đầu qui lộ xa,

願 君 且 宿 黃 公 家

Nguyện quân thả túc Hoàng công gia.

風 光 若 此 人 不 醉

Phong quang nhược thử, nhân bất túy,

參 差 辜 負 東 園 花

Sâm si cô phụ đông viên hoa.



Trong hồ cùng nhau uống rượu

Ngồi đêm chẳng chán trăng hồ,

Ngày đi chẳng chán quanh hồ núi non.

Một chai trước mắt đầy luôn,

Trong lòng muôn nỗi lo buồn bỏ qua.

Chủ nhân thóc nếp đầy nhà,

Rượu nồng mấy gáo ắt là tiếc chi?

Cùng nhau nay chẳng hả hê,

Nhớ nhau lúc khác ích gì nữa ai?

Thù du về bến xa xôi,

Xin ai ở lại ngủ chơi ông Hoàng

Chẳng say cũng phí phong quang,

Vườn đông luống để bẽ bàng cho hoa.

Ngày Nay, số 93 (9.1.1938)



TIỀN KHỞI 錢 起 (722-780)

35. Giang hành 江 行

睡 穩 葉 舟 輕

Thụy ổn diệp chu khinh,

風 微 浪 不 驚

Phong vi lãng bất kinh.

任 君 蘆 葦 岸

Nhậm quân lô vi ngạn,

終 夜 動 秋 聲

Chung dạ động thu thanh.



Đi trên sông

Ngủ yên trong chiếc thuyền con,

Gió hiu hiu thổi, sóng rờn rờn đưa.

Mặc đâu lau sậy bên bờ,

Suốt đêm động rộn tha hồ tiếng thu.

Ngày Nay, số 122 (7.8.1938)



VI ỨNG VẬT 韋 應 物 (736-780)

36. Thính giang địch, tống Lục Thị ngự 聽 江 笛 送 陸 侍 御

遠 聽 江 上 笛

Viễn thính giang thượng địch,

臨 觴 一 送 君

Lâm trường nhất tống quân.

還 愁 獨 宿 夜

Hoàn sầu độc túc dạ,

更 向 郡 齋 聞

Cánh hướng quận trai văn.



Nghe sáo sông, tiễn quan Thị ngự họ Lục

Xa nghe tiếng sáo trên sông,

Một phen cất chén rượu nồng đưa nhau.

Nghĩ cho đêm vắng thêm sầu,

Riêng ai tiếng ấy bên lầu lại nghe.

Ngày Nay, số 122 (7.8.1938)



CÁP GIA VẬN 蓋 嘉 運

37. Y Châu ca 伊 州 歌

打 起 黃 鶯 兒

Đả khởi hoàng oanh nhi,

莫 教 枝 上 啼

Mạc giao chi thượng đề.

啼 時 驚 妾 夢

Đề thời kinh thiếp mộng,

不 得 到 遼 西

Bất đắc đáo Liêu Tê.



Khúc hát Y Châu

Đập cho mất cái vàng anh,

Chẳng cho nó ở trên cành nó kêu.

Nó kêu tỉnh giấc chiêm bao,

Liêu Tây chẳng được em theo đến chàng.



LÝ ĐOAN 李 端

38. Bái tân nguyệt 拜 新 月

開 簾 見 新 月

Khai liêm kiến tân nguyệt,

即 便 下 階 拜

Tức tiện há giai bái.

細 語 人 不 聞

Tế ngữ nhân bất văn,

北 風 吹 裙 帶

Bắc phong xuy quân đái.



Vái trăng mới

Mở rèm thấy tấm trăng non,

Thềm trên bước xuống vái luôn trăng này.

Khẽ lời khấn chẳng ai hay,

Thoảng cơn gió bấc thổi bay dải quần

Ngày Nay, số 117 (3.7.1938)



LIỄU TÔNG NGUYÊN 柳 宗 元 (773-819)

39. Giang tuyết 江 雪

千 山 鳥 飛 絕

Thiên sơn điểu phi tuyệt.

萬 徑 人 蹤 滅

Vạn kính nhân tung diệt.

孤 舟 簑 笠 翁

Cô chu toa lạp ông,

獨 釣 寒 江 雪

Độc điếu Hàn Giang tuyết.



Tuyết trên sông

Nghìn non mất bóng chim bay,

Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không.

Kìa ai câu tuyết bên sông,

Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài.

Ngày Nay, số 92 (2.1.1938)



40. Ngư ông 漁 翁

漁 翁 夜 傍 西 巖 宿

Ngư ông dạ bạng tây nham túc

曉 汲 清 湘 燃 楚 燭

Hiểu cấp thanh Tương nhiên Sở trúc.

煙 銷 日 出 不 見 人

Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân,

欸 乃 一 聲 山 水 綠

Ái nãi nhất thanh sơn thủy lục.

迴 看 天 際 下 中 流

Hồi khan thiên tế hạ trung lưu,

巖 上 無 心 雲 相 逐

Nham thượng vô tâm vân tương trục.



Ông lão thuyền câu

Thuyền câu ngủ ghé non tây,

Dòng Tương, tre Sở sáng ngày nấu ăn,

Khói tan trời nắng vắng tanh,

Tiếng vang nước biếc non xanh một chèo.

Xuôi dòng ngoảnh lại trời cao,

Đầu non mấy đám mây theo lững lờ.

Ngày Nay, số 113 (5.6.1938)



LƯU VŨ TÍCH 劉 禹 錫 (772-842)

41. Ô Y hạng 烏 衣 巷

朱 雀 橋 邊 野 草 花

Chu Tước kiều biên dã thảo hoa.

烏 衣 巷 口 夕 陽 斜

Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.

舊 時 王 謝 堂 前 燕

Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến.

飛 入 尋 常 百 姓 家

Phi nhập tầm thường bách tính gia.



Ngõ Ô Y

Bên cầu Chu Tước cỏ hoa,

Ô Y đầu ngõ, bóng tà tịch dương.

Én xưa nhà Tạ, nhà Vương,

Lạc loài đến chốn tầm thường dân gia.

Ngày Nay, số 94 (16-1-1938)




© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Lê Anh Minh