20/2/10

Oprah đàm đạo với Thích Nhất Hạnh

Oprah đàm đạo với Thích Nhất Hạnh

Lê Quốc Tuấn, X-Cafe chuyển ngữ

16.02.2010


Ông là một nhà sư Phật giáo trong hơn 60 năm, đồng thời cũng là người dạy học, cầm bút và là một người phản chiến mạnh mẽ -một lập trường khiến ông còn bị đày lưu vong khỏi quê hương Việt Nam của mình trong bốn thập kỷ qua. Bây giờ người từng được Martin Luther King Jr. xưng tụng là "một tông đồ của hòa bình và bất bạo động" tỏa ra trong cái đẹp của giây phút hiện tại, trong sự trân trọng với từng hơi thở, sự tự chủ cùng niềm hạnh phúc tìm được trong một tách trà đơn giản.

Giờ phút gặp gỡ nhà sư Thích Nhất Hạnh tại Khách sạn Bốn Mùa (Four Seasons) ở Manhattan, tôi cảm nhận được vẻ trầm lắng của ông. Một sự thanh thản sâu sắc như vây tỏa quanh vị Thiền sư Phật giáo.

Tuy nhiên, bên trong phong thái thanh thản của sư Nhất Hạnh là một người chiến binh dũng cảm. Con người 83 tuổi này có quê quán từ Việt Nam đã đi tu khi 16 tuổi, từng can đảm phản đối chính phủ của mình trong sốt thời gian chiến tranh Việt Nam. Ngay cả khi chấp nhận cuộc sống chiêm niệm của một nhà sư, cuộc chiến tranh ấy đã đối đầu với ông bằng lựa chọn: có nên cứ ẩn mình trong tu viện để chăm sóc những vấn đề của tinh thần, hay bước ra bên ngoài để giúp đỡ những người dân làng đang chịu đau khổ ? Quyết định thực hiện cả hai là những gì đã sinh ra "Phật Giáo Dấn thân" một phong trào liên quan đến các hoạt động hòa bình nhằm mục đích cải cách xã hội. Và đó cũng là những gì đã đưa đến việc Martin Luther King Jr đề cử giải Nobel Hòa bình cho ông vào năm 1967.

Sư Nhất Hạnh đã thành lập một tổ chức cứu trợ để xây dựng lại những làng quê bị bom đạn tại Việt Nam, xây trường học, các trung tâm y tế và giúp ổn định những gia đình mất nhà mất cửa như một phần bản cáo trạng của ông đối với các bạo lực gây đau khổ đến người dân của mình. Thầy Nhất Hạnh cũng đã xây dựng một trường đại học Phật giáo, một nhà xuất bản, một tạp chí tranh đấu cho hòa bình, tất cả những điều ấy đã dẫn đến việc chính phủ Việt Nam ngăn cấm ông trở về nước vào năm 1966 sau khi ông rời đất nước trong một chuyến đi cho sứ mệnh hòa bình. Ông vẫn sống lưu vong trong 39 năm nay.

Trước khi lưu vong, sư Nhất Hạnh đã trải qua môt thời gian ở phương Tây (theo học tại ĐH. Princeton và giảng dạy tại Đại học Columbia vào đầu những năm 1960) và đấy chính là phương Tây mà giờ đây ông đã trở lại. Nhìn ra các cơ hội để truyền bá tư tưởng Phật giáo và cổ vũ cho các hoạt động tranh đấu cho hòa bình, ông đã dẫn đầu đoàn đại biểu Phật giáo Hòa bình đến Hội đàm Hòa bình ở Paris năm 1969, thành lập Giáo hội Phật giáo Thống nhất tại Pháp, và tiếp tục viết hơn 100 cuốn sách, trong đó có tác phẩm bán chạy nhất năm 1995 mang tựa đề “Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời” (Living Buddha, Living Christ) một cuốn sách mà lúc nào cũng ở trên đầu giường ngủ của tôi.

Sau cùng sư Nhất Hạnh đã định cư tại miền Nam nước Pháp và thành lập Làng Mai, một tu viện đồng thời là một trung tâm hành thiền Phật giáo, nơi ông vẫn còn sinh sống ở đấy. Mỗi năm, hàng ngàn người đã đến đó để tham dự vào việc khai phá những giáo lý của Phật giáo- gồm chánh niệm (sự hòa hợp chủ định vào thời điểm hiện tại), phát triển tu tập (một hoạt động thường xuyên như thiền hành giúp hướng đến sự suy nghĩ đúng), và giác ngộ (sự giải thoát khỏi khổ đau vốn đến khi ta thức tỉnh với bản chất thật của thực tại). Những nguyên tắc này đã được giới thiệu với thế gian hơn 2.000 năm trước bởi Siddhartha Gautama, hay Ðức Phật, một vị hoàng tử Ấn độ đã từ bỏ một cuộc sống thỏa mãn và dễ dàng để đi tìm sự giác ngộ- và từ đó đã hình thành một tôn giáo.

Nhà sư Thích Nhất Hạnh - hoặc “thầy”, từ ngữ tiếng Việt để gọi người “thầy dạy“ như các môn đệ của ông dùng, đã đến cùng với một nhóm tăng ni Làng Mai để lắng nghe cuộc hội thoại của chúng tôi. Trong một số truyền thống tâm linh, có một khái niệm gọi là "giữ chỗ", hoặc tham dự như một thính giả có lòng bác ái. Các bằng hữu của Thầy là những người giữ chỗ, đã đi theo với thầy từ Pháp, và khi chúng tôi chụp ảnh chung trước khi khởi sự trò chuyện, họ đem đến một trạng thái an bình bằng cách cùng hát một bài ca Phật giáo: "Chúng ta là tất cả các lá của cây; chúng ta là tất cả các sóng của biển; đến lúc để mọi chúng ta được sống như một".

Oprah: Xin cảm tạ ngài đã cho tôi được vinh dự nói chuyện với ngài. Chỉ cần được ở trong sự hiện diện của ngài, tôi đã cảm thấy ít căng thẳng hơn khi bắt đầu một ngày. Phải chăng lúc nào ngài cũng luôn ở trong trạng thái này ?

Nhất Hạnh: Đấy chính là sự tu tập, sự thực hành của tôi. Và tôi cố gắng sống như thế trong mọi giây phút để giữ được an bình trong bản thân mình.

Oprah: Bởi vì ta không thể mang điều gì đến cho người khác nếu mình không có trong tự bản thân.

Nhất Hạnh: Đúng thế.

Oprah: Tôi biết rằng thầy đã được sinh ra ở Việt Nam năm 1926. Có ký ức đẹp đẽ nào của tuổi thơ mà thầy có thể chia sẻ với chúng tôi?

Nhất Hạnh: Đó là ngày tôi thấy được hình ảnh của Đức Phật trong một tờ tạp chí.

Oprah: Khi ấy thầy đưọc bao nhiêu tuổi?

Nhất Hạnh: Tôi đã được 7, 8 tuổi. Phật ngồi trên cỏ, mỉm cười rất yên bình.Tôi thấy rất cảm kích. Xung quanh tôi, không ai được như vậy, vì thế tôi đã mong muốn được như ngài. Và tôi đã nuôi dưỡng ao ước ấy cho đến khi 16 tuổi, khi tôi đã có được sự cho phép của cha mẹ tôi để đi quy y.

Oprah: Cha mẹ của thầy có khuyến khích thầy không?

Nhất Hạnh: Ban đầu, song thân tôi miễn cưỡng, vì họ nghĩ rằng cuộc đời của một nhà sư là khó khăn.

Oprah: Ở tuổi 16, thầy có hiểu được cuộc đời sẽ ra sao không ?

Nhất Hạnh: Không nhiều lắm. Chỉ có một lòng ham muốn rất mạnh. Cái cảm giác mình sẽ không được hạnh phúc nếu không thể trở thành một nhà sư. Ta gọi đấy là tâm thức của người mới bắt đầu – cái ý định sâu sắc, khát vọng sâu nhất mà một người có thể có. Và tôi có thể nói rằng cho đến ngày nay, cái tâm thức của một người mới bắt đầu học vẫn còn sống trong tôi.

Oprah: Đó là điều mà nhiều người đề cập đến như là một niềm đam mê. Đó là cách mà tôi cảm nhận về công việc của tôi hàng ngày. Khi ta đam mê công việc của mình, ta sẽ cảm thấy như mình sẽ làm việc ngay cả khi không được ai trả tiền.

Nhất Hạnh: Và ta sẽ yêu thích nó.

Oprah: Ta sẽ yêu thích nó. Chúng ta hãy nói về chuyện khi thầy mới đến Mỹ. Thầy là một sinh viên ở Princeton. Có phải đấy là một thử thách để đánh bạn với các sinh viên khác khi thầy là một nhà sư Phật giáo hay không ? Thầy có cô đơn không ?

Nhất Hạnh: Vâng, Đại học Princeton giống như một tu viện. Lúc ấy chỉ có nam sinh viên. Và cũng không có nhiều người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ. Trong sáu tháng đầu tiên, tôi đã không nói tiếng Việt. Nhưng khu làng đại học rất đẹp. Và mọi thứ đều mới lạ -cây cối, các loài chim và thức ăn. Tuyết trắng đầu đời của tôi là ở Princeton, và đấy lần đầu tiên tôi xử dụng lò sưởi. Mùa thu đầu tiên là ở Princeton.

Oprah: Khi những chiếc lá chuyển màu.

Nhất Hạnh: Ở Việt Nam chúng tôi đã không thấy những thứ như thế.

Oprah: Vào lúc đó, thầy có mặc áo nhà sư của mình không?

Nhất Hạnh: Có.

Oprah: Không bao giờ phải lo lắng về việc mua quần áo nhỉ? Lúc nào cũng chỉ là áo cà sa.

Nhất Hạnh: Đúng thế.

Oprah: Thầy có các loại y áo cho những dịp khác nhau không ?

Nhất Hạnh: Mình có một áo nghi lễ màu vàng nghệ tây. Thế thôi. Tôi cảm thấy thoải mái khi ăn vận những y áo này. Và chúng vui vẻ nhắc nhở chúng tôi rằng mình là các nhà sư.

Oprah: Là một nhà sư có nghĩa là gì ?

Nhất Hạnh: Là một nhà sư có nghĩa là có thời gian để tu tập cho sự chuyển hóa của mình. Và sau đó để giúp người khác chuyển hóa.

Oprah: Có phải hầu hết các nhà sư đều giác ngộ, hay tìm kiếm sự giác ngộ?

Nhất Hạnh: Giác ngộ luôn luôn ở đó. Giác ngộ nhỏ bé sẽ mang lại giác ngộ lớn. Nếu ta hít vào và nhận thức được mình đang sống - nhận thức được mình có thể chạm vào phép lạ của việc đang sống - thì đó chính là một loại giác ngộ. Nhiều người đang sống nhưng không hề chạm vào phép lạ của sự đang được sống.

Oprah: Tôi tin chắn rằng thầy thấy tất cả xung quanh mình – và tôi cũng cảm thấy bản thân mình có sai lầm ấy – đó là chúng ta chỉ luôn cố gắng cho xong để đi đến việc kế tiếp. Ở đất nước chúng ta, con người rất bận rộn. Ngay cả trẻ em cũng bận rộn. Tôi có cảm tưởng rất ít người trong chúng ta thực hành những gì thầy vừa nói - về việc chạm vào phép lạ mà mình đang được sống.

Nhất Hạnh: Đó là môi trường mà con người đang sống. Nhưng với một sự tu tập, chúng ta sẽ luôn luôn được sống ngay trong thời điểm hiện tại. Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc ở ngay lúc này. rất nhiều điều kiện của hạnh phúc đang có sẵn - quá đủ để ta được hạnh phúc ngay bây giờ. Ta không cần phải chạy vào tương lai để tìm nhiều hạnh phúc hơn.

Nhà sư Thích Nhất Hạnh định nghĩa hạnh phúc và tiết lộ làm thế nào để đạt được hạnh phúc

Oprah: Hạnh phúc là gì?

Nhất Hạnh: Hạnh phúc là chấm dứt sự khổ đau. Sự sảng khoái. Ví dụ, khi tôi thực hành bài tập thở vào này, tôi nhận thức bằng đôi mắt của mình, khi thở ra, tôi mỉm cười với đôi mắt của tôi và nhận ra rằng đôi mắt mình vẫn còn trong tình trạng tốt. Có cả một thiên đường của sắc và màu trên thế gian. Và bởi vì ta có đôi mắt mình vẫn còn trong tình trạng tốt, bạn có thể liên lạc được với thiên đường này. Vì vậy, khi tôi trở thành nhận thức được về đôi mắt của mình, tôi đã chạm được với một trong những điều kiện của hạnh phúc. Và khi tôi chạm được , hạnh phúc sẽ đến.

Oprah: Và ta có thể làm điều đó với mọi phần của cơ thể.

Nhất Hạnh: Đúng thế. Thở vào, tôi nhận thức được trái tim của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim của tôi và biết rằng trái tim của tôi vẫn còn hoạt động bình thường. Tôi cảm thấy biết ơn đối với trái tim tôi.

Oprah: Như thế là về sự tỉnh thức và biết ơn đối với những gì chúng ta có.

Nhất Hạnh: Đúng vậy.

Oprah: Và không chỉ tỉnh thức, biết ơn về vật chất, mà về sự thực là chúng ta có hơi thở của mình.

Nhất Hạnh: Đúng như thế. Ta cần thực hành chánh niệm để đưa tâm trí của mình trở lại cơ thể và kiến lập bản thân mình trong thời điểm hiện tại. Nếu ta hoàn toàn là hiện tại, ta chỉ cần thực hiện một bước hoặc hít nột hơi thở để bưóc vào vương quốc của Ðức Chúa Trời. Và một khi đã có vương quốc, ta không cần phải chạy theo các đối tượng của tham ái , như quyền lực, danh vọng, những lạc thú xác thịt vv. An bình là có thể. Hạnh phúc là có thể. Và lối thực hành này đủ đơn giản để tất cả mọi người thực hành.

Oprah: Xin cho tôi biết làm thế nào để chúng tôi thực hiện.

Nhất Hạnh: Giả sử bạn đang uống một tách trà. Khi cầm tách trà trên tay, bạn có thể hít thở vào, để đưa tâm thức của bạn trở về cơ thể của bạn, và bạn trở nên hoàn toàn hiện tại. Và khi bạn đang thật sự ở đấy, những điều khác cũng đang ở đấy, cuộc sống, tiêu biểu bởi một tách trà. Tại thời điểm đó bạn là thực, và tách trà là thực. Bạn không bị lạc mất vào quá khứ, tương lai, trong các dự án, các lo lắng của bạn. Bạn đang thoát khỏi tất cả các phiền não. Và trong tình trạng được giải thoát như thế, bạn thưởng thức tách trà của mình. Đó là thời điểm của hạnh phúc và bình an. Khi bạn đánh răng của bạn, bạn có thể có chỉ hai phút, nhưng theo lối thực hành này, có thể mang lại tự chủ và niềm vui trong khoảng thời gian ấy, bởi vì bạn được hình thành ngay tại lúc này. Nếu bạn có khả năng đánh răng trong chánh niệm thì bạn sẽ có thể tận hưởng thời gian mình tắm vòi sen, nấu bữa ăn sáng, nhâm nhi tách trà của mình.

Oprah: Như vậy từ quan điểm này, có vô tận các điều kiện của hạnh phúc.

Nhất Hạnh: Đúng. Chánh niệm giúp bạn trở về trong hiện tại. Và mỗi khi bạn trở về, nhận ra một điều kiện của hạnh phúc mà bạn đang có, hạnh phúc lại đến.

Oprah: Với thầy, tách trà là thực.

Nhất Hạnh: Tôi là thực, và tách trà là thực. Tôi đang ở trong hiện tại. Tôi không nghĩ về quá khứ. Tôi không nghĩ về tương lai. Có một cuộc gặp gỡ thực giữa tôi và trà, và hòa bình, hạnh phúc,và niềm vui là khả hữu trong thời gian tôi uống trà.

Oprah: Tôi chưa bao giờ suy nghĩ nhiều như thế về một tách trà.

Nhất Hạnh: Chúng tôi có thực hành thiền trà. Chúng tôi ngồi xuống, tận hưởng tình anh em, chị em và một tách trà. Phải mất một giờ để vừa thưởng thức một tách trà.

Oprah: Một tách trà, như thế này? [Cô đưa tách trà của mình lên]

Nhất Hạnh: Đúng .

Oprah: Một giờ ?

Nhất Hạnh: Mỗi khoảnh khắc là một khoảnh khắc của hạnh phúc. Và trong giờ thiền trà, bạn nuôi dưỡng niềm vui, tình anh em, chị em và bạn cư trú ngay trong hiện tại.


Về việc cộng đồng đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong suốt 39 năm lưu vong của ông

Oprah: Thầy có thực hành như thế với tất cả mọi loại thức ăn ?

Nhất Hạnh: Có. Chúng tôi có những bữa ăn im lặng trong một cách mà chúng tôi liên lạc với vũ trụ, trong từng miếng ăn.

Oprah: Hết bao lâu để thầy trải qua một bữa ăn? Cả ngày?

Nhất Hạnh: Một giờ là đủ. Chúng tôi cùng ngồi như một cộng đồng, và cùng thưởng thức bữa ăn của chúng tôi với nhau. Vì vậy, cho dù bạn đang ăn, đang uống trà của bạn, hoặc làm các món ăn của bạn, bạn làm điều đó trong một cách thức có tự do, niềm vui và hạnh phúc. Nhiều người đến trung tâm của chúng tôi và tìm hiểu nghệ thuật sống tỉnh thức này. Rồi trở về quê nhà của họ và thiết lập một Tăng đoàn (Sangha), một cộng đồng, để thực hành những điều ấy. Chúng tôi đã giúp thiết lập nhiều tăng đoàn toàn thế giới.

Oprah: Tăng đoàn là một cộng đồng yêu thương.

Nhất Hạnh: Đúng thế.

Oprah: Một cộng đồng như thế quan trọng ra sao trong cuộc sống của chúng ta? Con người có cộng đồng yêu thương với gia đình riêng của mình, sau đó ta mở rộng cộng đồng yêu thương của mình để bao gồm cả những người khác. Vì vậy, các cộng đồng yêu thương của bạn càng lớn hơn, bạn càng có thể hoàn thiện hơn trên thế giới.

Nhất Hạnh: Phải vậy.

Oprah: Trong chủ đề về cộng đồng, chúng ta hãy trở lại thời gian năm 1966. Ngài được mời đến nói chuyện tại Đại học Cornell, chẳng bao lâu sau, ngài đã không được phép trở về đất nước của mình. Ngài đã bị lưu đày suốt 39 năm. Ngài đã đối phó với những cảm xúc ấy ra sao ?

Nhất Hạnh: Vâng, tôi đã giống như một con ong bị đưa ra khỏi tổ. Nhưng bởi vì tôi đã mang cộng đồng yêu thương theo trong trái tim của mình, tôi đã tìm các yếu tố của tăng đoàn xung quanh tôi ở châu Mỹ và châu Âu. Và tôi đã bắt đầu xây dựng một cộng đồng làm việc cho hòa bình.

Oprah: Thoạt tiên thầy có cảm thấy tức giận, đau đớn không?

Nhất Hạnh: Tức giận, lo lắng, buồn và đau đớn. Các thực hành chánh niệm đã giúp tôi nhận ra những điều đó. Trong năm đầu tiên, hầu như đêm nào tôi cũng nằm mơ được đi về nhà. Tôi đã leo lên một ngọn đồi xinh đẹp, rất xanh, rất vui, và đột nhiên tôi tỉnh dậy và thấy rằng tôi đã bị lưu đày. Vì vậy, tu tập của tôi là để liên lạc với các loại cây, chim chóc, hoa lá, các trẻ em, người dân ở phương Tây - và làm họ thành cộng đồng của tôi. Và nhờ tu tập đó, tôi tìm thấy mái ấm bên ngoài gia đình tôi. Một năm sau đó, những giấc mơ ngừng lại.

Oprah: Lý do gì khiến thầy không được phép trở lại đất nước ?

Nhất Hạnh: Trong thời gian chiến tranh, tất cả các bên tham chiến đều tuyên bố rằng họ muốn đánh nhau đến tận cùng. Và những người của chúng tôi đã cố gắng để nói chuyện hòa giải giữa anh em với anh em - họ đã không cho phép chúng tôi làm như thế.

Oprah: Thế là khi thầy là một người không có tổ quốc, thầy đã tạo nên một mái gia đình trong các nước khác.

Nhất Hạnh: Đúng.

Oprah: Và Hoa Kỳ là một trong những mái ấm gia đình đó.

Nhất Hạnh: Đúng thế.

Oprah: Thầy đã gặp Martin Luther King như thế nào?

Nhất Hạnh: Vào tháng 6 năm 1965, tôi đã viết cho ông ta một lá thư giải thích lý do tại sao các nhà sư ở Việt Nam đã hiến mình. Tôi cho rằng, đây không phải là sự tự sát. Tôi cho rằng, trong những tình huống như ở Việt Nam, làm cho tiếng nói của mình đưọc nghe đến là sự khó khăn. Đôi khi chúng tôi phải tự thiêu mình để được lắng nghe. Đó là vì lòng từ bi mà ta làm điều đó. Đó là hành động của tình yêu chứ không phải của thất vọng. Rồi chính xác một năm sau khi tôi viết lá thư ấy, tôi đã gặp ông tại Chicago. Chúng tôi đã có một cuộc thảo luận về hòa bình, tự do, và cộng đồng. Và chúng tôi đã đồng ý rằng không có một cộng đồng, chúng ta không thể đi xa lắm.

Oprah: Cuộc thảo luận ấy dài bao lâu ?

Nhất Hạnh: Có lẽ là năm phút hoặc lâu hơn. Sau đó, có một cuộc họp báo, và ông đã biểu lộ thái độ rất mạnh mẽ chống lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Oprah: Thầy có nghĩ rằng đó là kết quả từ cuộc hội thoại của mình ?

Nhất Hạnh: Tôi tin như vậy. Chúng tôi đã tiếp tục công việc của chúng tôi, và lần cuối tôi đã gặp ông là ở Geneva trong thời gian hội nghị hòa bình.

(còn tiếp)
Nguồn: oprah.com


Thích Nhất Hạnh mô tả phương cách tốt nhất và duy nhất để loại trừ khủng bố
Oprah: Hai người khi ấy có phát biểu gì không ?
Nhất Hạnh: Có. Ông mời tôi đến ăn sáng, để nói về những vấn đề này một lần nữa. Tôi đã bị bận tại một cuộc họp báo ở tầng dưới phải đến trễ, nhưng ông vẫn chờ. Tôi nói với ông rằng người dân ở Việt Nam gọi ông là Bồ Tát- bậc giác ngộ, vì những gì ông đã làm cho người dân, cho đất nước của ông và thế giới.
Oprah: Và sự thực là ông ấy đã làm một cách bất bạo động.
Nhất Hạnh: Đúng thế. Đó là công việc của một vị Bồ Tát, một đức Phật, luôn luôn có lòng từ bi và bất bạo động. Khi tôi nghe biết về vụ ám sát ông, tôi đã không thể tin được. Tôi nghĩ, "Người dân Mỹ đã tạo nên một vị vua nhưng lại không có khả năng gìn giữ được ngài". Tôi đã có một chút giận dữ. Tôi đã bỏ ăn, bỏ ngủ. Nhưng quyết tâm của tôi để tiếp tục xây dựng một cộng đồng yêu thương luôn luôn được tiếp tục. Và tôi nghĩ rằng tôi luôn cảm nhận được sự ủng hộ của ông.
Oprah: Luôn luôn được hỗ trợ.
Nhất Hạnh: Vâng.
Oprah: Nào, chúng ta đã nói về chánh niệm, và ngài đã đề cập đến đi bộ. Thiền hành nghĩa là thế nào ?
Nhất Hạnh: Khi ta đi bộ, ta chạm mặt đất một cách tỉnh thức, và mỗi bước đi có thể mang lại cho bạn sự vững chãi , niềm vui và tự do. Giải thoát khỏi được những ray rứt của quá khứ và những lo sợ về tương lai.
Oprah: Hầu hết mọi người khi đi bộ thường suy nghĩ về nơi mình phải đến và những gì mình phải làm. Nhưng thầy cho rằng như thế sẽ khiến ta không được hạnh phúc chăng ?
Nhất Hạnh: Con người hy sinh hiện tại cho tương lai. Nhưng cuộc đời chỉ có sẵn hiện tại. Đó là lý do vì sao chúng ta nên đi bộ theo cách như vậy để mỗi bước đi có thể mang chúng ta đến hiện tại.
Oprah: Thế nếu như tôi còn các hóa đơn chưa trả thì sao? Tôi đi bộ, nhưng suy nghĩ về các hóa đơn.
Nhất Hạnh: Có thời gian cho tất cả mọi thứ. Có thời gian để mình ngồi xuống, tập trung bản thân vào vấn đề hoá đơn của mình, nhưng ta sẽ không lo lắng trước đó. Mỗi lúc làm một việc. Chúng ta thực hành đi bộ trong chánh niệm để tự chữa cho bản thân, bởi vì đi bộ như thế sẽ thực sự khiến chúng ta thoát khỏi các lo lắng, áp lực, những căng thẳng trong thể xác và tâm hồn của chúng ta.
Oprah: Trường hợp này cũng tương tự như việc lắng nghe sâu thẳm, mà tôi đã từng nghe thầy nhắc đến.
Nhất Hạnh: Lắng nghe sâu thẳm là loại lắng nghe có thể giúp làm giảm bớt những khổ đau của tha nhân. Ta có thể gọi là lắng nghe với tâm từ bi. Bạn lắng nghe chỉ với một mục đích là để giúp anh, chị ấy trống rỗng được tâm hồn mình. Ngay cả khi anh chị ấy nói lên những điều đầy những nhận thức sai lầm, cay đắng, bạn vẫn có khả năng tiếp tục lắng nghe với lòng từ bi. Bởi vì mình hiểu rằng khi lắng nghe như vậy, mình đem đến người ấy một cơ hội để vơi bớt đau khổ. Nếu bạn muốn giúp người ấy sửa chữa nhận thức của mình, hãy chờ đến một lúc khác. Để ngay bây giờ, bạn không ngăn trở gián đoạn. Bạn không tranh luận. Bởi vì nếu không, bạn làm mất đi cơ hội của người ấy. Bạn chỉ cần lắng nghe với lòng từ bi và giúp đỡ người ấy vơi bớt khổ đau. Một giờ đồng hồ như thế có thể mang đến được sự chữa trị và chuyển hóa.
Oprah: Tôi thích ý tưởng lắng nghe sâu này, bởi vì thường khi có một ai đến với mình để trút buồn giận, ta hay bị cám dỗ bởi việc sẽ đưa ra lời khuyên bảo. Nhưng nếu mình để cho người ấy cứ bộc lộ các xúc cảm, để lúc khác sẽ trở lại với lời khuyên hay ý kiến ắt người đó sẽ chứng nghiệm được một sự chữa lành sâu sắc. Đó là những gì thầy đang nói.
Nhất Hạnh: Đúng thế. Lắng nghe sâu thẳm giúp chúng ta nhận ra sự tồn tại của những nhận thức sai lầm trong chúng ta và trong tha nhân. Tha nhân có nhận thức sai về chính mình và chúng ta. Chúng ta lại có nhận thức sai về bản thân mình và tha nhân. Và đó chính là nền tảng của bạo lực, xung đột và chiến tranh. Những kẻ khủng bố, họ có nhận thức sai. Họ tin rằng các nhóm khác đang tìm cách tiêu diệt họ như là tiêu diệt một tôn giáo, một nền văn minh. Vì vậy, họ muốn tiêu diệt chúng ta, giết chúng ta trước khi chúng ta có thể giết được họ. Và người chống khủng bố có thể nghĩ hầu như tương tự - rằng đây là những kẻ khủng bố và họ đang cố gắng tiêu diệt mình, vì thế mình phải tiêu diệt chúng trước. Cả hai bên phía đều bị thúc đẩy bởi sợ hãi, tức giận và nhận thức sai. Nhưng nhận thức sai lầm không thể tháo gỡ bằng súng và bom. Nhận thức sai cần phải được loại bỏ bằng cách lắng nghe sâu, nghe từ bi, và không gian yêu thương.
Tại sao đau khổ là hệ trọng, và làm thế nào để chữa lành khổ đau
Oprah: Cách duy nhất để kết thúc chiến tranh là sự cảm thông giữa con người.
Nhất Hạnh: Đúng vậy. Chúng tôi sẽ có thể nói điều này: "Bạn ơi, người thân yêu ơi, tôi biết rằng bạn đau khổ. Tôi không am hiểu đủ những khó khăn và đau khổ của bạn. Tôi không có ý muốn bạn phải đau khổ hơn nữa. Ngược lại. Chúng tôi không muốn bạn khổ đau. Nhưng quả là chúng tôi không biết phải làm gì và chúng tôi có thể làm điều sai lầm nếu bạn không giúp chúng tôi hiểu được. Vì vậy, hãy nói cho chúng tôi về những khó khăn của bạn. Tôi tha thiết muốn học hỏi, muốn hiểu được ".Chúng ta cần có những lời nói yêu thương. Và nếu chúng ta thực sự thành tâm, trung thực, họ sẽ mở lòng họ ra. Sau đó chúng ta thực hành lắng nghe với lòng từ bi, và chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều về nhận thức của chính mình và của họ. Chỉ như thế sau đó chúng ta mới có thể giúp loại bỏ các nhận thức sai. Đó là cách tốt nhất, cách duy nhất, để loại bỏ chủ nghĩa khủng bố.
Oprah: Tuy nhiên, những gì thầy đang nói cũng áp dụng được cho những khó khăn giữa bản thân và các thành viên gia đình hoặc bạn bè. Dù các xung đột có khác nhau các nguyên tắc cũng là như nhau.
Nhất Hạnh: Đúng vậy. Và các cuộc đàm phán hòa bình nên được tiến hành theo cách đó. Khi đến đàm phán, chúng ta không nên thương lượng ngay lập tức. Chúng ta nên dành thời gian đi bộ , ăn uống, làm quen với nhau, nói cho nhau nghe về những đau khổ của mình, mà không buộc tội hay lên án. Có thể phải mất một, hai, ba tuần lễ để làm những điều đó. Và nếu sự cảm thông và hiểu biết là khả thi, cuộc đàm phán sẽ dễ dàng hơn. Vì vậy, nếu tôi tổ chức đàm phán hòa bình, tôi sẽ tổ chức theo cách đó.
Oprah: Thầy sẽ bắt đầu bằng dùng trà?
Nhất Hạnh: Dùng trà và thiền hành.
Oprah: Thiền Trà .
Nhất Hạnh: Và chia sẻ hạnh phúc cùng đau khổ của chúng tôi. Và lắng nghe sâu lắng nghe cùng những lời nói yêu thương.
Oprah: Có nơi chốn nào từng dành cho sự giận dữ ?
Nhất Hạnh: Tức giận là năng lượng mà mọi người xử dụng để hành động. Nhưng khi bạn tức giận, bạn sẽ không minh mẫn, và bạn có thể làm những điều sai trái. Đó là lý do tại sao lòng từ bi là một năng lượng tốt hơn. Và năng lượng của từ bi là rất mạnh. Chúng ta đau khổ. Đó là thực tế. Nhưng chúng ta phải học được cách không tức giận và không cho phép mình mang theo giận dữ. Chúng ta nhận thấy ngay rằng đó là sự lo sợ. Đó là sự mục rỗng.
Oprah: Nếu như trong một khoảnh khắc của chánh niệm mà mình bị thách thức thì sẽ ra sao? Ví dụ, một ngày kia có người đem đến tôi một vụ kiện tụng, và thật là khó mà cảm thấy được hạnh phúc khi có ai đó đem mình ra tòa.
Nhất Hạnh: Cách thực hành là đi đến những lo âu, những lo lắng -
Oprah: Nỗi lo sợ. Điều đầu tiên xảy đến là những nỗi sợ xen vào, như thế, tôi sẽ phải làm gì?
Nhất Hạnh: Thì bạn hãy nhận thức nỗi sợ hãi đó. Bạn hãy dịu dàng ôm lấy nỗi sợ và nhìn sâu vào nó. Và khi bạn ôm lấy cơn đau của mình, bạn sẽ có được niềm khuây khỏa và tìm ra cách giải quyết mối xúc cảm. Và nếu bạn biết cách giải quyết nỗi sợ hãi, bạn sẽ có đủ hiểu biết để giải quyết vấn đề. Vấn đề là không để cho nỗi sợ làm chủ. Khi những cảm xúc này nảy sinh, bạn phải thực hành để sử dụng năng lượng của chánh niệm mà nhận ra chúng, ôm lấy chúng, nhìn sâu vào chúng. Cũng giống như một bà mẹ khi em bé khóc. Nỗi lo lắng của mình chính là em bé của mình. Mình cần phải chăm sóc nó. Bạn phải trở về với chính mình, nhận ra những đau khổ trong mình, ôm lấy nỗi đau khổ, và bạn sẽ được niềm khuây khỏa. Và nếu bạn tiếp tục với thực hành chánh niệm của mình, bạn sẽ hiểu đuợc các căn nguyên, bản chất của đau khổ, và bạn sẽ biết cách để biến đổi chúng.
Oprah: Thầy dùng từ đau khổ rất nhiều. Tôi nghĩ rằng nhiều người cho đau khổ là sự đói kém hoặc nghèo khổ vô cùng. Nhưng khi nói về đau khổ, thầy muốn nói về điều gì ?
Nhất Hạnh: Tôi muốn nói đến những sợ hãi, tức giận, thất vọng và lo âu trong chúng ta. Nếu ta biết đối phó với những điều đó, ta sẽ có thể giải quyết được các vấn đề chiến tranh, đói nghèo và xung đột. Nếu chúng ta có lo sợ và thất vọng trong chính mình, chúng ta không thể loại bỏ những đau khổ trong xã hội.
Oprah: Bản chất của Phật giáo, như tôi hiểu, là tin rằng chúng ta đều tinh khiết và rạng rỡ tự bản chất. Thế nhưng, chúng ta thấy xung quanh rất nhiều bằng chứng rằng mọi người không hành động từ một nơi tinh khiết và rạng rỡ. Làm thế nào chúng ta hoà giải được những điều đó?
Nhất Hạnh: Vâng, hạnh phúc và đau khổ hỗ trợ lẫn nhau. Sống là sống-với (to be is to inter-be). Tựa như bên trái và bên phải. Nếu không có bên trái, sẽ chẳng có bên phải. Điều này cũng đúng với đau khổ và hạnh phúc, thiện và ác. Trong mỗi chúng ta đều có những hạt giống tốt và xấu. Chúng ta có hạt giống của tình anh em, tình yêu, lòng từ bi, sự thông hiểu. Nhưng chúng ta cũng có những hạt giống của giận dữ, căm thù, bất đồng.
Oprah: Đó là bản chất của con người.
Nhất Hạnh: Đúng. Có bùn và có hoa sen mọc trong bùn. Chúng ta cần bùn để tạo nên hoa sen.
Oprah: Không thể có thứ này mà không có thứ khác.
Nhất Hạnh: Phải vậy. Bạn chỉ có thể nhận ra hạnh phúc của mình nhờ vào sự khổ đau. Nếu không bị đói, mình sẽ không quý trọng việc có cái gì để ăn. Nếu không trải qua chiến tranh, mình không biết giá trị của hòa bình. Đó là lý do tại sao chúng ta không nên cứ chạy theo hết điều này đến điều khác. Hãy ôm lấy khổ đau khổ của mình, nhìn sâu vào đấy, chúng ta sẽ tìm được cách đến hạnh phúc.
Tìm hiểu về Bốn niệm chú mà Thích Nhất Hạnh xử dụng khi hành thiền
Oprah: Thầy có hành thiền mỗi ngày không?
Nhất Hạnh: Chúng tôi cố gắng không chỉ hành thiền mỗi ngày mà mọi lúc. Khi uống, khi nói, khi viết, khi tưới cây, có thể hành thiền trong cuộc sống ngay trong mọi lúc.
Oprah: Nhưng thầy có từng ngồi lặng lẽ một mình, niệm chú hay không niệm một thần chú nào?
Nhất Hạnh: Vâng. Chúng tôi ngồi một mình, chúng tôi cùng ngồi với nhau.
Oprah: Càng nhiều người cùng ngồi càng tốt hơn.
Nhất Hạnh: Đúng. Năng lượng tập thể là rất hữu ích. Tôi muốn nói về chú niệm mà bạn vừa đề cập. Câu đầu là "Em yêu, anh ở đây vì em." Khi bạn yêu một ai đó, điều tốt nhất mà mình có thể mang lại chính là sự hiện diện của mình. Làm sao ta có thể yêu thương nếu mình không ở đấy ?
Oprah: Đó là một niệm chú đáng yêu.
Nhất Hạnh: Bạn hãy nhìn vào mắt họ và nói, "Em yêu, em có biết gì không ? Anh đang ở đây vì em" Bạn mang đến cho người ấy sự hiện diện của mình. Bạn không bận tâm đến quá khứ hay tương lai; bạn ở đấy cho người mình thương yêu. Niệm chú thứ hai là, "Em yêu, anh biết em ở đấy và anh rất hạnh phúc" Bởi vì bạn hoàn toàn ở đấy, bạn nhận ra sự hiện diện của ngưoơi mình thương yêu như một cái gì đó rất quý giá. Bạn ôm lấy người thương của mình với chánh niệm. Và người đó sẽ nở ra như một đóa hoa. Được yêu thương có nghĩa là được nhìn nhận như một hiện hữu. Và hai niệm chú này có thể mang lại hạnh phúc ngay lập tức, ngay cả khi người yêu của bạn không ở đó. Bạn có thể sử dụng điện thoại và thực hành các niệm chú.
Oprah: Hoặc dùng e-mail.
Nhất Hạnh: Đúng, E-mail. Bạn không cần phải thực hành bằng tiếng Phạn hay tiếng Tây Tạng, bạn có thể thực hành bằng tiếng Anh.
Oprah: "Anh yêu, em ở đây vì anh".
Nhất Hạnh: Và em rất hạnh phúc. Niệm chú thứ ba là những gì bạn thực hiện khi người mình yêu thương bị đau khổ. "Em yêu, anh biết em đang đau khổ. Đó là lý do tại sao anh ở đây cho em..." Trước khi bạn làm điều gì đó để giúp đỡ, ngay sự hiện diện của bạn đã có thể mang lại một số an ủi.
Oprah: Sự nhìn nhận những đau khổ hay tổn thương.
Nhất Hạnh: Đúng thế. Và niệm chú thứ tư hơi khó hơn một chút. Đó là khi bạn bị đau khổ và bạn tin rằng sự đau khổ của bạn gây ra bởi người mình yêu thương. Nếu một ai khác đã làm điều gì sai quấy cho mình, bạn đã có thể ít khổ đau hơn. Nhưng đây lại chính là người mà mình yêu thương nhất, do đó bạn bị đau khổ vô cùng. Bạn muốn đi về phòng của mình đóng cửa lại và chịu đựng một mình.
Oprah: Đúng thế.
Nhất Hạnh: Bạn bị tổn thương. Và bạn muốn trừng phạt người ấy vì đã họ khiến bạn phải đau khổ. Câu niệm chú là để chế ngự điều ấy: "Em yêu, tôi đau khổ. Tôi đang cố gắng hết sức để tu tập... Xin hãy giúp đỡ tôi." Bạn hãy đến với cô ấy, với anh ấy, và thực hành điều đó. Và nếu bạn có thể tự mình đến để đọc niệm chú ấy, ngay lập tức, bạn sẽ vơi nhẹ khổ đau. Bởi vì bạn không có sự gì ngăn trở giữa bạn và người ấy.
Oprah: "Anh yêu, em đau khổ. Hãy giúp đỡ em."
Nhất Hạnh: "Hãy giúp em."
Oprah: Nếu người đó không sẵn lòng giúp mình?
Nhất Hạnh: Trước hết, khi bạn yêu một ai đó, bạn muốn chia sẻ mọi thứ với anh ta hoặc cô ta. Vì vậy, chính là nhiệm vụ của mình để nói rằng, "Tôi đau khổ và tôi muốn bạn biết", và anh ấy, cô ấy, sẽ trân trọng với điều đó.
Oprah: Nếu anh ấy, cô ấy yêu mình.
Nhất Hạnh: Đúng. Đây là trường hợp của hai người yêu nhau. Người mà mình yêu quý.
Oprah: Đúng quá.
Nhất Hạnh: "Và khi tôi đã cố gắng hết sức để nhìn sâu sắc, để xem có phải khổ đau này xuất phát từ nhận thức sai lầm của tôi và tôi có thể có khả năng biến đổi nó hay không, nhưng trong trường hợp này tôi không thể biến đổi nó, em nên giúp tôi, em yêu. Em nên cho tôi biết lý do tại sao em đã làm một điều như vậy với tôi, tại sao lại nói một điều như vậy với tôi". Bằng cách đó, bạn đã bày tỏ lòng trông cậy, sự tự tin của mình. Bạn không còn muốn trừng phạt nữa. Và đó là lý do tại sao ngay lập tức bạn đau khổ ít đi.
Thích Nhất Hạnh chia sẻ những gì ông biết chắc chắn
Oprah: Tuyệt vời. Bây giờ tôi xin hỏi thầy một số câu hỏi về thế giới tu hành. Thầy có tập thể dục để giữ dáng không?
Nhất Hạnh: Có. Chúng tôi có mười vận động chánh niệm. Chúng tôi đi thiền hành mỗi ngày. Chúng tôi thực hành ăn uống với chánh niệm.
Oprah: Thầy ăn chay?
Nhất Hạnh: Đúng thế. Ăn chay. Tuyệt đối chay tịnh. Chúng tôi không ăn các sản phẩm từ động vật nữa.
Oprah: Vậy là, thầy sẽ không ăn trứng.
Nhất Hạnh: Không trứng, không sữa, không phô mai. Bởi vì chúng tôi hiểu biết rằng ăn uống trong chánh niệm có thể cứu được hành tinh của chúng ta.
Oprah: Thầy có xem TV?
Nhất Hạnh: Không. Nhưng tôi vẫn sát gần với thế giới. Nếu có bất cứ điều gì thực sự quan trọng xảy ra, có người sẽ cho tôi biết.
Oprah: Tôi cảm thấy cách đó !
Nhất Hạnh: Mình không cần phải nghe tin tức ba lần một ngày hay đọc hết tờ báo này đến tờ báo khác.
Oprah: Đúng vậy. Thế cuộc đời của một nhà sư là một cuộc sống độc thân phải không ?
Nhất Hạnh: Đúng thế.
Oprah: Thầy chưa từng bao giờ gặp khó khăn với ý tưởng từ bỏ hôn nhân hay con cái ?
Nhất Hạnh: Một hôm khi ở độ tuổi 30, tôi đã thiền định trong một công viên ở Pháp. Tôi thấy một bà mẹ trẻ với một em bé xinh đẹp. Và trong một thoáng chớp tôi đã nghĩ rằng phải chi tôi không phải là một nhà sư, chắc tôi sẽ có một người vợ và một đứa trẻ như thế. Ý tưởng chỉ kéo dài trong một giây. Tôi vượt thắng ý tưởng ấy rất nhanh chóng.
Oprah: Đó không phải là cuộc sống dành cho thầy. Và nói về cuộc sống, cái chết thì ra sao ? Điều gì xảy ra khi chúng ta chết đi, thầy có tin không ?
Nhất Hạnh: Câu hỏi có thể được trả lời khi bạn có thể trả lời câu hỏi này: Điều gì sẽ xảy ra trong thời điểm hiện tại ? Trong thời điểm hiện tại, bạn đang tạo ra các suy nghĩ, lời nói và hành động. Và chúng sẽ tiếp tục trên thế gian này. Mỗi suy nghĩ bạn tạo ra, bất cứ điều gì bạn nói, bất kỳ hành động mà bạn làm, đều mang chứng tích của bạn. Những hành vi này được gọi là nghiệp. Và đó là sự liên tục của bạn. Khi thân thể này hư hoại, bạn vẫn tiếp tục với những hành động của mình. Giống như đám mây trên bầu trời. Khi mây không còn trên bầu trời, nó đã không chết đi. Đám mây vẫn tiếp tục trong các hình tướng khác như mưa, tuyết hoặc băng. Bản chất của chúng ta là bản chất của sự không sinh không tử. Không thể khiến cho một đám mây vượt khỏi từ sự có sang sự không có. Và điều này thực đúng với một người mình yêu quý. Họ đã không chết. Họ đã tiếp tục trong nhiều hình tướng mới, và bạn có thể nhìn một cách sâu sắc và nhận ra họ trong chính bạn và xung quanh bạn.
Oprah: Có phải là đấy là điều thầy muốn nói khi thầy đã viết bài thơ “Hãy gọi tôi bằng tên thật của tôi” mà tôi hằng yêu thích không ?
Nhất Hạnh: Phải. Khi bạn gọi cho tôi châu Âu, tôi nói phải. Khi bạn gọi cho tôi là Ả Rập, tôi nói phải. Khi bạn gọi cho tôi là đen, tôi nói phải. Khi bạn gọi cho tôi là trắng, tôi nói phải. Bởi vì tôi ở trong bạn và bạn đang ở trong tôi. Chúng ta phải ở được trong mọi thứ của vũ trụ.
Oprah: [đọc từ một bài thơ] "Tôi là loài phù du ẩn hiện trên mặt sông. Và tôi là loài chim, khi xuân về, kịp đến để ăn loài phù du... Tôi là đứa trẻ ở Uganda, toàn da bọc xương. Đôi chân tôi gầy teo như hai ống tre. Và tôi là người lái buôn vũ khí, bán những vũ khí giết người cho Uganda... Tôi là bé gái mười hai tuổi, nương thân trên chiếc xuồng nhỏ...Đã nhảy xuống đại dương sau khi bị hãm hiếp bởi một tên cướp biển, Và tôi là tên cướp biển, lòng tôi không biết nhìn và thương yêu... Xin hãy gọi tôi bằng tên thật của tôi để tôi có thể cùng nghe được tiếng khóc và tiếng cười của mình để tôi có thể nhìn thấy niềm vui và nỗi đau của mình là một...Xin hãy gọi tôi bằng tên thật của tôi, Để tôi có thể tỉnh dậy, để cánh cửa lòng tôi có thể được bỏ ngỏ , một cánh cửa của từ bi" Bài thơ đó có ý nghĩa là gì, thưa thầy ?
Nhất Hạnh: Có nghĩa lòng từ bi của chúng ta là thực hành quan trọng nhất. Sự hiểu biết mang đến lòng từ bi. Hiểu những đau khổ mà chúng sinh trải qua sẽ giúp giải phóng năng lượng của từ bi. Và với năng lượng đó bạn sẽ biết mình phải làm gì.
Oprah: Được rồi. Ở phần cuối của tạp chí này, tôi sẽ có một cột mục mang tên là "Những gì tôi biết chắc". Vậy, những gì thầy biết chắc chắn ?
Nhất Hạnh: Tôi biết chắc rằng chúng mình không biết đủ. Chúng ta phải tiếp tục học hỏi. Chúng ta phải mở ra. Và chúng ta phải sẵn sàng để buông thả những kiến thức của mình để đi đến được một hiểu biết cao hơn của thực tại. Khi bạn leo lên một bậc thang và bước đến bậc thứ sáu, và bạn nghĩ rằng đó là bậc cao nhất, thì bạn không thể đến được bậc thứ bảy. Thành ra kỹ thuật chính là buông bỏ bậc thang thứ sáu để bậc thứ bảy có thể trở nên khả thi. Và đấy là tu tập của chúng tôi, buông xả đi những quan điểm của mình. Lối thực hành về sự không vướng mắc vào quan điểm là trọng tâm của tu tập thiền định Phật giáo. Con người đau khổ là vì họ bị vướng kẹt trong các quan điểm, chúng ta tự do thì chúng ta sẽ không còn đau khổ nữa.
Oprah: Thế không có một truy tìm thực sự để được tự do sao ?
Nhất Hạnh: Có. Để được tự do, trước hết, là được thoát khỏi những quan điểm sai lầm vốn là nền tảng của tất cả loại đau khổ, sợ hãi và bạo lực.
Oprah: Thật là một vinh dự được hầu chuyện với thầy hôm nay.
Nhất Hạnh: Xin cảm ơn. Một khoảnh khắc của hạnh phúc cũng có thể giúp ích mọi người.
Oprah: Tôi nghĩ sẽ như thế.


Hết


Nguồn: oprah.com

Hoàng Ngọc Hiến - Càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực càng lớn

Càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực càng lớn
Tác giả: Hoàng Ngọc Hiến
Bài đã được xuất bản.: 2 giờ trước
Vô vi là một cách làm biết nương theo cái "tự nhiên" của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán. Hiểu như vậy thì minh triết vô vi của Lão tử gần với minh triết của Thomas Jefferson đã nghiệm rằng: "chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn".

Bài 2: Tuyệt đối hoá một tư tưởng, tư tưởng khác sẽ thoái lui

Bài 1: Minh triết Tam giáo trong văn hoá Việt

Trong Đạo đức kinh vô vi đối lập với hữu vi dễ bị hiểu lầm như là sự đối lập giữa không (làm) và có (làm), thực ra đây là sự đối lập giữa hai cách làm. Hữu vi là làm theo cách can thiệp chủ quan (cậy quyền lực một cách vũ đoán, thô bạo), không coi trọng sự phát triển tự thân, tự nội lực của bản thân sự vật, và vô vi là làm theo cách không can thiệp chủ quan, trước sau tôn trọng và nương vào sự tự phát triển của nội giới, nội lực của sự vật. Hiểu như vậy thì "vi vô vi" (th.63) là làm mà không can thiệp chủ quan, "sự vô sự" (th.63) là làm mà "không đa sự (phiền hà)","không sinh sự"... và câu danh ngôn "vô vi nhi vô bất vi" có thể hiểu là: không làm (theo cách chủ quan, cậy quyền vũ đoán...) thì chẳng có việc gì là không làm".

Trong minh triết Đông Á, cách làm "vô vi" quán xuyến từ việc giáo dục đạo đức đến việc trị dân. Trong quan niệm của Mạnh tử (xem Mạnh tử ,II, A,2) muốn bồi dưỡng khí hạo nhiên và đạo đức cho ai đó thì "đừng có hấp tấp, cầu cho mau xong... mà nong sức trưởng thành..." [H.N.H.tô đậm], đừng có làm như người nước Tống kia "lo lắng đám mạ của mình chẳng lớn bèn lấy tay mà nhổ lên từng cọng". "Không hấp tấp nong sức trưởng thành..." cũng như "nhổ cỏ mọc xen đám mạ" để mạ tự mọc lên, đó chính là vô vi.

Trong việc trị dân cũng vậy, Lão tử đặc biệt quan tâm đến nội giới, nội lực ở bản thân người dân. Lời của thánh nhân (minh triết) [xem th.57]: "ngã vô vi nhi dân tự hóa... ngã vô sự nhi dân tự phú..." (...ta không làm [theo cách can thiệp chủ quan, cậy quyền vũ đoán], vậy thế mà dân tự cải hóa..., ta không làm [theo cách đa sự, sinh sự] vậy thế mà dân tự phú túc...).

Như vậy "vô vi" không có nghĩa là "không làm". "Nếu vô vi là không làm gì cả thì Lão tử đã không viết Đạo đức kinh ra làm gì!" (Nguyễn Duy Cần).[1] Vô vi là một cách làm biết nương theo cái "tự nhiên" của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán.


Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của chúng ta, minh triết "vô vi" sớm được nêu lên. Vua Lê Đại Hành (941-1005) thường mời Thiền sư Pháp Thuận (916-991) vào triều bàn việc chánh trị và ngoại giao và xem sư như là Quốc Sư. Một lần vua Đại Hành hỏi về vận nước, sư Pháp Thuận bèn dâng một bài kệ:
Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi, cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Dịch thơ

Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên điện các

Xứ xứ hết đao binh

(bản dịch thơ trích dẫn từ WikiPhậtgiáo)

Đại ý hai câu cuối của bài kệ được giảng là: "Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao". Có thể triển khai ý hai câu này như sau: "mọi chốn đều tắt binh đao" có nghĩa là mọi chốn trời Nam đều "mở thái bình", "thái bình" có nghĩa là không có đấu đá, xâu xé, đâm chém lẫn nhau, vì "dân tự hóa" (bớt tham, sân, si), vì "dân tự phú" (thoát cảnh nghèo đói) ...; Do đâu mà "mở thái bình"? đến đây có thể láy lại câu của Lão tử, vì vua "vô vi mà dân tự hóa", vì vua "vô sự mà dân tự phú".

Thomas Jefferson (1743-1826), người khởi thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, trong một bức thư viết ngày 12/6/1815 (năm tham chính cuối cùng của ông), T.Jefferson đã tổng kết kinh nghiệm hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt động chính trị của ông như sau: "Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn". Đầu t.k.XIX, ở phương Tây thanh thế của triết học nổi trội vượt bậc, minh triết bị lu mờ, thế nhưng điều thứ nhất, điều duy nhất mà Jefferson đòi hỏi ở nhà cầm quyền, ở chính trị gia, đó là minh triết, ở họ minh triết phải tương xứng với quyền lực: "Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta". Và tư tưởng "càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn" mà minh triết dạy cho ông rất gần với minh triết "vô vi" của Lão tử.


Ở lời dạy thứ 12, khoan dung còn lớn hơn một đức hạnh. Ảnh: thienviendaidang.net


Minh triết 14 điều Phật dạy


Thời gian gần đây, ở nhiều chùa, cả trong những tư thất thấy trên những bản in giấy và những bức trướng thêu nêu lên Mười bốn điều Phật dạy[2] (cũng có thể gọi là Mười bốn điều minh triết của Phật):

1. Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình
2. Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
3. Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
4. Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
5. Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
6. Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
7. Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
8. Đáng khâm phục nhất của đời người là vươn lên sau khi vấp ngã
9. Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
10. Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ, trí tuệ
11. Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
12. Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung
13. Khuyết điểm lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
14. An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.

Những vấn đề đươc nêu lên trong 14 điều Phật dạy là những tính xấu phổ biến trong nhân loại: tự đại, dối trá, ghen tị, bất hiếu..., những tình thế con người hay gặp phải: tuyệt vọng, vấp ngã..., những khuyết điểm, nhược điểm thường có ở con người: tự ti, kém hiểu biết..., những giá trị ở đâu cũng đáng giá: sức khỏe, trí tuệ... Sức thuyết phục của 14 điều Phật dạy trước hết là ở tính phổ quát, dường như ở bên trên mọi sự phân biệt chủng tộc, dân tộc, văn minh, tín ngưỡng, hệ tư tưởng....14 điều Phật dạy không hề nhắc đến "Nát bàn", "vô ngã", "bể khổ", "giải thoát"... Phải chăng mang mầu sắc giáo lý sức thuyết phục của những lời dạy có thể bị hạn chế?

Chẳng hạn đối với những người theo đạo Thiên chúa, đạo Hồi... Phải chăng đây cũng là một đặc trưng của minh triết và những điều minh triết? Cũng cần chú ý đến hình thức diễn đạt những lời dạy (những câu minh triết thường đòi hỏi hình thức diễn đạt đặc sắc). Hình thức diễn đạt hầu hết những điều dạy này của Phật gây hiệu quả bất ngờ. Dối trá thường được xem xét ở bình diện đạo đức, ở lời dạy thứ 3 nó bị phán xét ở bình diện nhận thức: "Ngu dốt lớn nhất của đời người." (rất có thể "ngu dốt" là từ nôm na để gọi chữ "vô minh" của nhà Phật, ý thức về việc này của người biên tập tiếng Việt 14 điều Phật dạy rất đáng kính trọng).

Ở lời dạy thứ 12, khoan dung còn lớn hơn một đức hạnh, nó là "lễ vật lớn nhất của đời người". Nói đến tài sản, ai cũng nghĩ đến vốn liếng tiền tài, vàng bạc, nhà cửa..., với lời dạy thứ 10, "sức khỏe, trí tuệ" mới là "tài sản lớn nhất của đời người", không mấy ai nghĩ đến điều này, đọc lời dạy thứ 10, ta "ngộ" ngay ra được, không hiểu sao điều hết sức đơn giản này mà ta không hề nhận ra. (đây cũng là đặc điẻm chung của những điều minh triết). Nói đến "bố thí" ta nghĩ đến sự giúp đỡ, sự "an ủi" người "được bố thí", Phật lại nghĩ " bố thí" trước hết là niềm "an ủi", niềm "an ủi lớn nhất của đời người" cho chính người "làm bố thí" (lại một sự đảo lộn trong nhận thức, thêm một ví dụ nữa về "tính sáng" của minh triết). Người tự ti hay bị coi thường, Phật lại thấy họ là người "đáng thương" (lời dạy thứ 7).

Ai cũng biết "bất hiếu" là tội lỗi, theo lời dạy thứ 6, nó là "tội lỗi lớn nhất của đời người". Trong cả 14 lời dạy, những sự đánh giá đều ở "cấp cao nhất". Đây là một hình thức gây sự bất ngờ đồng thời tạo ra sự thống nhất của 14 lời dạy của Phật. Bất ngờ nhất là lời dạy thứ nhất. Ai cũng biết cái "tôi" của mình là "đáng ghét", nhưng thật bất ngờ, nó là "kẻ thù lớn nhất của đời người". Nói đến "kẻ thù", người ta nghĩ đến những kẻ thù "hai chân, bốn chân" ở bên ngoài mình, Phật chỉ ra nó là "tự ngã" ở bên trong mình. Cả Phật và "kẻ thù lớn nhất của đời người" đều ở bên trong con người!

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có một điểm son về tinh thần đổi mới truyền thống: tư tưởng Trần Nhân Tông (1258-1308). Vua-Phật Trần Nhân Tông đặt rất cao yêu cầu đổi mới trong nhận thức. Trong một bài giảng ở chùa Vĩnh Nghiêm, trước ba câu hỏi của thiền sinh:

- Thế nào là Phật?

- Thế nào là Pháp?

- Thế nào là Tăng?

Cả ba lần ông chỉ có một câu trả lời: "Hiểu theo lối trước là chẳng phải"[6]

Phật, pháp, tăng là "tam bảo", là nguyên lý của những nguyên lý trong giáo lý đạo Phật. Trần Nhân Tông kiên quyết phủ định cách hiểu theo lối trước chính Nguyên lý ấy. Bất cứ sự đổi mới nhận thức nào cũng phải bắt đầu bằng sự nghi ngờ, phủ định cách hiểu cũ. Trần Nhân Tông là một tấm gương của sự đổi mới tư tưởng và nhận thức. Chắc ông biết quá rõ những vụ án văn tự và sự cố chấp riết róng của người đời trong cách hiểu các thứ kinh bổn. Chỉ cần "rời" Kinh một chữ đủ bị lên án biến kinh Phật thành "ma thuyết". "Phật", "Pháp", "Tăng" là "danh" của những khái niệm. Danh có khi chỉ là "vỏ", cách hiểu những khái niệm mới là "ruột". Trần Nhân Tông giữ lại những cái "danh", những cái "vỏ", về hình thức xem như vẫn giữ lại những "khái niệm". Ông không đưa ra những khái niệm mới thay cho những khái niệm cũ, ông không đập vỡ, vứt bỏ những cái "vỏ", mà chú trọng sự thay đổi "ruột" bằng cách đưa ra những cách hiểu "mới", "tùy duyên". Phải chăng đây là một kinh nghiệm minh triết của sự đổi mới?

"Đổi mới" đặt ra vấn đề cách đối xử với những truyền thống.

Trong một buổi thiền sư Trúc Lâm đại đầu đà (tức Trần Nhân Tông) khai đường ở chùa Vĩnh Nghiêm, có một thiền sinh hỏi: "Dùng công án cũ để làm gì?"

Thiền sư trả lời: "Mỗi lần nêu ra một lần mới"[7]

Trong một buổi khai đường khác ở viện Kỳ Lân, cũng vấn đề này được đặt ra, câu trả lời in hệt nhưng cách hỏi "xóc óc" hơn:

Một thiền sinh hỏi: "Dùng đờm dãi người xưa làm gì?"

Thiền sư trả lời: "Mỗi lần nêu ra một lần mới"[8]

"Công án cũ", "đờm dãi người xưa" thuộc về truyền thống. Trong quan niệm của Trần Nhân Tông, truyền thống cũng phải đổi mới (tức là phải có cách hiểu mới và vận dụng mới) và đổi mới truyền thống phải có tính cập nhật: "mỗi lần nêu lên một lần mới".

"Cư trần lạc đạo" là một tư tưởng lớn của dòng Thiền Trúc Lâm Yên tử. Tôi giật mình khi đọc câu đầu trong bài kệ ở cuối bài phú " Cư trần lạc đạo".

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên[9]

Hóa ra tư tưởng "cư trần lạc đạo" cũng như những tư tưởng lớn khác cũng phải "tùy duyên" mà hiểu, mà vận dụng. Mọi nguyên lý và tư tưởng dù cao siêu, cơ yếu đến đâu mà tách ra khỏi cái "duyên" níu kéo, nương vịn của những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của cuộc sống không tránh khỏi trở thành những giáo điều vô duyên, vô dụng. "Bảo vệ nguyên lý và truyền thống" không thể tách rời "hiểu mới nguyên lý và truyền thống" trong sự vận dụng...


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Xem Lão tử. Đạo đức kinh. Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú. N.x.b. Văn học.1992,tr.21

[2] Theo Wikipedia Việt "14 điều dạy của Phật" là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rõ ràng, nhưng nội dung của bản văn này được nhiều người xem như đã được trích ra từ những ý tưởng trong kinh Phật. Ở Việt Nam, có những bản "14 đièu Phật dạy", phía dưới có ghi chú:Hòa thượng Kim Cương tử sưu tầm, biên tập

[3] Cũng có những blog (khoảng một phần mười) có thái độ diễu nhại. Tiêu biểu là bài sau đây chúng tôi đọc trên mạng:

14 "Điều Răn của Mẹ"

1. Kẻ thù lớn nhất của con là nó (vợ con)
2. Ngu dốt lớn nhất của đời con là không hiểu ra được nó
3. Thất bại lớn nhất của đời con là không bỏ được nó
4. Bi ai lớn nhất của đời con là phải sống với nó
5. Sai lầm lớn nhất của đời con là quyết định lấy nó
6. Tội lỗi lớn nhất của đời con là nghe lời nó
7. Đáng thương lớn nhất của đời con là bị nó sai khiến
8. Đáng khâm phục lớn nhất của đời con là vẫn chịu được nó
9. Phá sản lớn nhất của đời con là cuợc đời con đã mất trong tay nó
10. Tài sản lớn nhất của đời người con là những thứ nó đang giữ
11. Món nợ lớn nhất của đời con là tờ giấy ly hôn
12. Lễ vật lớn nhất của đời con là sự hết lòng của con với nó
13. Khiếm khuyết lớn nhất của đời con là con không lấy được hai vợ
14. An ủi lớn nhất của đời con là thằng con nó đẻ ra

[4] Lê Mạnh Thác, Toàn tập Trần Nhân Tông, N.x.b. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.8

[5] Như trên

[6] Lê Mạnh Thác, sách đã dẫn, tr.419,420

[7] Sách đã dẫn, tr.421

[8] Sách đã dẫn, tr.435,436

[9] Bản dịch của Lê Mạnh Thác

Hoàng Ngọc Hiến- Tuyệt đối hoá một tư tưởng, tư tưởng khác sẽ tháo lui

Tuyệt đối hoá một tư tưởng, tư tưởng khác sẽ tháo lui
Tác giả: Hoàng Ngọc Hiến

Bài đã được xuất bản.: 20/02/2010 08:30 GMT+7


Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui; tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái.

Minh triết tam giáo trong văn hoá Việt

Thử bàn về "tứ vô" của Khổng Tử

Phan Bội Châu đặc biệt quan tâm đến tư tưởng "vô ngã" của Khổng Tử (xem Khổng học đăng, thượng thiên về "Luận ngữ trích lục diễn giải"). Hải Lượng (pháp danh của Ngô Thì Nhậm) trong viêc đánh giá Hàn Dũ (tự xưng là Hàn Xương Lê) lấy "tứ vô" của Khổng Tử làm chuẩn: "Đồ đệ bạch với thầy (Hải Lượng) rằng: Xương Lê đã đến bậc nhất của phù đồ chưa? Thầy đáp: Mới đến bậc ba, bậc bốn. Xương Lê cũng theo ý và tất, chẳng bằng "vô ý", "vô tất" mới thật tốt" (Ngô Thì Nhậm, "Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh").

Luận ngữ, chương IX, tiết 4 có câu: "Tử tứ tuyệt: vô ý, vô tất,vô cố, vô ngã", được Nguyễn Đức Lân dịch nghĩa là: "Phu tử có bốn điều tuyệt nhiên không mắc phải:...". Hiểu như thế nào đây "vô ý", "vô tất", "vô cố", "vô ngã"?

Tôi thiên về cách hiểu, phân tích, diễn nghĩa của François Jullien [1]. Những ý kiến được trình bày dưới đây chủ yếu được tham khảo từ công trình của F.Jullien đươc dẫn ở chú thích 2.


Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt. Ảnh: amthuc.com

Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến mà có nghĩa là: không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối hoá khiến cho ta không nhìn thấy những điều hợp lý,khả thủ của những ý kiến khác, kể cả những ý kiến đối lập.
Vô tất có nghĩa là không định trước những điều thế tất, ắt phải như thé này, ắt phải như thế kia, không áp đặt những mệnh lệnh tất phải thế này, tất phải thế kia.

Vô cố có nghĩa là không cố chấp một quan điểm nào, một lập trường nào.

Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt.

Có liên quan mật thiết giữa 4 cái vô.

Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui; tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái. Để duy trì địa vị độc tôn, để đối phó với những tư tưởng khác, nó buộc phải định trước những sự tất yếu (không tránh khỏi phiến diện) và đưa ra những mệnh lệnh chủ quan (vi phạm quan điểm vô tất).

Tư tưởng độc tôn dẫn đến sự cố chấp trong quan điểm,lập trường(vi phạm quan điểm vô cố). Tư tưởng độc tôn,cố chấp quan điểm, lập trường cùng với những thành kiến ,định kiến cố hữu tạo ra một cái tôi (ngã) đặc biệt (moi particulier). Cái tôi đặc biệt là cái tôi khép kín trong sự phiến diện, bị định hình một cách cứng nhắc, không mở ra được đặng khai thông với những mặt khác của thực tại, của cuộc sống, của nhận thức... bao giờ cũng vô cùng sinh động và phong phú.

Vô ý, với ý nghĩa là không tuyết đối hoá một tư tưởng nào,quan tâm đúng mực mọi tư tưởng (cũng như mọi phương diện, mọi khả năng của thực tại) là một tư tưởng cơ bản trong minh triết của K.T. Quan tâm đúng mực mọi tư tưởng giống như mở ra mọi cánh cửa, thấy được mọi ngả đường. Còn như tuyệt đối hoá một tư tưởng thì giống như có một cánh cửa được mở toang ra nhưng những cánh cửa khác thì bị khép lại, có thể nhìn xa hơn, thấy rộng hơn theo một ngả đường nhưng trả giá cho lợi thế này có khi là sự mù trước những ngả đường khác.

Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến, không có tư tưởng;quan điểm vô ý ngăn ngừa sự độc quyền hoá của một tư tưởng. Câu nói của K.T. "Quân tử chu nhi bất tỷ, tiểu nhân tỷ nhi bất chu" (Luận ngữ ,II,14) được F.J. hiểu như sau: "Người quân tử bao quát tổng thể, không thiên vị một phía nào, kẻ tiểu nhân thì ngược lại", (bản dịch của Đ.T.C: "Bực quân tử xử được với tất cả mọi người vì chẳng có lòng tư vị, kẻ tiểu nhân vì tư vị cho nên chẳng xử được với mọi người"). Trong Kinh Dịch về quẻ Càn có câu: "Kiến quần long vô thủ, cát". Dịch: Thấy bầy rồng không có đầu, tốt (6 vạch ngang liền nét đều ngăn ngắt trong hình tượng quẻ Càn được hình dung như một bầy rồng không đầu).Vương Phu Chi (1619-1692) đã bình giảng câu này theo quan điểm vô ý của K.T. Bầy rồng không đầu có nghĩa là không có con rồng nào có đầu nhô ra, thòi ra, nổi hơn những con khác.

Những con rồng được coi trọng ngang nhau, có nghĩa là những ý kiến, những tư tưởng, những phương diện khác nhau của thực tại được coi trọng ngang nhau. Như vậy cách nhìn minh triết là cách nhìn bao quát, thấy được và quan tâm mọi mặt, mọi khả năng của thực tại, không vì thiên lệch một phía mà ngoảnh lưng với những phía khác. Nhưng vô ý không có nghĩa là không dấn thân, không đứng về phía nào (trong hành động).

Người minh triết quyết định dấn thân, đứng về phía nào, chọn khả năng nào là do đòi hỏi của tình thế, chứ không xuất phát từ những giáo điều có sẵn định trước phải gạt bỏ khả năng này, phải chạy theo khả năng nọ, phải ủng hộ phía này, phải chống lại phía kia... Để làm sáng tỏ tư tưởng này tác giả dẫn câu nói của K.T.: " Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tỷ" (Luận ngữ, IV, 10) mà Đ.T. còn dịch là: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm" (tôi tô đậm.H.N.H.); bình giảng câu này, F.Jullien có nêu lên một nghĩa cổ của chữ nghĩa là: đòi hỏi của tình thế và ông đã giảng hạp nghĩa là hạp với đòi hỏi của tình thế (chúng ta có thêm một cứ liệu ngôn ngữ học để hiểu chữ nghĩa của Khổng giáo).


Minh triết có nhiều phương diện,biểu hiện ở nhiều đức tính.
Ảnh: lieuquanhue.com

Như vậy, người minh triết không phải là không có chủ kiến, duy có một điều đây không phải là chủ kiến có sẵn, được định trước cho mọi khả năng, mọi tình thế, mà đây là chủ kiến được đề ra từ những đòi hỏi của tình thế (cụ thể). Có thể hiểu rõ hơn quan điểm vô ý qua lời bàn sau đây của một nho gia: "Khi cần giàu thì giàu và khi cần nghèo thì nghèo, khi cần sống thì sống và khi cần chết thì chết". Như vậy, giàu hay nghèo, sống hay chết là những khả năng được coi trọng ngang nhau, chọn khả năng nào là tuỳ theo đòi hỏi của tình thế, người minh triết không cố chấp hoặc gạt bỏ trước (a priori) bất cứ khả năng nào.
Trong Luận ngữ (XVIII, 8) K.T. có phân biệt ba loại thánh nhân. Họ đều bỏ công danh phú quý, đi ở ẩn nhưng họ có những phong độ ứng xử rất khác nhau. Loại thứ nhất như Bá Di, Thúc Tề "chẳng khuất chí mình, chẳng nhục thân mình" [bất giáng kỳ chí, bất nhục kỳ thân], không thể chê trách vào đâu cả; loại thứ hai như Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, kém hơn, "phải khuất chí mình, phải nhục thân mình".

Tuy vậy, lời nói của họ "hợp luân lý" [ngôn trúng luân], việc làm của họ "hợp lòng mong nghĩ của dân" [hành trúng lự]; loại thứ ba như Ngu Trọng, Di Dật "ở ẩn nơi xa vắng và ăn nói rất tự do, phóng túng" [ẩn cư, phóng ngôn]nhưng "giữ mình đúng lẽ thanh khiết và biết bỏ phế đúng lẽ quyền biến" [thân trúng thanh, phế trúng quyền] (điều đáng chú ý là ngay ở loai thứ hai và loại thứ ba, trong phong độ có những chỗ có thể chê trách K.T. vẫn nhận ra ở họ sự chân chính và những phẩm giá đáng trọng, vẫn xem họ là thánh nhân). Sau khi nêu ba loại thánh nhân và không sắp mình vào một loại nào, K.T. hạ một câu: "Còn ta thì khác ở chỗ chẳng có gì là được hoặc không được" - tức là chẳng có gì là thích hợp với ta hoặc không thích hợp với ta [Ngã tắc dị ư thị vô khả, vô bất khả] (tôi tô đậm.H.N.H.).

Trong ba loại người nói trên loại thứ nhất và loại thứ hai là hai thái cực đối lập với nhau, loại thứ ba xem như nửa này, nửa kia.K.T. không thuộc về loại thứ nhất, chẳng thuộc về loại thứ hai, càng không phải là loại thứ ba. Tử có thể là loại người này cũng như có thể là loại người kia, đó là tuỳ theo tình thế. Tử không phải là người cố chấp, cũng chẳng phải là người không cố chấp. Vì chưng Tử có thể cố chấp như những người cố chấp nhất, khước từ mọi sự nhân nhượng mà cũng có thể thoả hiệp hoàn toàn với người đời, miễn sao có cơ giúp ích cho đời. Người minh triết là người "không định ra được phẩm chất" (sans qualification) với ý nghĩa là không có phẩm chất như là thuộc tính "cố hữu", "bản chất", "bất biến", mà có phảm chất này hay phẩm chất kia là do đòi hỏi của tình thế.

Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh

Về đức hạnh của Khổng Tử, Mạnh Tử nói: "Lúc nên (khả dĩ) làm quan thì làm quan. Lúc nên (khả dĩ) bỏ chức thì bỏ chức. Cần (khả dĩ) làm quan lâu thì làm quan lâu. Cần (khả dĩ) ra đi gấp thì ra đi gấp. Đó là cái hạnh của đức Khổng vậy" (Khả dĩ sĩ, tắc sĩ. Khả dĩ chỉ, tắc chỉ. Khả dĩ cửu tắc cửu. Khả dĩ tốc, tắc tốc. Khổng Tử dã.), (Mạnh tử,. II,A, 2).

Cái khả dĩ gắn với tình thế (cụ thể) và tình thế gắn với thời điểm (moment). Cái khả dĩ (possible) đồng thời là cái chính đáng (légitime) vì phù hợp với tình thế (cụ thể) và thời điểm, tức là phù hợp với thời và thế. Tiêu chuẩn của tính chính đáng cũng như của những phẩm chất đạo đức khác gắn một cách nội tại với tình thế và hoàn cảnh cụ thể. Cái chính đáng (vốn gắn với tình thế cụ thể) được đề lên thành quy tắc khái quát chung cho mọi tình thế không tránh khỏi trở thành vũ đoán. Đã đành người minh triết không chấp nhận những tư tưởng cá biệt quá (gắn với cái ngã đặc biệt) mà những tư tưởng khái quát quá cũng không tin vì loại tư tưởng này không tính đến đặc điểm của mỗi thời, sự khác biệt giữa những thời khác nhau.

Minh triết có nhiều phương diện, biểu hiện ở nhiều đức tính. Có người là bậc thánh về phương diện này, có người là bậc thánh về phương diện nọ... Như nhận định của Mạnh Tử "ông Bá Di là bực Thánh có dức thanh khiết (Bá Di thánh chi thanh giả giã), ông Y Doãn là bậc thánh có đức trọng nhiệm (YDoãn thánh chi nhiệm giả giã), ông Huệ xứ Liễu là bậc thánh có dức ôn hoà (Liễu Hạ Huệ thánh chi hoà giả giã). Đức Khổng tử có đức thời trung (Khổng tử thánh chi thì giả giã "(tôi tô đậm.H.N.H.)". (Mạnh tử,V,B,1).Đức thời trung (chữ của Đoàn Trung Còn) là cái đức tuỳ theo thời và thế mà thanh khiết như Bá Di hoặc trọng nhiệm như Y Doãn hoặc ôn hoà như Liễu Hạ Huệ... Như vậy K.T. không phải là sự hiện thân của một nét "nhất thành bất biến" nào của minh triết mà tuỳ thời, tuỳ tình thế (cụ thể) K.T. thực hành phương diện này hay phương diện nọ của minh triết. Nhấn mạnh sự tập đại thành nhiều đức tính ở Khổng tử có thể che lấp đức thời trung ở Tử. Kết luận rằng Khổng Tử có đủ mọi đức tính không quan trọng bằng nhận định Khổng Tử đúng thời, đúng lúc (thời trung) thực hiện đức tính này hay đức tính nọ. Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh.

Tuỳ thời thế chọn khả năng

Bản thể là một khái niệm cơ bản của triết học phương Tây. Minh triết phương Đông không phải không biết đến bản thể nhưng mối quan tâm chủ yếu của minh triết là quá trình. Trung dung là tâm pháp để đièu tiết các quá trình.Mỗi quá trình trong sự tự tại của nó có sự tự điều tiết. Trung dung là sự gia công vào sự tự điều tiết này và phải dựa vào nó. Ý kiến của Mạnh Tử phê phán thái độ chấp trung, thái độ chấp nhất hết sức quan trọng để hiểu tinh thần của trung dung.

Mạnh Tử nói rằng: "Dương Tử giữ lấy chủ nghĩa vị ngã, tức là chủ nghĩa của kẻ chỉ chuyên lo cho mình mà thôi. Dẫu nhổ một mảy lông trên mình mà lợi ích cho cả thiên hạ ông cũng chẳng chịu làm.

Mặc Tử thi hành chủ nghĩa kiêm ái, thương tất cả mọi người như mình. Dẫu mòn nát tấm thân từ đỉnh dầu cho chí gót chân, mà có lợi ích cho cả thiên hạ, ông ấy cũng vui lòng hy sinh.

Tử Mạc bảo thủ chủ nghĩa chấp trung, cốt giữ cho vừa vặn phần mình và phần người. Chủ nghĩa chấp trung gần với dạo lý. Nhưng nếu chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời, như vậy cũng như chấp nhất, tức là khư khư câu nệ một bề vậy thôi. Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến làm hại đạo lý. Kẻ cử động theo một bề thì bỏ hỏng cả trăm bề" [H.N.H.tô đậm] (Mạnh tử. VII, A.26).

Như vậy chấp trung là đứng ở giữa hai thái cực đối nghịch (vị ngã cực đoan và kiêm ái tột độ). Hiểu như vậy, chủ nghĩa chấp trung gần với quan niệm của Aristote về đạo đức: đức hạnh là trung độ đúng mực (juste milieu) ở giữa hai tính trái ngược, giữa sự bất cập và sự thái quá, chẳng hạn như can đảm là trung độ đúng mực (juste milieu) giữa sự nhút nhát (bất cập) và sự táo tợn (thái quá). Mạnh Tử không chê trách chủ nghĩa chấp trung ("...chấp trung gần với đạo lý").

Tuy nhiên nếu như chấp trung chỉ thiên về giữ trung độ cho đúng mực, loại trừ bất kỳ sự thái quá nào thì như vậy là trái với tinh thần của trung dung. Bởi vì trung dung không có nghĩa là nửa vời, lưng chừng, không nóng không lạnh... Trung dung có khi đòi hỏi sự nỗ lực, sự hy sinh cao nhất, chấp nhận những nỗi đau lớn và những niềm vui tràn trề... Thông thường trung dung là mức độ trong sự nghiêm khắc nhưng cũng có khi trung dung cho phép một sự nghiêm khắc tột độ, nghiêm khắc đến mức tàn nhẫn. Không chê trách thái độ chấp trung, MạnhTử bài bác gay gắt thái độ chấp nhất: Sở ố chấp nhất giả, vị kỳ tặc đạo giã (Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến thiên lệch làm hại đạo lý). Chấp nhất là "chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời", là "khư khư câu nệ một bề vậy thôi".

Như vậy chấp nhất là khư khư bám lấy một trung điểm, không dám chênh về phía này hoặc lệch về phía kia, có nghĩa là trong xử sự chỉ tính đến một khả năng,tự trói mình vào một khả năng.Và như vậy, nói như Mạnh Tử,là "cử động theo một bề (một khả năng)"mà "bỏ hỏng cả trăm bề (trăm khả năng)". Theo đúng tinh thần của Khổng - Mạnh, trung dung là đứng giữa (chứ không phải là khư khư bám lấy một trung điểm) và tự dành cho mình quyền tính đến và lựa chọn trong cả trăm khả năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hoặc phía thái cực kia. Lựa chọn khả năng nào là tuỳ theo thời và thế.

Mời độc giả đón đọc tiếp kỳ cuối.


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Xem F.Jullien , "Minh triết phương Đông và Triết học phương Tây", bản dịch của Nguyên Ngọc, bài "Thay lời giới thiệu" của Hoàng Ngọc Hiến , N.x.b. Đà Nẵng, 2003
Trang chủ | Sự kiện nóng | Nhân vật trong ngày | Thông tin đa chiều | Tư liệu & suy ngẫm | Thế giới truyền thông | Nghe xem đọc | Harvard'S | Trực tuyến | Người quan sát | Thư Thăng Long | Giới thiệu | RSS | Trợ giúp
© TUANVIETNAM.NET

9/2/10

Nghĩ về viết lách: Viết là tự hủy diệt

Nghĩ về viết lách: Viết là tự hủy diệt
Nguyễn Hưng Quốc


Với tư cách là người đọc, mỗi người trong chúng ta luôn luôn là những đứa con rơi của vô số những tác giả chúng ta đọc từ thuở còn niên thiếu. Những tác giả ấy, qua tác phẩm của họ, đã dần dần hun đúc khiếu thẩm mỹ của chúng ta; định hình cách nghĩ và cách cảm của chúng ta. Bởi vậy, tự bản chất, mỗi người trong chúng ta bao giờ cũng lạc hậu hơn một chút so với nền văn học đích thực vào thời đại chúng ta đang sống.

Hệ quả là, với tư cách là người đọc, bao giờ chúng ta cũng dễ đồng cảm với những dòng văn học đã qua hơn là dòng văn học đương đại; với tư cách là người viết, những dòng chữ xuất hiện một cách tự phát, hồn nhiên và dễ dãi nhất, trái với những cách nghĩ quen thuộc, thường là những dòng chữ rất đáng ngờ vực: một người, suốt thời trung học, cứ ngâm nga thơ Xuân Diệu hay thơ Nguyễn Bính mãi, đến lúc cầm bút, những câu thơ "vụt hiện" đầu tiên thường có nguy cơ dính đầy nước dãi của Xuân Diệu và Nguyễn Bính.

Nhiệm vụ của hắn ở đây không phải là nâng niu những câu thơ, nói theo chữ của Bùi Giáng, "tèm nhem tâm hồn" ấy, mà là phải xoá bỏ những câu thơ ấy, nghĩa là, nói cách khác, phải chống lại chính bản thân mình, phải tái tạo chính mình, chứ không phải chỉ đơn giản là cần thành thực với chính mình mà thôi.

Cũng nói theo chữ của Bùi Giáng:

Tôi từ cái bóng của anh
Dệt thêu ngôn ngữ tôi thành ra tôi.

Trong tập tiểu luận Contre Sainte-Beuve, hoàn thành năm 1909 nhưng mãi đến năm 1954 mới được in lần đầu, nhà văn Marcel Proust (1871-1922) tuyên bố: "Một cuốn sách là sản phẩm của một cái tôi khác." Thật ra, đây chỉ là vọng âm của một câu nói khác, nổi tiếng hơn, của Rimbaud, trước đó: "Tôi là một kẻ khác" (JE est un autre). Viết không phải là hình thức tự bộc lộ mình như cái điều người ta thường nói mà là hình thức tự thay đổi mình, tự biến mình thành người khác, thành những cái tôi khác.

Viết là tự hủy diệt.

Quá trình tự huỷ diệt phải lặp lại không ngừng, nếu không, bất cứ người nào, dù đã đi đến tận cùng cái mới, cũng tức khắc trở thành sáo mòn và lạc hậu. Việc phá đổ truyền thống, đến lúc nào đó, tự nó, cũng biến thành một truyền thống, cần phải phá đổ tiếp.

Có một bài học cực kỳ quan trọng, nhưng tiếc, đến nay, hình như chưa ai nhắc đến: có những kẻ tiên phong ở giai đoạn trước lại biến thành bảo thủ, thậm chí, bảo thủ một cách lẩn thẩn ở giai đoạn sau.

Trước năm 1930, trong làng thơ Việt Nam, không ai giàu óc sáng tạo bằng Tản Đà, nhưng khi phong trào Thơ Mới xuất hiện, Tản Đà lại hoàn toàn hờ hững, không hề cảm được cái hay và cái mới của Thơ Mới.

Rồi trong phong trào Thơ Mới, người mới nhất vào khoảng giữa thập niên 30 chắc chắn là Xuân Diệu, nhưng chính Xuân Diệu lại là người phản đối kịch liệt sự đổi mới ít nhiều mang màu sắc siêu thực của Hàn Mặc Tử vào cuối thập niên 30, cũng như những sáng kiến làm thơ không vần của Nguyễn Đình Thi vào cuối thập niên 40.

Không phải Tản Đà hay Xuân Diệu đố kỵ những tài năng đi sau mình.

Lý do, theo tôi, phức tạp hơn nhiều: họ là tù nhân của cái mới do họ sáng tạo ra. Những cái mới ấy đã định nghĩa lại thơ và họ cứ tưởng cái định nghĩa ấy là một định nghĩa vĩnh cửu về thơ, từ đó, họ xem chỉ những gì phù hợp với định nghĩa của họ là thơ; còn lại, tất cả những nỗ lực làm mới khác đều bị xem là nhảm nhí. Từ vị trí của những nhà cách mạng, thoắt một cái, họ trở thành những kẻ phản động.

Và những kẻ phản động như thế, cộng với đám con cháu tinh thần của họ, lúc nào cũng đông nghẹt. Hiện nay lại càng đông, cả trong lẫn ngoài nước. Vừa đông vừa ồn. Vừa ồn vừa khệnh khạng. Vừa khệnh khạng vừa nhố nhăng.

Viết là tự huỷ diệt. Ở đây có hai vấn đề: để trở thành một người sáng tạo, một mặt, người ta không thể không tự huỷ diệt; nhưng mặt khác, người ta lại không thể nào huỷ diệt hoàn toàn quá khứ của mình và tâm thức của chính mình.

Người cầm bút ở trong một tình thế oái oăm: hắn không thể không đổi mới dù biết việc đổi mới ấy bao giờ cũng có tính chất nửa vời và đầy bi kịch.

Tôi rất thích một dự án sáng tác của điêu khắc gia kiêm hoạ sĩ Lê Thành Nhơn: anh vẽ một bức tranh trong đó có hình ảnh một người-đá, một con người bằng đá đang cầm búa tự đục khối đá (là chính mình) để thành người. Tôi tưởng tượng đó cũng chính là hình ảnh của giới văn nghệ sĩ nói chung. Chúng ta không sinh ra là nhà văn hay nhà thơ hay nhà lý luận phê bình. Chúng ta tự đục đẽo mình thành nhà văn, nhà thơ và nhà lý luận phê bình. Và đục đẽo, thực ra, cũng có nghĩa là vứt bỏ.

Nhưng như thế, điều chúng ta cần, trước hết, là một cây búa. Như Nietzsche, ở Đức, hồi cuối thế kỷ trước.

8/2/10

Hoàng Ngọc Hiến : VẤN ĐỀ CỦA THƠ ĐƯỢC KIẾN GIẢI SÂU SẮC

VẤN ĐỀ CỦA THƠ ĐƯỢC KIẾN GIẢI SÂU SẮC

Hoàng Ngọc Hiến

Tôi yên tâm giở đọc từng trang cuốn sách của Nguyễn Đức Tùng: người phỏng vấn những nhà thơ là người có hiểu thế nào là ngôn ngữ thơ và thế giới thơ.

Cho đến nay tôi quan tâm đến thơ của Nguyễn Đức Tùng hơn phê bình văn học của anh. Bài “Chiến thắng” là bài gần đây nhất anh gửi cho tôi. Bài thơ vẻn vẹn 19 chữ. 2 câu “thất” ngắt dòng kiểu thơ Maia và một câu 5 chữ:

Phá xong giặc Ân/ Đông Ki Sốt/ Phóng mình lên ngựa sắt/ Dông tuốt/ Không ở lại dự tiệc

Nguyễn Đức Tùng hiểu thế nào là tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, không chỉ ở sự kiệm lời mà trước hết ở sự nén lại những tư tưởng (tôi liên tưởng đến câu thơ của Berthold Brecht): với 19 chữ được khơi gợi những suy tưởng về 3 chủ đề đáng để chúng ta suy nghĩ: “chiến thắng”, “người chiến thắng”, “bàn tiệc chiến thắng.”

Tác giả lại dùng câu thơ hàm súc để tạo ra sự mênh mang của thế giới thơ: “huyền thoại Đông” và “huyền thoại Tây”, “huyền thoại dân gian” và “huyền thoại bác học”, “ước mơ” cao vời vợi và “phê phán” ôn tồn, nghiêm trang cuộc sống trần tục…(theo lời bình của Đỗ Quyên)

Có lẽ nhà thơ Pháp Mallarmé (1842-1898) là người đầu tiên dặt ra vấn đề: làm thơ bằng ” chữ” hay bằng “ý tưởng”? Theo cách quan niệm thông thường, đặc biệt ở những thời “tư tưởng là thống soái”, thì không thể khác được, làm thơ là bằng những ý tưởng. Nhiều nhà thơ đã lên tiếng cãi lại. “Ngôn từ là tướng của đạo quân sức mạnh con người” (Mayakovsky).Quan điểm của Mallarmé: làm thơ “bằng những chữ chứ không phải bằng những ý tưởng”.

Một cuộc cách mạng trong thi ca. Thơ hiện đại ngoài sự gắn bó với ngữ nghĩa những cảm xúc và tâm hồn như thơ truyền thống (không có sự đoạn tuyệt đâu!) còn có sự thể nghiệm bản thân ngôn ngữ. Có lẽ Lê Đạt đã xuất phát từ quan điểm của Mallarmé để định nghĩa nhà thơ là “phu chữ”.

Tôi thiên về quan điểm của Mallarmé. Suy nghĩ của tôi hết sức đơn giản: cái đầu của Lênin là một kho tàng tư tưởng nhưng ông không làm nổi một nửa câu thơ. Nhưng tôi vẫn phân vân chưa hình dung được thế nào là “làm thơ bằng những chữ”. Có lần nghe tôi trình bày quan điểm của Mallarmé và Lê Đạt về thơ, nhà văn Tô Hoài buông một câu: “Nhất định là làm thơ bằng “chữ” rồi , ai lại làm thơ bằng “tư tưởng”, nhưng vấn đề là anh “sống” những con “chữ” như thế nào!” Ý kiến có vẻ như bâng quơ của Tô Hoài hé mở cho tôi một hướng để hiểu quan niệm của Mallarmé. Và hướng này đã được soi tỏ trong công trình của Nguyễn Đức Tùng:

* “…phải sống với chữ nghĩa như ăn uống, như khí trời. Lâu rồi nó thành ra của mình, chỉ chờ dịp là bộc lộ” (tr.47, dẫn từ một câu trả lời phỏng vấn của Hoàng Cầm). Đúng là “làm thơ bằng những con chữ”, nhưng phải hiểu cho đúng thế nào là “chữ” của nhà thơ. “Chữ” trong vốn văn hoá của nhà thơ không giống như những đồng xu trong túi. Có món phải tiêu chỉ cần mòc túi lấy ra những đồng xu. Còn đưa những con chữ vào thơ, nhà thơ nhất thiết phải “sống” chúng.

* Đồng xu chỉ là đồng xu, nhưng “con chữ” của nhà thơ nó có hồn, có vía. “Hồn vía những con chữ ở linh thức, cửa tử sinh của chữ Tâm, Nguyễn Du bảo: Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, và chữ Tài lại liền với chữ tai một vần. Ỷ vào tài hoa kiểu thuần hình thức có thể thành công trong ghép chữ (như cái trò scrabble) nhưng lại giết thơ đấy” (tr. 77, lời của Nam Dao).

Trong những bài phỏng vấn nhiều vấn đề quan trọng khác của thơ đã được nêu lên với những kiến giải sâu sắc: thơ không vần, thơ tự do, thơ “trình diễn”, thơ tân hình thức, thơ hiên đại “có dáng dấp cổ điển”… Có những nhà thơ được phỏng vấn đề cập những vấn đề này ở một tầm lý thuyết rất cao.

Có lẽ vấn đề được công chúng thơ trong và ngoài nước quan tâm hơn cả là: hiện tình của thơ Việt. Phải chăng thơ Việt đương xuống cấp? Phải chăng nói đến việc “xả rác” hiện nay ở các nhà xuất bản, Nguyễn Khoa Điềm không loại trừ những ấn phẩm thơ?

Có những nguyên nhân được phơi bày không phải để dè bỉu, để mạt sát mà biểu lộ những thao thức, lo lắng chân thành của những nhà thơ. Tiêu biểu là những ý kiến của Nam Dao.

* “Cứ mỗi lần nói về hình thức và nội dung, tôi có cảm tưởng chúng ta tách bạch chúng như những phạm trù khác biệt có chút tính đối kháng (cái thói quen tư duy nhị nguyên Tây phương du nhập mà!). Cặp hình thức-nội dung theo tôi thì là một quan hệ sinh hoá rất biện chứng. Chính vì thế mà khi nhấn mạnh quá nhiều đến hình thức, ta có xu hướng hạ thấp nội dung, rồi triệt tiêu luôn cả ngữ nghĩa.

Từ đó, ta toàn thơ nhan sắc, thơ rỗng ngực với cái xuchiêng nylon hiệu wonderbra, thơ tô son bôi mắt, thơ lắp chữ làm dáng, thơ tối nghĩa hơn đêm ba mươi mượn hơi ẩn dụ, thơ đĩ thoã, thơ văng tục…

Nói chung , đó là những loại thơ vô hồn và cô hồn có thời gian nhiều đến nỗi không còn ai muốn đọc trừ người viết và một nhúm thân hữu, dĩ nhiên. Thơ cứ thế xuống cấp và tạo ra hiện tượng dị ứng thơ là một nguy cơ văn hoá. Bởi nói cho cùng, văn học Việt Nam ta nếu có một chút gì để tự hào thí là thơ, ở đúng nghĩa của thơ, và nhất định phải là thơ hay…”(tr.74-75)

* “…Nhan nhản trong thơ đăng báo, đọc qua không xúc động khiến phải tự hỏi mình,ơ kìa, có phải chính ta là kẻ đã khô cằn trước cái chết, sự sống, tình yêu ,niềm hy vọng… hay là thơ giả hình, sáo rỗng, đỏm dáng đã giết cho bằng hết cái rung cảm của lòng ta?…” (tr.75)

Với cách nhìn hết sức tỉnh táo và những nỗi lo trĩu lòng Nam Dao không hề bi quan:

“…Còn thành bại của một dân tộc? Phải về những vùng xâu vùng xa mới thấy cái gốc của những con người Việt Nam, dẻo dai và biết thích ứng nhưng vẫn giữ được mình. Sống giữa hai nền văn minh khổng lồ là Hoa và Ấn mà còn là người Việt, muốn tiếp tục là người Việt, không phải là lẽ dĩ nhiên đâu. Thành bại của một dân tộc là văn hoá của dân tộc đó. Hiện nay có những điều đáng buồn, đáng lo. Nhưng dăm ba chục năm trong lịch sử một dân tộc không dài hơn tiếng muỗi vo ve bên tai.

Tôi không bi quan, và xắn tay nặn óc làm những gì tôi làm được để góp tay vun trồng cái nền văn hoá đó.” (tr.89). Tôi là người vốn bi quan về tình hình văn hoá hiện nay. Bỗng thấy Nam Dao xem “dăm ba chục năm trong lịch sử… không dài hơn tiếng muỗi vo ve bên tai” cảm thấy trong người nhẹ nhõm hẳn đi…. hoá ra Nam Dao cũng ngộ ra được nhiều điều.

Một điểm sáng trong tác phẩm của Nguyễn đức Tùng là tinh thần lạc quan “xắn tay” “góp tay” vun trồng nền văn hoá của dân tộc là cảm hứng chủ dạo của toàn bộ công trình.

Những nhà thơ lên tiếng trong tập sách này là những cá tính khác nhau, những quan điểm thẩm mỹ, chính trị rất khác nhau, nhưng những nỗi lo của họ, những nghĩ ngợi của họ, những ước mơ và kỳ vọng của họ hướng về một tổ quốc chung: đó là tiếng Việt, thơ Việt, văn hoá dân tộc Việt…


(*) Nguyễn Đức Tùng, “Thơ đến từ đâu?”. NXB Lao động. 2009. Số trang được dẫn trong bài là từ cuốn sách này.

2/2/10

Nguyễn Đình Chú :NGUYỄN TRƯỜNG TỘ NHÀ THIẾT KẾ VĨ ĐẠI CỦA ĐẤT NƯỚC ....

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ NHÀ THIẾT KẾ VĨ ĐẠI CỦA ĐẤT NƯỚC
Ở THẾ KỶ XIX

Nguyễn Đình Chú



Đúng là thời gian đã và đang ủng hộ Nguyễn Trường Tộ, đưa ông ngày một về gần với chúng ta, với đất nước hôm nay. Khoa học xã hội và nhân văn vẫn cần tiếp tục khám phá Nguyễn Trường Tộ, nhưng không ít mỹ từ cao sang đã dành để tôn vinh ông: “Người yêu nước sáng suốt”, “Nhà yêu nước sáng suốt nhất của thế kỷ XIX”, “Nhà cải cách lớn của dân tộc”, “Nhà phê bình xã hội đầu tiên ở nước ta”, “Nhà kiến trúc tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XIX”, “Một trí tuệ lớn mang tầm quốc tế” … Đến lượt tôi, tôi xin mệnh danh: “Nguyễn Trường Tộ: một nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX”. Công việc thiết kế chính là công việc vạch đường chỉ lối, hoạch định chiến lược, chiến thuật, bày mưu định kế, xây dựng mô hình, phác hoạ mẫu này, mẫu khác để từ đó mà có sự thi công với vai trò điều khiển của công trình sư. Trong xây dựng, ở những công trình lớn đồ sộ, thiết kế và thi công là hai công đoạn khó bề kết làm một. Thiết kế phải có trước. Thi công là chuyện tiếp theo.

Từ cách nghĩ đó, trong đầu óc tôi, Nguyễn Trường Tộ đã hiện lên sừng sững như một nhà thiết kế vĩ đại của đất nước Việt Nam ta rất mực yêu thương và cũng rất mực đau thương ở thế kỷ XIX. Rất tiếc, vô cùng tiếc cho đất nước đã có một người con ưu tú, kiệt xuất, đầy đủ tư cách và khả năng là một nhà thiết kế vĩ đại mà không được chuyển tiếp làm vị tổng công trình sư. Lịch sử oái oăm là thế. Bi kịch là thế. Và Nguyễn Trường Tộ là nhân vật bi kịch của lịch sử oái oăm đó.

Để hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của nhà thiết kế Nguyễn Trường Tộ, hẳn là phải trở lại hoàn cảnh lịch sử đất nước ở thế kỷ XIX với hai đặc điểm cơ bản là:

1. Chế độ phong kiến nhà Nguyễn thay thế triều đại Tây Sơn huy hoàng nhưng sớm nở, tối tàn, đã có nhiều cố gắng trong việc củng cố thống nhất đất nước, mở rộng bờ cõi, kiện toàn thiết chế xã hội… nhưng vẫn không đủ để đưa đất nước thoát khỏi bế tắc, khủng hoảng và cuối cùng rơi vào hoạ xâm lăng, nhục nhã.

2. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp từ giữa thế kỷ XIX là cuộc xâm lăng có đặc điểm rất khác so với trước. Trước là chuyện phong kiến nước lớn bắt nạt phong kiến nước nhỏ. Nay là chuyện phương Tây trên đường phát triển bắt nạt phương Đông lạc hậu; là chuyện đụng độ giữa hai hình thái xã hội: Xã hội tư bản chủ nghĩa mà theo K.Mác đã nói trong Tuyên ngôn Cộng sản là “Một trăm năm phát triển tư bản chủ nghĩa có thể tạo ra một khối lượng của cải bằng hàng năm phong kiến cộng lại” và xã hội phong kiến nông nghiệp nghèo nàn, bế tắc. Cho nên ở thế kỷ XIX, mất nước đâu là chuyện riêng một Việt Nam. Chỉ trừ Nhật Bản và Thái Lan, còn Lào, Miên, Miến Điện, Mã Lai, Singapo, Philipin, Nam Dương, Ấn Độ đều mất. Cả đến Trung Hoa với chủ nghĩa đại Hán, từng xưng hùng, xưng bá trong khu vực mà cũng đã bị một số nước phương Tây xa tít kia đến xâu xé, chưa đến nỗi mất nước nhưng cũng đã phải nằm kềnh ra đó chứ còn gì.

Với cuộc thế khác xa thời trước và ngặt nghèo tày trời như vậy, một câu hỏi lớn ôi là lớn, một bài toán khó ôi là khó đối với Tổ quốc Việt Nam là:

Bằng con đường nào, bằng phương thức nào để giành lại giang sơn gấm vóc? Để đưa đất nước thoát khỏi bế tắc, tiến dần vào cõi văn minh phú cường?

Để có câu trả lời đích đáng trước câu hỏi lớn này, để có thể giải bài toán khó này của thời đại, cần rất nhiều điều kiện, nhưng trước hết phải xử lý đúng hai vấn đề sau đây:

1. Vấn đề tình và lý, tâm và trí, động cơ và hiệu quả trong cuộc sống nói chung ở cấp độ vĩ mô và vi mô. Cụ thể ở đây là trong hoàn cảnh đất nước đang bế tắc và đã rơi vào hoạ xâm lăng. Thì đấy, trong thực tế, đã thấy có hai trạng thái rõ rệt:

a. Sự lúng túng, bất lực, lý chẳng ra lý, tâm chẳng ra tâm, trí chẳng ra trí, động cơ thì mập mờ, hiệu quả thì thảm hại, của triều đình nhà Nguyễn.

b. Sự vùng lên kiên cường bất khuất, lãnh đạo nhân dân chống xâm lược, hết đợt này đến đợt khác của các sĩ phu mà tình, mà tâm, mà khí phách thì hữu dư được lịch sử muôn đời ca ngợi, nhưng xem ra thì lý, thì trí chưa đủ độ cần thiết, nên cuối cùng vẫn chịu thất bại đắng cay.

Rõ ràng là trước câu hỏi lớn và khó, trước bài toán khó của thời đại, đã phải có một cách xử sự mới, vượt lên truyền thống. Nghĩa là, vẫn phải có tình, có tâm mà truyền thống đã có, nhưng phải có một thứ lý, một thứ trí mới hẳn, mang tính hiện đại, có nhiều khả năng đảm bảo hiệu quả cho đất nước.

2. Vấn đề không phụ thuộc (độc lập: indépendant), phụ thuộc lẫn nhau (interdépendant), và con đường dành độc lập là thế nào? Indépendant và Interdépendant là hai phương diện, cũng có thể nói là hai quy luật tồn tại trong sự sống, không chỉ với một quốc gia, mà còn là với mọi cộng đồng sống, kể cả cuộc sống cá nhân. Tuy vậy, trong nhận thức về hai quy luật này và từ đó là trong hành động, không phải ở đâu lúc nào cũng giống nhau. Kể cả con đường giành độc lập dân tộc trước hoạ xâm lăng thì vẫn có hai phương thức bạo động và không bạo động. Có thể nói trong lịch sử nước ta, từng quen với quy luật độc lập. Trước ngoại xâm thì cũng quen dùng phương thức bạo động mà chưa quen, với quy luật phụ thuộc lẫn nhau (interdépendant) trong tình thế không bình thường là kẻ thù đã xâm chiếm đất nước và cũng chưa quen đi con đường giành độc lập không bạo động. Nhưng ở thế kỷ XIX, trước hoạ xâm lăng của thực dân Pháp, trong thực tế, đã có một số người Việt Nam, dù tự giác hay chưa tự giác, tự giác nhiều hay ít, đã sống với quy luật interdépendant, để rồi phải chịu đựng tiếng bấc, tiếng chì, thậm chí là sự lên án, sự mạt sát trong một bộ phận của người đời nhưng xem ra thời gian lại đang ủng hộ họ. Bởi thành quả mà họ để lại cho đất nước vẫn là thành quả muôn đời, trừ người không biết nhận thức mà vẫn phủ nhận phũ phàng. Trương Vĩnh Ký, cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… đầu thế kỷ XX là những trường hợp tiêu biểu cho đường hướng interdépendant đó, dĩ nhiên, mới là trên phương diện văn hoá. Về chính trị, Phan Châu Trinh là người đi theo quy luật interdépendant này, và Phan Bội Châu về sau cũng vậy…

Từ những gì được nói trên đây, tôi xin được coi Nguyễn Trường Tộ là người số một, thậm chí là độc nhất vô nhị có tư cách trả lời câu hỏi lớn, giải bài toán khó của đất nước Việt Nam ta ở thế kỷ XIX. Dĩ nhiên, là mới ở phương diện nhà thiết kế. Bởi lẽ ở ông cái tình, cái tâm cũng lớn như ai. Nhưng quan trọng hơn là có cái lý, cái trí đột khởi mà đương thời chưa thấy ai sánh kịp. Bởi lẽ: với những người Việt Nam ưu tú, cùng thời thì hoặc là nhiệt tâm đeo đuổi phương thức giành độc lập bằng vũ trang mà hầu như chưa nghĩ gì tới quy luật Interdépendant, thậm chí còn đối địch với nó; hoặc là nhiệt tâm đi theo quy luật Interdépendant mà né tránh hoàn toàn con đường vũ trang giành độc lập. Trong khi Nguyễn Trường Tộ thì có tất cả. Với Nguyễn Trường Tộ là Interdépendant nhưng vẫn Indépendant. Mà Indépendant không vũ trang bạo động nhưng khi cần vẫn có vũ trang bạo động ít ra là trong ý đồ.

Để hiểu chất lượng thành quả thiết kế của Nguyễn Trường Tộ, trước hết lại phải hiểu được con người của Nguyễn Trường Tộ mà ở đó nổi lên những nét đặc sắc như sau:

1. Về nhân cách và cá tính sống: Nguyễn Trường Tộ quả là một người theo đạo Thiên chúa hết lòng hết dạ với giống nòi và rất tự tin vào sự hiểu biết, vào “tài ứng dụng với đời ” của mình. Chính ông đã tự nói điều đó trong nhiều bản điều trần bên cạnh những lời nói khiêm nhường, hạ mình. Ông là người rất có ý thức và bản lĩnh trong việc xa lánh chức tước, danh vọng để đeo đuổi lý tưởng cứu nước, giúp đời. Ông là người đã sống trọn với chữ Nhẫn theo ý nghĩa chân chính nhất của nó, nhằm vượt qua những sự mè nheo của thế gian để đạt tới lẽ sống cao cả của mình.

2. Về văn hoá: Nguyễn Trường Tộ là một hiện tượng hội tụ đột khởi tới mức đương thời, kể cả sau nữa, cũng không dễ mấy ai vượt qua, mặc dù di sản của ông để lại chủ yếu chỉ 58 bản điều trần. Ông là một giáo sỹ kiêm một nhà Hán học, một nhà Đông phương học, một nhà Tây học, mặc dù chẳng có bằng cấp gì. Qua những bản điều trần, thấy rõ ông có trình độ Hán học uyên thâm. Thuộc Bắc sử (sử Tàu), hiểu Nho giáo, đến nơi đến chốn. Cũng qua các bản điều trần, thấy ông hiểu phương Tây một cách khá toàn diện, không chỉ trên phương diện chính trị, xã hội mà cả các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, hiện đại từ chuyện lớn vĩ mô, đến chuyện vi mô cụ thể. Ở thời đại của ông, không một người Việt Nam nào lại hiểu biết tình hình thế giới, khu vực được như ông. Với đất nước mình cũng vậy, đương thời khó có ai hiểu sâu sát được như ông. Tôi nói thế mà không sợ quá lời, một khi bản thân đã ít nhiều so sánh hệ thống văn bản điều trần của ông với nhiều thư tịch đương thời trong đó có đình đối sách mà nhà vua, người ra đề thi thường có yêu cầu các đại thí sinh phản ánh tình hình thực tế đất nước.

3. Về tư duy: Nguyễn Trường Tộ cũng là người có một năng tư duy đột khởi, hiếm lạ so với tầng lớp đại nho, đại thức đương thời, đủ làm cơ sở vững chắc đảm bảo chất lượng tối ưu cho suy nghĩ, hành động và tầm vóc văn hoá của ông. Trong tư duy Nguyễn Trường Tộ nổi lên mấy đặc điểm sau:

- Có khả năng tư duy nắm bắt những vấn đề vĩ mô, khái quát, chiến lược mà vẫn không xa rời những điều vi mô, cụ thể, chiến thuật. Ví dụ: bàn “Về việc tổ chức cho sứ bộ đi Pháp” (Di thảo số 32 ngày 12.3.1868) là đụng đến một đại sự của quốc gia mà không quên dặn “Sứ bộ ta đi Tây lần này, cách ăn ở, hễ đến đâu, phải làm như thế nào, tôi sẽ nói trước với quan chính sứ, bàn bạc phải chăng, tạm theo tục họ, để tránh sự chê cười. Còn như áo quần, đồ dùng cần phải tề chỉnh sạch sẽ. Vì người Tây ghét nhất là ăn mặc bẩn thỉu. Trừ lễ phục ra, áo lót mình mỗi người ít nhất cũng phải 40 bộ, mỗi ngày mỗi thay đổi. Khăn mặt phải dùng vải Tây trắng, ít nhất mỗi người cũng phải 30 chiếc… 4, 5 đôi giày, còn bít tất phải 20, 30 đôi để thay đổi luôn mới được ”.

- Có khả năng tư duy tích hợp (intégration) vốn là một phương diện rất cần trong việc huy động tri thức, liên kết hiểu biết đa diện đa chiều nhằm tạo hiệu quả cao cho hành động. Khoa học hiện đại đang rất coi trọng khả năng tư duy tích hợp, khoa học tích hợp này. Không chỉ toán riêng, lý riêng, mà còn là toán lý. Không chỉ sinh riêng, hoá riêng mà còn là sinh hoá…Đọc lại di thảo của Nguyễn Trường Tộ, ta thấy rõ năng lực tư duy này. Ví như trong Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), bàn chuyện xây nhà ở kinh thành, phải xây gạch lợp ngói. Thì trong ý nghĩ của ông không chỉ là chuyện để có nhà ở mà còn là chuyện “phải xắp xếp lại phương hướng cho hợp với binh pháp. Như vậy mới có ích lợi lớn. Như các nước phương Tây dùng nhà cửa làm thành. Đường sá qua lại chằng chịt. Ở những chỗ quan yếu có pháo đài nhỏ. Quan dân nhờ đó dễ phòng thủ. Một khi có biến, dân chúng đều rút vào nhà hết. Có ai chạy lộn xộn ngoài đường thì đó là quan binh hoặc quân loạn nghịch mà thôi nên dễ kiểm soát tầm nã”.

- Có khả năng tư duy so sánh mà hiệu quả nhận thức từ đó dẫn đến hiệu quả hành động cao hơn là không có so sánh. Nhất là năng lực tư duy so sánh lại được dựa trên một tầm độ hiểu biết chuyện đời Đông Tây kim cổ, văn hoá Đông Tây kim cổ như Nguyễn Trường Tộ đã có thì đúng là đương thời khó ai sánh kịp, mà cả hậu thế, cũng không dễ ai hơn. Trong Tám việc cần làm gấp, Nguyễn Trường Tộ từng viết: “Đem nước ta so với thế giới mà xem mới thấy mình có nhiều thiếu sót… Nếu sau khi quan sát thế giới rồi chịu nghiên cứu cho sâu, học cho hết, sau đó nhìn lại nước mình mới thấy lời nói của tôi là thiết thực xác đáng”. Một ví dụ: Trong khi bàn việc “Sửa sang cương giới”, ông so sánh và thấy: “Bản đồ cương giới của Trung Quốc ngày nay rõ ràng hơn của ta gấp bội nhưng so với các nước phương Tây, Trung Quốc chỉ đáng một phần mười ”.

- Có khả năng tư duy triết học dù chưa phải là một triết gia. Năng lực tư duy triết học là năng lực tư duy cao sâu hơn tư duy xã hội học, tư duy cụ thể, thiển cận. Loại tư duy này cho phép vượt lên trên trình độ nhận thức hiện tượng để nhận thức về mối quan hệ giữa các hiện tượng vốn là phức tạp, trừu tượng, thậm chí là bí hiểm. Ở Nguyễn Trường Tộ, qua các di thảo của ông cho thấy, tư duy triết thể hiện ở hai trạng thái: kinh viện và thực tiễn. Kinh viện là những điều cao sâu ít nhiều đã có ở thư tịch, chủ yếu là của phương Đông, Trung Hoa cổ đại. Ví như khi “Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ” (Thiên hạ đại thế luận), ông đã dựa vào triết lý về chữ Thế để mở đầu cho sự lập luận: “Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có “Thế” mà thôi. Chỉ “Thế” là nói bao gồm cả thiên thời, nhân sự cho nên, người biết rõ “Thế” thì không trái trời, không mất thời, không hại người, không hỏng việc”. Hoặc như khi “Bàn về tự do tôn giáo ” (Giáo môn luận 29.3.1863) ông cũng bắt đầu từ ý tưởng “Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là gì? Là làm cho muôn vật được bảo toàn thiên tính của nó. Vì vậy trên trời có sao sáng mây đẹp thì cũng có gió lớn mưa to, dưới đất có lúa tươi thóc tốt, thì cũng có cỏ xấu, sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy, mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái gì đẹp thì tô bồi, cái gì xấu thì dẹp bỏ, cái gi hay thì che chở, cái gì dở thì huỷ hoại thì không làm sao thấy được cái vĩ đại, cái kỳ diệu của tạo vật. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì nếu trên đời này, nếu có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọt là đáng yêu, có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp, có trắng mà không có đen, trắng không tự mình phơi bày cái đẹp được … Cho nên trời đất không vì tốt xấu mà phân biệt mưa sương, không vì văn minh dã man mà phân biệt sự che chở….”.

Đúng là Nguyễn Trường Tộ đã đụng vào quy luật đối trọng (Contre-poids) vốn là quy luật lớn nhất của sự sống. Còn triết lý thực tiễn ở Nguyễn Trường Tộ chính là những lẽ thường tình trong sự sống con người. Ví như: “Phải biết sống theo hoàn cảnh mới là người sáng suốt hiểu đúng đạo lý” (Tám việc cần làm gấp), “Thói đời giống với mình thì vui mừng, khác với mình thì chế diễu” (Về việc tổ chức cho sứ bộ đi Pháp), “Biết rõ uy thế của ta của họ để tuỳ cơ ứng dụng đường lối cứng rắn hay mềm dẻo” (Trả lời cái câu hỏi của triều đình) “Phàm việc đời không kể lớn nhỏ chưa có việc gì hoàn toàn tốt đẹp mười phần mà không hư hỏng chút nào, cũng chưa có việc gì hoàn toàn hư hỏng mười phần mà không có ích lợi chút nào” (Nói rõ thêm về văn bản ngày 16 tháng 2. Tự đức 21), “Thói thường người ta chỉ lo cứu hoạn mà không biết phải lo làm sao cho mối hoạ không sinh ra (Tiễu trừ giặc biển)”. “Ở đời nếu phải tai hoạ thì hãy chọn cái hoạ nhỏ.” “Ăn trộm thì không gì bằng ăn trộm nước” (Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh).

*
* *

Với tư chất như trên, Nguyễn Trường Tộ trở thành nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX. Nội dung thiết kế bao gồm không biết bao nhiêu là vấn đề, sự việc, bộ phận, chi tiết. Lịch sử tiếp cận, đánh giá, nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ từ khởi thủy là các tác giả Đại Nam thực lục chính biên, tiếp đến là Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo, tiếp đến nữa là các vị Lê Thước, Nguyễn Trọng Thuật trên Nam phong tạp chí, Đào Đăng Vỹ trên La Patrie annamite, Hải Vân trên Hà thành thời báo, Phan Trần Chúc trên tuần báo Tân Việt Nam, Sử Tử Bình,Lục Y Lang trên Tiếng Dân, Đào Duy Anh trên báo Tri Tân, Bulletin des amis du vieux Huế, Từ Ngọc với sách Nguyễn Trường Tộ (1941) và rất nhiều người nữa tiếp theo trong đó đáng chú ý nhất là Cao Xuân Huy với luận văn “Hệ thống tư tưởng triết học của Nguyễn Trường Tộ”(1960), Đặng Huy Vận – Chương Thân – với công trình “Nguyễn Trường Tộ và những đề nghị cải cách của ông” (1961), Trần Văn Giàu trong sách “Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam”(Từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám) (1973), Trương Bá Cần với sách “Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo” (2002), Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh với kỷ yếu hội thảo khoa học có tên sách “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” (1992)… đã đề cập, đã giải mã không biết bao nhiêu điều về Nguyễn Trường Tộ. Hôm nay đến lượt tôi, người đi sau đã được học tập tiền nhân, liệu có thể nói gì thêm khi đã nổi lên trong đầu óc một ấn tượng bao quát về “Nguyễn Trường Tộ – nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX” chứ không chỉ là nhà duy tân, nhà cải cách, nhà canh tân đất nước? Hy vọng rằng cách thay đổi mệnh danh này về Nguyễn Trường Tộ may gì cũng tạo được một cách nhìn toàn diện hơn nữa về Nguyễn Trường Tộ và từ đó cũng có thể làm rõ hơn nữa tầm vóc vĩ đại của ông. Tôi xin trình bày nội dung thiết kế của Nguyễn Trường Tộ dựa theo không chỉ một mục tiêu duy tân cải cách mà hai mục tiêu là:

- Tìm cách giành lại phần lãnh thổ đã mất cho đất nước.

- Duy tân để đưa đất nước lên cõi văn minh, phú cường.

A. Phần Một

Năm 1858, Pháp đánh Đà Nẵng. Năm 1859, Pháp bỏ Đà Nẵng vào đánh Gia Định. Năm 1862: Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Năm 1867: Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam bộ. Trong khi Nguyễn Trường Tộ bắt đầu công việc điều trần tạm ghi là vào năm 1863. Nguyễn Trường Tộ mất ngày 10.10.1871, sau khi Nam bộ đã mất trọn 4 năm và ở Pháp có Công xã Paris xảy ra đầu năm 1871.

Pháp xâm lược đất nước. Đúng là Nguyễn Trường Tộ đã không đi theo con đường truyền thống mà các sĩ phu yêu nước thời đó đã đi là cùng nhân dân vùng lên anh dũng, võ trang chống Pháp, nghĩa là theo quy luật indépendant bằng lối đi độc đạo là bạo động. Nguyễn Trường Tộ, bằng trí tuệ riêng, bằng cách tính toán riêng đã chủ trương đi theo con đường khác mà dân tộc chưa quen đi là theo quy luật interdépendant (phụ thuộc lẫn nhau), chủ trương trước mắt tạm “hoà” mà không “chiến”. Vấn đề “hoà” hay “chiến” là vấn đề lớn nhất của lịch sử lúc này. Trong thực tế, đã diễn ra tình trạng ở những người có trách nhiệm cầm đầu vận nước đương thời trong đó có phái chủ chiến, có phái chủ hoà, kể cả tình trạng lúng túng, hoà không ra hoà, chiến không ra chiến. Hoà cũng lắm kiểu: hoà do yếu đuối, bạc nhược, sợ địch. Hoà do có sự tính toán thiệt hơn về trước mắt và lâu dài. Nguyễn Trường Tộ cũng hoà nhưng rõ ràng là ông có sự tính toán đa dạng, đa diện, đa mưu, đa kế hơn những người chủ hoà khác. Mặc dù, với chủ trương hoà này, đương thời ông phải chịu không ít sự hiềm nghi, kể cả đến hôm nay, với hầu hết người Việt Nam có suy nghĩ thấu đáo thì sự hiềm nghi đã được rũ bỏ, chỉ còn lại sự tôn vinh nồng nhiệt. Nhưng một vài người Việt sống ở nước ngoài, không hiểu vì lẽ gì, không những không rũ bỏ mà phần nào còn cường điệu sự hoài nghi ở mức xúc phạm đến con người kiệt xuất này. Mong rằng các vị đó sẽ có lúc hồi tâm tìm hiểu lại một cách kỹ càng để tự điều chỉnh mình cho phù hợp với đà chung của học giới. Trở lại với Nguyễn Trường Tộ mà thấy thương cho ông ngày đó. Ông tâm huyết với đất nước lớn lao là thế mà đã phải gánh chịu bao sự eo xèo, hiềm nghi để phải nhiều lần thanh minh, phải như tự kêu lên rằng: Tôi không phải là tay sai cho ngoại bang. Tôi chỉ là người đang tìm một con đường cứu nước theo kiểu khác mà tôi thấy nó mới thật sự có hiệu quả. Hãy đọc lại một vài đoạn trong bài Trần tình của ông:

“Tôi bé không được dạy bảo, lớn lên lưu lạc nhiều nơi, những hoài bão và việc làm của tôi có chỗ khác hơn người (NĐC nhấn mạnh)…

“Từ bé tôi đã thận trọng trong việc giao du, thích yên tĩnh, đối với tất cả những sự cầu danh, lấn lướt giành công, tham lợi tôi đều coi như mây bay, nước chảy. Vả lại, tôi cũng không ham thích kinh doanh, không thích chuyện vợ con, đoạn tuyệt với hai cạm bẫy tài sắc. Người ta ở đời sở dĩ không được thanh thản tự do mà phải chìm đắm trong lưới trần tục, lại theo phường phản nghịch, đều do hai cạm bẫy này mà ra cả. Tôi thoát khỏi vòng đó, cho nên việc làm của tôi có khác người….”(NĐC nhấn mạnh)

“… Đến lúc lớn lên tôi chu du các nước, những điều mắt thấy tai nghe góp lại thành một sự ích dụng lớn. Về việc học không môn nào tôi không để ý tới: cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để ý nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ. Thường những người học được như vậy hay dùng đó làm phương tiện cầu vinh, để tiến thân, còn tôi dùng để đền đáp lại cái mà trời cho tôi học được, chứ không mong kiếm chác một đồng tiền nào”… “… Kíp đến lúc người Pháp gây hấn với ta, tôi đã cực lực chối từ lời mời của họ. Nhưng sau nghĩ lại tình thế nước ta hiện nay tạm hoà là thượng sách. Vì chưa đủ sức chống chọi được với họ, cho nên, phải uốn nắn mà theo họ. Như thế may ra góp được một phần nhỏ đối với việc hoà. Nỗi khổ tâm của tôi phải uyển chuyển để được chu toàn thật không bút nào tả được. Tôi đã dự định trong lòng từ lâu, nếu như việc đó được thành công thì tôi lại bay bổng cao xa ngao du khắp bốn bể… ” “…. Nếu quả tôi có lòng phản bội Tổ quốc thì sao tôi lại có thể cẩn thận suy nghĩ, bí mật lo liệu được như vậy?...” “… Mặt trời cho dẫu không soi đến. Hướng dương xin vẫn nếp hoa quỳ”. Trong di thảo “Tâm sự với Trần Tiến Thành” (19.3.1866) ông cũng viết: “… Tôi đang ở trong hoàn cảnh bị hiềm khích, chưa chắc ai đã tin ngay lời tôi nói nên phải kiên nhẫn đợi chờ, không dám đuổi theo tài lợi, đành cam chịu cuộc sống nghèo khó đạm bạc, để cốt chứng minh cho lời nói của tôi là không vì một cái gì, không mong được một cái gì, không bị ai sai khiến, không có một ý đồ gì khác mà thật vượt ra ngoài lẽ thường tình. Theo lẽ thường mà nói thì những việc làm của tôi như vậy, thật là khó hiểu, bấy lâu nay tôi không gánh vác việc gia đình, không thiết tha tài lợi, cả Tây Nam cũng đều thấy, như thế cốt để gạn lọc ý chí, đào luyện tính tình mà bảo dưỡng việc học tập của mình. Tất cả những điều đó vốn là để mong đợi thời hành sự để mong làm được một vài điều lòng hằng ôm ấp, để trọn ơn trên, để tròn thế sự. Chứ đâu phải cam chịu chôn mình trong cảnh tối tăm tịch mịch ? Trung và hiếu vốn là hai điều khó giữ vẹn. Nhưng chỉ nói suông không ngồi vào, không dự vào chỉ biết thân mình, nhà mình, theo thường tình thì việc an nguy của quốc gia thì coi như chuyện của nước Sở nước Việt, không hết lòng báo đáp ơn nước nhà, một mai bốn phương xảy ra nhiều việc thì thân thích của mình cũng sẽ cùng số phận với việc mất còn của đất nước. Trung không thành thì hiếu cũng chưa chắc giữ được…”

Rõ ràng là Nguyễn Trường Tộ đã phải chịu sự hiềm nghi nặng nề trong khi bằng trí tuệ riêng của mình mà chủ trương tạm hoà (chứ không phải hoà) với Pháp. Thật là đáng quý dù bị hiềm nghi nặng nề mấy, ông vẫn kiên tâm theo đuổi đường lối vừa riêng, vừa mới của mình trong đó có chủ đích là giành lại phần lãnh thổ của đất nước đã bị mất cho thực dân Pháp. Ông cũng ghét thực dân Pháp như ai là người Việt Nam yêu nước đương thời. Ông theo dõi rất sát sao và mật báo cho triều đình biết âm mưu của thực dân Pháp: “Hiện nay ba tỉnh ngoài họ đã không trả, ba tỉnh trong lại lăm le muốn lấy, rồi tương lai sẽ gây biến động gì nữa, cứ suy việc trước ắt biết” (Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh 18.7.1864) “Những sự tình trong lời xin của họ tôi đã nói rõ trong tờ bẩm trước. Nếu việc xin của họ gặp khó khăn, trở ngại, họ cũng không cưỡng ép mà cứ dần dần thi hành cái âm mưu quỷ quyệt để mưu chiếm lấy hết… Hiện nay họ đã sai người đi theo Tiền Giang dọc thẳng các đường đến tận Vân Nam. Những nước nhỏ ở phía Tây ven sông thuộc Xiêm La thường bị họ dùng kế ly gián để dễ bề sai khiến. Họ còn lên tiếng xin nước ta cho họ sai người dọc theo đường núi từ Bình Thuận ra Bắc đến Tuyên Quang để dò đường trước rồi sẽ sai binh thuyền dọc theo ven biển từ Bình Thuận đến Quảng Yên qua cái cảng khẩu và mặt biển để dò nông sâu, vẽ vào bản đồ. Sở dĩ họ cần làm như thế là không những chỉ mưu lợi mà còn dụng ý rất thâm, tôi đã mật báo rồi, nay không dám nói rõ nữa” (Kế hoạch khai thác tài nguyên đất nước 15.2 – 17.3.1866), “Nay xem triều đình của họ đã có mật nghị, muốn lấy trọn sáu tỉnh hợp với Cao Miên để làm cửa ngõ lấy vùng đất hai bên sông Cửu Long dọc lên tận Vân Nam…” (tài liệu vừa dẫn). Trong “Tám việc cần làm gấp”, Nguyễn Trường Tộ đã nhắc lại âm mưu của Pháp gồm 5 kế độc là: “1) Giúp bọn làm loạn chia cắt đất nước. 2) Giả hoà rồi đánh ta bất thình lình. 3) Lập ngôi soán vị rồi chuyên quyền. 4) Mượn đường diệt giặc. 5) Lấy êm bằng cách hối lộ”. Nhận rõ âm mưu của kẻ thù, với nhiệt tâm cứu nước theo đường lối riêng của mình, có lúc ông đã cật vấn triều đình Huế: “... Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh… Kẻ địch bên ngoài sắp muốn nô dịch dân ta, cướp bóc của cải của ta, tại sao không hỏi han nhắc nhở nhau tìm mưu lập kế để ngăn ngừa? … Tại sao không đem tâm lực ra mà lo những việc cần kíp trước mắt, lại đem dùng vào những chuyện xa xôi, không thiết thực ? Tôi sợ kẻ địch xung quanh đang bức bách ta ngày kia sẽ đem giáo hoá luật lệ của chúng đến sai khiến chúng ta. Chừng đó ăn năn sao kịp” (Tám việc cần làm gấp 15.11.1867). Nguyễn Trường Tộ đã bày mưu định kế để tiến tới chỗ tống khứ thực dân Pháp ra khỏi Nam bộ, giành lại lãnh thổ trọn vẹn của đất nước. Trong kế sách của ông, có đủ biện pháp, có đủ chiến thuật khá là hiện đại mà nói chung là dùng trí hơn là dùng lực. Cụ thể, có mấy điểm nổi bật như sau:

- Dùng Anh để kìm Pháp: phải nói đây là một kế sách rất cao tay. Bởi ông biết rõ mối quan hệ Anh – Pháp trong lịch sử và đương thời vốn chẳng hay ho gì, vốn có sự hiềm khích nhau. Trong “Kế hoạch duy trì hoà ứơc mới” (18 – 24 tháng 3 - 1864), ông từng viết: “Nếu muốn mưu tính việc thiên hạ, khiến những bọn ghét nhau tự xâu xé lẫn nhau để ta được nhân đó mà hưởng lợi”… “Tôi xét thấy sự thế hiện nay chỉ có người Anh có thể cộng tác được với ta. Vì Anh và Pháp có mối thù truyền kiếp. Nay người bác của vua Pháp bị người Anh đày ở ngoài một đảo xa xôi, người Pháp lấy làm xấu hổ. Người Anh mất Hợp chủng quốc do Pháp hất cảng; người Pháp sở dĩ tạm thời hợp tác với người Anh vì người Anh giỏi về đường biển. Nay nếu có đánh nhau thì người Pháp chỉ giỏi về đường bộ, không thể biến hoá được. Vả lại, người Anh đã chủ được tình thế phương Đông hơn gấp 10 Pháp. Cho nên Pháp phải miễn cưỡng hoà thuân với Anh. Nhưng tính người Pháp hay kiêu điệu, lại hay dèm pha, nên càng dễ ly gián. Người Anh tuy được nhiều nơi nhưng chưa chỗ nào hiểm trở bằng Gia Định. Nay nếu Pháp lấy được Gia Định thì sẽ bất lợi cho mình. Nên có cơ hội thuận tiện, lẽ nào người Anh bỏ qua. Nay nếu ta tỏ ý cần mượn người Anh thì cũng dễ nói:” Việc ly gián Anh – Pháp còn được Nguyễn Trường Tộ nói lại nhiều lần trong nhiều văn bản khác, và trong khi bàn chuyện này, Nguyễn Trường Tộ cũng đã nghĩ đến cái nạn “đuổi hùm cửa trước, rước sói cửa sau” (lời của Nguyễn Trường Tộ). Và ông có cách biện giải, tựa như trong chuyện đánh cờ tướng vậy, gặp nước cờ này thì đi nước cờ khác, gặp tình thế nào sẽ tìm cách giải quyết tình thế ấy theo binh pháp “tương kế tựu kế” rất biến hoá. Nguyễn Trường Tộ còn chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp với các nước khác mà Napoléon đã gây ra là YphaNho, Áo Đại Lợi, Nga La Tư, Ý Đại Lợi, Hà Lan…. và mở rộng quan hệ với nước ngoài nói chung nhằm tạo thế đứng cho đất nước trên trường quốc tế để từ đó tranh thủ mọi sự ủng hộ, khai thác nhiều quan hệ lợi cho đất nước hơn ở tình trạng chỉ bó hẹp lại trong quan hệ giữa ta với Pháp mà đã bị Pháp bắt nạt, kìm chế.

- Vừa khoét sâu vào mâu thuẫn của nội bộ thực dân Pháp, vừa tranh thủ sự ủng hộ của người Pháp. Nguyễn Trường Tộ nắm khá rõ mối quan hệ giữa Tây soái ở Gia Định và Chính phủ Pháp trong đó có chuyện dối trá của Tây soái trong các báo cáo về tình hình ở Việt Nam. Do đó ông tìm cách gây bất lợi cho Tây soái trước Tây triều. Bấy giờ có Aubaret (Hà Bá Lý) là một sĩ quan của Pháp sang xâm lược Việt Nam nhưng là một người có học, từng tiếp kiến Nguyễn Đình Chiển và dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp, từng khuyên triều đình Pháp trả lại ba tỉnh Đông Nam bộ cho ta, lại có thâm thù với Tây soái, nên Nguyễn Trường Tộ dặn “sứ bộ đi Tây ngầm tìm được ông ta, dùng lời nói khôn khéo và cầu kế với ông cũng được”. (Nói rõ thêm về văn bản ngày 16 . 2 Tự Đức 21).

- Vạch kế hoạch thu hồi 6 tỉnh một khi có thời cơ. Thật là kinh ngạc về khả năng dự báo của Nguyễn Trường Tộ. Ngay từ năm 1864 mà ông đã dự báo “Nước Pháp vài năm sau tất sẽ có nội loạn” (Kế hoạch duy trì hoà ước mới(18 – 24 tháng 3 năm 1864). Quả đúng như thế. Ba năm sau, năm 1871, cuộc cách mạng đầu tiên của công nhân và nông dân Pháp nổ ra và nhất thời thắng lợi (18 -3). Chính phủ Chie (Adolpie Thiers) bỏ chạy về Vecxay (Versailles), nhân dân Paris tiến hành bầu cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, lập Hội đồng công xã (28.3). Nguyễn Trường Tộ với nhận thức, “đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc, với thời cơ chưa đến mà cưỡng làm, đều sai lầm như nhau cả. Cho nên người khôn tuỳ thời mà giải quyết công việc, tuỳ việc mà ra mưu, gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ qua cơ hội”. Lúc này là lúc có cơ hội. Nguyễn Trường Tộ vạch “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” (1.2.1871), trước cả ngày công xã Paris thành công. Ông nói rõ: “Hiện nay người Pháp đang gặp vận hội thay đổi lớn. Chính là lúc ta nên gấp rút đặt kế hoạch. Năm trước tôi đã nói “kỳ hạn khôi phục trong mười năm” là cũng đã liệu trước sẽ có cơ hội này, chứ không phải nói quàng, nói hão. Những lời trình bày của tôi trong những năm gần đây, tất cả đều quy vào việc tạm hoà để nghỉ sức, canh tân để mạnh thế của ta, cầu viện để giúp thêm cho ta. Còn dùng binh lực để quyết liệt một phen thì chưa nói đến. Vì muốn khôi phục lại được tất phải đổi mới tiến lên và giao thiệp rộng. Có hai cái ấy làm cơ sở, binh lực mới từ đó mà ra. Nhưng làm hai điều này phải khá lâu chớ không phải kể năm kể tháng mà được. Nếu không lo làm nhanh, đã muộn lại muộn thêm, khi thời cơ đến mà phương tiện chưa đủ hoá chẳng đáng tiếc lắm ru?”.

Trong kế hoạch này, trước hết Nguyễn Trường Tộ chỉ ra những thuận lợi liên quan đến thời cơ và nêu lên nhiều biện pháp cụ thể để tuỳ cơ mà áp dụng như:

1. Cử một đại thần vào gặp Tây soái ở Gia Định khuyên dồn quân về một nơi còn lại các nơi khác trả lại cho ta hết.

2. Sai người đi khắp sáu tỉnh , xúi dân đâu đâu cũng dự bị làm loạn và tung tin khắp nơi khiến cho y (Tây soái) biết được việc ấy.

3. Sai người đi Hương cảng bảo các khách buôn giàu, hứa ngày sau sẽ cho buôn bán ở một hai cửa biển lớn và cho bán nha phiến cả nước mà không đánh thuế, nhưng trước hết xin họ xuất tiền cho mua một số đại pháo, nhờ thuê cho một số người Anh lưu vong, xây một số pháo đài theo kiểu Tây ở cửa Thuận An, Nghệ An, Đà Nẵng, sông Gianh…

4. Từ Nghệ An trở vào Nam, giả vờ thôi thúc quân lính, ban rõ hiệu lệnh phao tin khắp mọi nơi nổi lên đánh giặc.

5. Sai người đi Cao Miên tìm Cầm Bô lấy lời khôn khéo xui sử y trên ấy nổi dậy trước, dưới này ta sẽ đánh thúc lên…

6. Làm công tác binh vận kêu gọi những người Việt được Pháp huấn luyện làm lính tập, mã tà… hãy là người còn có lòng người, còn nhớ đến Tổ quốc, tất cả đâu đó sẵn sàng.

7. Kêu gọi Hoa Kiều từng là khách nhưng ở nước Nam đã lâu, bị Tây ức hiếp, nhân lúc này hãy ngầm tiếp tay với người Nam để có lợi về sau.

8. Tranh thủ tầng lớp quan lại từng làm quan cho Pháp bằng cách tỏ lời thông cảm với hoàn cảnh vạn bất dĩ của họ, chỉ cho họ thấy lợi hại trước tình hình mới.

9. Dùng thủ thuật gây nghi ngờ lẫn nhau trong nội bộ người Pháp và cả những người cộng tác với Pháp, tìm cách kéo họ về phía mình.

10. Mật sai các đại gia thế tục trong 6 tỉnh Nam bộ họp nhau làm tờ thương nguyện gửi lên quan Tây sở tại, tung tin triều đình Việt Nam sắp hành động, gây sức ép để Pháp phải làm theo ý ta.

Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam bộ của Nguyễn Trường Tộ còn có nhiều điều khác nữa. Ở đây không thể nói hết. Nhưng điều này thì không thể không nói. Đó là “kế hoạch đánh úp Gia Định”. Trên cơ sở theo dõi sát sao, hiểu biết khá tường tận tình hình nước Pháp vào đầu năm 1871, với ý thức tranh thủ, chớp thời cơ, chỉ sau 8 ngày dâng “kế hoạch thu hồi sán tỉnh” (1.2.1871), Nguyễn Trường Tộ dâng tiếp điều trần “Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định” (9.2.1871). Nội dung gồm 2 bước:

- Bước 1: là gấp rút cử phái bộ đi Pháp để tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của các nước từng ít nhiều có mặt này mặt khác, mẫu thuẫn với Pháp, nhân dịp này đứng về phía Việt Nam. Đó là các nước Y Pha Nho, Anh, Thổ. Tìm cách tranh thủ Giáo hoàng La Mã để Giáo hoàng ra lệnh rút các giáo sĩ người Pháp ở Việt Nam về nước, nhường chỗ cho các giáo sĩ người YPhaNho – Gặp gỡ, thuyết phục, lung lạc tâm lý giới cầm quyền nước Pháp trong hoàn cảnh đang bị rối loạn trả lại 6 tỉnh Nam bộ cho Việt Nam. Mặt khác, cũng không quên tìm cách lung lạc tâm lý của Tây soái ở Gia Định.

- Bước 2: Nếu bước 1 đã thành công thì không cần bước 2, nhưng không thành công thì bước 2 sẽ là như sau: Nguyễn Trường Tộ đóng vai trò trá hình, làm phản gián bằng cách giả xin bổ ông một chức quan trong triều nhưng lại ăn nói phạm thượng để bị cách chức. Từ đó, ông sẽ đóng vai trò của một người chiêu hồi với Tây soái. Và với vai trò chiêu hồi giả này, ông làm việc cho Tây nhưng thực tế là để đi khắp Lục tỉnh tìm cách móc nối với các tầng lớp nhân dân, chuẩn bị nhiều thứ trong đó có cả chuẩn bị vũ khí, luyện tập binh sự, chờ đợi thời cơ. Ngoài ra còn ra Bắc móc nối với những người từng có dã tâm muốn vào làm việc với Tây soái, lừa Tây soái cấp giấy tiếp nhận họ nhưng lại bí mật gửi cho triều đình biết loại người này. Riêng với một số người trong bọn này đã vào Gia Định, thì cuối cùng lại biến họ thành người có công với đất nước trong việc đánh úp Gia Định. Mặt khác, bố trí người tìm cách lung lạc tâm lý Tây soái, xúi nó rút quan võ về nước, thay bằng quan văn. Mọi việc chuẩn bị như thế là không thể nóng vội mà hỏng việc phải trong khoảng 2 năm. Cuối cùng việc chuẩn bị hoàn thành thì chuyển sang kế hoạch đánh úp, trước hết bằng cách nhân đêm khởi sự: phá đê ngăn nước để “Các thuyền Tây ở mặt dưới không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc vùi xuống dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết ”.Trong khi đó hô hào quần chúng nổi dậy. Theo ông là: “Phải nuốt giận mà vào, thừa lúc họ đang buông lỏng không phòng bị mới có thể đuổi giết họ được.”

Quả thật chỉ qua hai bản điều trần về việc thu hồi 6 tỉnh, đánh úp Gia Định cũng đủ thấy Nguyễn Trường Tộ là một nhà cứu quốc, một nhà chiến lược chiến thuật, một nhà tâm lý chiến, đại tâm, đại trí, đại tài. Xin hãy đọc thêm mấy dòng cuối của điều trần “Bố trí kế hoạch đánh úp Gia Định” để rõ thêm ông là người thế nào:

“Tôi lại có tâm sự xin trần tình một lời lên rằng: Nếu được triều đình tin dùng thì trên đội đức Hoàng đế, uy quyền triều đình, giữa nhờ các quan tổng binh, chỉ vẽ phương lược, dưới nhờ tướng sĩ đồng lòng, may mà quét sạch quân thù, khi trở về, tôi xin từ chức về vườn ngay để phụng dưỡng mẹ già mà thôi. Khi nào triều đình có việc cần đến, tôi lại vâng mệnh, việc xong lại xin về như trước, còn tước lộc quyết không dám nhận”.

B. Phần Hai

Là phần thiết kế duy tân đất nước cũng không chỉ với một mục tiêu mà hai mục tiêu có quan hệ tương hộ: duy tân để giành độc lập. Duy tân để đưa đất nước lên cõi văn minh, phú cường. Nội dung thiết kế phần hai này là vô cùng phong phú. Có dịp đối sánh với những gì mà thế hệ sau ông, các nhà Duy Tân, các nhà Đông Kinh nghĩa thục đầu thế kỷ XX từng đề cập tới, mới thấy hết tầm vóc phong phú, bề thế của Nguyễn Trường Tộ, nhất là ở phương diện của một cá nhân trong khi sau đó là của phong trào gồm nhiều cá nhân. Đọc lại di thảo của Nguyễn Trường Tộ và những công trình nghiên cứu về ông đã có, sẽ thấy rõ điều đó. Ở đây chỉ xin điểm lại những nét chính như sau:

1- Vấn đề chính thể xã hội

Chính thể xã hội vừa là cơ sở tồn tại vừa là mục tiêu hướng tới của mọi phương diện hoạt động trong cuộc sống của một quốc gia, kể cả một khi có công cuộc duy tân. Sau Nguyễn Trường Tộ, với các nhà Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục ở đầu thế kỷ XX thì công cuộc duy tân đã dược tiến hành với khát vọng xây dựng một xã hội dân chủ tư sản. Trong khi với Nguyễn Trường Tộ trước đó thì vẫn duy trì chế độ phong kiến. Bản điều trần “Ngôi vua là quí, chức quan là trọng” (cuối tháng 5.1866) thể hiện rõ điều đó. Tuy nhiên phải thấy mô hình chế độ phong kiến mà Nguyễn Trường Tộ nhe nhắm lại có những nét riêng so với chế độ phong kiến đương thời của nhà Nguyễn như sau:

- Đã thấy rõ những mặt trái; những xấu xa của chế độ phong kiến đương thời. Sau này có người mệnh danh ông là “Nhà phê bình xã hội đầu tiên ở nước ta”, chính là từ đó. Xin dẫn ra đây một vài lời của ông để biết cái cảm hứng phê bình ở ông là thế nào?

“Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sinh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của nhân dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi. Trong triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn các bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều. Ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra lâu rồi… đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát nhân dân mình, giận cá chém thớt. Khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây” Thật đúng như câu nói “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”.

- Chế độ phong kiến mà Nguyễn Trường Tộ muốn có là một chế độ phong kiến hoà mục. Có thể nói đây là chỗ Nguyễn Trường Tộ còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo, của Khổng nho vốn có thuyết “trung dung” mà sau này bị các học giả Mác xít cho là phản động, là “điều hoà mâu thuẫn giai cấp” là thủ tiêu đấu tranh giai cấp để duy trì chế độ người bóc lột người. Nhưng gần đây thì khác. Trên đất nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa, người đứng đầu Đảng cộng sản Trung Hoa lại kêu gọi bỏ chữ “đấu” mà theo chữ “Hoà”. Với Nguyễn Trường Tộ, đúng là muốn có một chế độ phong kiến dựa trên chữ Hoà. Trong bản điều trần “Ngôi vua là quí, chức quan là trọng”, ông từng viết:

“….mọi quyền lợi hành vi trong một nước phải do vua nắm và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài qui luật này ra đều là tội cả”.

“…Đó là điều mà sách kinh đời xưa đã ghi chép như vậy, các bậc hiền triết đã làm như vậy, những người khai sáng đã tạo lập qui mô như vậy. Phong tục đã kết thành như vậy, các nước đã noi theo một trật tự như vậy mà một mai có người muốn lập lại một cái gì khác, thật cũng khó có thể làm được. Cho nên làm vua biết rõ cái thế trường cửu đã có, không có bụng nghi ngờ bề tôi ở dưới, kẻ làm dân biết rõ cái thế lợi hại của việc trị việc loạn nên không có chí phạm thượng. Trên dưới tự mình không nghi ngờ lẫn nhau. Mọi việc đều có sự phó thác rõ ràng người nhận lãnh vui lòng, không có điều gì tối tăm, lo lắng, cho nên dễ đi đến chỗ đúng đắn, dễ cởi mở, dễ phân giải, tất cả đều do thật lòng tin tưởng nhau…”

Khi đưa ra những ý kiến như trên, Nguyễn Trường Tộ không chỉ dựa vào kinh điển nho gia xưa mà còn có sự quan sát, suy tính từ chế độ xã hội ở những nước như Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều nước khác ở phương Tây. Chính ông đã nói thế.

- Tuy vẫn theo chế độ phong kiến nhưng lại rất đề cao pháp luật. Có thể nói chế độ phong kiến mà Nguyễn Trường Tộ chủ trương là chế độ phong kiến pháp quyền, chứ không là độc quyền. Trong điều trần “Tám việc cần làm gấp”, ông đã đề nghị mở khoa luật với ý tưởng. “Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật và những luật mới bổ sung từ Gia Long đến nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. Vì luật bao gồm cả kỷ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia…. Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật. Bởi ở các nước Phương Tây, phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bỏ cuộc nào. Phàm những tội ngũ hình đều do các vị này xử. Vua cũng không được đoán phạt một người nào theo ý mình mà không có chữ ký của các quan trong bộ ấy”.

Có thể có người cho rằng Nguyễn Trường Tộ đã có hạn chế trong chủ trương “Ngôi vua là quí chức quan là trọng”. Với cách nghĩ thông thường thì đúng thế là hạn chế. Nhưng quan sát lịch sử nhân loại xưa và nay cho thật thấu đáo để nghĩ thì chuyện cũng không phải là đơn giản khi nói đến hạn chế này của Nguyễn Trường Tộ.

2. Nội dung duy tân, cải cách

Trong hệ thống điều trần của Nguyễn Trường Tộ, hai văn bản trực tiếp có nội dung duy tân, cải cách tập trung nhất là: “Bản kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh khoảng 20 – 6 đến 18 – 7 năm 1864” và bản “Tám việc cần làm gấp” (15.11.1867)

Trong “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh”, Nguyễn Trường Tộ đã từ việc tổng kết lại tình hình lịch sử Đông Tây, Đông văn minh trước, Tây văn minh sau, nhưng Tây khôn ngoan vượt lên trên Đông theo quy luật vừa cạnh tranh, vừa học tập, lợi dụng nhau trong sự sống; từ việc nhìn lại lịch sử đất nước hiện đang bị cản trở bởi những người “Cứ viện xưa chống nay nói quấy qúa làm rối loạn việc chính trị, đàm luận xì xào để chia bè lập đảng mà bài bảng triều đình. Họ có biết đâu thời thế đổi thay, có những cái của đời xưa không áp dụng cho đời nay được” Ông để xuất những điều cấp thiết. “Đó là …. các phương pháp làm hạt nổ và đúc súng, đúc kim loại cùng các môn quang học, cơ học, hoá học, khai mỏ than”. Cách đề xuất của Nguyễn Trường Tộ chính là cách xây dựng phát triển cơ sở khoa học kỹ thuật tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, làm giàu đất nước. Đúng là rất hiện đại như ngày nay đất nước đã và đang làm. Cũng từ cách đặt vấn đề một cách hiện đại như thế, ông cho việc làm giàu trước mắt gồm các điều khoản:


Một là khai thác nguồn lợi về biển

Hai là khai thác nguồn lợi về rừng

Ba là khai thác nguồn lợi về đất đai

Bốn là khai thác nguồn lợi về mỏ.

Ở mỗi điểm được nêu lên, ông đều có cách biện giải đến nơi đến chốn dựa trên sự hiểu biết về chuyên môn, về tình hình thế giới và đặc biệt là có tư tưởng lớn. Ví như ở đây, bàn đến chuyện làm giàu, ông đã phản bác lại quan điểm nho gia đang ngự trị lớp người hủ nho trong quan niệm “an bần lạc đạo” (an tâm trước cảnh nghèo để vui với đạo), “Phi thương bất phú, vi phú bất nhân” (không buôn bán thì không giàu. Nhưng đã làm giàu thì không đạo đức). Ông nói: “Về tài lợi nếu như biết khéo thu nhập thì được nhiều mà không ai oán trách thu nhập ấy, đó là nền tảng của nhân nghĩa” (NĐC nhấn mạnh). Nguyễn Trường Tộ chủ trương làm giàu để có lợi cho dân. Ông nói: “Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở đây không có nghĩa là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của cải. Do đó mà nước giàu mà dân cũng giàu”. “Nay nói về việc nước, khi đã có đủ của cải rồi thì lệnh trưng thu của cải trong dân chúng để cung ứng cho việc nước sẽ ngày càng giảm bớt mà sự nghiệp củng cố cho nước mạnh sẽ ngày càng tăng”. Ông vạch ra cho mọi người thấy “Có nhiều lối làm giàu, nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết”. Trong “Tám việc cần làm gấp” để canh tân đất nước, ông nêu lên gồm:

Điều thứ nhất: xin gấp rút sửa đổi việc võ bị

Điều thứ hai: xin hợp tỉnh để giảm bớt số quan lại và khoá sinh

Điều thứ ba: xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ

Điều thứ tư: xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng

Điều thứ năm: điều chỉnh thuế ruộng đất

Điều thứ sáu: sửa đổi lại cương giới

Điều thứ bảy: nắm rõ dân số

Điều thứ tám: Lập viện dục anh và trại tế bần

Mỗi điều cũng lại là một nội dung vừa phong phú vừa đích đáng. Trong đó vẫn có phần xác lập quan điểm, nhận thức làm nền cho các biện pháp cụ thể. Ví như trong điều thứ tư “xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng” thì bắt đầu là việc giới thuyết “học là gì”, tiếp đến là nhận định, phê phán tình hình học thuật đương thời là “từ trẻ đến già, từ trường công đến trường tư đua nhau trau chuốt từng câu hay từng chữ kheó sao mà tệ mạt đến thế. Nếu đem cái công phu đã bỏ tâm trí một đời ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì cũng có thể chống được giặc, Nếu đem cái công lao nửa đời người đã dùng để học thuộc lòng những tên người tên xứ, rập khuôn việc chính trị, nhắc lại những cặn bã, xa xưa của Ngu, Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống Nguyên mà học những việc hiện tại như binh, hình, luật lệ, tài chính, thương mại xây dựng canh nông, dệt và những cái mới khác thì dần dần cũng có thể làm cho nước mạnh dân giàu. Tại sao đến nay vẫn chưa nghe dân chúng khuyên nhau học những cái thực dụng ấy, mà chỉ ưa chuyện kỳ dị xa xưa, bàn bạc những chuyện từ họ Hy Hoàng, còn việc nước, dân tình được mất đều phó mặc cho triều đình. Vậy phải chăng họ tự xem họ như con nít? Không phải lỗi ở họ mà chính ở học thuyết… Nói về học thuyết mà không có đường lối sáng suốt rõ ràng, một phần do ở sách vở và một phần tại triều đình. Tuy nhiên tôi chưa dám nói rõ, sợ có điều quan ngại (Nếu đừng bắt tội mà cho phép nói, tôi sẽ nói rõ).

Đoạn văn này đáng xem là linh hồn, là điều cốt lõi nhất làm nền cho mọi đều nghị cải cách, mọi bộ phận, mọi chi tiết trong bản thiết kế duy tân của Nguyễn Trường Tộ. Ở đây trong điều thứ tư này, Nguyễn Trường Tộ đã đi đến những đề nghị cụ thể gồm các việc thành lập: 1) Khoa nông chính. 2) Khoa thiên văn và khoa Địa lý. 3) Khoa công kỹ nghệ. 4) Khoa luật học. Và “Dùng quốc âm” với quan điểm cơ bản là:

“Không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm, trống rỗng, tập tục sẽ làm thay đổi con người, dù người tốt cũng không tránh khỏi ảnh hưởng, huống gì những hạng dưới, lòng người đã hư hỏng thì khó tìm được người chuộng nghĩa thực tâm sốt sắng việc công.” Rõ là Nguyễn Trường Tộ đã rất gần với quan điểm trong thời đại hôm nay: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội” và “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.

Trong nội dung duy tân, cải cách của Nguyễn Trường Tộ ngoài những điều trên đây còn có rất nhiều vấn đề cụ thể, thuộc các lãnh vực: quân sự, quốc phòng, kinh tế, thương mại, tài chính, thuế khoá, nông nghiệp, tài nguyên, khai mỏ, giáo dục, khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải, hành chính, ngoại giao, cải cách phong tục, tôn giáo… Riêng về tôn giáo, Nguyễn Trường Tộ xứng đáng là một người đẹp đời, đẹp đạo trọn vẹn. Ông chủ trương tự do tôn giáo. Ông đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Ông tìm cách tranh thủ một số linh mục Thiên chúa giáo tham gia công việc khôi phục lãnh thổ của đất nước. Ông thiết tha đoàn kết lương giáo. Và ở ông, ít nhiều cũng hé lên một ý tưởng xây dựng đạo giáo Thiên chúa độc lập của Việt Nam một khi mà ông bày kế thuyết phục Giáo hoàng La mã gọi các giáo sĩ Pháp về nước vì đã thấy có sự phức tạp trong quan hệ giữa các linh mục đó với quyền lợi dân tộc.

*

* *

Bạn đọc kính mến!

Như thế là tôi đã quá dài dòng về Nguyễn Trường Tộ, mặc dù trong thâm tâm và về cảm hứng vẫn còn muốn nói nhiều nữa về ông. Ít ra thì cũng thấy mình bất cập trước những gì mà nhà thiết kế vĩ đại này đã cống hiến cho đất nước ở thời buổi bế tắc, khổ nhục ấy. Trước khi dừng bút, tôi chỉ xin quý vị độc giả thông cảm cho tôi ở bài viết này, chủ đích là muốn tạo ra một cách nghĩ, một cách đánh giá bản thiết kế vĩ đại, rất vĩ đại đó hơn là việc nói lại một cách chi ly, cặn kẽ bản thiết kế. Và cũng xin nói lại: Thật là tiếc, vô cùng tiếc cho đất nước rằng lịch sử quá khắc nghiệt, đã không cho Nguyễn Trường Tộ được làm tiếp vai trò của một tổng công trình sư. Giá gì ông được làm tiếp vai trò đó thì không chừng, đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta thời đó đã trở thành một “Nhật Bản thứ hai”. Chẳng phải có người đã coi Nguyễn Trường Tộ là Y Đằng Bác Văn của Việt Nam đó sao! Nhưng sự sống thật là trớ trêu. Nguyễn Trường Tộ nếu sinh ra trên đất Nhật thì sẽ không chừng sẽ thành Y Đằng Bác Văn. Chứ ở Việt Nam ta thời đó thì cũng chỉ là Nguyễn Trường Tộ. Mà ngay cả Y Đằng Bảo Văn nếu sinh ở Việt Nam thì cũng là Nguyễn Trường Tộ thất bại mà thôi.

Nhân kỷ niệm 180 năm sinh Nguyễn Trường Tộ

Yên Hoà thư trai Mậu Tý, trọng thu

(9. 2008)


Chú thích

(1) Những trích văn trong bài viết này đều lấy từ sách “Nguyễn Trường Tộ: con người - di thảo” của Trương Bá Cần. NXB Thành phố Hồ Chí Minh – 2002.



Lên trang viet studies ngày 2-2-2010