30/7/10

Kiệt Tấn - Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa (2)

Kiệt Tấn
Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa


Sự vật cần ta giải thích?

Sự vật có đó, có thể ngay từ lúc chưa có ta (hoặc chưa có con người) trên đời. Sự vật có đó tự đời nào. Rồi thình lình ta xuất hiện, đối diện, và tìm cách giải thích. Giải thích là tìm cách làm cho đầu óc duy lý chấp nhận. Sự vật có trước. Giải thích đến sau. L’existence précède l’explication. Giả dụ như không có ta và không có giải thích thì sao? Liệu sự vật có biến mất? Liệu sự vật có mất hết "lý do để hiện hữu", mất hết "nghĩa / ý nghĩa"? Nếu Roquentin (Sartre) không xuất hiện trong công viên và đến ngồi trên băng ghế thì cái rễ cây sẽ vĩnh viễn không có lý do để hiện hữu, và sẽ vĩnh viễn không được cái ý thức nào đó ban phát cho một nghĩa / ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình. Rồi thì cái rễ cây sẽ ra sao? Nó có hề hấn gì không? Giả thử như Roquentin có xuất hiện trong công viên, nhưng Roquentin mù mắt, không nhìn thấy cái rễ cây, không đặt vấn đề "lý do hiện hữu", không đặt vấn đề "ý nghĩa" của cái rễ cây, và cũng không "buồn nôn" gì hết thì liệu các "vấn đề" đó nó có tự đặt ra không? Liệu trong đêm khuya, cái rễ cây nó có gác tay lên trán và tự hỏi: "Ta từ đâu đến, đến để làm gì và đi về đâu?" hay không?

Như vậy, tự nó, "vấn đề lý do hiện hữu và ý nghĩa" có một thực thể gì độc lập của riêng mình hay không? Hay nó chỉ là một hoang tưởng được nguỵ tạo bởi một tâm trí cực kỳ dao động, phát xuất từ cái tâm vọng chấp. Một khi cái tâm vọng chấp rồi thì nó vọng hiện, làm xuất hiện các vấn đề. Và những lời nói của ta trong trạng thái đó cũng giống như lời mê sảng của một người đang trải qua một cơn mộng dữ trong lúc mê ngủ. Roquentin đã để cho mình bị cái rễ cây thôi miên, như một người ngó dây thấy rắn, rồi đâm ra loạn tưởng. Trong cơn mộng mê, những cảnh trí ta ngó thấy đều tưởng chừng như có thiệt. Chúng chỉ tan biến khi nào ta đã tỉnh mộng hồi lâu. Có khi rất lâu. Có khi trở thành hoài niệm thương động, hoặc ám ảnh dai dẳng, khó lòng mà dứt tuyệt cho được.

Lấy một cảnh sông núi hùng vĩ nào đó. Nó có đó từ đời kiếp nào. Chợt một bữa đẹp trời nọ, có người đến chiêm ngưỡng và làm thơ để ca tụng. Rồi hôm sau, có kẻ đến thưởng thức và vẽ tranh để diễn tả. Rồi hôm sau nữa, có một người buồn nôn đến đặt vấn đề hiện hữu và buông lời nguyền rủa để thể hiện cái tâm bất ổn của mình. Thơ, tranh, lời nguyền rủa cũng giống như là cái giải thích chủ quan của ta về sự vật vậy thôi. Nó không mắc mớ gì tới sự vật hết ráo. Nó cũng chẳng nói lên được một sự thật nội tại nào của sự vật. Sự vật không cần tới những thứ sản phẩm nhân tạo đó để hiện hữu, hoặc để làm nguyên do, làm lý do, làm nghĩa, làm ý nghĩa, hoặc để làm cái chi chi cho mình hết ráo. Có hay không có gì thì nó cũng vậy thôi: Nó có đó. Lấy trường hợp của Sartre đây. Sartre có cần tới một Đấng nào, hay một ai đó đứng bên ngoài ban cho Sartre một lý do hiện hữu (raison d’être) để có thể hiện hữu? Nếu có, thì tại sao phải là Đấng đó, người đó, và tại sao phải là cái lý do hiện hữu đó? Nếu không có ai ban cho mình một lý do hiện hữu nào hết thì Sartre tính sao? Thế còn cái L’existence précède l’essence của ông, ông để nó ở đâu?

Tuy nhiên, mặc dù diễn giải của ta chỉ có tính cách nguỵ tạo, nhưng cái tâm vọng chấp của ta cũng có thể tác hại tới sự vật và tới ngay cả ta. Chẳng hạn như ta tuyên bố cái cây marronnier "phi lý", nó không có lý do gì để hiện hữu, rồi ta vác búa tới đốn bỏ. Hoặc ta tuyên bố "cuộc đời ta phi lý" rồi ta uống thuốc độc tự tử để phản đối (phản đối ai? phản đối gì?) Hoặc là cầm súng leo lên tháp chuông, rồi bắn đại vào đám đông vì cho rằng "cuộc đời họ phi lý", và hiu hiu tự cho rằng mình đã làm được một hành động vô cớ (acte gratuit). Vô cớ thiệt sao? Thử nghĩ kỹ lại đi. Nếu không mê muội và nghĩ lầm rằng "cuộc đời phi lý" thì liệu cái hành động vô cớ (cố tình mà vô cớ được sao?) nó có xảy ra hay không? Vô cớ hay là vô minh, hoặc mê lầm? Nói tóm, đối với sự vật, diễn giải và giải thích của ta là không thiết yếu, là nguỵ tạo, có thể sai lầm và tác hại.


Tướng không và giả danh

Sartre: "[…] nó (hiện hữu) chỉ vỏn vẹn là hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật." Khi viết như vậy, có phải Sartre đã linh cảm mơ hồ cái tính cách "vô bổ và vô hiệu" của "hiện hữu" (theo chữ của Sartre dùng trong câu này) đối với sự vật? Và khi Sartre kết luận: "[…] nhưng ta không bao giờ có thể diễn dịch được chúng (thể vật hiện hữu)", phải chăng Sartre cũng ngụ ý rằng mọi sự diễn dịch, giải thích, diễn giải đều "vô bổ và vô hiệu", không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật? Tính cách "vô bổ vô hiệu" này cũng có thể áp dụng cho "cái nhìn, cái tên, cái nghĩa, cái ý nghĩa" mà ta ghép lên sự vật. Jean Vioulac: "Rồi khi đó, ý thức sẽ sắp xếp các dữ kiện […] và ban cho tổng hợp đó cái nghĩa "cây"".

Cái nghĩa "cây" (và luôn cả ý nghĩa) không giống như chất bổ mà cây hút được từ trong đất và trở thành thực sự những sớ cây cấu tạo cây marronnier. Cái nghĩa và ý nghĩa không bao giờ nhập thể được vào thân cây như là chất bổ và sớ cây. Nó vĩnh viễn đứng bên ngoài, và sẽ "không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của cái cây (sự vật)", như Sartre đã linh cảm.

Cái nghĩa "cây" ở đây cũng đồng thời là cái tên gọi (nom) của sự vật đã được ý thức hướng tới và chiếu rọi. Tuy nhiên, có gọi cái khối chất hình ống màu nâu ù lì sừng sững trước mặt là cây, là arbre, là tree, hoặc là cái chi chi khác đi nữa thì cũng chẳng ăn nhập gi tới nó hết. Cây, arbre, tree, tất cả đều chỉ là những tên gọi. Không có cái tên gọi nào đúng hơn tên gọi nào. Tất cả đều chỉ là qui ước và đều là giả danh.

Trong Trời đất, muôn pháp vốn có "tướng không" và không có tên gọi (vô danh). Mọi tên gọi, mọi nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người bày đặt ra, vì vậy đều là giả danh, giả ý, giả nghĩa, phát xuất từ cái tâm chia chẻ phân biệt của mình mà nguỵ tạo ra. Chẳng hạn như thoạt tiên trái đất là nguyên một khối liền lạc, mà mọi đất đai đều không có tên. Sau đó con người xuất hiện, chia phe đánh nhau, vạch ra biên giới rồi đặt một cái tên (Việt Nam, Pháp, Anh, Đức…) cho vùng đất nằm trong vòng một biên giới khép kín, trước đây vô danh. Cũng giống như là mua một con chó con rồi đem về đặt cho nó cái tên Mực vậy. Nhưng trong Trời đất, không có vùng nào tự nó có tên là France, không có con thú nào tự nó có tên là chó, là chien, là dog, và cũng không có một con chó nào tự nó có tên là Mực hết. France, chó và Mực đều là giả danh.

Nói "tướng không" là nói sự vật không có hình tướng riêng của mình, chớ không phải là "không có gì hết". Tướng là hình tướng. Diễn rộng ra, nói "tướng không" có thể hiểu là mọi vật, mọi pháp đều không có hình tướng (tướng) riêng, không có bản chất (tánh) riêng, hay một cái gì riêng của nó hết. Chỉ do nhơn duyên tạo tác mà xuất hiện, và đều có tính cách vô thường, không ngừng biến đổi. Bởi lẽ đó nên các pháp đều là giả tướng và giả danh, do cái tâm vọng chấp, chia cắt và nguỵ tạo ra.

Ở đây, qua cái nhìn được thể hiện trong câu hiện hữu chỉ là hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài, Sartre đã thấp thoáng thấy được cái "tướng không" theo nhãn quan của Phật giáo, nhưng vẫn hãy còn chấp có (ngũ uẩn). Trong khi đó, theo nhãn quan của Tâm Kinh thì năm uẩn đều "Không" (Bát nhã). Việc trình bày lập luận và giảng giải Tâm Kinh không nằm trong khuôn khổ bài này.


Khái niệm và cái tháp Eiffel

Jean Vioulac: Sự đóng góp có tính cách quyết định của khái niệm (notion) "ý hướng" (intentionnalité) chính ở chỗ nó chỉ cho thấy rằng các sự vật tự nó không có ý nghĩa (sens), chúng tiếp nhận một ý nghĩa từ một ý thức nhắm vào chúng và quan sát chúng […] Hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần túy ù lì và không nghĩa lý (insignifiante), cái chất bột (pâte) của sự vật có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause) và không lý do (raison) […] Như vậy, ngay từ trong yếu tính (essence) của mình, hữu thể là phi lý (absurde).

"Khái niệm" (và ý niệm) chỉ là một sản phẩm của trí tuệ, tự nó không có thực thể: nó do trí tuệ bày đặt ra, chớ không tự có trong Trời đất. Dựa vào một khái niệm không có thực thể mà tuyên bố là sự vật không ý nghĩa, không nguyên do, không lý do, phi lý, liệu khẳng định đó có vững chắc hay không? Phi lý? Thiệt vậy sao? Bất cứ một sự vật nào, khi nó có đó, thì là nó có lý do để có đó. Điểm này sẽ được khai triển ở mục "nhân quả" và "nhân duyên" thuộc phần HAI của bài. Nói rằng nó không có lý do để hiện hữu, chẳng qua là chỉ để lộ cái dốt nát, cái mê muội của mình mà thôi: "Tôi không biết cái lý do hiện hữu của nó". Cũng giống như một người dân quê ở Việt Nam không biết có cái tháp Eiffel ở bên Pháp, nên đối với cái tâm trí của mình, cái tháp Eiffel không có, mặc dù cái tháp Eiffel quả thiệt có đó. Nhưng cũng có thể là: "Nó có lý do để hiện hữu, nhưng tôi không chấp nhận cái lý do đó". Hoặc đúng hơn: "Tôi không bày đặt ra được một lý do hiện hữu nào cho nó hết". Mà bày đặt là nguỵ tạo.

Nhưng nếu quyết định tìm ra cho bằng được nguyên do và lý do hiện hữu của cái rễ cây thì cũng không khó. Thoạt tiên, có cái hột marron còn sống. (Nếu hỏi "Hột marron nguyên thủy từ đâu đến?" thì xin kiếm Thượng đế hoặc ông Darwin mà hỏi). Kế đến, có người làm vườn ươm cái hột marron, bón phân, tưới nước, nó mọc cao lên khoảng một mét. Kế đến, trong làng lập ra một công viên nên cần có bóng mát. Người làm vườn bèn đem cây marronnier còn non tới trồng ở giữa vườn. Rồi nhờ phân bón, nhờ nắng, nhờ nước… cây non mọc lớn lên thành cây marronnier cao ngất. Cũng như mọi loại cây khác, cây marronnier cần có nhiều rễ lớn để giữ chặt nó xuống đất. Nhưng gần gốc cây thì rễ bò trên mặt đất. Rồi bỗng một hôm có anh chàng Roquentin lần xần bước vô công viên, đến ngồi trên băng ghế, chợt ngó thấy cái rễ cây, rồi thắc mắc, rồi quăng câu hỏi lớn lên không trung: "Sao cái rễ cây nó không có lý do gì để hiện hữu mà nó vẫn ù lì có đó?" Roquentin không tìm được giải đáp, cái rễ cây rớt xuống trúng u đầu người hỏi. Rồi buồn nôn. Rồi ói mửa tới mật xanh, vân vân…

Nguyên do và lý do hiện hữu của cái rễ cây, đối với tất cả những người "bình thường" là như vậy đó. Tại sao? Tại trong thiên nhiên nó như vậy. Rất là bình thường và giản dị. Cái rễ cây nó không cần đến một "lý do hiện hữu" thiêng liêng, siêu nhiên hoặc siêu triết nào đó do Thượng đế, hoặc Thần Brahman, Thần Tháp Rùa, ông Bành Tổ, bà Thánh mẫu, hay một triết gia siêu việt nào đó ban cho mới có quyền hiện hữu hết ráo! Mà cho dù là như vậy đi nữa cũng không phải là giải thích cuối cùng. Nếu hỏi tiếp: "Tại sao nó lại như vậy?" thì trả lời làm sao đây? Làm gì có cái vấn đề nhức đầu "Cái rễ cây nầy từ đâu đến? Đến để làm gì? Rồi đi về đâu?". Nó có nguyên do và lý do để hiện hữu ngay trong sự hiện diện của nó. Vậy thôi. Rất là trần tục. Rất là có hình chớ chẳng có siêu hình gì hết ráo. Đâu có cái chi mà phải rắc rối cuộc đời (một cách lẩm cẩm) như vậy?


Ý thức làm "Xà vương chịu phép"!

Tương tự, nói rằng: "Sự vật tự nó không có ý nghĩa, hữu thể là phi lý", rất có thể là chỉ vì "tôi không bày đặt ra được một ý nghĩa nào cho nó hết". "Ý nghĩa" chỉ là một "ý niệm", một sản phẩm của trí tuệ, không có thực thể, không tự có trong Trời đất – cũng như "khái niệm". Ta có thói quen nghĩ rằng cái gì cũng phải có ý nghĩa để minh chứng cho sự hiện hữu của nó. Ta phải có ý nghĩa. Vợ ta phải có ý nghĩa. Con ta phải có ý nghĩa. Cái ý nghĩa đó phải như thế nào mới xứng với cái tên "ý nghĩa" (AOC ?) Ta cũng bù trất. Tuy nhiên, điều đó cũng không ngăn được ta tiếp tục đòi hỏi: Con chó của ta cũng phải có ý nghĩa. Cục gạch cũng phải có ý nghĩa. Cho tới "rong rêu sỏi đá" gì cũng đều phải có ý nghĩa hết ráo. Bằng không thì "rong rêu sỏi đá" sẽ phi lý buồn nôn. Cái rễ cây cũng bị kẹt luôn. Nếu không muốn mang tiếng là "phi lý" thì cái rễ cây phải nghe lời ta phán: "Cái rễ cây kia! Mày phải có ý nghĩa!" "Nhưng cái ý nghĩa gì vậy đại ca?" Biết cái rễ cây nó phải mặc cái áo "ý nghĩa" như thế nào mới được ta chấp nhận? Chẳng lẽ ta muốn cái rễ cây phải cạo đầu đi tu hay phải đi tìm gặp Thượng đế thì cuộc đời của nó mới có ý nghĩa?

Bởi có bày đặt ra cái ý niệm "ý nghĩa" nên mới nảy sanh ra cái ý niệm "phi lý", phát xuất từ cái tâm đối đãi nhị nguyên của mình. Nói rằng sự vật "tiếp nhận ý nghĩa" nhưng thiệt ra thì không hề có sự tiếp nhận. Chỉ có ý thức muốn dán cái ý nghĩa hư giả do tâm trí của mình bày đặt ra lên sự vật nhưng mà nó không dính (cũng như là ta đổ nước và nước trợt trên lá sen). Vậy thôi. Ý thức (hoặc tâm trí) đã tinh ranh tự biểu diễn cái trò ảo thuật "dán ý nghĩa" với chính mình. Rồi tin thiệt là sự vật quả có thực sự tiếp nhận cái ý nghĩa do mình bày đặt ra. Cũng giống như là vẽ rắn mà thêm chưn. Cái "chưn ý nghĩa" vốn nó rất là trừu tượng nên ta muốn vẽ nó như thế nào đó thì cứ vẽ, miễn là có chưn và cái chưn đó đúng goût của ta là được. Vẽ xong rồi, ta xoa tay khoan khoái tuyên bố là con rắn đã hoan hỉ tiếp nhận những cái chưn mà ta đã vẽ thêm: "Xà vương phen này đã chịu phép!" Nếu không có ta làm phước vẽ thêm cho cái "chưn ý nghĩa" thì Xà vương làm sao có cẳng để mà chạy jogging mỗi buổi sáng? Bởi lẽ đó, ta có thể tuyên bố: "Con rắn không có chưn (cái chưn ý nghĩa!) là con rắn phi chưn (!) ngay từ trong yếu tính của nó". Hoặc giả, trước cái thời điểm (khúc quanh lịch sử!) sự vật (hữu thể) được ý thức phù thuỷ của ta dán cho một ý nghĩa, ta hiên ngang tuyên bố: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó! » Có ai dám nghi ngờ hay phản đối gì không?

Nhưng may mắn thay! Bỗng một phép màu xuất hiện: Trên thinh không thình lình vang lên một tiếng nổ rợp trời. Rồi chợt có một Ý thức tràn đầy từ tâm độ lượng cỡi trên đám mây ngũ sắc chói loà từ từ giáng lâm. Ý thức mở thần nhãn nằm ngay giữa trán cao rộng phóng hào quang chiếu rọi "Hữu thể phi lý" (sỏi đá rong rêu), trong lòng vô cùng thương xót. Đoạn Ý thức nghiêng chiếc hồ lô mầu nhiệm của mình trút ra một Ý nghĩa chói ngời và hỉ xả bố thí cho "Hữu thể phi lý" để làm phước. "Hữu thể phi lý" hoan hỉ quỳ xuống tiếp nhận ý nghĩa, đoạn cúi rạp người đảnh lễ và chắp cả hai tay mình lên trán mà lạy như tế sao. Bèn cất tiếng tán thán để hồi hướng công đức của Ý thức từ bi rối rít. Và kể từ đó "Hữu thể (hết) phi lý" cùng vợ con sống một cuộc đời lai láng tràn trề ý nghĩa, không biết để đâu cho hết! Cái trò ảo thuật này là tuồng ruột của cái tâm phô diễn ngã mạn. "Tự biên tự diễn" một mình từ đầu đến cuối là nghề của chàng. Cái nghề của ý thức!


Ý nghĩa vẽ rắn thêm chưn

Nói "Hữu thể phi lý ngay từ trong yếu tính của nó", điều này không sai, nhưng cũng không đúng. Hữu thể vốn tự nó không có một cái lý riêng hay ý nghĩa riêng nào của nó hết – không giống như mỗi người chúng ta có một trái tim riêng của mình trong lồng ngực. Thường khi, trong đời sống, mỗi người chúng ta đề ra cho mình một mục tiêu để nhắm tới, và gọi nó là ý nghĩa cuộc đời (cho nó le lói?) Đối với một đầu óc duy lý, thì bất cứ việc gì cũng cần phải có một ý nghĩa thì nó mới chấp nhận. Bất luận ý nghĩa nào, miễn phù hợp với cảm quan của chàng là được. Bởi vậy, nếu ý nghĩa đó do chính chàng bày đặt ra thì quá good! Nhưng xét cho kỹ lại thì cuộc đời giống như một quả cầu pha lê trong suốt không màu. Ta sơn lên quả cầu đó một màu chọn theo ý ta, rồi gọi cái màu đó là ý nghĩa đời ta. Biết màu nào mới thực sự là ý nghĩa và thực sự thuộc về bản chất của cuộc đời, không tuỳ thuộc vào phê phán chủ quan của cá nhân? Nhưng tại sao ý nghĩa đó mà không là một ý nghĩa khác? Nếu cho rằng dựa trên những tiêu chuẩn "khách quan" để chọn lựa, thì tại sao lại chọn lựa những tiêu chuẩn đó? Rồi cứ thế mà lòng vòng.

Như đã nói, thường khi ta ban cho đời mình một ý nghĩa cho nó le lói là để tự trấn an. Đó là một nhu cầu tâm lý. Chẳng hạn như ta đặt cái mục tiêu "gặp gỡ Thượng đế" (và xưng hô mày tao với Người?) để cho cuộc đời mình có vẻ "siêu nhiên". Như vậy, cái ý nghĩa minh chứng cho sự hiện diện của ta trên cõi đời này: "Đời tui rất là hữu ích và có mục đích, bởi vì nó có… mục tiêu"! Bèn vỗ ngực mình thùm thụp mà tuyên bố: "Bởi cuộc đời của tui có một ý nghĩa (do tui bày đặt ra) cho nên nó rất là… ý nghĩa"! Ý nghĩa gì? "Ý nghĩa cuộc đời", dĩ nhiên. Nói gọn: "Cuộc đời tui nó rất là có ý nghĩa cuộc đời do tui ban cho!" Logique không chịu được! Hết cãi!

Tuy nhiên, hữu thể "không" có lý riêng, nhưng cũng đồng thời "chẳng phải không" có lý. Vừa "không" vừa "chẳng phải không", đó là cách lập luận của Trung quán luận. Một đầu óc logique theo kiểu tây phương khó lòng mà nắm bắt được cách lập luận này. Sở dĩ ta tuyên bố "hữu thể phi lý" là tại vì ta muốn cho nó có một cái lý riêng nằm sẵn bên trong yếu tính của nó và thuộc về nó (như trái tim của ta thuộc về ta). Nhưng vì ta muốn một điều nghịch lý mà không thể được, nên bèn tuyên bố "hữu thể không có lý (riêng)", và do đó mà hữu thể phi lý!

Cũng giống như con rắn vốn tự nó không có chưn, nhưng cũng chẳng phải (là nó) không có chưn. Nói con rắn có chưn cũng sai, mà nói nó không có chưn cũng không đúng. Bởi lẽ nếu cho rằng đúng thì ta cũng có thể kể ra một loạt: con rắn không có lông, con rắn không có sừng, con rắn không có túi, con rắn không có tóc, vân vân và vân vân… Tuy rằng nó không sai, nhưng mà nói như vậy là nói nhảm. Vì vậy, khi xét kỹ lại, ta sẽ thấy là cái "vấn đề chưn" không đặt ra cho con rắn. Không có gì bắt buộc nó phải có chưn hết ráo. Nó không có chưn là nó không có chưn, vậy thôi. Thí dụ như bất thần có ai đó trách "Tại sao trái xoài nó không có chưn?" Rồi tuyên bố liền tù tì sau đó: "Trái xoài phi chưn là trái xoài phi lý!" Bảo đảm ta sẽ nghĩ thầm: "Cha nội nầy bị chạm dây… là cái chắc!" Tương tự như đối với con rắn, ta cũng có thể phán: "Cái cây nó mù, nhưng cũng chẳng phải là cái cây nó mù. Nó không thấy đường, nhưng cũng chẳng phải là nó không thấy đường. Nó không có mắt, nhưng cũng chẳng phải là nó không có mắt". Cũng bởi lẽ ta quá quen thuộc và nghiện ngập cái logique của mình (mọi con thú đều bắt buộc phải có chưn), nên ta muốn con rắn nó cũng phải có chưn (như mọi con thú khác) thì mới hợp lý, nghĩa là hợp với cái logique của ta. Nhưng vì muốn quái gở như vậy mà không thể được, ta bèn tuyên bố: "Con rắn (không có chưn) là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó". Có chưn là có lý, không chưn là phi lý, giản dị như vậy thôi. Con rắn không có chưn là tại vì sự tiến hoá đã đưa đẩy nó như vậy, chớ không phải tại vì cái lý do "ngẫu nhiên" hoặc vì cái lý do phi lý (phi lý mà lại là lý do!) mà nó không có chưn. Tuyên bố "Con rắn không có chưn (ý nghĩa) là phi lý" cũng giống như phán rằng: "Đồng hồ không người lái là phi lý". Hoặc: "Giữa trời không nở hoa sen là phi lý". Ai phi lý? Có biết đâu ta đã quên rằng chưn rắn – ý nghĩa là cái chuyện hoàn toàn hoang tưởng. Hoang tưởng tới mức phi lý!


Cogito hay "ăn gatô"?

Như vậy, "phi lý" là vấn đề của ta và do ta bày đặt ra, chớ không phải là vấn đề (yếu tính) của con rắn (hay nói chung là của hữu thể). Bởi lẽ đó, tuyên bố rằng "Hữu thể phi lý, hữu thể không có ý nghĩa" thì cũng giống như là tuyên bố "con rùa không có lông, con thỏ không có sừng, con rắn không có chưn, trái xoài không có cẳng"… vậy thôi. Đó chỉ là những niệm khởi trùng trùng của cái tâm mê lầm, chấp trước, cái tâm vọng hiện. Sở dĩ cái tâm nó chấp trước (chấp vào ý nghĩa) nên khiến cho niệm khởi, rồi từ đó mà vấn đề nảy sinh, là để nó chứng minh rằng nó (cái tâm) thường trực có mặt và nó rất là năng động. Giống như một đứa con nít khoái "quậy" để cho mọi người chú ý tới nó. Cái kiểu: "Ta suy tưởng không ngừng, ta không ngừng khám phá ra những vấn đề "nhớn", ta không ngừng quăng những câu hỏi "nhớn" lên không trung (rớt xuống u đầu!) Vậy ta rất là (đỉnh cao) trí tuệ!" Rất là le lói! Rất là nặng phần trình diễn. Đó là cái tâm phô diễn và ngã mạn. Thứ đến, nếu không còn một niệm nào sanh khởi nữa hết thì tâm trí nó cũng bị dập tắt theo. Vì tâm trí lo sợ mình bị diệt nên nó cứ khởi niệm không dứt, cứ trùng trùng niệm khởi để duy trì sự hiện hữu của mình: "Cogito ergo sum!". "Tôi suy nghĩ, vậy tôi có!". Và do đó, để cho đúng với cái logique cartésienne: "Nô cogito thì nô ergo sum". Tuy nhiên, trong đời sống hằng ngày, cho dù có "nô cogito, ta vẫn ergo sum" như thường. Không tin, thử lấy kim nhọn đâm vào đít triết gia đang say ngủ thì biết. Nhưng nghĩ cho cùng thì chỉ có: "Ăn gatô, ergo sum!" là đúng hơn hết và chắc ăn hơn hết. "Đỉnh cao trí tuệ" mà nghe được cái khẳng định phàm tục này chắc chắn sẽ nổi giận đùng đùng, giận bầm gan tím ruột, giận tới mức bỏ ăn. Một cơn thịnh nộ tuyệt đỉnh siêu hình, nhuốm đầy màu sắc triết lý và thông minh, phóng ra bốn phía hào quang ngũ sắc chói loà lấp lánh (… quá cỡ thợ mộc!) Cho nó le lói lói le le lói!

Nãy giờ bàn luận dông dài về ba cái chuyện "ý nghĩa" với lại "phi lý" là bàn về những cái chuyện nguỵ tạo, những cái chuyện lẽ ra không nên có. Thì có khác chi là luận bàn về những cái chuyện không có. Không có mà vẫn bàn. Cũng rất hào hứng giống như là bàn về ba cái chuyện lông rùa sừng thỏ. Rốt cuộc, cũng chỉ là hý luận mà thôi.

Tuy nhiên, vì rùa thỏ vẫn hãy còn đó nên thử bàn thêm chút nữa về cái chuyện không có cho nó rốt ráo. Tuyên bố: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể phi lý, hữu thể không có ý nghĩa". Nhưng một khi đã nói tới những cái mà hữu thể không có rồi thì là nó vô cùng. Chẳng hạn như: "Hữu thể không có màu sắc, không có mùi vị, không có âm thanh, không có hương thơm, không có tình cảm, không có…, không có…, không có…" Biết chừng nào mới kể hết ra cho được những cái mà hữu thể không có? Nếu bây giờ, tuyên bố: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể không có màu sắc, vậy hữu thể phi lý", có ai chấp nhận chăng? Hoặc tuyên bố: "Vì hữu thể không có màu sắc nên nó không sắc màu", tương tự như là đã tuyên bố: "Hữu thể không (tự) có lý nên nó phi lý", hoặc: "Hữu thể không (tự) có ý nghĩa nên nó vô nghĩa"! Quá logique! Không phản bác vào đâu được. Đúng là nói chuyện huề vốn!


Ý niệm và logique của cái lỗ rún

Trở lại cái buồn nôn của Roquentin. Thoạt tiên, cái rễ cây có đó. Nó thực sự hiện hữu đầy đủ trong tất cả cái nghĩa vật chất của nó. Chợt có người tới ngó nó lom lom, rồi chiếu rọi ý thức của mình lên nó. Rồi vì không lý giải được sự hiện hữu của nó nên xao động. Một khi ta bị xao động rồi thì cái tâm ta nó vọng hiện, và do đó mà niệm niệm sanh khởi. Từ đó phát sinh ra cái ý niệm ý nghĩa, rồi kế đến là ý niệm đối nghịch của nó là phi lý theo cái logique nhị nguyên của ta.

Khởi đầu, ý niệm chỉ là một pháp ở dạng thức trừu tượng. Nhưng khi ta bắt đầu khảo sát, suy diễn và thuyết lý về nó rồi thì ý niệm dần dần khoác lên mình nó những lớp thịt da hư giả. Rồi cứ thế mà ý niệm tiếp tục tăng trưởng, cho tới lúc tưởng chừng như nó chuyển sang dạng thức cụ thể và trở thành có thiệt: một thực thể (tưởng chừng như) có "chất bột" rắn chắc không thua gì cái rễ cây. Ý niệm ý nghĩa / phi lý cũng giống như là một cái tin đồn. Cứ đồn riết rồi tin chắc cái chuyện đồn đãi là có thiệt. Hồi Đệ nhị Thế chiến, Hitler nghe theo cái tin đồn là chắc chắn quân Đồng minh thế nào cũng đổ bộ ở Pas-de-Calais nên đã dồn hết quân lực và chiến xa ở địa điểm này để chận đánh. Dè đâu Đồng minh lại đổ bộ ở Normandie! Hậu quả: Hitler đã đại bại và tự tử chết, chết vì một cái tin đồn không có thiệt. Cũng như đã có vô số người đã chết vì một cái ý niệm không đâu, một lý thuyết không tưởng, một chủ nghĩa hoang tưởng sai lầm nào đó. Hoặc cũng giống như một người mắc chứng tâm lý "huyền thoại" (mythomane), cứ đội nón trái ấu, đút tay dưới áo và ngày đêm săm soi bóng mình trong gương, và cuối cùng tin thiệt mình là Nã phá luân đệ nhứt. Rồi ra ngoài xa lộ Biên Hoà kéo quân con nít ở truồng và chiến xa ba bánh cà tàng… đi đánh Nga ở miệt Cà Mau!

Ý niệm trở thành có thiệt cho tới mức đối với một đầu óc duy lý, các ý niệm trừu tượng trở nên còn quan trọng hơn là cái rễ cây cụ thể hiện hữu lù lù trước mặt. Giờ đây, đối với đầu óc duy lý, các ý niệm "ý nghĩa" và "phi lý" đã trở nên còn quan trọng hơn là cái "hữu thể" rễ cây. Trong cách thức biến chuyển và tạo tác của mình, ý niệm cũng giống như là loại dây leo từ từ lớn lên, bò quấn chằng chịt, và cuối cùng siết chết cái thân cây đã khứng chịu làm giàn cho nó leo. Đó là cái cực kỳ nguy hiểm của hý luận và ngụy biện: sự vọng chấp tột bực sẽ đưa tới cuồng tín.

Tự đời đời kiếp, trong Trời đất vạn pháp vốn nó Như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng phải không có nghĩa. Không hề có cái gì thực sự là cái "ý nghĩa" cả. Thực sự trong cái nghĩa "tự nó thực có", tự nó có thực tướng. Ý nghĩa và phi lý chỉ là hoang tưởng, hoàn toàn do ta bày đặt ra, hoàn toàn do ta nguỵ tạo ra.

Như trái đất nó quay, thì nó quay như vậy, chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Như loài khủng long xuất hiện, con khủng long có đó, nó chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Nó xuất hiện rồi nó tuyệt chủng. Như vậy đó, chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Điều đó thuộc về đời sống của Trái đất. Đơn giản vậy thôi. Loài khủng long không tuyệt chủng để cho loài có vú vươn lên. Đó chỉ là do nhơn duyên mà sinh diệt. Nhưng tiến tới Bát nhã thì trong "tướng không" chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt: Vạn pháp chỉ là vô thường. Chẳng có pháp nào sinh ra, chẳng có pháp nào diệt đi. Chỉ có một dòng biến dịch bất tận, vô thủy vô chung. Các pháp cứ thế mà biến hoá lăn trôi hoài hoài.

Và loài có vú vươn lên cũng không phải để cho giống homo xuất hiện. Đó chỉ là cách diễn giải do con người bày đặt ra nhằm hợp lý hoá cái vận hành của Trời đất, sao cho nó phù hợp với cái logique, cái logique của con người dĩ nhiên! Hợp lý hoá để có thể nhờ đó mà ban cho sự vận hành của Trời đất một ý hướng, một dự án, một phương hướng, một mục tiêu, một cứu cánh, để cuối cùng dán cho sự vận hành đó một ý nghĩa (do ta bày đặt ra), một ý nghĩa mà tự nó không hề có (hoặc không bao giờ ai biết được). Trời đất vận hành theo cái lẽ của Trời đất. Cái lẽ này không mắc mớ gì tới cái logique của con người hết ráo. Cũng như một ông già 90 tuổi không thể nào hành động theo cái logique của thằng lỏi 5 tuổi, và lăn ra nằm vạ khi bị trái ý. "Trời chẳng chìu lòng người!", con người thường hay than thở làm như đó là một điều bất hạnh. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là một điều rất tốt đẹp và may mắn cho tất cả muôn loài. Thử tưởng tượng nếu Trời chìu lòng Tần Thủy Hoàng, chìu lòng Hitler, Staline, chìu lòng Pol Pot, Bush con! Ngay cả cái rễ cây nó không mắc mớ gì hết tới cái logique cartésienne hay cái triết thuyết siêu đẳng nào đó của con người. Cái rễ cây nó có cái logique của cái rễ cây. Con người léo nhéo à? Thì "Đi chỗ khác chơi! Hãy xê ra cho người ta mọc! Và chớ có quên bê cái phi lý của ông theo!"

Con người có thói quen đem cái lỗ rún của mình ra mà làm chuẩn cho trăng sao. Và đem cái "đỉnh cao trí tuệ" của mình ra mà đo lường Trời đất. Nhưng than ôi! Cái lỗ rún của con người thì nó méo tứ tung, còn cái trí tuệ của con người thì nó mê lầm không dứt. Trời đất không hề đòi hỏi và cũng không hề cần đến một ý nghĩa nào đó do con người ban phát để vận hành hết ráo. Trời đất vận hành tự đời đời kiếp kiếp, từ lúc chưa có con người (thì lấy ai mà ban phát ý nghĩa?). Con người chỉ mới xuất hiện ở sát na chót cùng của vũ trụ. Không có một hữu thể nào, không có một vật nào, không có một pháp nào cần tới con người (hay ý thức nào đó) ban cho một cái nghĩa, một cái tên, một cái giả danh, một cái lý do hiện hữu, một cái ý nghĩa hiện hữu gì hết ráo!

Nói "sự vật, mọi pháp không hề có ý nghĩa, nhưng cũng chẳng phải vô nghĩa" bởi lẽ "ý nghĩa" chỉ là một ý niệm, một vấn đề do con người nguỵ tạo ra. Chớ chẳng phải là sự vật, mọi pháp nó vô nghĩa, nó phi lý, hay là nó vô cái chi chi, nó phi cái chi chi hết ráo. "Ý nghĩa" và "phi lý" là những ý niệm do con người nguỵ tạo ra như là một cái "tiểu xảo" (như những ký hiệu toán học trong một phương trình), nhằm để chứng minh một điều gì đó mà mình cho là hợp lý, là đúng. Hoặc chỉ đơn giản vì bởi Trí tuệ (đỉnh cao!) nó muốn biểu diễn cái trò "ban phát ý nghĩa / phi lý", như một Đấng "Thượng đế bỏ túi". Cho nó le lói với Trời đất. Le lói với đời sống. Le lói với thiên hạ. Vậy thôi! Khi dùng ý thức của mình để từ chối ban phát ý nghĩa hoặc lý do hiện hữu cho một sự vật nào đó là "Thượng đế bỏ túi" đã sử dụng quyền năng siêu nhiên của mình để mà "hư vô hoá" (néantisation, chữ của Sartre) sự vật(!) Tuy nhiên, mặc dù đã bị hư vô hoá, nhưng nếu chẳng may sự vật từ trên không trung rớt xuống trúng cái "đỉnh cao trí tuệ" thì bảo đảm và hiển nhiên Thượng đế bỏ túi sẽ vẫn bị u đầu hay bị lủng túi như thường!


Ngẫu nhiên mà ông Christophe…

Một sự vật, khi nó có đó rồi, là nó có lý do để có đó. Sự kiện “nó có đó” là một bằng chứng hùng hồn. Cái “nó có thể không có đó” chỉ là một giả thuyết và là chuyện đã qua. Cái “nó có đó” là một thực tại và là chuyện bây giờ. Trước khi nó có đó thì sự xuất hiện của nó có tính cách xác suất (probable), may rủi. Nhưng một khi “nó có đó rồi” thì sự hiện hữu của nó là một điều hiển nhiên (évidence), không thể nào khác hơn được: nó không thể nào không có đó, nó có lý do để có đó, và giờ đây nó đã thực sự có đó, không có cách gì phủ nhận được hết, và cũng không có vấn đề chọn lựa hay tự do chối bỏ ở đây. Có nhắm mắt lại thì nó vẫn còn đó. Mở mắt ra lại thấy nó có đó.

Chẳng hạn như khi xưa Christophe Colomb lên đường đi tìm xứ Ấn Độ. Nhưng vì dụng cụ định hướng thời đó không chính xác và thô sơ nên đoàn thuyền thám hiểm của ông có thể lạc tới bất cứ nơi nào. Tuy nhiên, một khi ông đã đặt chưn lên Mỹ châu rồi thì đó là một sự kiện lịch sử và là một điều hiển nhiên: khi phân tích lại lộ trình, điều kiện thời tiết, giông bão, trăng sao… ta có thể biết được vì nguyên do nào và vì lý do nào (mặc dù không do chính ông chọn lựa) mà cuộc thám hiểm trên đại dương đã đưa đẩy đoàn thuyền của ông tới châu Mỹ thay vì Ấn Độ. Tuyên bố rằng sự hiện diện của Christophe Colomb tại châu Mỹ không có nguyên do và không có lý do là một khẳng định hàm hồ và nguỵ biện. Nó chẳng khác gì cái lập luận: “Một buổi sáng nọ Christophe Colomb từ trên giường ngủ bước xuống, và đùng một cái, ông đặt chưn lên châu Mỹ”. Không! Chẳng có cái gì là ảo thuật. Chẳng có cái gì là “khi không” hết ráo. Ông đã lên đường. Và ông đã tìm kiếm. Ông có nguyên do để có đó! Ông có lý do để có đó! Cho dù có phản bác rằng nguyên do này và lý do này là ngẫu nhiên thì cũng chỉ là cãi cọ nhau về ba cái từ ngữ và ý niệm mà thôi (cái trò vọc giỡn và quăng bắt chữ nghĩa).

Chung chung, ngẫu nhiên có nghĩa là tình cờ, may rủi. Ngẫu nhiên là cái cách thức (mode), là cái “như thế nào” (comment) của sự xuất hiện của nguyên do và lý do. Hỏi: “Nó xuất hiện như thế nào?” Đáp: “Nó xuất hiện một cách ngẫu nhiên”. Ngẫu nhiên có nghĩa là không đoán trước, không định trước được. Nó chẳng có ý nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa hoặc phi lý và cũng không hàm ý là “không có lý do”. Ngẫu nhiên chỉ là một cách thức, chẳng hạn con chim nó bay bằng cách đập cánh. Ngẫu nhiên chẳng những không làm thay đổi hoặc phủ nhận, mà trái lại chính nó đã đưa tới sự kiện: “Lần đầu tiên Christophe Colomb đã đặt chưn lên châu Mỹ vào giờ đó, ngày đó, tháng đó, năm đó. Và sự kiện này có nguyên do và lý do của nó. Nguyên do: thám hiểm. Lý do: đi lạc”. Mọi bàn luận chỉ là diễn giải, có thể đúng, có thể sai, hoặc cả hai. Nhưng chắc một điều: nó không cần thiết cho sự kiện. Sự kiện có trước. Giải thích đến sau. Mà không đến cũng được, cũng chẳng có trăng sao gì hết.


Sự vật đã có đó rồi thì sao?

Một khi sự vật đã có đó rồi thì những giả thuyết bày đặt ra về sự không hiện hữu, về những cái “lẽ ra…” của sự hiện hữu của nó chỉ là vọng tưởng. Một sự vật, khi nó có đó rồi, thì nó “hiển nhiên”: tự nó là lý do hiện hữu cho chính nó. Tự nó là giải thích cho chính nó. Tự nó là sự thật cho chính nó. Mọi tranh luận xung quanh, mọi bàn cãi xung quanh, mọi lý thuyết được dựng ra xung quanh cái chuyện “không có lý do hiện hữu” của nó chỉ là hý luận. Bàn chơi cho vui. Thuyết chơi cho vui. Vậy thôi.

Bất cứ vật nào, một khi đã có đó rồi, thì ta không có cách nào khác hơn được là phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Đó là thái độ “biết điều” nhứt. Chấp nhận theo cái nghĩa là phải nhìn nhận. Bởi lẽ ta không có cách nào phủ nhận được sự hiện hữu của nó, cho dù ta có nại cái lý do là “nó không có lý do nào để hiện hữu” – theo cách suy diễn của ta, theo cái logique của ta, dĩ nhiên. Nại cái lý do như vậy là nguỵ biện. Là vọng chấp. Là ngã mạn. Có buồn nôn tới mật xanh, có vò đầu bứt tóc tơi bời hoa lá, hoặc có bày đặt ra một luận cứ rất là “siêu việt”, hay một luận thuyết rất là “siêu triết” nào đó để phản bác hoặc để chối bỏ thì cũng chỉ là tự biểu lộ cái tâm chấp trước, cái tâm ôm giữ, cái tâm ngã mạn, cái tâm vọng động của mình mà thôi. Chớ sự vật, nó tuyệt nhiên bất động. Cái rễ cây nó có đó, nó nằm đó, và nó sẽ vẫn tiếp tục nằm đó, bất động. Tuy bất động, nhưng nó vẫn không hề ngưng biến dịch trong cái lẽ vô thường.

Bây giờ thử đặt vấn đề ngược lại. Hôm đó Roquentin lần xần bước vô công viên và đến ngồi trên băng ghế. Rồi vân vân… Chợt có một người lần xần thứ hai bước vô công viên, dùng ý thức chiếu rọi Roquentin, thấy anh ta chỉ là “chất bột” ù lì, mềm nhão, không có lý do gì để hiện hữu. Rồi buồn nôn và tuyên bố: “Cái anh chàng ngồi kia là phi lý!” Liệu cái tuyên bố này có khiến cho Roquentin trở thành phi lý vĩnh viễn? Hoặc hết lần xần? Hay là không hề hấn gì? Và cũng chẳng hay biết gì hết.

Giả dụ như thay vì xảy ra trong công viên, cảnh đó xảy ra ở tiệm Café de Flore. Anh chàng lần xần nọ bước vô tiệm café, ngắm nghía Sartre ngồi nhâm nhi café nóng, hút ống vố, mũi dí vào sách. Hồi lâu, thấy Sartre chỉ là “chất bột” ù lì ngớ ngẩn, không có lý do hiện hữu (raison d’être), và sự hiện hữu của Sartre cũng chẳng có nghĩa lý gì hết ráo. Bèn tuyên bố lớn tiếng cho hết mọi người trong tiệm café nghe rõ: “Hữu thể Sartre là phi lý!” Liệu Sartre sẽ phản ứng ra sao? Sẽ ngợi khen rối rít cái “ý thức sáng suốt”? Hay là sẽ lập tức phản đối liền tù tì: “Sao? Cái đồ nhảm nhí! Ông là triết gia đây mà lại không có lý do hiện hữu à? Ông đây mà lại là phi lý à?”

Bởi các lẽ đó, khi xét kỹ lại, nếu ta có đặt vấn đề nguyên do và lý do hiện hữu, hoặc vấn đề ý nghĩa hiện hữu của cái rễ cây thì vấn đề đó là cái vấn đề của ta, chớ không phải là vấn đề (yếu tính) của cái rễ cây: cái rễ cây nó không có vấn đề hiện hữu hay bất cứ một vấn đề gì hết ráo. Từ mấy trăm triệu năm nay, từ lúc con người chưa xuất hiện trên trái đất này, dòng họ “rễ cây” nó vẫn mọc như vậy, và nó vẫn ù lì như vậy. Sự thể: Con người chỉ mới xuất hiện từ 5 triệu năm nay. Rồi mãi cho tới đầu thế kỷ 20 này, chợt có một người lần xần bước vô công viên, rồi tình cờ tới ngồi trên băng ghế bắc bên trên cái rễ cây, rồi xao động, rồi buồn nôn, rồi bày đặt ra vấn đề hiện hữu của cái rễ cây. Và tiếp theo đó, dùng ý thức ảo thuật của mình mà dán lên cái rễ cây một ý nghĩa, rồi hô toáng lên là cái rễ cây đã tiếp nhận ý nghĩa của mình ban cho (nhưng thiệt ra thì cái ý nghĩa đó nó không dính và chỉ là lớp sơn hoa hoè bên ngoài). Rồi khóc thét, rồi tuyên bố là “Cái rễ cây nó phi lý”! Hết! Cái sự thể đó nó không ăn nhập gì tới cái rễ cây, và nó cũng không hề hấn gì tới cái rễ cây hết ráo. Cái người lần xần đó cũng giống như một người đang lo sợ, lúc chạng vạng đi vào một bến tàu. Anh ta nhìn thấy những sợi dây luộc ngổn ngang, nhưng vì tâm trí mình đang dao động nên cứ đinh ninh đó là những con rắn độc, rồi hoảng hốt la hét bỏ chạy. Và kể từ đó, cứ tin chắc là cái bến tàu vốn nó đầy rắn độc – tương tự như cái người lần xần tin chắc rằng “cái rễ cây phi lý ngay từ trong yếu tính của nó” vậy.

Nói rộng ra, cho dù là cái rễ cây hay bất luận một sự vật nào khác, bất luận một pháp nào khác, bất cứ một hữu thể nào khác, thì cũng vậy thôi. Cái vấn đề có chăng là ở chỗ thường khi chính ta đã bày đặt ra vấn đề. Chính ta đã nguỵ tạo ra vấn đề. Bởi lẽ chính cái tâm của ta đã vọng chấp. Bởi lẽ chính cái tâm của ta đã vọng hiện. Và cũng vì lẽ đó mà niệm niệm sanh khởi. Trí tuệ hay cái tâm của ta là một nhà ảo thuật chuyên môn vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa. Gần cuối cuộc đời mình, Sartre cũng đã phần nào ý thức ra được mình là nạn nhân của chữ nghĩa khi viết Les Mots. Ý niệm và chữ nghĩa đối với trí tuệ cũng giống như là những ký hiệu toán học đối với Einstein hoặc Poincaré và những nhà toán học khác. Chúng chỉ là những ký hiệu không có thực thể, không tự có trong Trời đất. Nếu cần, trí tuệ sẽ dùng nguỵ biện để tráo trở chữ nghĩa, và dùng hý luận để bẻ cong ý niệm hầu mê hoặc ta. Một khi ta bị nó mê hoặc rồi, ta sẽ trở thành cuồng tín và lôi kéo kẻ khác vào tròng cho nó mê hoặc theo. Và tin rằng “hữu thể là phi lý”!


Từ chơn không tới hiện hữu

Hiện hữu là một lễ hội, một cuộc vui. Hay ít ra cũng là buồn vui, sướng khổ lẫn lộn. Bởi lẽ đó, khi khám phá ra hiện hữu, lẽ ra ta phải thú vị và vui mừng chớ sao lại buồn nôn và rùng mình ớn lạnh? Có phải vì bởi vọng chấp, vì bởi mê lầm, ta ngỡ ngó thấy phi lý và hư vô lấp ló đằng sau hiện hữu? Tuyên bố rằng hiện hữu, rằng hữu thể là phi lý, phải chăng là ngụ ý rằng lẽ ra hiện hữu, lẽ ra hữu thể không đưọc (quyền) có đó thì mới hữu lý, thì mới hợp lý. Nhưng cái lý ở đây là “cái lý” gì? Và tại sao phải là “cái lý” như vậy mới là hợp lý? Đã nói “hiện hữu”, đã nói “hữu thể”, mà lại cho rằng lẽ ra nó “đừng có đó”, như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao? Nhưng nếu không có hiện hữu, không có hữu thể thì đâu còn gì nữa để mà bàn, mà luận. Hơn nữa lại là bàn luận cái thuyết về sự hiện hữu?

Jean Vioulac: Ngẫu nhiên là tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu. Nhưng nếu nó không hiện hữu thì làm sao biết được nó là cái gì để mà nói, mà bàn, mà thuyết, mà luận? Luận về cái “không hiện hữu”, luận về cái “không có”, phỏng đặng chăng? Vậy mà vẫn luận, thì luận ra làm sao? Chẳng lẽ cái “không hiện hữu” là nền tảng của luận thuyết về cái “có hiện hữu”. Cái đó, kinh Phật gọi là hý luận. Luận chơi cho vui vậy thôi. Luận chơi cho đỡ buồn vậy thôi. Cũng giống như là hý luận dông dài về ba cái chuyện sừng thỏ lông rùa, rễ mù cây điếc, chó gáy gà sủa, cánh khỉ vảy heo. Hay là hý luận về một cái chuyện hoang tưởng hoa hoè nào khác đó phát xuất từ cái tâm chấp trước vọng hiện của mình mà ra.

Trong khoa thiên văn, thuyết Big Bang cho rằng thoạt tiên có cái vụ nổ (khủng bố?) ban đầu. Rồi kế đó vật chất bị năng lượng của chơn không thúc đẩy tràn ra muôn hướng trở thành vũ trụ. Đó là thuyết lấy cái CÓ làm khởi điểm. Cần lưu ý là chơn không tuy rằng không có vật chất mà vẫn có năng lượng. Tuy nhiên, trong khoa thiên văn và vật lý hiện đại, giờ đây có thêm hai thuyết mới về sự sáng tạo của vật chất và vũ trụ lấy cái không làm khởi điểm – nhưng có lẽ không bao giờ chứng minh được một cách cụ thể. Một thuyết cho rằng khởi đầu, trong chơn không (vide) có những sợi dây (cordes) phi vật chất cực nhỏ, không bao giờ có thể thấy được (không tướng?). Không rõ vì lẽ gì, những sợi dây này chợt rung động (vibrations), và tuỳ theo tần số (fréquence) mà phát sinh ra mọi chất trong vũ trụ, cũng giống như sợi dây đờn rung theo 7 tần số khác nhau mà phát ra 7 âm đô, rê, mi, fa, sol, la, si. Vì vậy mà có thể ví vũ trụ như là một hợp tấu khúc vĩ đại. Các sợi dây cấu trúc này có thể là một dạng thức của năng lượng, vì năng lượng có thể biến thành vật chất và ngược lại. Các vật chất do dây “không tướng” tạo ra hợp lại tạo thành thiên thể, trăng sao, ngân hà, vũ trụ. Thuyết kia cho rằng khởi đầu chỉ có chơn không (vide). Rồi không rõ vì lẽ gì bỗng nhiên chơn không chợt dao động (fluctuations) “Maria hỡi ! Linh hồn con ớn lạnh!”, và làm nảy sinh ra nhiều vũ trụ khác nhau. Lạ lùng thay! Có một sự trùng hợp hi hữu: Ngay từ nguyên thủy, trong kinh Phật đã có thuyết “chơn không diệu hữu”: Từ trong chơn không, khi hội đủ nhơn duyên, sẽ xuất hiện những sắc tướng, rồi từ đó mà vạn pháp tương tạo lẫn nhau. Và cũng bởi đó mà chúng sanh trùng trùng duyên khởi, không hề ngừng nghỉ một sát na nào. Vô thủy vô chung. Bất tận…


Ý chính

Tóm lược các ý chính trong phần MỘT:

Tuyên bố sự vật không có nguyên do và lý do hiện hữu là một khẳng định hàm hồ và độc đoán.
Bởi cái tâm dao động, vọng chấp và vọng hiện nên nó làm xuất hiện các vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý"
Đối với sự vật, diễn giải và giải thích của ta là không thiết yếu, nguỵ tạo, có thể sai lầm và tác hại.
Bởi cái tâm phô diễn vốn nó "tự biên, tự diễn" nên nó bày đặt ra các vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý" để được tự diễn giải lấy một mình như một trò múa rối.
Cái tâm cứ khởi niệm không dứt là để duy trì sự hiện hữu của mình: Cogito ergo sum!
Trong Trời đất, vạn pháp vốn nó Như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa. Ý nghĩa và phi lý phát xuất từ cái tâm trí nhị nguyên của con người.
Ý nghĩa của đời sống, chính là đời sống. Lẽ sống của sống, chính là sống. Lý do để hiện hữu, chính là hiện hữu.
Sự vật vốn tự nó hiển nhiên: Nó là lý do hiện hữu của chính nó, nó là sự thật cho chính nó.
Trí tuệ là một nhà ảo thuật, chuyên môn vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa.
Khi ta đặt cái vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý" đối với sự vật, thì đó là vấn đề của ta, chớ không phải là vấn đề của sự vật.
Từ chơn không, khi hội đủ nhơn duyên, sẽ xuất hiện các sắc tướng. Và chúng sanh trùng trùng duyên khởi.

Xem tiếp bài 2 : Ngẫu nhiên - Tất định / Nhân duyên – nhân quả

Bagnolet, ngoại ô Paris

Tháng Sáu 2008

© 2008 talawas

Kiệt Tấn - Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa (1)

Kiệt Tấn
Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa


"Je comprenais la Nausée, je la possédais."
Sartre

"Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng"
Bát nhã Tâm Kinh



A. Dẫn nhập

L’existentialisme, Thuyết hiện sinh của Sartre là triết thuyết rất thịnh hành trong thập niên 1960. Buồn nôn, phi lý là thái độ rất thường thấy trong giới trí thức trẻ vào thời kỳ này. Lúc đó, người viết mới vào lứa tuổi 20 nên không rõ Thuyết hiện sinh là cái gì cho lắm. Bây giờ, hơn 40 năm sau mới có dịp trở lại tìm hiểu cái hiện tượng “buồn nôn, phi lý”, “rong rêu sỏi đá” của các bậc đàn anh mình thời trước.


Rồi buồn nôn chợt đến

[…] Như vậy, khi nãy tôi ở trong công viên. Rễ cây marronnier lặn sâu trong đất, ngay dưới băng ghế tôi ngồi. Tôi không còn nhớ ra đó là một cái rễ cây. Các từ ngữ đã tan biến, và cùng tan biến theo nó ý nghĩa của sự vật, cách sử dụng chúng, những dấu ghi mờ nhạt mà người ta đã vạch trên mặt chúng. Tôi ngồi, người hơi cong, đầu cúi, một mình đối diện với khối vật đen đúa và gút mắc, hoàn toàn thô thiển và nó làm tôi sợ. Và rồi trong tôi chợt bừng sáng. Điều đó khiến tôi ngộp thở. Trước những ngày gần đây, chưa bao giờ tôi linh cảm "hiện hữu" muốn nói lên điều gì. Nếu có ai đó hỏi tôi hiện hữu là gì, có lẽ tôi sẽ trả lời một cách thành thật rằng nó chẳng là gì cả, nó chỉ vỏn vẹn là một hình thể trống rỗng (forme vide) ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật. Và rồi thế đó; bất thình lình, nó có đó, sáng trưng như ban ngày: hiện hữu thình lình được vén màn. Nó đã đánh mất cái dáng vấp vô hại của thể loại trừu tượng: chính nó là cái chất bột (pâte) của sự vật, cái rễ cây này được nhồi nặn trong chất hiện hữu. Hoặc đúng hơn, cái rễ cây, hàng rào của khu vườn, băng ghế, loại cỏ mọc lơ thơ trên thảm cỏ, tất cả đều tan biến; cái đa dạng (diversité) của sự vật, tính cá biệt (individualité) của chúng chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, một lớp sơn. Lớp sơn đã tan chảy, chỉ còn lại những khối chất (masses) quái dị và mềm nhão, hỗn độn – trần truồng, một sự trần truồng kinh khiếp và tục tĩu (obscène).

[…] Khoảnh khắc đó thật là phi thường. Tôi ngồi đó, bất động và lạnh cóng, đắm chìm trong một nỗi tê mê khủng khiếp. Nhưng, ngay trong lòng tê mê đó, một điều mới tinh khôi vừa chợt xuất hiện: tôi hiểu sự Buồn nôn, tôi mang nó trong người. Nói đúng ra thì tôi không tự diễn đạt các khám phá của mình. Nhưng tôi tin rằng, giờ đây, rất dễ cho tôi dựng chúng lên thành chữ. Điều cốt lõi là tính ngẫu nhiên (contingence). Tôi muốn nói, theo định nghĩa, hiện hữu không phải là điều tất định (nécessité). Hiện hữu là có đó, giản dị như vậy thôi; các thể vật hiện hữu (existants) xuất hiện, chúng để cho ta gặp gỡ, nhưng không bao giờ ta có thể diễn dịch (déduire) được chúng. (Trích La Nausée, J.P. Sartre, Gallimard xuất bản 1938)

Sartre (Jean-Paul Sartre / JPS) nổi tiếng là người có lối viết triết học vô cùng bí hiểm và tối tăm. Tác phẩm nền tảng của triết thuyết hiện sinh, L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) không có mấy ai đọc nổi và thấu triệt được hết những gì mà Sartre muốn thuyết giảng. Chẳng hạn như câu Sartre viết như sau về ý thức: "La conscience est un être pour lequel il est dans son être question de son être en tant que cet être implique un être autre que lui." (Cái gì être? Và être cái gì? Giống như là viết truyện trinh thám. Bí mật hoàn toàn). Theo sự hiểu biết thô thiển của người viết thì đại ý của câu nói "hoả mù" đó là: "Ý thức là ý thức về một cái gì đó khác hơn mình." Và cái ý này là của Husserl. Có thể là đã hoàn toàn hiểu sai ý của Sartre. (Nói khó hiểu thì bị người khác hiểu sai là điều… dễ hiểu). Có người đã diễu cợt: "Triết lý là gì ? Triết lý là nói thật rắc rối về những điều rất là giản dị." Có dụng ý gì trong cái "rắc rối" (cuộc đời) đó chăng?

Bởi lẽ đó, trước khi trình bày quan điểm của mình, người viết thấy cần lược dịch bài diễn giải bản văn trên của JPS, do Jean Vioulac (JV), một giáo sư và học giả am tường triết học Tây phương viết ra, để làm sáng tỏ những điều mà Sartre muốn diễn đạt.


Hữu thể trong trạng thái thô thiển (état brut)

La Nausée (Buồn nôn) mà Sartre viết ra trong đầu những năm 1930 vẫn còn là một trong những ví dụ thành công nhứt của thể loại "tiểu thuyết triết lý". Quyển sách được trình bày như là nhựt ký thân thiết của một người trai trẻ, Antoine Roquentin. Nó dựa trên một phần lớn đời sống của Sartre ở Le Havre, nơi mà ông được bổ nhiệm làm giáo sư trung học sau khi được nhận vào cấp thạc sĩ triết học.

Qua hành động viết lách, Roquentin cố thử tìm hiểu cái cảm giác bất ổn lan man đang làm cho mình khắc khoải, cái mà anh ta gọi là "buồn nôn". Trích đoạn trên là giải đáp cho sự bí ẩn, khoảnh khắc mà Roquentin chợt hiểu buồn nôn là gì: một kinh nghiệm hiện sinh, qua đó cái sự thật của hữu thể hiển lộ. thì ra buồn nôn là một kinh nghiệm của hữu thể trong trạng thái thô thiển (état brut), nơi đó con người đối đầu với thế giới mà không có sự trợ giúp của các điểm chuẩn (repères) quen thuộc, những chữ (mots) hoặc nghĩa (significations). Sự đóng góp có tính cách quyết định của khái niệm "ý hướng" (intentionnalité) chính ở chỗ nó chỉ cho thấy rằng các sự vật tự nó không có ý nghĩa (sens), chúng tiếp nhận một ý nghĩa từ một ý thức (conscience) nhắm vào chúng và quan sát chúng.

Như vậy, đối với một người đi dạo ngồi trong công viên, không có một cái cây nào tự nó, một cái cây bằng chính nó và bởi chính nó, và nó được người ngồi đón nhận y như vậy: thoạt tiên có một mớ dữ kiện thô thiển, những màu sắc và hình thể tiến đến với ý thức trong một luồng (flux) liên tục và không phân biệt, giữa những dữ kiện khác cũng không phân biệt như nhau. Rồi khi đó, ý thức sẽ sắp xếp các dữ kiện, phân biệt màu xanh lục của tàng lá với nền xanh lơ của bầu trời, nhưng lại nối liền nó với màu nâu sậm của thân cây và ban cho tổng hợp đó cái nghĩa (sens) "cây". [(NDT) sens: nghĩa, ý nghĩa].

Lúc đó, buồn nôn (nausée) chính là cái kinh nghiệm qua đó ý thức không thêm gì hết, không áp đặt một ý nghĩa (sens) nào hết lên thế giới, và chỉ bằng lòng đón nhận: kinh nghiệm đó cho thấy rằng hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần túy ù lì (massive) và không nghĩa lý (insignifiante), cái "chất bột" (pâte) của sự vật có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause), không lý do (raison).

Sartre định nghĩa cái đặc tánh (caractéristique) căn bản đó của hữu thể là "ngẫu nhiên" (contingence). Nó xuất phát từ tiếng la-tinh contingencia, sự "tình cờ" (hasard). Cái ý niệm triết học của "ngẫu nhiên" đối chọi với ý niệm "tất định" (nécessité): ngẫu nhiên là tất cả những gì cũng có thể khác hơn cái nó đang là (autrement qu’il n’est), tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu (raison d’être). Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý (absurde), và chính đó là kết luận của Roquentin trong La Nausée (Buồn nôn): "Khi nãy, tôi đã làm một kinh nghiệm về tuyệt đối (absolu): tuyệt đối hoặc phi lý". [(NDT) Absurde: phi lý, vô nghĩa]

L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) hoàn toàn đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa hai vùng của hữu thể triệt để đối nghịch nhau, vùng của "être pour soi" (hữu thể cho nó, quy ngã) nghĩa là vùng của ý thức, và vùng "être en soi" (hữu thể tự nó, tự ngã) vốn là cái chất bột ù lì và phi lý mà ta chỉ có thể chứng kiến sự hiện diện của nó. Sartre ý niệm hoá như thế, cái điều mà buồn nôn là kinh nghiệm trực tiếp. (Jean Vioulac - trích Le Point HS. n° 17-2008)

Trích đoạn của Sartre và bài viết trên của Jean Vioulac xác định những từ ngữ thông thường và triết học sẽ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài viết này: buồn nôn, chất bột, hình thể, khối chất, thô thiển, lớp sơn, có đó, hiện diện, hiện hữu, hữu thể, hư vô, ý thức, bản chất, ngẫu nhiên, tất định, ý hướng, phi lý, ý niệm, en soi, pour soi…

Đó là những từ ngữ và ý niệm khá phổ thông trong triết học tây phương. Bài viết này cố thử làm một cuộc đối chiếu các quan niệm và ý niệm của triết học tây phương với các quan niệm và tư tưởng đông phương. Đúng hơn là với giáo lý của đạo Phật. Và chính xác hơn nữa là với những luận thuyết được đưa ra trong Ma ha Bát nhã Ba la mật đa Tâm Kinh, gọi tắt là Tâm Kinh. Để cho việc đối chiếu được dễ dàng và mạch lạc, trước hết xin dẫn lại dưới đây một vài trích đoạn bằng Hán văn của Tâm Kinh, sẽ được bàn tới trong bài này.


Bát nhã Tâm Kinh

Quán tự tại bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức […]; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới […] vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc.

Đối với các vị đã làu thông kinh Phật, người viết xin lãnh ý, không dám lạm bàn. Đối với các vị chưa có dịp làm quen với Phật pháp, quý vị có thể tìm hiểu Tâm Kinh qua những kinh sách bày biện trong các chùa hay trong các web sites về Phật giáo. Tuy nhiên, để cho người đọc bình thường có thể theo dõi việc đối chiếu và lý luận, người viết xin trình bày thêm bản dịch từ chữ Hán sang chữ Việt của Sa môn Thích Thiện Hoa, và tóm lược các khái niệm căn bản trong giáo lý nhà Phật liên hệ tới Tâm Kinh:

Ngài Quán tự tại Bồ tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát nhã rồi, ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát nhã) nên không còn các khổ.

Ngài gọi ông Xá lợi tử dạy rằng: "Này Xá lợi tử! Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" (Bát nhã), "không" chẳng khác với năm uẩn; năm uẩn tức là "không", "không" tức là năm uẩn.

Này Xá lợi tử! "Tướng không" (Bát nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát nhã) này, không có năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức […]; không có nhãn thức, cũng không có ý thức […] Không có "Trí" tu chứng và cũng không có đạo quả để chứng đắc.".

Giải thích các từ ngữ:

Bát nhã: Trung Hoa phiên âm chữ Phạn Prajnà, có thể dùng tạm nghĩa Trí huệ (có chỗ dùng Trí tuệ). Tiếng Anh gọi là Wisdom, tiếng Đức là Weisheit, tiếng Pháp là Sagesse.

Sắc, tức là Sắc uẩn: Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những hình tướng, như thân thể và cảnh vật…

Tinh thần: gồm 4 uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Cộng với "sắc" thành ngũ uẩn.

Thọ, tức là Thọ uẩn: Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh ra lãnh thọ (khổ, vui, buồn…)

Tưởng, tức là Tưởng uẩn: Tưởng là tưởng nhớ hình tượng của các cảnh.

Hành, tức là Hành uẩn: Hành là sự thay đổi, biến chuyển của tâm niệm.

Thức, tức là Thức uẩn: Thức là hiểu biết phân biệt.

Pháp: chỉ chung cho tất cả sự vật: tinh thần, vật chất, hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi, thánh, phàm, vân vân… Chẳng những bàn ghế là pháp, cho đến hư không cũng là pháp. Bóng trong gương, trăng dưới nước là pháp, mà lông rùa, sừng thỏ cũng là pháp, cho đến tư tưởng tâm niệm cũng là pháp. Phàm những cái gì, tự nó giữ được cái bản chất của nó, làm cho người ta biết được nó là cái gì, thì đều gọi là pháp.

Niệm: nghĩa là ý tưởng, ý nghĩ. Chánh niệm là nghĩ đúng. Vọng niệm là nghĩ sai, hoang tưởng.

Tướng: tướng của các pháp thì có hình tướng

Tánh: tánh của các pháp thì không có hình tướng

Sắc bất dị không, không bất dị sắc: Tướng của các pháp chẳng khác với Tánh của các pháp. Tánh của các pháp chẳng khác với Tướng của các pháp.

Sắc tức thị không, không tức thị sắc: Tướng của các pháp tức là Tánh của các pháp. Tánh của các pháp tức là Tướng của các pháp.

Nhãn thức: cái biết của mắt, phân biệt các cảnh sắc.

Ý thức: cái biết của ý, phân biệt các pháp trần (cảnh nội tâm)

Tướng không (Bát nhã): trong Bát nhã chơn không, không có các pháp thế gian, cũng không có các pháp xuất thế gian. Trong Bát nhã Tâm Kinh, sau rốt cũng không có quả vị Phật. Tóm lại, là "không có Đặng cái gì hết cả".

Cái không trong tướng không (không tướng) đây không phải là hư không, ngoan không hay là cái không đối đãi với cái có. Cũng không phải thủ tiêu hết các vật hữu hình mà nói là không. Và cũng không phải là cái không của Tiểu thừa (Thiên không).

Cái không đây tức là bản tánh thanh tịnh (bản tánh không), vì không có các hình tướng nên gọi là không tướng (tướng không). Vì nó không sanh diệt, không hư dối nên cũng được gọi là chơn không, hay thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như, vân vân…

Tóm lại Tánh của các pháp là "chơn tâm thanh tịnh sáng suốt" không có các hình tướng nên gọi là không tướng, hay Bát nhã chơn không.

Bát nhã Tâm Kinh: nội dung của bài kinh Bát nhã (gồm 260 chữ) mô tả về Có và Không, về Không và Có. Người nào nhận thức được rằng sự hiện hữu này là không thường còn (vô thường), không bất biến, luôn luôn thay đổi, thì đó là cái nhìn của Bát nhã.


Khuôn khổ bàn luận

Đã có rất nhiều bộ sách khảo cứu, tham luận được viết ra để diễn giải, giải thích và minh chứng Bát nhã Tâm Kinh. Bài viết này không có tham vọng lặp lại công việc đó. Tuy nhiên, nếu không có công việc tham luận và diễn giải thì khó lòng mà lãnh hội được Tâm Kinh. Đó là chướng ngại không thể nào tránh được. Bởi lẽ, đối với một người được đào tạo trong truyền thống tây phương, rất khó mà thấu triệt được và chấp nhận cái lý luận có vẻ đầy mâu thuẫn và bí hiểm của Tâm Kinh. Dù biết vậy, nhưng người viết cũng sẽ cố gắng hết sức mình để cho bài viết được mạch lạc, cũng như lập luận và dùng chữ sao cho một người bình thường cũng có thể theo dõi và hiểu được. Do đó sẽ không tránh được các đoạn dài dòng và lặp lại, hầu cho lý luận ở đoạn đó được liên tục và dễ lãnh hội. Các ý chính thường khi xen kẽ nhau, không thể nào tách rời minh bạch được, thành thử phải nhắc lại. Bài viết sẽ sử dụng nhiều ví dụ và ẩn dụ cụ thể để diễn đạt các ý niệm trừu tượng, hầu cho việc tiếp nhận các ý niệm và các lập luận được dễ dàng.

Trước tiên, người viết sẽ duyệt qua các quan điểm của Sartre và diễn giải của Jean Vioulac trong hai trích đoạn dẫn ở đầu bài. Sau đó, sẽ đem các điểm này đối chiếu với khoa học, đồng thời cũng đối chiếu với Tâm Kinh và nhãn quan của Phật giáo. Trong lúc đối chiếu, người viết sẽ đóng góp ý kiến và phát biểu quan điểm của riêng mình. Quan điểm nào cũng chỉ là một quan điểm. Nó có thể đúng, có thể sai, như mọi quan điểm khác. Nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với quan điểm của người đọc. Nó có thể được thảo luận thêm, bổ túc thêm, hoặc phản bác toàn bộ.

Cũng cần minh định là bài viết này chỉ giới hạn trong nội dung của trích đoạn La Nausée của Sartre và bài diễn giải của Jean Vioulac về quan niệm triết học của Sartre. Người viết không có tham vọng, và cũng không có đủ kiến thức để bàn về triết thuyết mà Sartre đề ra trong L’Être et le Néant. Người viết cũng không tập trung bài viết vào sự thuyết giảng giáo lý nhà Phật, bởi lẽ đó không phải là mục đích của bài viết này. Bài viết này không có tính cách khảo cứu chuyên môn. Vì vậy, sẽ có những sơ hở và thiếu sót không tránh được. Bài viết được phân làm 3 tiết mục chính. Người đọc có thể tìm hiểu thêm các đề tài thảo luận qua những sách vở chuyên khoa.

Bàn luận là bàn luận trên quan điểm. Sartre và Jean Vioulac chỉ là những cái tên được nêu ra để làm qui chiếu, chớ không phải để nhắm vào. Bàn luận quan điểm. Không đả kích cá nhân. Tuy nhiên…


MỘT: Lý do hiện hữu – Ý nghĩa – Phi lý / Vọng chấp – Hý luận

Đi vào vấn đề

Sartre: Hiện hữu là có đó, giản dị như vậy thôi; các thể vật hiện hữu xuất hiện, chúng để cho ta gặp gỡ, nhưng không bao giờ ta diễn dịch được chúng.

Đoạn văn cho thấy, khi bất ngờ đối diện với sự vật, công việc đầu tiên của Sartre là cố gắng diễn dịch sự hiện hữu của nó. Bởi có cố gắng diễn dịch nên mới thấy rằng nó không thể nào diễn dịch được. Diễn dịch là nỗ lực nhằm diễn giải, giải thích. "Hiện hữu là có đó". Đây là một ghi nhận, không phải là giải thích. Nhưng vì nguyên do gì và lý do gì mà thình lình sự vật xuất hiện và có đó? Nó không có đó không được sao? Đâu có gì bắt buộc nó nhứt thiết phải có đó. Vậy mà nó vẫn ngang nhiên có đó, ù lì, câm nín. Không tìm được giải thích, Sartre ớn lạnh. Và buồn nôn.

Jean Vioulac: Kinh nghiệm đó cho thấy rằng hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần tuý ù lì và không nghĩa lý, cái "chất bột" của sự vật nó có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause), và không lý do (raison) […] Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý (absurde).

Khi đặt vấn đề nguyên do và lý do là ta muốn giải thích cái hiện hữu của sự vật: "Nó từ đâu đến? Đến để làm gì? Và đi về đâu?" Đại để là như vậy. Những câu hỏi muôn đời. Và mỗi người đáp một cách.

Trước hết, cần minh định một điều: Khi đặt câu hỏi, khi đặt vấn đề mà không có giải đáp, có thể là đã đặt sai câu hỏi, hoặc đã ngụy tạo ra vấn đề ngay từ đầu. Triết học và siêu hình có rất nhiều vấn đề ngụy tạo. Chẳng hạn hỏi: "Tại sao (vũ trụ) khởi đầu lại có một cái gì, thay vì không có gì hết?" Đáp: "Phải có một cái gì để cho ông mới có chuyện để mà hỏi!" Cũng giống như “To be or not to be, that’s the question”, thay vì “that’s not the question”. Phải “to be” thì ông mới có “question” chớ.

“Từ đâu đến?” Theo Thiên Chúa: “Con người đến từ cát bụi, và trở về với cát bụi.” Theo đạo Phật: “Con người lẩn quẩn trong luân hồi.” Hỏi: “Cái rễ cây này từ đâu đến?” Nó đến từ hạt mầm của cây. Hỏi: “Sartre từ đâu đến?” Sartre đến từ bụng mẹ. Nếu cứ hỏi tiếp và phăng ngược trở về nguồn, trở về khởi điểm, thì ta sẽ gặp cái “Big Bang”, một trong những thuyết về sự sáng tạo của vũ trụ. Đây là một giải đáp về nguyên do của hiện hữu.

“Đến để làm gì?” Đó là chất vấn về cái lý do hiện hữu (raison d’être) của sự vật. “Cái rễ cây có đó để làm gì? Sartre có đó để làm gì?” Đó là chất vấn về cái “lẽ sống”, cái ý nghĩa của hiện hữu. Nếu có ai đó cắc cớ hỏi Sartre: “Sartre có mặt trên đời này để làm gì? Cái lẽ sống, cái lý do hiện hữu của ông là như thế nào?” Chắc chắn Sartre sẽ nhíu mày và quắc mắt: “Từ từ đã nào. Chuyện đâu còn có đó. Anh phải để cho tôi sống hết cuộc đời của tôi đã, rồi mới biết tôi hiện hữu để làm gì, mới biết cái lý do hiện hữu của tôi là cái gì chớ.” Bởi lẽ đó, cái lý do để hiện hữu đầu tiên và trước tiên chính là hiện hữu chớ chẳng là gì khác. “L’existence précède l’essence”, Sartre cũng không nói gì khác hơn. Hỏi “Để làm gì?”, hỏi lý do hiện hữu là đặt cái cày trước con trâu! Ta thường tìm kiếm một cái gì bên ngoài hiện hữu để giải thích, để minh chứng, để ban ý nghĩa cho hiện hữu. Theo quan điểm của người viết: “Ý nghĩa của đời sống, chính là đời sống. Lẽ sống của “sống”, chính là sống. Cái lý do để hiện hữu chính là hiện hữu.”

Khi hỏi “Đến để làm gì?” và ban cho hiện hữu một ý nghĩa, thiết tưởng cái điều này chỉ có chính đương sự mới trả lời cho hiện hữu của mình được mà thôi. Còn như nếu trông mong vào tôn giáo, thì phải chờ đợi cho đến lúc cuộc đời ta hoàn toàn kết thúc, phải đợi đến phán xét cuối cùng của Thượng đế mới biết được. Khi đi từ cái rễ cây không lý giải được mà sang đến cái kết luận phổ quát: “Hữu thể là phi lý ngay từ trong yếu tính của nó”, Roquentin đã kết luận một cách hấp tấp, chủ quan, và cường điệu. Roquentin không phải là Thượng đế. Sartre cũng vậy.

“Đi về đâu?” Quo vadis? Cái thắc mắc và giải đáp cho thắc mắc này thuộc lãnh vực tôn giáo và siêu hình, xin miễn bàn. Một điều chắc chắn: Cuối cùng, mọi người đều đi về nghĩa địa, hoặc là giàn hoả. Không bàn chuyện siêu hình. Ở đây chỉ bàn những chuyện có hình. Dù biết rằng cái hình tướng đó chỉ là giả tướng. Có bàn, càng bàn, càng thấy nó là giả tướng.


Khoa học nói gì?

“Hữu thể có đó, không nguyên do, không lý do.” Tranh luận trong lãnh vực trừu tượng là tranh luận bất tận, và rất thường khi, lúc tạm kết, không thể nhứt quyết là ai có lý, và ai thắng ai bại rõ rệt như hai đội túc cầu trong một trận đá bóng. Bởi lẽ đó, trước hết nên bàn cãi trong lãnh vực cụ thể: khoa học. Đối với khoa học thì khi một vật có đó, là nó có nguyên do và lý do để có đó. Có điều là trong khả năng hiện tại (dụng cụ quan sát, đo lường, phương pháp khảo sát…), đôi khi ta chưa giải thích được, chưa biết được vì lý do nào mà nó có đó. Ta chưa giải thích được tại sao (pourquoi?), và như thế nào (comment?) mà nó có đó. Cái “như thế nào” còn mong có ngày biết được. Còn cái “tại sao” có lẽ ta sẽ không biết được bao giờ. Nhưng cái sự kiện ta không biết không có nghĩa là nó không có. Bằng chứng hiển nhiên: sự vật có đó. Vậy thì giải thích làm sao đây? Đáp: “Chưa giải thích được!” Và tạm đặt tên cho nó là bí ẩn (énigmes). Trong trời đất, trong cõi người, có những bí ẩn từ hàng trăm hàng ngàn năm nay, cho tới giờ vẫn còn là bí ẩn. Người ta gọi là bí ẩn chớ không gọi là phi lý. Kiên nhẫn thì gọi là bí ẩn. Hấp tấp thì la lên phi lý! Nếu tuyên bố vội vàng "Hữu thể là phi lý", thì cũng không có thể kiên nhẫn mà nhủ thầm "Hữu thể là bí ẩn". Cũng đâu có sao.

Những tình trạng "chưa giải thích được" này cũng không hiếm trong hai lãnh vực thiên văn và vật lý. Thiên văn: Trong vũ trụ người ta quan sát được những thiên thể và những hiện tượng mà tạm thời không lý giải được với những thuyết hiện có (thuyết tương đối, nhiệt động, điện từ, cơ khí lượng tử…). Vật lý: Có những hạt tử và hiện tượng nguyên tử mà khoa học, tuy rằng đã quan sát được, nhưng chưa hiểu được nguyên do và lý do xuất hiện của nó. Ngược lại, cũng có những vật chất, tuy rằng trên lý thuyết nó có, nhưng mà ta vẫn chưa quan sát được, như vật chất đen (matière noire), phản vật chất (antimatière)… Tuy nhiên, trong tinh thần khoa học thì không có gì có thể là ex nihilo, nghĩa là từ hư vô mà xuất hiện.

Nhân nói về vật chất, chính vật lý là khoa chuyên nghiên cứu về vật chất, hiện nay cũng không biết vật chất là cái quái gì hết. Hỏi các nhà vật lý đã đoạt giải Nobel: "Vật chất là gì?", các nhà bác học trứ danh này cũng ú ớ luôn. Vật chất là những hạt tử nhỏ li ti? Hay là một làn sóng? Hay là năng lượng cô đọng lại? Hay chỉ là một ảo tưởng do nhiều hiện tượng (nhiều nhân duyên) trong Trời Đất hiệp lại mà tạo ra? Một cái maya, một cái ảo tưởng, nói theo Phật ngữ. Hơn nữa, chính cái "sự thật khoa học" xưa nay được coi như là vững chắc nhứt, bây giờ cũng trở thành nghi vấn. Bởi lẽ các thuyết khoa học cũng đã "trợt vỏ chuối" nhiều phen. Trở lại cái rễ cây của Roquentin, tới khoa học cũng còn chưa biết nó là cái quái gì, mà bây giờ Sartre lại nói về cái bản chất, cái yếu tính và phán rằng "nó không có lý do để hiện hữu" thì quả thiệt là… phiêu lưu văn nghệ (hay triết lý? hoặc siêu hình?). Cái có hình còn chưa biết được, ở đó mà…

Hư vô (néant) khác với chơn không (vide). Hư vô (theo nghĩa của Sartre?) là cõi không còn gì hết, đi vào đó là biến mất tuyệt đối, "tiêu tùng" vĩnh viễn. Còn chơn không (phần nào hiểu theo nghĩa Phật giáo và Lão tử) là cõi không có giới hạn và cũng không có gì, vật chất lẫn không vật chất, nhưng lại có tiềm năng tái tạo hiện hữu (chơn không diệu hữu). Tiềm năng của chơn không nó vô biên. Một bằng chứng cụ thể: chơn không chứa được hết muôn vật, muôn loài, muôn pháp. Theo nghĩa này thì chơn không là "Mẹ của tất cả". Thí dụ: không có chơn không thì lấy gì mà chứa đựng vũ trụ? Lấy đất mà chứa sắt, phỏng đặng chăng? Ngay cả cho rằng quặng sắt "nằm trong" lòng đất đi nữa (thiệt ra thì sắt và đất trộn lẫn nhau, hoặc nằm cận kề bên nhau), thì lấy một chất khác (như không khí) mà chứa thì lại hỏi tiếp: "rồi lấy gì mà chứa?" rồi lại vân vân… vân vân…

Ngay cả Đấng Sáng tạo là Người (?) đã tạo ra vũ trụ (và muôn loài), nhưng thử hỏi Đấng Sáng tạo đứng ở đâu để mà tạo tác? Chẳng lẽ Thượng đế "vô gia cư"? Nếu cho rằng chính Đấng Sáng tạo đã tạo ra chơn không, thì cái chuyện này ai cũng có thể khoanh tay mà làm được. Mà thôi, bàn cái chuyện nầy chỉ là hý luận. "Bất khả tư nghì". Không thể nghĩ bàn.


Cho xem cái "lý do hiện hữu"!

Giờ đây, hãy rời lãnh vực "cụ thể" để đi vào lãnh vực "trừu tượng". Trước hết, tuyên bố "Hữu thể có đó là "ngẫu nhiên", do đó nó không có lý do để hiện hữu" là cướp đoạt ngay từ đầu quyền hiện hữu, quyền sống của hữu thể. Là ngăn chận ngay từ đầu, không cho nó thực hiện các dự tính qua đó nó chứng minh lý do hiện hữu của nó. Tuyên bố như vậy là mù quáng, ngớ ngẩn và độc đoán. Tuyên bố như vậy là tự phong cho mình làm một thứ "Thượng đế bỏ túi", một bạo chúa tự tung tự tác hoàn toàn trong hoang tưởng. Nó cũng giống như chận đầu một đứa nhỏ trước cổng trường, đốt bỏ cặp sách của nó rồi tuyên bố: "Học vấn là "ngẫu nhiên", không có lý do hiện hữu, hoàn toàn phi lý!" Đó là ngăn chặn ngay từ đầu không cho đứa nhỏ học hỏi trước khi ra đời và thể hiện học vấn của mình qua đời sống thực tiễn. Tất cả chỉ vì cái hoang tưởng bày đặt và nằm ở trong đầu của "Thượng đế bỏ túi"!

Kế đến ta lại tuyên bố "Hữu thể không nghĩa lý, không nguyên do, không lý do, phi lý". Đó là những phán xét mang nặng cảm tính và chủ quan. Sự vật có đó. Nhưng ta lại tuyên bố "nó không có nguyên do gì, và cũng không có lý do gì để có đó". Có thể hiểu là "lẽ ra nó không được (phép?) có đó". Nhưng nó vẫn lù lù có đó. Hai điều này nghịch lý. Chỉ một bên có thể đúng mà thôi. Vậy thì bên nào đúng? Cho dù sự vật không hề lên tiếng, nhưng sự hiện diện của nó là một bằng chứng hùng hồn và hiển nhiên cho cái lý do hiện hữu của nó. Nó bất cần cái lý do mà ta ban cho hoặc không ban cho nó. "Ông tuyên bố tôi không có lý do để hiện hữu, nhưng tôi vẫn hiện hữu, ông làm gì được tôi? Ông là ai mà đòi tước đoạt quyền hiện hữu của tôi? Ông là Thượng đế chăng?"

Nếu tuyên bố "nó không có lý do để hiện hữu", thì thử hỏi ngược lại: "Sao dám chắc là nó không có lý do để hiện hữu? Cái lý do nào bắt buộc nó không được (quyền) hiện hữu? Nhân danh gì mà tước đoạt quyền hiện hữu của nó?" Nhân danh một cái tín ngưỡng siêu nhiên? Hay một cái triết thuyết siêu đẳng nào đó? Liệu có thể minh chứng được hành động "phủ nhận" hiện hữu của một sự vật, một khi nó đã có đó chăng? Và liệu có thể trả lời những nghi vấn vừa đặt ra chăng? Hay chỉ đáp ngớ ngẩn rằng: "Tại vì tôi (chủ quan) cho rằng nó không có nguyên do và lý do hiện hữu. Không có gì phải chứng minh hết. Thế thôi!"? Bởi lẽ đó, tuyên bố sự vật không có nguyên do và lý do hiện hữu là một khẳng định hàm hồ và độc đoán. Tuyên bố như vậy là "không có lý do" gì vững chắc.

Giờ đây cái rễ cây nó có đó rồi. Bỗng nhiên ta tuyên bố: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó!" Rồi chỉ tay vào mặt cái rễ cây mà quát lớn: "Này! Cái rễ cây lạng quạng kia! Mày là ngẫu nhiên! Mày không có lý do gì để hiện hữu. Mày là hữu thể phi lý! Vậy đừng có láng cháng ở đây. Đi chỗ khác chơi!" Được chăng? Nhưng cho dù cái rễ cây nó có riu ríu tuân lịnh đại ca mà đi chỗ khác chơi đi nữa, thì khi di tản, nó cũng bê sự hiện hữu của nó theo. Có phủ nhận cái lý do hiện hữu của nó cũng chỉ là ngớ ngẩn và vô ích. Tuy nhiên, nếu vì cái đầu óc duy lý của mình mà đòi hỏi (mà xét giấy) cái rễ cây phải trình cái lý do (giấy tờ) hiện hữu của mình thì xin hỏi lại cho rõ: "Cái lý do nầy là do ai cấp phát, và của ai chế tạo? Của Thượng đế? Của Descartes? Của Karl Marx? Hay là do Sartre chế biến và độc quyền? Ai mới là người có thẩm quyền (và tại sao có thẩm quyền?) cấp phát lý do hiện hữu? Tại sao cấp phát? Và tại sao lại cấp phát cái lý do hiện hữu đó mà không là một lý do nào khác"? Trả lới được chăng?

Bởi lẽ đó, một khi sự vật đã có đó rồi thì chính sự vật tự khẳng định một cách hùng hồn cái lý do hiện hữu của nó: Nó hiển nhiên. Nó sờ sờ ra đó. Tuy nhiên, có lẽ vì cái nguyên do và lý do hiện hữu "thực sự và tối hậu" của nó vốn quá "bí ẩn", không thể nào diễn tả được bằng ngôn ngữ con người, cho nên ta mới mờ mịt không thể nào thấu rõ được đó thôi. Vả lại, nghĩ cho cùng, nó cũng đâu có cần gì tới một cái "lý do hiện hữu" le lói do một "đỉnh cao trí tuệ" nào đó ban phát mới có thể, có quyền và được phép hiện hữu. Không lẽ nó tự ý hiện hữu trước, rồi mới làm đơn xin cái lý do hiện hữu sau, để hợp thức hoá sự có mặt của mình? Cái rễ cây có đó! Như vậy là được lắm rồi. Và tự nó, cũng là đủ lắm rồi. Chớ có vẽ rắn thêm chưn, cho dù là 1.000 cái chưn tràn trề ý nghĩa, và lai láng lý do đi nữa. Chẳng có cái vấn đề "lý do / không lý do", cũng chẳng có cái vấn đề "ý nghĩa / phi lý" lộn xộn rườm rà rắc rối gì hết ráo. Cái rễ cây có đó. Có chịu hay không chịu gì thì cũng phải rán mà chịu. Ở đó mà "lẽ ra…" (lẽ vô) cũng vô ích. Nó có đó. Vậy thôi. Chấm. Và hết.

(Còn 1 kì)

14.7.2008

© 2008 talawas

Trịnh Lữ - Góp chuyện "quái trạng"

Trịnh Lữ
Góp chuyện "quái trạng"

Vào ngày 17.10.2008, talawas đăng bài viết của ông Hoàng Ngọc-Tuấn phê bình tiểu luận mang đầu đề "Góp chuyện Hậu hiện đại" của tôi mà ông Tuấn đã đọc trên Tia Sáng ngày 02.10.2008.

Theo tôi, phê bình của ông Tuấn có hai phần chính. Phần thứ nhất mang tính thuần túy học thuật, đơn giản và dễ hiểu: tôi đã sai khi nói rằng từ "Hậu hiện đại" (postmodern) "xuất hiện lần đầu" trong cuốn La Condition Postmoderne của Jean-Francois Lyotard. Phần thứ hai phức tạp hơn một chút. Nó liên quan đến cá nhân tôi nói riêng, và xã hội Việt Nam đương thời nói chung. Cụ thể, ông Tuấn cho rằng "chỉ có những cậu học trò trung học lười biếng, ẩu tả" thì mới viết như tôi, và tôi "chỉ nghe lóm hay chỉ nhìn thấy cái bìa sách" của Lyotard nhưng vẫn "tự tin tuyệt đối vào cái biết hạn hẹp đến kỳ quái của mình", để rồi "hiên ngang phun châu nhả ngọc" với một giọng điệu "đầy thẩm quyền". Mục tiêu phê phán của ông Tuấn còn bao gồm cả ông Hoàng Ngọc Hiến, và đại từ "các ông" trong đoạn văn sau của ông Tuấn có sở chỉ là tôi và ông Hiến: "Với cái mớ kiến thức như các ông, mà các ông dám nói thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang về lịch sử và sự phát triển của mỹ học 'hậu hiện đại’ thì quả là một quái trạng văn hoá không thể tưởng tượng nổi." Theo ông Tuấn, sở dĩ cái "quái trạng văn hóa" này tồn tại được là do xã hội Việt Nam đương thời là một xã hội còn "quá lạc hậu về mọi phương diện", và vì vậy nên "chẳng mấy ai dám nghi ngờ hai ông nổi tiếng [...]." Đó là hai phần chính trong phê bình của ông Tuấn. Sau khi talawas đăng bài của ông Tuấn, đã có một số ý kiến khác xuất hiện liên quan đến chủ đề này, và có khả năng cuộc tranh luận sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới.

Tôi xin đóng góp vài lời ngắn vào tranh luận này. Thứ nhất, tôi trân trọng cái nguyên tắc mà ông Tuấn tuân theo khi phê bình tôi, đó là lên tiếng phản đối một cách thẳng thắn khi thấy người khác nói sai. Thứ hai, tôi đồng ý với ông Tuấn rằng Lyotard không phải là người đầu tiên dùng từ postmodern, và cám ơn ông đã bỏ thời gian tìm và chia sẻ rất nhiều ví dụ thú vị để chứng minh điều này. Khi tôi viết, tôi có trong đầu cái ý của Gary Aylesworth: "The term 'postmodernism' first entered the philosophical lexicon in 1979, with the publication of The Postmodern Condition by Jean-François Lyotard." [1] Câu hỏi ai đã thực sự dùng từ 'postmodern' đầu tiên, không hiểu sao, không hiện ra trong đầu tôi lúc đó. Qua góp ý của ông Tuấn, tôi xin sửa câu văn của tôi từ (A) thành (B). Tôi in đậm chỗ có thay đổi.


(A) Từ "hậu hiện đại" (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard và được ông định nghĩa ở đó là "thái độ hoài nghi đối với mọi lý giải lớn."

(B) Từ "hậu hiện đại" (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard với định nghĩa là "thái độ hoài nghi đối với mọi lý giải lớn."


Đó là tất cả những gì tôi nói để trả lời phần thứ nhất trong phê bình của ông Tuấn. Về phần thứ hai, có lẽ thông tin quan yếu nhất mà tôi có thể đưa ra ở đây là Tia Sáng đã cắt mất đoạn mở đầu trong bài của tôi. Nó như sau.


"Hậu hiện đại là một khái niệm đã được phân tích và bàn luận nhiều đến mức sự cần thiết của bất cứ một bài viết nào nữa về nó đều nên bị nghi ngờ, nhất là khi người viết là một kẻ hoàn toàn nghiệp dư về triết học như tôi. Vậy nên tôi xin nhấn mạnh rằng động từ 'góp chuyện’ trong đầu đề bài này nên được hiểu một cách toàn vẹn, với tất cả những hàm ý về sự nông cạn và vô thưởng vô phạt đi cùng với nó, và tôi cũng xin chân thành cảm ơn trước tất cả những ai giúp tôi nhìn ra những thiếu sót và sai lầm không tránh khỏi của mình trong những dòng ngắn ngủi dưới đây."


Tôi mở đầu bài của mình như vậy vì tôi không hề muốn giảng dạy cái gì cho ai. Tôi muốn góp chuyện và học hỏi, không muốn "hiên ngang phun châu nhả ngọc" với một giọng điệu "đầy thẩm quyền", như ông Tuấn nói. Tôi rất lấy làm tiếc vì ông Tuấn đã không hiểu tôi trong điểm này. Về phần tôi, tôi cũng phải công nhận là tôi không hiểu ông Tuấn khi ông bảo tôi "thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang" về Hậu hiện đại. Bài của tôi rất ngắn, chưa đầy ba trang, và độ ngắn của nó cũng là cái mang lại cho cuộc tranh luận này một yếu tố hài hước nhất định: bài phê bình của ông Tuấn dài gấp ba lần cái bài mà nó phê bình, tức cái bài mà tác giả của nó bị ông kết tội "thao thao bất tuyệt".

Có thể khi ông Tuấn bảo tôi "tự tin tuyệt đối", ý ông là ngay việc một người như tôi "dám" góp chuyện về hậu hiện đại cũng đã là một "quái trạng văn hóa" rồi, và chỉ ở một nước "lạc hậu về mọi mặt" như Việt Nam mới có thể xảy ra những quái trạng như vậy. Tôi công nhận rằng giả sử có một hội thảo về Vật lý tại Hà Nội, và tôi được ban tổ chức rủ viết vài dòng đóng góp ý kiến, thì đó sẽ là một quái trạng văn hóa. Nhưng ta có thể yên tâm là cái quái trạng này sẽ không bao giờ xảy ra ở Việt Nam, và nó không xảy ra không phải vì Việt Nam đỡ lạc hậu hơn trong khía cạnh này, mà chẳng qua là vì Vật lý không phải Hậu hiện đại. Thật vậy, chỉ cần nhìn việc một nhà nghiên cứu Hậu hiện đại có tầm cỡ như ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã bỏ công viết mười trang giấy để quát tôi vì tôi quên không google xem ai nói postmodern trước ai, là ta cũng đủ thấy rằng Hậu hiện đại và Vật lý khác xa nhau lắm. Để kết luận, tôi xin nói rằng phải, tôi dám góp chuyện về Hậu hiện đại vì tôi thấy nó không phải là Vật lý, và tôi nghĩ không chỉ tôi, không chỉ ông Tuấn, mà còn nhiều, rất nhiều người khác nữa, có thể vui vẻ "góp chuyện Hậu hiện đại" mà không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới.

© 2008 talawas



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Trích từ mục “postmodernism” trong Standford Encyclopedia of Philosophy.

Hoàng Ngọc-Tuấn -Một quái trạng văn hoá

Lý luận phê bình văn học

17.10.2008

Hoàng Ngọc-Tuấn
Một quái trạng văn hoá

Đọc internet, tình cờ thấy trên báo Tia Sáng ngày 2/10/2008 có một bài viết dưới nhan đề là “Góp chuyện hậu hiện đại“, tôi vào xem cho biết, thì vô cùng kinh ngạc, vì ngay câu đầu tiên của bài viết đã sai đến ngớ ngẩn như thế này:


Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...


Câu tuyên bố (với giọng khẳng định như sách giáo khoa tiểu học, dứt khoát, ngắn gọn, không hề “có lẽ” hay “có thể” gì cả) này là do ai viết mà khủng khiếp đến thế? Tôi tự hỏi, và tôi kéo con chuột xuống cuối bài để xem, thì mới biết tác giả là Trịnh Lữ, và tôi càng thấy kinh ngạc khi bài viết này lại là một bài tham luận đọc tại Hội thảo Khoa học “Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá” do Viện Mỹ thuật và trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội tổ chức vào cuối tháng 9/2008.

Cái điều sai khủng khiếp này khiến tôi nhớ lại một cái điều sai khác, còn khủng khiếp hơn nữa, vừa xảy ra cách đây vài tháng. Trong Hội thảo “Lý luận Văn học Việt Nam thế kỷ XX” tổ chức ngày 7/6/2008 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông Hoàng Ngọc Hiến đọc bài tham luận “Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại”. (Sau đó, bài tham luận ấy được đăng lại trên tạp chí Sông Hương ngày 16/7/2008.) Trong bài tham luận ấy, ông Hoàng Ngọc Hiến, cũng với thái độ đầy thẩm quyền, dứt khoát, không hề “có lẽ” hay “có thể” gì cả, khẳng định:


Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại của Charles Djenks.


Như thế, ông Trịnh Lữ cho rằng Jean-Francois Lyotard đã đẻ ra từ “postmodern” vào năm 1979 trong cuốn La Condition Postmoderne; còn ông Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng ông Charles Djenks [khổ quá, tên của người ta là Charles JENCKS, thưa ông Hoàng Ngọc Hiến!] đã đẻ ra từ “postmodernism” vào năm 1977 trong cuốn Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại [khổ quá, cuốn sách của người ta là Ngôn ngữ kiến trúc HẬU hiện đại, The Language of Post-Modern Architecture, thưa ông Hoàng Ngọc Hiến!]

Cả hai bài tham luận tại hai hội thảo cao cấp đều vấp phải vô số những cái sai về kiến thức và về lập luận, nhưng cái sai dễ thấy nhất là về thời điểm xuất hiện của các từ “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại”. Thế nhưng, thật lạ lùng, có lẽ chẳng ai có mặt tại hai cái hội thảo ấy phát hiện ra cái gì sai, nên chẳng ai lên tiếng, và vì thế sau đó hai tác giả đã hiên ngang đem gửi đăng trên báo. Hoàng Ngọc Hiến đăng bài tham luận lên tạp chí Sông Hương (diễn đàn của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế); Trịnh Lữ đăng bài tham luận lên tờ Tia Sáng (tờ báo của Bộ Khoa học và Công nghệ, với cái khẩu hiệu “một góc nhìn của trí thức”). Và ban biên tập của cả hai tờ báo ấy cũng hoan hỉ tin là đúng, cho đăng tải nguyên văn những cái sai ấy, và tất nhiên rất nhiều những cái sai khác trong hai bài ấy, mà chẳng hề kiểm chứng hay thắc mắc.

Vì sao họ chẳng hề kiểm chứng, chẳng hề thắc mắc? Vì ông Hoàng Ngọc Hiến đã nổi danh như một giáo sư, học giả hàng đầu ở thủ đô nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam! Vì ông Trịnh Lữ cũng nổi tiếng ở thủ đô chẳng kém gì mấy: ông đã là dịch giả “đáng tin cậy” của một số sách của dăm ba nhà văn quốc tế, và ông đã nhận giải thưởng dịch thuật của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005! Báo Thể thao & Văn hoá ngày 27/9/2008 nhấn mạnh rằng bài tham luận của Trịnh Lữ là bài “đáng chú ý”. Ký giả Vũ Lâm đã theo dõi cuộc hội thảo ấy, và viết bài tường thuật “Nói chuyện ‘hậu hiện đại’ và ‘toàn cầu hoá’“ trên báo. Ngay ở câu nhập đề, Vũ Lâm đã long trọng giới thiệu Trịnh Lữ trước tất cả những tên tuổi khác, chỉ vì “Dịch giả Trịnh Lữ từng sống ở Mỹ nhiều năm, và khá lịch duyệt văn hóa Âu–Mỹ”!

Trong một xã hội còn quá lạc hậu về mọi phương diện, có lẽ chẳng mấy ai dám nghi ngờ hai ông nổi tiếng, có bằng cấp cao, sành ngoại ngữ, từng chu du nước nọ nước kia rất nhiều, vì thế nên hai cái sai lố bịch ấy lan ra nhanh chóng như hai cái chân lý bằng dầu phộng.

Trong khi tôi đang viết bài này, tôi vào google để xem thử, thì thấy bài của Trịnh Lữ đã được đăng lại nguyên văn trên nhiều websites, đặc biệt nhất là website của Đại học Văn hoá Hà Nội (khoa Sáng tác & Lý luận phê bình). Thầy trò tha hồ mà tiếp thu! Bài của Hoàng Ngọc Hiến thì cũng đã được đăng lại nguyên văn trên nhiều websites, đặc biệt nhất là website của Trung tâm Văn hoá Hội Nhà văn Việt Nam vào ngày 15/9/2008. Văn giới Việt Nam tha hồ mà học hỏi!

Thế nhưng, đáng kinh ngạc hơn nữa, cái điều mà hai tác giả nói sai khủng khiếp ấy lại chẳng phải là điều gì khó khăn phức tạp đến mức khiến họ khó tránh nổi cái sai. Thật vậy, nếu ta thử hỏi một cậu học trò trung học có thái độ hiếu học và tư cách đàng hoàng, rằng: “Các từ ‘postmodern’ và ‘postmodernism’ đã xuất hiện từ lúc nào?”, thì cậu học trò (với cái màn hình internet trước mặt) sẽ có thể nhanh chóng cho ta một câu trả lời còn khá hơn hai ông học giả kia. Thật vậy, câu hỏi này chẳng có gì khó hơn bất cứ một câu hỏi khoa học phổ thông nào. Nó cũng phổ thông như câu hỏi “Những động vật nào đang có nguy cơ bị diệt chủng?”

Tôi thử bỏ ra chừng mươi phút để tìm trên google xem kết quả thế nào, thì đã nhặt được hàng loạt thông tin về xuất xứ và sự tái hiện của các từ “postmodern” và “postmodernism” (trước năm 1977 của ông Hoàng Ngọc Hiến và trước năm 1979 của ông Trịnh Lữ). Tôi chỉ xin liệt kê lại ngay ở đây một cách thô sơ những gì xuất hiện trên google (tất nhiên chẳng đầy đủ, và mức độ chính xác chưa được kiểm chứng):

Theo Perry Anderson ghi nhận trong cuốn The Origins of Postmodernity (1998), từ “postmodern” có lẽ xuất hiện đầu tiên trong thập niên 1870 (không nói chính xác năm nào, ở đâu), do John Waitkins Chapman (một hoạ sĩ người Anh) sử dụng để nói về một lối hội hoạ đã vượt qua khỏi phái ấn tượng.


Năm 1914, J.M. Thompson sử dụng từ “Post-Modernism” làm nhan đề một bài viết về tôn giáo, được in trên trang 733, tạp chí triết học The Hibbert Journal, Vol XII, No.4, July 1914.


Năm 1917, trong cuốn Die Krisis der europäischen Kultur (Nuremberg: Hans Carl, 1917), trang 64, Rudolf Pannwitz dùng từ “post-modernism” để mô tả dạng thức văn hoá diễn ra sau chủ nghĩa hư vô của Nietzsche.


Năm 1921 và 1925, từ “postmodernism” đã được sử dụng để mô tả những hình thức mới của mỹ thuật và âm nhạc. (Không rõ ai là những người sử dụng.)


Năm 1926, Bernard Iddings Bell đã viết từ “postmodernism” ngay trên bìa cuốn sách Postmodernism and other Essays (Milwaukee: Morehouse Publishing Co., 1926).


Năm 1934, trong cuốn Antología de la Poesía española e hispanoamericana: 1882-1932 (Madrid: Centro de Estudios Históricos, 1934) trang xviii-xix, Frederica de Onis dùng từ “postmodernismo” để chỉ chung cho một thời kỳ lịch sử và một phong trào văn học đã diễn ra giữa những năm 1896 và 1905, và sau đó thì đến thời “ultramodernismo”, từ 1914 đến 1932.


Năm 1939, từ “postmodernism” được dùng trong cuốn Religion for Living: A Book for Postmodernists (London: The Religious Book Club, 1939) của Bernard Iddings Bell, để nói đến sự thất bại của chủ nghĩa hiện đại thế tục và sự trở về với tôn giáo.


Cũng năm 1939, trong quyển thứ 5, trang 43, của bộ Study of History, sử gia Arnold J. Toynbee cho rằng Thế chiến thứ Nhất (1914-1918) là điểm khởi đầu của “Post-Modern Age”. Năm 1954, trong quyển thứ 8 và thứ 9, Arnold J. Toynbee tái sử dụng từ “post-modernism” và cho rằng thời “hậu hiện đại” có thể đã bắt đầu khoảng sau năm 1875, biểu hiện qua sự suy sụp của lý tính Khai sáng và sự nhiễu nhương của xã hội.


Năm 1942, H. R. Hays dùng từ “postmodernism” để chỉ một hình thức văn chương mới (không nói chính xác tài liệu nào). Tuy nhiên, Michael Koehler cho rằng Dudley Fitts mới là người sử dụng từ “postmodernism” trong một tuyển tập tiểu luận (không rõ tuyển tập nào) do chính ông làm chủ biên, chứ không phải H. R. Hays, người phụ tá của ông.


Ngày 20/8/1951, trong một bức thư gửi Creeley, Charles Olson viết: “any POST-MODERN is born with the ancient confidence that he does belong”, trong Olson-Creeley Correspondence (Santa Rosa, CA: Black Sparrow Press, 1980-96), vol. 7, p.115.


Cùng năm 1951, Pico Miran tung ra bản tuyên ngôn A Manifesto for Post-Modern Art (New York: American Art Gallery, 1951).


Năm 1959, có một tiểu luận của Irving Howe dưới nhan đề “Mass Society and Post-Modern Fiction”, đăng trong Partisan Review, XXVI (Summer, 1959), trang 420–436.


Năm 1960, Harry Levin dùng từ “postmodernism” trong tiểu luận “What Was Modernism?”, Massachusetts Review, vol. 1, no. 4 (August 1960).


Năm 1965, Leslie Fiedler dùng từ “postmodernism” trong tiểu luận “The New Mutants,” Partisan Review, vol. 32, no. 4 (Fall 1965).


Năm 1968, John Perreault sử dụng từ “postmodernism” (không rõ sử dụng ở đâu); và cùng năm ấy, Amitai Etzioni, trong cuốn The Active Society (New York: Free Press, 1968).


Năm 1969, có một số tiểu luận sử dụng từ “postmodern” ngay trên nhan đề, như: G. Feinberg, “Post-Modern Science”, Journal of Philosophy, 66: 19, 1969, pp.638-646; Vytautas Kavolis, “Revolutionary Metaphors and Ambiguous Personalities: Notes Toward an Understanding of Post-Modern Revolutions”, Soundings, vol. 52, 1969, pp.394-414; Herbert G. Reid, “Society in the Postmodern Period”, The Review of Politics, 1969, 31: 3, pp.427-429; và Theodore Ziolkowski, “Toward a Post-Modern Aesthetics”, Mosaic, 2:4, 1969, pp.112-119.


Từ năm 1970 đến 1979, có một số lượng to lớn tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách nói về “postmodern” và/hoặc “postmodernism”. Chỉ kể riêng những bài/cuốn có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề, ta cũng có thể lập được một danh sách hàng trăm món. [Xin xem phần PHỤ LỤC ở cuối bài này].
Chỉ có những cậu học trò trung học lười biếng, ẩu tả, thì mới vội vã cho ta câu trả lời rằng: “Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...”, hay “Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại (sic) của Charles Djenks (sic).”

Những cái sai lố bịch ấy chứng tỏ ông Hoàng Ngọc Hiến chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” trước cuốn sách năm 1977 ấy (mà ông đã ghi sai cả tên tác giả lẫn tên sách), và ông Trịnh Lữ chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng từ “hậu hiện đại” trước khi ông nhìn thấy cuốn sách Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne, 1979) của Jean-Francois Lyotard, do Phạm Xuân Nguyên dịch (nxb. Tri Thức, 2007). Cả hai ông đều không biết “hậu hiện đại” có cái gì trước 1977 và 1979, nhưng cả hai ông đều không hề có một chút thắc mắc nào cả.

Thậm chí, hai ông cũng chỉ may mắn lắm là trông thấy hai cái bìa sách ấy, hay nghe người nào nói loáng thoáng về hai cuốn sách ấy là cùng. Vì nếu hai ông thực sự có đọc hai cuốn sách ấy, thì hai ông sẽ tuyệt đối không thể tìm ra trong hai cuốn sách ấy có bất cứ dòng chữ nào ghi rằng hai tác giả ấy là những người đầu tiên đẻ ra các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism”!

Chưa đọc sách, chỉ nghe lóm hay chỉ nhìn thấy cái bìa sách, thế mà các ông tự tin tuyệt đối vào cái biết hạn hẹp đến kỳ quái của mình, và các ông hiên ngang phun châu nhả ngọc về “hậu hiện đại” tại các hội thảo khoa học cao cấp ở thủ đô! Thế là thế nào?

Nếu các ông đi thuyết giảng về “hậu hiện đại”, đem “chủ nghĩa hậu hiện đại” ra mà lý luận trong văn học, trong mỹ thuật, trong khi các ông chỉ biết đoán mò và nói bừa như thế, thì các ông thuyết giảng, lý luận về cái gì vậy? Với cái mớ kiến thức như các ông, mà các ông dám nói thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang về lịch sử và sự phát triển của mỹ học “hậu hiện đại” thì quả là một quái trạng văn hoá không thể tưởng tượng nổi. Quả là một kiểu “múa gậy vườn hoang”, bất kể trong khu vườn ấy thật ra có hơn 80 triệu người đang sống!

Những cái sai ấy không phải do sơ suất. Là học giả, là giáo sư, thì người ta không ngừng tra vấn, thắc mắc, chứ ai lại có thể chỉ vừa nhìn thấy một cái bìa sách hay vừa nghe lóm là đã vội vàng tự xem là mình tìm ra đáp số! Là học giả, là giáo sư, thì ai lại dám tin tuyệt đối vào những thông tin sơ sài, thiếu thốn đến mức quái dị như thế, rồi nghênh ngang tung ra những cái sai lố bịch mà một cậu học trò trung học (nếu không lười biếng, ẩu tả) cũng không thể sai được! Các ông lại tuyên bố những điều ấy với giọng của sách giáo khoa tiểu học, ngắn gọn, dứt khoát, đầy thẩm quyền, không một chút phân vân “có thể” hay “có lẽ” nào cả. Thế thì chắc chắn những cái sai ấy là do lòng tự cao tự đại không bờ bến của các ông. Lòng tự cao tự đại ấy khiến các ông vớ được cái gì thì tin ngay rằng cái đó phải là cái trước hết, rằng cái đó là sự phát hiện đầu tiên, chính xác và đầy thẩm quyền của riêng các ông, mà thiên hạ cần phải lắng nghe các ông để học hỏi.

Điều tai hại nhất của cái thái độ này không chỉ ở chỗ nó làm hạ thấp tư cách của chính chủ thể, mà còn ở chỗ nó không ngừng làm hạ thấp dân trí. Vài ba người tuyên bố nghênh ngang như thế tại những loại hội thảo cao cấp giả hiệu (với mục đích giải ngân), mà không có ai phản đối, thì được báo chí ca tụng, truyền bá rộng ra, rồi hàng loạt người nhắm mắt tin theo. Cứ thế, nó lan dần ra và tạo thành cái “mặt bằng” tri thức của cả một thế hệ. Thử lấy ngay chuyện “hậu hiện đại” làm ví dụ. Suốt thập niên vừa qua, một số học giả nghiêm túc đã không ngừng nỗ lực truyền bá đến độc giả Việt Nam những kiến thức phong phú, đáng tin cậy và được giải thích mạch lạc về các phương diện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thế nhưng, cho đến hôm nay, đại đa số độc giả, ngay cả những người trong văn giới và môi trường học đường ở Việt Nam, vẫn hiểu rất mù mờ và lệch lạc về chủ nghĩa hậu hiện đại. Lý do là có một lực lượng những học giả khác chuyên đi gây nhiễu thông tin. Họ là những kẻ chỉ đọc láp nháp, tìm hiểu sơ sài, rồi tuỳ tiện diễn dịch sao cho vừa ý nhà cầm quyền và vừa ý mình, nhưng họ lại có điều kiện xuất hiện tại các hội thảo khoa học cao cấp giả hiệu để lên gân phun châu nhả ngọc, rồi viết thành tiểu luận, in thành sách, phát tán vô số điều lệch lạc đến độc giả. Trong tình trạng còn thiếu tài liệu, thiếu sách vở để nghiên cứu, giới hiếu học bị rơi vào một cõi hỗn loạn thông tin, toàn là những điều mâu thuẫn, chẳng còn biết đâu là đúng là sai nữa.

Cái quái trạng này đã diễn ra và lặp đi lặp lại trong suốt nhiều năm qua ở Việt Nam. Nếu không có cách nào thay đổi, thì cho dù các học giả nghiêm túc có nỗ lực truyền bá kiến thức đúng đắn đến cách mấy cũng thành vô ích, vì tất cả những nỗ lực của họ sẽ bị bóp méo, phá hoại không ngừng bởi những kẻ háo danh, tự mãn và vô trách nhiệm.

Sydney, 16/10/2008



Phụ lục

Dưới đây là bản liệt kê một số những tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách được công bố từ 1970 đến 1979 có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề. Bản liệt kê này tất nhiên còn rất thiếu sót, vì chỉ là những gì tôi lọc ra từ những tài liệu mà tôi sưu tập được cho công việc nghiên cứu của riêng mình. Trong thập niên 70, những sách báo có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” trong nội dung có lẽ đã chiếm một số lượng khổng lồ. Từ năm 1980 đến nay, số lượng sách báo (của các ngôn ngữ trên thế giới) có sử dụng từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề hoặc trong nội dung thì tất nhiên nhiều đến mức bất khả liệt kê!

1970:

Kavolis, Vytautas, “Post-Modern Man: Psychocultural Responses to Social Trends”, Social Trends, 17: 4, 1970, p.435.

1971:

Hassan, Ihab Habib, “POSTmodernISM: a Paracritical Bibliography”, New Literary History, 3: 1, Aug. 1971, pp.5-30.
Hassan, Ihab Habib, The Dismemberment of Orpheus: Toward a Postmodern Literature, New York: Oxford University Press, 1971.
New Literary History, 3:1, 1971. Special Issue: Modernism and Postmodernism.

1972:

Antin, David, “Modernism and Postmodernism: Approaching the Present in American Poetry”, Boundary, 2: 1, 1972, pp.98-133.
Boundary 2, Binghamton, Department of English: State University of New York, vol. 1, Fall 1972. Special Issue: Feminism and Postmodernism.
Kavolis, Vytautas, “An Alternative Postmodernity”, Journal of Aesthetics & Education, 6, Jan-Apr 1972, pp.125-137.
Spanos, William V., “The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern Literary Imagination”, Boundary 2: 1, 1972, pp.147-168.

1973:

Altieri, Charles, “From Symbolist Thought to Immanence: The Ground of Postmodern American Poetics”, Boundary, 2: 1, 1973, pp.605-641.
Galloway, Devid, “Post-Modernism”, Contemporary Literature, 14, 1973, pp.398-405.
Graff, Gerard, “The Myth of the Postmodern Breaktthrough”, TriQuarterly, 26, 1973, pp.383-417.
Hearron, William, “New Approaches in the Post-Modern American Novel”, Dissertation Abstract International, 34: 6, Dec 1973, p.3398 A.
Pütz, Manfred, “The Struggle of the Postmodern: Books on a New Concept in Criticism”, Kritikon Litterarum, 2, 1973, pp.225-237.
TriQuarterly, 26, 1973. Special Issue: On Postmodernism.

1974:

Kennedy, A., “Dramatic Action, the Modern and the Post-Modern”, The Protean Self, Columbia University Press, 1974, pp.27-61.
Modern Literature, 3, 1974. Special Issue: From Modernism to Postmodernism.
Olson, Charles, “The Act of Writing in the Context of Post-Modern Man”, Olson: The Journal of the Charles Olson Archives, 2, 1974, p.28.
Pinsker, Sanford, “ “Ulysses” and the Post-Modern Temper”, Midwest Quarterly, 15, 1974, pp.406-416.
Schmitz, Neil, “Gertrude Stein as Postmodernist: The Rhetoric of Tender Buttons”, Journal of Modern Literature, 3, 1974, pp.1203-1218.
TriQuarterly, 30, 1974. Special Issue: On Postmodernism.
Wasson, Richard, “From Priest to Prometheus: Culture and Criticism in the Post-Modern Period”, Journal of Modern Literature, 3, 1974, pp.1188-1202.

1975:

Alpert, Barry, “Post-Modern Oral Poetry: Buckminster Fuller, John Cage and David Antin”, Boundary, 2: 3, Spring 1975, pp.665-682.
Caliban, 12, 1975. Special Issue: Postmodernism.
Calinescu, Matei, “Avant-Garde, Neo-Garde, Post-Modernism: The Culture of Crisis”, Clio, 4: 3, Jun 1975, pp.317-340.
Davidson, Michael, “The Languages of Postmodernism”, Chicago Review, 27, 1975, pp.11-22.
Graff, Gerard, “Babbit at the Abyss: The Social Context of Postmodern American Fiction”, TriQuarterly, 33, 1975, pp.305-337.
Hassan, Ihab Habib, “Joyce, Beckett, and the Post-Modern Imagination”, Tri-Quartely, 34, Autumn 1975, pp.179-200.
Morrissette, Bruce, “Post-Modern Generative Fiction: Novel and Film”, Critical Inquiry, 2, 1975, pp.253-262.
TriQuarterly, 32, 1975. Special Issue: On Postmodernism.
TriQuarterly, 33, 1975. Special Issue: On Postmodernism.

1976:

Brummett, Barry, “Some Implications of “Process” or “Intersubjectivity” Postmodern Rhetoric”, Philosophy Rhetoric, 9, Winter 1976, pp.21-51.
Caserio, Robert, “Paracriticism, Postmodernism, and Prophecy”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.167-173.
Cullum, J.W., “Nathan Scott and the Problem of a Postmodern Ethics”, Boundary 2, 2: 3, 1976, pp.965-972.
Noel, Daniel, “Tales of Fiction Power. Dreaming and Imagination in Ronald Sukenick’s Postmodern”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.117-136.
Spanos, William V., “Heidegger, Kierkegaard, and the Hermeneutic Circle: Towards a Postmodern Theory of Interpretation as Dis-Closure”, Boundary 2, 4: 2, 1976, pp.455-488
Thiher, Allen, “Postmodern Dilemnas: Godard’s Alphaville and Two or Three Thinks That I Know About Her”, Boundary 2, 4: 3, 1976, pp.947-964.
Wilde, Alan, “Berthelme Unfair to Kierkagaard: Some Thoughs on Modern and Postmodern Irony”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.45-70.

1977:

Amerikastudien, 22: 1, 1977. Special Issue: Postmodernism.
Benamou, Michel; Carmello, Charles, Performance in Postmodern Culture, Milwaukee: Centre for Twentieth-Century Studies, 1977.
Berryhill, Michael, “Walt Whitman and Post-Modern Consciousness”, Dissertation Abstract International, 38: 3, Sept 1977, p.1376 A.
Blake, Harry, “Le post-modernisme américain”, Tel Quel, 71-73, 1977, pp.171-182.
Davis, D., Artculture: Essays on the Post-Modern, New York: Harper and Row, 1977.
Deren, Jane, “Denise Levertov’s Postmodern Poetics: a Study in Theory and Criticism”, Dissertation Abstract International, 38: 4, Oct 1977, p.2111 A.
Hoffmann, Gerhard; Horning, Alfred; Kunow, Rüdiger, “ “Modern”, “Postmodern”, and “Contemporary” Criteria for the Analysis of 20th-Century Literature”, Amerikastudien, 22, 1977, pp.19-46.
Köhler, Michael, “Postmodernismus: Ein begriffsgeschichtlicher Überblick (Post-modernisme: vue d’ensemble: l’histoire du concept)”, Amerikastudien, 22:1, 1977, pp.19-46.
Kundow, R.; Hoffman G.; Hornung A., “Modern, Post-Modern and Contemporary as Criteria for the Analysis of 20th Century Literature”, Amerikastudien, 22: 1, 1977, pp.19-46.
Lodge, David, Modernism, Antimodernism and Postmodernism, Birmingham: University of Birmingham Press, 1977.
Jencks, Charles, The Language of Post-Modern Architecture, New York: Rizzoli, 1977.
Navero, William, “The Emergence of Mythopoetic Post-Modern Image and the Poetics of Charles Olson”, Dissertation Abstract International, 38: 3, Sept 1977, p.1393 A.
Palmer, Richard E., “Postmodernity and Hermeneutics”, Boundary 2: 5-2, 1977, pp.363-393.
Peper Jürgen, “Postmodernismus: Unitary Sensibility ?” Amerikastudien, 22:1, 1977, pp.65-89.
Rice-Savre, Laura, “Abra-Cadaver: the Anti-Detective Story on Postmodern Fiction”, Dissertation Abstract International, 37: 7, Jan 1977, p.4339 A.
Sonheim, A. (ed.), Individuals: Post-Movements Art in America, New York: Dutton, 1977.

1978:

Hassan, Ihab Habib, “Culture, indeterminacy and Immanence: Margins of the (Post-Modern) Age”, Humanities in Society, 1, Winter 1978, pp.51-85.
Hayman, David, “Double-distancing: An Attribute of the “Post-Modern” Avant-Garde”, Novel. A Forum on Fiction, 12, 1978, pp.33-47.
Gordon, Patricia, “The Function of Literature as Interpreted by Twentieth-Century Writers: the Postmodern Authors”, Dissertation Abstract International, 38: 8, Feb. 1978, p.4816 A.
Kern, Robert, “Composition as Recognition: Robert Creeley and Postmodern Poetics”, Boundary 2, 6: 3, Spring-Fall 1978, pp.211-232.
Knesl, J., “Post-Modern History Critique”, Architectural Design, 48:11-12, 1978, p.576.
Spanos, William V., “The Un-Naming of the Beasts: the Post-Modernity of Sarte’s La nausée”, Criticism, 20: 3, Summer 1978, pp.223-280.

1979:

Akin, O., “Style Named Post-Modern”, Architectural Design, 49: B-9, 1979, pp.224-226.
Altieri, Charles, “Postmodernism: A Question of Definition”, Par Rapport, 2, 1979, pp.87-100.
Altieri, Charles, “Modern and Post-Modern: Symbolist and Immanentist Modes of Poetic Thought”, in Enlarging the Temple, Charles Altieri (ed.), Bucknell: Bucknell University Press, 1979, pp.29-52.
Birnholz, A. C., “Artculture: Essays on the Post-Modern de D. Davis”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, 37: 2, Winter 1979, p.245.
Bleikastein, A., “The Paradox of True Lie: on the Fictionality of Fiction (Fiction et vérité chez les modernistes et post-modernistes)”, British Journal of Aesthetics, 20: 3, 1979, pp.229-236.
Blocker, H. Gene, “Autonomy, Reference and Post-Modern Art”, British Journal of Aesthetics, 20: 3, 1979, pp.229-236.
Bonta, J. P. “Modernism and Post-Modernism: a Semiotic View”, Proceedings of the 67th. ACSA Annual Meeting, M.J. Bednar (ed.), Wahington: Association of Collegiate School of Architecture Press, 1979, pp.145-153.
Canter, D.; Groat, L., “Does Post-Modernism Communicate ?”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.84-87.
Colvile, G., “Labor Delivered is Love Regained: Women’s Writing and Art in Postmodern America”, Revue française d’études américaines, 14: 8, 1979, pp.225-242.
Dahrendorf, Ralf, “Post-Modern Values”, New Society, 893,15 Nov 1979, pp.360-362.
Davern, J. M., “Postmodernists”, Architectural Record, 165: 2, Feb 1979, p.4.
Delbaere-Garant, P., “The Divided Worlds of E. Bronte, V. Woolf and J. Frame. (A Post-Modern Perspective)”, English Studies, 60: 6, 1979, pp.699-711.
Groat, Linda N.; Canter, D., “Does Post-Modernism Communicate ?”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.84-87.
Heim, Michael R, “Some Philosophical Proposals for the Role of the Humanities: Toward a Postmodern Logic”, Kinesis, 9, Spring 1979, pp.39-46.
Holdheim, W. Wolfgang, “Wilhelm Worringer and the Polarity of Understanding”, Boundary 2: A Journal of Postmodern Literature and Culture, 8:1, Fall 1979, pp.339-358.
Jencks, Charles, Le langage de l’architecture post-moderne, London: Academy Editions, 1979. [Bản dịch Pháp văn]
Kavolis, Vytautas, “Social Evolution of the Artistic Enterprise”, Research in Sociology of Knowledge, Sciences and Art, 2, 1979, pp.155-188.
Kearney Timothy, “The Poetry of the North: a Post-Modernist Perspective”, The Crane Bag, 3: 2, 1979, pp.45-53.
Krauss, Rosalind E., “John Mason and Post-Modernist Sculpture: New Experiences, New Words”, Art in America, 67: 3, May-Jun 1979, pp.120-127.
Levin, R., “Language of Post-Modern Architecture de C.A. Jencks”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, 37: 2, Winter 1979, p.239.
Lyotard, Jean-François, La condition postmoderne: rapport sur le savoir, Paris: Minuit, 1979.
Malmgren, Carl Darryl, “Fictional Space in the Modernist and Postmodernist American Novel”, Dissertation Abstract International, 40: 6, Dec 1979, p.3291
Miller, R. L., “Supermannerism: New Directions in Post-Modern Architecture de C.R. Smith”, American Institute of Architects, 68: 6, 1979, p.264.
Moffett, K. M., “Assessing Post-Modernism: an Overview”, Bednar, M.J. (ed.), Proceedings of the 67th. ACSA Annuel Meeting, Washington: Association of Collegiate School of Architecture Press, 1979, pp.164-168.
Müler, Heiner, “Reflections on Post-Modernism”, New German Critique, 16, Winter 1979, pp.55-58.
Obrien, D., “Call for Courage: Post-Modern Architecture”, Architectural Review, 165: 986, Apr 1979, p.192.
Par Rapport, 2:2, 1979. Special Issue: Postmodernism.
Parks, Michael E., “Art Education in a Post-Modern Age”, Art Education, 42: 2, Mars 1979, pp.10-13.
Schechner, Richard, “Postmodern Performance - The End of Humanism”, Performing Arts Journal, 4: 11, 1979, pp.9-22.
Schumacher, “Rome: Orphan of the Modern Movement or Cradle of Post-Modernism”, Architectural Design, 49: 3-4, 1979, p.91.
Schurmann, Reiner, “Anti-Humanism. Reflections of the Turn Toward the Post-Modern Epoch”, Man and World, 12: 2, 1979, pp.160-177.
Sexon, L., “First Act Repeated: Myth in the Postmodern Age”, Parabole, 4: 3, Aug 1979, pp.53-71.
Spanos, William V., “De-struction and the Question of Postmodernist Literature: Toward a Definition”, Par Rapport, 2, 1979, pp.107-122.
Spanos, William V., “Postmodern Litarature and the Hermeneutic Crisis”, Union Seminary Quarterly Review, 34: 2, 1979, pp.119-131.
Spanos, William V. (ed.), Martin Heidegger and the Question of Literature: Toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Bloomington: Indiana University Press, 1979.
Stephens, S, “Beyond Fragments: Architectural Frame-work Necessary for Assimilating Elements of Post-Modern Period”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.88-90.
Thompson, W. W., “Johnson Original Thinking Post-Modernism”, Architects’ Journal, 196: 23, 6 juin 1979, p.1149.
Thornton, G., “Post-Modern Photography: It Doesn’t Look Modern at All”, Artnews, 78: 4, April 1979, pp.64-69.
Whelan, R., “Art-Culture: Essays on the Post-Modern” de D. Davis, Artnews, 78: 9, Nov 1979, pp.42-43.

© 2008 talawas