26/6/11

Hamvas Béla - Sự tỉnh táo

Sự tỉnh táo

Hamvas Béla


24 June 2011


(Trích tiểu luận triết học: Scientia sacra)
Nguyễn Hồng Nhung dịch









1.



Kẻ canh giữ tinh thần cổ đại là cuốn sách thiêng của Ấn độ: Veda.

Từ Veda bắt nguồn từ vidja và có liên quan tới từ latin videre, có nghĩa là nhìn và thấy. Điều đầu tiên Veda nói đến là cảnh và hình ảnh. Không chỉ là hình ảnh con người nhìn thấy ban ngày mà cả hình ảnh trong giấc mơ và trí tưởng tượng ; có vẻ không chỉ là hình ảnh của các sự vật mà cả nội dung và ý nghĩa của sự vật nữa; cùng tất cả những gì xảy ra, kết nối và tách rời các sự vật.

Bởi vậy những lời giải thích theo đó vidja chỉ là nhìn và thấy có vẻ bị thu hẹp. Đúng hơn nếu người ta cho rằng vidja có nghĩa là: tri thức, kiến thức.

Guénon theo quan điểm này. Ông viết: Veda là kiến thức về mọi vấn đề trên thế gian, là thứ kiến thức cổ vĩnh cửu và thiêng liêng. Là kiến thức gốc rễ của trí tuệ về các sự vật. Hiểu như vậy đơn giản hơn và rộng hơn. Nhưng hiện thực còn đơn giản hơn nữa và sự quan trọng của nó không giới hạn.

Veda (vidja) thực chất có nghĩa là: sự tỉnh táo. Veda bảo vệ sự tỉnh táo, bảo vệ và truyền tiếp; đây là tinh thần của thời cổ đại, là bản chất của thời gian trước lịch sử (trước Công Nguyên). Nhiệm vụ của Veda có một không hai, là đánh thức, mang lại sự tỉnh táo và duy trì sự tỉnh táo. Không dạy nhìn và thấy, dạy để biết lại càng ít hơn.

Để có kiến thức, con người cần phải thấy; nhưng để con người thấy, cần phải tỉnh táo. Từ giấc mộng là cuộc sống người trên trái đất vật chất, Veda đánh thức; nó phá vỡ đời sống khép kín và khai mở đời sống; nó nói lên ý nghĩa đích thực của sự vật, mở mắt cho con người và tuyên bố nội dung xác thực của thế gian. Bởi vì tác động của những điều nó nói không phải là việc con người nhìn thấy và nhận biết hình ảnh của thế gian, mà là từ cảnh vật, họ thức tỉnh.



2.



Khi Socrates uống cốc thuốc độc, chân tay bắt đầu lạnh dần, cái chết đông cứng đến gần trái tim, ông vẫn còn nói: các ngươi đừng quên hiến tế con gà trống cho Asclepius.

Ta không bàn tới những lời giải thích cổ xưa về nội dung câu nói; còn các thế hệ sau thường không hiểu. Người ta cố giải thích: những kẻ khỏi bệnh thường dâng vật hiến tế cho Asclepius, và câu nói của Socrates phút lâm chung mang ý nghĩa đó: cuộc sống được chữa khỏi từ căn bệnh lớn (cái chết) của nó. Sự giải nghĩa này không là gì khác, ngoài việc Socrates biện bạch bằng (tư tưởng của) Schopenhauer.

Con gà trống cần tế hiến cho Asclepius là: sự tỉnh táo. Đây là con gà trống xoay trên nóc chuông nhà thờ. Đây là con gà trống gió trên các mái nhà và trong các phù hiệu quý tộc. Và trước khi gà trống cất tiếng gáy, Kinh thánh nói, mi sẽ bán đứng ta ba lần.

Ý nghĩa của nó: trước khi mi thức tỉnh về sự toàn vẹn của sự sống, và hiểu cái gì xảy ra với mi trong toàn bộ hiện thực của nó, mi không thể làm gì khác ngoài việc đi theo sự phản bội thường xuyên chống lại Thượng đế và bản thân.

Trên ngọn núi Ôliu, khi Chúa rút lui để cầu nguyện, ngài nói: “Các con hãy tỉnh dậy và hãy cầu nguyện.” Và khi Chúa quay về, các tông đồ đã ngủ say.

Ở Irán con gà trống có tên Paroderes, nó đưa con người đến với việc “Thực hiện những nhiệm vụ hăng say.” Buổi sáng khi nó cất tiếng gáy, theo Avesta có nghĩa là: “Các ngươi hãy thức dậy và cầu nguyện đi bởi vì Busjasta, con quỷ của sự mê ngủ đang đến để cổ vũ: Hãy ngủ đi, con người, ngủ đi, thời gian của mi chưa tới đâu.”

Tỉnh táo không chỉ có nghĩa như một sự tồn tại tỉnh. Không chỉ có nghĩa như duy trì các giác quan trong sự hoạt động, thấy, nhìn, làm, cử động, có ý thức, biết. Sự tồn tại tỉnh táo cũng không khác một đặc tính khác của giấc ngủ: giấc ngủ trong thế giới giác quan. Và con gà trống, mà Socrates ám chỉ, mà Kinh thánh nhắc đến và có tên gọi Paroderes, chính là sự tỉnh táo, gọi sự thức tỉnh từ cái thế giới giác quan.

Đây là sự tỉnh táo, để thấy và biết rằng thế giới giác quan cũng là hình ảnh giấc mộng. Socrates, khi thuốc độc ngấm dần đến ngực, ông tỉnh giấc từ giấc mộng này, Bởi vậy cần hiến gà trống cho Asclepius vì sự biết ơn, rằng, ông đã thức tỉnh. Socrates yêu cầu hãy nhân danh ông tế con gà trống, bởi vì đấy là sự vật duy nhất ông muốn mang theo mình, thứ nằm trong mọi trạng thái của sự tồn tại, trong mọi thế giới có thể, trong vật chất ở đây, trong tinh thần ở kia, giữa các vị thần ở chỗ nào đó và trong cái bất biến vĩnh cửu, thứ duy nhất quan trọng: đấy là sự tỉnh táo của con gà trống.

Bởi vậy trên ngọn tháp chuông nhà thờ có con gà trống. Và kẻ, như đám tông đồ trên đỉnh núi Ôliu, ngủ, không chỉ buồn ngủ. Kẻ đó không biết và cũng không thấy gì hết. Mù lòa và vô thức; bởi vì tri thức – sự nhận thức – sự tỉnh táo liên hệ với nhau như tỉnh táo là điều kiện của mọi nhận biết và tri thức. Kẻ nào mù lòa và vô thức, kẻ đó phân vân, dao động, hèn nhát và phản bội. Mi sẽ bán đứng ta ba lần.

Kẻ mù lòa, vô thức và mê muội, và kẻ bị con quỷ của sự buồn ngủ đánh lừa, kẻ đó tưởng thời gian của nó chưa đến, cả cuộc đời của nó ngủ quên giữa những hình ảnh của các giác quan và sự tưởng tượng. Khả năng định mệnh của cuộc đời trần thế là con người ngủ ngon lành trong cuộc đời đó. Nếu như không có con gà trống, tất cả mọi người vẫn tiếp tục ngủ.

Tỉnh táo là sự nhậy cảm siêu hình của con người. Meta ta phüszika nghĩa của nó chỉ có ngần này: siêu nhiên. Sự nhậy cảm siêu nhiên, thứ nhìn và thấy và biết những gì giác quan không vươn tới được.

Kẻ tỉnh, là kẻ nhìn thấy vượt lên trên cả các hiện tượng của giác quan, của ý thức, của cảm xúc và của các đam mê. Dấu hiệu liên tục của Buddha: sự tỉnh táo hoàn toàn. Nhưng bản thân từ Buddha cũng có nghĩa là sự tỉnh táo tinh thần. Kẻ ngủ mơ đã tỉnh. Kẻ từ bỏ tất cả các dạng của nỗi buồn ngủ, không bao giờ ngủ tiếp trong các giác quan, các đam mê, các khát vọng và trong cả cái Tôi khóa kín.



3.



Ở Irán Avesta nói với thượng đế Mitra như sau: “Hỡi Đấng Mitra cao cả, vị thần nghìn tai nghìn mắt, người nhìn thấy thế gian vô tận từ muôn hướng, người, kẻ không bao giờ ngủ, kẻ thức tỉnh vĩnh viễn!” Mitra là mặt trời và ánh sáng; bởi vì cùng lúc, các vị thần mặt trời và ánh sáng đều là thần của sự tỉnh táo: Orizis, Apollon. Dấu hiệu quay lại của các vị thần tỉnh táo ở Irán: jogaurvah có nghĩa là sự thức tỉnh thường xuyên-ahvafna có nghĩa là sự mất ngủ.

Giấc mơ, hvafna, cùng một từ như tiếng Hy lạp hüpnosz, tiếng latin somnus, và sanscrit szvapna. Đều có nghĩa là giấc mơ, nhưng cùng lúc có nghĩa là hình ảnh giấc mơ và ảo ảnh tưởng tượng. Có sự gắn bó chặt chẽ với những hình ảnh mê hoặc của mája. Bởi vì Busjasta, con quỷ giống cái của sự mê ngủ không là ai khác ngoài hình ảnh của Kali Tăm tối (Ấn độ) và Âm (Trung quốc).

“Sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện tại,” Avesta viết. “Các người hãy thấy bằng linh hồn của các ngươi!” Khi linh hồn rời khỏi trái đất, nó không mang theo gì ngoài sự tỉnh táo. Zarathusztra gọi cái thấy siêu nhiên là csisti và nói, đấy là quà của nữ thần cao quý nhất của bầu trời. Nếu csisti mạnh mẽ trong linh hồn, nó dễ dàng bước qua ngưỡng của đời sống. Tại sao? Bởi vì nó tỉnh. Và bởi vì nó tỉnh, nên bên trong nó có tri thức để nhìn thấy mọi hoàn cảnh và nhận biết mọi hoàn cảnh.

Cuốn Tử thư Tây tạng viết, khoảnh khắc của cái chết mở ra khả năng cho tất cả mọi người bước vào thiên đường cao nhất, với thời gian không nhiều hơn thời gian một kẻ ăn trưa. Một ánh sáng chói lòa tiếp nhận linh hồn di chuyển khiến nó choáng váng và rên rỉ. Nhưng thật thảm hại cho nó nếu nó run rẩy và bắt đầu sợ hãi! Thật thảm hại cho nó nếu nó không nhận ra, ánh sáng này không là gì khác, ngoài hình ảnh cổ thần thánh tỉnh táo của con người: sự Thức tỉnh vĩnh cửu.

Nếu nó chưa đủ tỉnh táo, nếu nó bắt đầu run sợ, co rúm lại, quay đi, hoặc rơi vào mơ muội, nó sẽ lầm lẫn. Không thể bước vào ánh sáng vĩnh cửu, vào sự Thức tỉnh thần thánh. Bởi vì: “Sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện tại.” Linh hồn đờ đẫn, vô thức và hèn nhát rơi xuống, một lần nữa rơi vào vòng quay vô tận của những hình ảnh mộng. Sự tỉnh táo của con gà trống không đủ mạnh trong nó. Nó không thể thức tỉnh.

Ở Ai cập trên con đường âm thế linh hồn sẽ gặp gỡ các quái vật khủng khiếp và các vị thần mê ly đổi chỗ cho nhau. Kẻ nào không tỉnh sẽ sợ hãi trốn tránh trước quái vật và vui mừng với các vị thần. Linh hồn mê muội và vô thức không biết rằng ở âm thế ban đầu nó đi giữa những bóng ma mang hình ảnh của thế giới cảm xúc, ở đó nó vật vờ trong một thời gian vô hạn giữa những hình ảnh của trí tưởng tượng riêng của nó và những hình ảnh của giấc mộng, trong tiền sảnh đích thực của âm thế, giữa những cái bóng, ở Hádes, như người Hy lạp nói, hay ở Seol như người Hê ber nói.

Nó đau đớn vì bị cá sấu cấu xé và bản án âm thế treo trên đầu nó, đợi ném nó vào lửa. Nhưng kẻ nào tỉnh, sẽ quỳ xuống trước những hình ảnh đó và cầu nguyện: “Hỡi cá sấu vĩ đại, ta chính là ngươi! Ngươi Horus rạng ngời vĩ đại, ta là Horus!” Và kẻ nào nhận ra nó đang đi giữa các hình ảnh, kẻ đó sẽ đến Orizis, sẽ bước vào đất nước của ánh sáng. “Sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện tại.”

Từ csisti có nghĩa là khả năng thấy. Những từ thấy này cần hiểu theo nghĩa bóng, giống như từ vidja trong nghĩa bóng là sự tỉnh táo, và sự tỉnh táo này trong nghĩa bóng là một khả năng, là sự nhậy cảm siêu hình. Spenta Mainju, tên gọi thường xuyên của đấng Đại Minh: ahvafna, sự tỉnh. Ở Irán là dấu hiệu của thần ánh sáng, ở Ấn độ là của Buddha và ở Judea là Zebaoth. Tất cả đều có nghĩa là sự tỉnh táo.

Linh hồn rời quả đất là chuẩn bị từ bỏ thế giới vật chất, và muốn bước sang thế giới tinh thần. Bước vào những thế giới cao hơn có thể tự do lựa chọn trong thời cổ cần đi qua chín cây cầu; nhưng tám cái bị gẫy, chỉ còn một cây cầu duy nhất Csinvat còn trụ lại. Khi linh hồn đến bên cầu Csinvat một cô gái cực kỳ đẹp đi từ xa đến. Cô gái đấy là daéna, không là ai khác ngoài một nửa của đôi lứa đích thực cái Tôi trần thế của con người, cái Tôi thượng đế.

Đặc tính cao nhất của cái Tôi trần thế là csisti, sự tỉnh táo. Và khi linh hồn nhìn thấy daéna, nó nhận ra, còn nó là sự tỉnh táo của cái Tôi thượng đế. Cô gái đẹp rực rỡ đó là sự tỉnh táo bất diệt. Cũng chính là nguồn ánh sáng mà cuốn Tử thư Tây tạng nói đến. Trong một khoảnh khắc trên cây cầu Csinvat sự tỉnh táo rực rỡ tỏa từ cái Tôi trần thế gặp gỡ sự tỉnh táo rạng rỡ tỏa từ cái Tôi thượng đế.



4.



Sau các tiên đề và các tương đồng, giờ đây ta có thể đi vào bản chất, có thể quay lại với kinh Veda và bắt đầu sự phân tích. Chương có liên quan của Veda là Isaupanisád.

Các trích đoạn sau đây là của chương này:

“Thế giới và tất cả những gì sống, đều chìm ngập trong sự tồn tại của thượng đế. Kẻ từ bỏ, niềm vui là của kẻ đó. Cái của người khác, hãy đừng mơ ước.

Hãy để cho đám đông rên rỉ, hãy để họ chúc tụng họ cuộc đời trăm tuổi. Bởi niềm vui đích thực là của ngươi. Đừng bám lấy niềm mong ước trần thế.

Những sức mạnh ma quỷ che đậy thế giới này và bóng tối mù lòa bao trùm lên: những kẻ mà linh hồn đã chết đều rơi xuống đây sau cái chết của họ.

Kẻ biết duy trì những thực thể sống trong bản thân họ, duy trì các bộ phận của cái Tôi, của bản thân họ trong tất cả những gì sống, kẻ đó không bao giờ biết sợ hãi, không sợ cái chết và những cái khác nữa.

Bởi vì kẻ là cái Tôi của mọi thực thể sống, đã thức tỉnh; và nỗi buồn phiền và lo lắng đọng lại ở đâu, nếu mi thấy tất cả là MỘT?

Những kẻ vô thức vật vờ trong bóng tối mù lòa, nhưng những kẻ tích lũy kiến thức cho kiến thức còn vật vờ hơn trong bóng tối dày đặc hơn.

Con đường dẫn tới một nơi khác, khác nơi kiến thức hoặc vô kiến thức dẫn dắt. Những bậc thày lớn của thời cổ đã dạy như thế, những người mà lời dạy của họ còn để lại cho chúng ta. Kẻ nào có kiến thức hoặc vô kiến thức đều không đủ, và cần phải bước qua cái chết bằng cả hai nhận thức này, kẻ đó sẽ bất tử.

Kẻ bước vào màn đêm dày đặc là kẻ tin rằng nó biến thành hư vô; nhưng kẻ cho rằng nó sẽ trở thành một cái gì đó, kẻ đó còn bước vào một màn đêm dày đặc hơn.

Trở thành một cái gì là điều khác, khác với việc trở thành hư vô. Các bậc thày thời cổ đã dạy như thế, và để lại cho chúng ta một truyền thống.

Kẻ nào biết, không có chuyện trở thành một cái gì đó, nhưng hư vô hóa cũng không, và với hai nhận thức này bước qua cái chết, chỉ kẻ đó bất tử.”

Trước hết cần tách những phần phụ ra. Câu nói đầu tiên mang ý nghĩa thiền quán thông thường, và hai đoạn tiếp theo của câu đầu tiên đòi hỏi sự trong sạch của đạo đức. Linh hồn vấy bẩn vô ích thử thức tỉnh.

Phần thứ ba là một hình ảnh dẫn luận quan trọng: sự tăm tối của thế giới. Đây là sự tăm tối ta đã bàn lúc trước, nữ thần Kali, khí Âm, Mája. Bóng tối là nơi không ánh sáng. Ánh sáng là mặt trời, Ahura Mazda, khí dương, Orizis, Apollon, Brahman, thần của sự thức tỉnh. Linh hồn con người trong bóng tối thiu thiu một cách mù lòa và vô thức, giữa những ảo ảnh ma quái và những hiện tượng mê hoặc. Nhưng ác ảnh và mê hoặc đều là một: cả hai đều là biến hóa của mája (ảo ảnh).

Đây là một giai đoạn nguy hiểm, khi linh hồn con người có thể ngủ say hoàn toàn, và đánh mất sự tỉnh táo đến mức không bao giờ thức tỉnh được nữa. Câu này trong đoạn trích trên cần hiểu như vậy khi chúng ta đọc: “linh hồn của họ đã chết”.

Đây không phải cái chết vật lý, mà như các nhà huyền học gọi là cái chết thứ hai khi linh hồn trong cuốn Tử thư Ai cập viết: vật vờ vĩnh viễn giữa những ảo ảnh mộng, hoặc trong cuốn Tử thư Tây tạng viết: linh hồn rơi trở lại vòng quay vô tận của những hình ảnh mộng. Đấy là những kẻ mê muội dưới bùa mê của con quỷ Busjasta, và sống trong một tiềm thức: Hãy ngủ đi, ngủ đi, thời gian của mi chưa tới đâu. Thời gian của những kẻ như vậy không bao giờ tới.

Đấy là các tông đồ, những kẻ khi Chúa cầu nguyện, họ lăn ra ngủ. Những kẻ tưởng rằng dục vọng, nỗi đam mê, ý muốn, tư tưởng, khát vọng, thế giới giác quan của họ là hiện thực. Đây là trạng thái mà kinh Veda đã chỉ ra: avidja. Avidja không có nghĩa là mù lòa, vô thức mà có nghĩa là sự chìm đắm trong mê muội.

Một sự sống suy thoái. Một sự sống bị khóa, bị khép kín. Sự đờ đẫn. Avidja là mối tai họa nguy hiểm nhất tác động tới linh hồn: linh hồn vật vờ giữa những hình ảnh của nữ thần Busjasta tăm tối bỏ bùa mê và giữa những ảo ảnh nhầm lẫn, những thất bại riêng của nó, đến chừng sự tỉnh táo của nó cứ giảm dần, và sau cùng mất hẳn, nó ngủ yên hoàn toàn. Linh hồn nghẹt thở giữa những hình ảnh của chính nó.

Theo Veda avidja có ba mức độ: ngủ sâu, giấc ngủ không mơ, giấc mơ và trạng thái tỉnh.

Trong giấc ngủ sâu con người không thấy và không biết gì hết. Cuộc đời này đúng ra là một trạng thái suy thoái. Khi con người mơ, nó thấy nhưng không biết. Trạng thái này ở một mức độ cao hơn. Trong trạng thái tỉnh con người thấy, biết nhưng vẫn chưa tỉnh táo. Tỉnh táo chỉ ở dạng thứ tư (turijam).

Avidja là sự vô thức, đờ đẫn, buồn ngủ, là cuộc đời thoái hóa, là sự mù lòa: trong vật chất, trong cái Tôi trần thế và là trạng thái đờ đẫn ngất ngây trong các giác quan. Veda gọi trạng thái này là sự bị mê hoặc (maja). Linh hồn bị mê hoặc là kẻ tưởng thời gian của nó chưa đến. Nó coi các hình ảnh là hiện thực. Các hình ảnh là các cảnh tượng của thế giới giác quan, các cảm giác, các xúc cảm, các tư tưởng, các đam mê, các dục vọng, là sự khác nhau giữa thế giới bên ngoài và bên trong, là sự khác nhau giữa đời sống và sự sống, là sự khác nhau tồn tại trần thế và tồn tại tinh thần, là sự khác nhau giữa Tôi và Anh và Chúng ta.

Con người bị khóa trong sự mê hoặc này. Và trong sự cùm khóa một cách lưu đày này nó tưởng nó là cái Tôi, là cái cá nhân đặc biệt. Sự tồn tại mê muội này là Hades, một loại địa ngục. Ở giữa thế gian, như Orpheus nói, nữ thần Persephon, linh hồn, ngự trị, phủ voan đen, trên trán quấn một vòng hoa anh túc tượng trưng cho sự mê hoặc.

Heracleitos nói giữa những kẻ mê muội mỗi người có một thế giới riêng, còn những người tỉnh táo có một thế gian chung. Cái thế giới riêng đấy là cái Tôi. Cái Tôi có hình ảnh mộng riêng, có số phận cá nhân, có tư tưởng, hành động, quan niệm cá nhân. Kẻ nào ngủ càng say, càng chìm sâu vào sự đờ đẫn, kẻ đó càng tách biệt và đơn độc, càng cá nhân hóa và càng lập dị.

Trạng thái đặc thù của avidja coi thế giới cảm giác, những kinh nghiệm thu thập được là hiện thực; nó tưởng sự mê hoặc của thế giới vật chất là thực; nó không biết rằng cái nó tin là hiện thực chỉ là ảo ảnh giấc mơ bất thường của linh hồn bị mê hoặc.

Nó không bao giờ có thể thức tỉnh nữa, và luôn luôn nó tin rằng thời gian của nó chưa đến. Không bao giờ nó linh cảm rằng có siêu nhiên, meta ta phüszika có một cái gì đó, đôi khi nó vấp phải trong giấc mộng của nó, và đáng lẽ cần phải mở mắt ra, thì nó lại tiếp tục ngủ mơ về một cái gì đó: mục đích sống, lý tưởng, nỗi đam mê, danh vọng, luôn luôn có một cái gì đó kế tiếp từ cái Tôi, và là mục đích của cái Tôi.

Hiện thực thật sự chỉ được nó thấy như kẻ bị trói trước cửa ra của một cái hang, kẻ chỉ nhìn thấy những cái bóng chạy vụt qua. Và mức độ chìm đắm trong mê muội của nó phụ thuộc bởi ai coi những hình ảnh mộng là hiện thực đến mức nào; coi những thất bại và sự hào nhoáng là sự thật đến đâu; coi mơ hồ là trạng thái tỉnh táo đến mức nào. Cho đấy là sự thật đến mức nào những gì chỉ có trong cái Tôi: tư tưởng, cảm giác, quan điểm, lý thuyết, sự đánh giá. Càng kiêu ngạo, khinh người, tự phụ, tự tin, nghênh ngang, ích kỷ—càng mù lòa, vô thức, ảo tưởng, hão huyền, mơ hồ, càng đờ đẫn, thui chột và mê muội.



5.



Một khía cạnh khác của Isaupanisád cho rằng kiến thức không phải là sự tỉnh táo. Từ sanskrit kiến thức là vidnya. Vidnya không phải là vidja. Vidnya có nghĩa là kiến thức vật chất thu được. Trái ngược với avidnya, vô kiến thức. Bài kinh nói thế này: “Những kẻ vô thức vật vờ trong bóng tối mù lòa, nhưng những kẻ thu thập kiến thức cho kiến thức còn lần mò trong bóng đen dày đặc hơn.”

Vidny và avidnya, kiến thức duy lý và sự vô thức, hai dạng của sự mê muội, cả hai dạng đều vô dụng để con người có thể hiểu và nhìn thấy hiện thực. “Kiến thức và vô thức, cả hai đều không đủ.”

Những kẻ vô thức đi vào bóng tối mù lòa. Đúng hơn, họ đã ở đấy sẵn. Họ là những tông đồ đang ngủ. Họ là những kẻ tưởng thời gian của mình chưa tới. Nhưng với những kẻ này vẫn còn hy vọng. Họ có thể nhận được những cú giáng, có thể vấp ngã và mở mắt.

Nhưng những kẻ ở trong sự tăm tối nô lệ hơn, những kẻ thu thập kiến thức cho kiến thức. Đây là thứ kiến thức duy lý. Kiến thức duy lý là giấc ngủ nguy hiểm nhất. Chỉ tăng thêm số lượng vật chất của kiến thức, nhưng không nâng lên đến tầm chất lượng và sự tinh thông của nhận thức, đấy là khoa học (vidnya). Đấy không phải sự thức tỉnh, chính vì vậy vô nghĩa; vô ích và nguy hiểm. Đấy là loại kiến thức làm linh hồn còn đờ đẫn hơn so với khi ở trong vô thức.

Tiếp theo là bước đầu tiên, vidja—đi về phía sự tỉnh táo. Sau ba mức độ của sự đờ đẫn, ngủ say, giấc mộng và trạng thái tỉnh dậy sẽ đến mức độ thứ tư: turijam.

Mức độ thứ tư này là sự tỉnh táo. Đây là sự nhìn thấy một cách rõ ràng, toàn diện, khác hẳn với ba mức độ đầu tiên. Đây là “kẻ mơ thức giấc”, là buddha, là trạng thái bồ tát, ngộ. Đây là mahatma—linh hồn lớn—là trạng thái lớn nhất và cao nhất linh hồn có thể đạt được. Đây là cái nhìn đích thực, là kiến thức đích thực, không phải vidnya, thứ kiến thức vật chất và duy lý, mà là vidja, sự tỉnh táo.

Dấu hiệu đầu tiên của sự tỉnh táo là trong con người có một nghi ngờ mơ hồ thức tỉnh: là maja, là sự mê hoặc của giác quan. Mé on như Platón nói. Không hiện thực. Là sự mê hoặc của trạng thái đờ đẫn của thế giới cảm giác mà tất cả con người đều có chung. Người nào bắt đầu nhìn nhận vượt qua các cảm giác, meta ta phüsika, bắt đầu nhận ra một cái gì đó siêu nhiên. Liên hệ siêu hình là bến bờ đầu tiên của sự tỉnh táo.

Tiếp sau đó đến hai trạm quan trọng nữa, khi hình ảnh mộng cơ bản nhất, hình ảnh mộng về cái Tôi cá nhân bắt đầu tan rã.

Kinh Veda diễn tả hai trạm này như sau: etad vai tat và tat tvam assi. Câu đầu tiên có nghĩa là: điều này không khác điều kia; và câu sau là: đó chính là mi. “Kẻ biết duy trì những thực thể sống trong bản thân họ, các bộ phận của cái Tôi, bản thân họ trong tất cả những gì sống.” Con người bắt đầu thấy và hiểu trên thế gian có những sự đồng nhất không thay đổi được. Điều này không là gì khác chính là mi. Sự đa dạng và đa tầng có thể kinh nghiệm được về mặt cảm giác cái Tôi cá nhân là một giấc mộng. Còn hiện thực không là gì khác ngoài chính bản thân mi. Kẻ nào từ bóng tối che phủ thế gian bước ra, kẻ đó nhận thức được sự đa dạng mê hoặc này.

Con người trong giây phút ấy không bao giờ còn là cái Tôi cá nhân nữa, mà là một cá nhân vũ trụ. Và cá nhân vũ trụ này không tồn tại trong cuộc sống nữa mà trong sự sống. Dấu hiệu nhận biết tồn tại trong sự sống này là khi coi thế gian: là MỘT. Hen pantn einai, như Heracleitos nói. Những kẻ đờ đẫn mê muội mỗi kẻ có một thế gian riêng, còn những người đã thức tỉnh chỉ có một thế gian chung.

Những kẻ mê muội luôn luôn ngủ ngon trong những cái Tôi riêng biệt, trong các đam mê, các khát vọng, các thế giới quan; còn những kẻ tỉnh sống trong cùng một thế giới hiện thực. Với các thực thể khác con người không còn thấy mình tách ra nữa: nó nhìn thấy mọi bản chất của thế giới trong bản thân nó, và trong mọi thực thể có bản thân nó—etad vai tat, Cái này không khác cái kia. Tất cả thực thể, con vật, cỏ cây, đá, đất, côn trùng, chim muông, người khác, mẹ, anh em, ma quỷ, thượng đế—đây là Tôi. Tat tvam asi . Đây là mi.

Tất nhiên đây không phải cái Tôi cá nhân mê muội (avidja), mà là cái Tôi thức tỉnh (vidja), kẻ biết tất cả điều này là maja—mé on, không hiện thực. Sự mê muội đờ đẫn tồn tại riêng biệt trong một cuộc sống bị khóa kín, còn sự tỉnh táo là sự sống mở, và mọi thực thể cùng nhau sống trong thế giới ấy. Kẻ nào thức tỉnh, kẻ đó bước ra khỏi đời sống bị khóa kín: mọi cánh cửa đột nhiên mở ra cho nó, mọi tri thức nó đều có thể đạt tới, như cảnh tượng biến thành cảnh thật. Đấy là ý nghĩa của kinh Veda.



6.



Ở châu Âu người ta tưởng rằng Veda dạy sự chuyển đổi là kiến thức. Niềm tin này ngu xuẩn và đơn điệu như nền khoa học được truyền bá. Không có kiến thức nào ở đây. Vidja không có nghĩa là kiến thức mà là sự tỉnh táo.

“Con đường đưa tới một nơi khác, khác kiến thức và vô kiến thức” – “Kẻ nào biết, không có chuyện trở thành một cái gì đó, nhưng hư vô hóa cũng không, và với hai nhận thức này bước qua cái chết, chỉ kẻ đó bất tử.” – kiến thức không chuyển hóa được. Duy nhất chỉ có sự tỉnh táo. Bởi vì cái gì là sự chuyển hóa? Không là gì khác ngoài việc từ bỏ cái Tôi cá nhân để trở thành một cá nhân vũ trụ, phổ quát. Không là gì khác ngoài việc bước ra khỏi một đời sống khép kín và nâng mình lên sự sống mở. Không là gì khác ngoài sự tỉnh giấc bước ra khỏi sự đờ đẫn mê hoặc để ở trong hiện thực.

Bước cuối cùng quyết định để dẫn đến sự am hiểu về tỉnh táo như sau: từ khóa chốt của Veda là atman. Atman là linh hồn siêu đẳng đối lập với linh hồn cá nhân. Là cái Tôi thượng đế đối lập với cái Tôi con người trần tục. Đây là linh hồn và là Tôi, kẻ có mặt trong tất cả các thực thể, kẻ “cái này không khác gì cái kia”, kẻ “đây là mi”.

Đây là linh hồn – sự sống, là cái tôi – tinh thần bất tử, siêu đẳng, vượt qua khỏi ngưỡng bất tận của không gian và thời gian. Atman có quan hệ khăng khít với sự tỉnh táo, đến mức Veda không chỉ nói về sự Thức tỉnh trong một đoạn. Atman chính là sự tỉnh táo. Atman là một linh hồn thượng đế, không sinh ra và chết đi, mà có ở khắp mọi nơi, là linh hồn thấu suốt tất cả, bản thân nó là sự Thức tỉnh.

Và khi con người bước ra khỏi cái Tôi cá nhân bé nhỏ khép kín, để bắt đầu học cách thấy trong sự sống mở, sự chia sẻ này trong atman không bao giờ là sự gắng sức, hay là kết quả của học tập và sự chuyên cần chăm chỉ.

“Chỉ kẻ nào tự lựa chọn mình, kẻ ấy đạt đến,” Katha-upanisád nói. Không do bất kỳ thực hành khắc khổ, yoga, kiến thức, ý thức kỷ luật hoặc sự vô tội nào đạt đến. Sự tỉnh táo đồng nhất với atman, với linh hồn thượng đế, đấy là ân sủng của atman.

Sự tính táo chứa đựng đặc tính siêu hình – tôn giáo. Cùng với sự tỉnh táo con người đạt tới sự bất tử. Bởi vậy sự tỉnh táo là trạng thái tôn giáo. Sự tỉnh táo đồng nhất với tín hiệu cao cả nhất, thánh thiện nhất. Sự thánh thiện này tạo khả năng cho sự Thức tỉnh là tất cả, ở mọi nơi, vĩnh hằng. Sự tỉnh táo không phải kiến thức mà là sự nhậy cảm. Sự tỉnh táo là cường độ của sự sống, và là cường độ cao nhất.

Sự tỉnh táo có thể đạt tới của con người với sự thức tỉnh atman có quan hệ như ngọn lửa nến với tia chớp. Con người cùng lắm thức tỉnh với sức mạnh của ngọn lửa nến, còn atman thức tỉnh với sức mạnh của tia chớp. Sự tỉnh táo là sự xán lạn tuyệt đối của linh hồn.

Sự tỉnh táo hoàn thiện là một linh hồn hoàn thiện, là ánh sáng hoàn thiện: Apollón, Oziris, Brahman, Ahura Mazda. Linh hồn tự thân, vượt lên trên một đời sống, là sự nhạy cảm nhanh nhạy biến thành sự sống, cái nhìn thấy tất cả, biết tất cả, cảm thấy tất cả, trải qua tất cả, hoàn toàn tự do, hoàn toàn sáng sủa, đấy là: Bồ tát (Buddha), là sự thức tỉnh, là ngộ.

Bởi vậy Zarathustra đã nói sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện tại. Bởi vậy các vị thần mặt trời ở các dân tộc đều có nghĩa là sự tỉnh táo, và các vị thần này vì thế tỉnh táo vĩnh hằng, những kẻ không bao giờ ngủ như Zebaoth, Ahura Mazda, Brahman, Oziris, Apollón, không biết giấc ngủ là gì.

Sự tỉnh táo mang ý nghĩa tôn giáo, bởi liên quan không phải đến đời sống con người mà đến mọi khả năng của sự sống, hay đúng hơn đến toàn bộ sự sống. Sự tỉnh táo là bất tử, như là bản thân atman, linh hồn bất tử.

Linh hồn không mang sang thế giới bên kia được gì khác ngoài sự tỉnh táo. Sự tỉnh táo là cái mang nó đi, dẫn dắt, nâng nó lên đến sự thánh thiện. Linh hồn, nếu thức tỉnh, hay đúng hơn nếu nó đạt được sự nhậy cảm siêu nhiên, siêu hình, nó sẽ vượt qua cả sự nhận biết và kiến thức. Sự nhận thức, kiến thức hướng ra bên ngoài, còn sự tỉnh táo không có hướng: sự nhậy cảm hướng ra ngoài, hướng vào trong, lên trên, xuống dưới, đến tất cả các hiện tượng của đời sống và sự sống siêu việt.

Bởi vì linh hồn đã thức tỉnh, khi ngày càng nhạy cảm với cường độ mạnh hơn, sẽ ngày càng trở thành bản thân nó nhanh hơn, ngày càng xán lạn và tỉnh táo tự thân hơn. Ngày càng từ bỏ đời sống khép kín và đồng nhất với trạng thái atman thánh thiện trong sự sống mở hơn.

Bởi vậy Isa-upanisád nói, khi con người đã hoàn toàn thức tỉnh, khác như trở thành một cái gì đó, khác, như không trở thành một cái gì đó: “Kẻ nào biết, không có chuyện trở thành một cái gì đó, nhưng hư vô hóa cũng không, và với hai nhận thức này bước qua cái chết, chỉ kẻ đó bất tử.”

Sự sống không là gì khác ngoài sự nhạy cảm cao độ của linh hồn. Và sự sống này là hiện thực duy nhất; đấy là cái có thực; là to on, như Platón nói. Tất cả những hình ảnh mộng, sự huyễn hoặc, maja, mé on không hiện thực. Chỉ linh hồn là: có.

Nhưng không phải linh hồn cái Tôi cá nhân mê ngủ, mỗi linh hồn trong một nhà tù riêng của nó, hay thế giới riêng của nó, mà là linh hồn – atman, thứ đã thức tỉnh và thấy, để biết: chỉ có một thế giới chung mà thôi: đấy là vũ trụ vĩ đại chung, là linh hồn thượng đế siêu việt. Bởi vậy kinh Veda nói: sự chuyển hóa chính là sự Tỉnh táo.


Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung
(Budapest.2011.06.18)

-----------------------
Source : http://damau.org

Hội Thảo An Ninh Biển Đông: Những Điểm Tranh Luận

Thứ Bảy, 25 tháng 6 2011
Hội Thảo An Ninh Biển Đông: Những Điểm Tranh Luận

Hội thảo về An ninh Hàng Hải ở Biển Đông do Trung tâm nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở thủ đô Washington đã kết thúc hôm thứ Ba, 21 tháng Sáu. Trong phần trao đổi khá sôi nổi vào lúc cuối ngày, một số câu hỏi đã được nêu lên với các diễn giả chính, kể cả những thắc mắc về bản đồ hình chữ U, vẽ vùng biển mà Trung Quốc đòi chủ quyền; và vì sao Hà nội không phản đối Bắc Kinh hồi năm 1974, khi Trung Quốc chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa sau một cuộc chiến ngắn với hải quân Việt Nam Cộng hòa.

Hoài Hương | Washington DC



Hầu hết những người phát biểu, ngoại trừ các đại diện của Trung Quốc, đều cho rằng những lập luận được dùng làm cơ sở cho đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên phần lớn diện tích Biển Đông, không có tính thuyết phục.

Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, giảng dạy môn Chính Trị Học tại trường Đại Học George Mason ở thủ đô Washington, nói đòi hỏi đó của Bắc Kinh là không có cơ sở.

GS Nguyễn Mạnh Hùng: "Đó là đòi hỏi mà người ta cho là quá đáng, Trung Quốc nói đòi hỏi đó có cơ sở lịch sử, nhưng mà không ai chấp nhận cả! Không thuyết phục được ai cả, tại vì ông ấy vẽ cái đường lưỡi bò, đòi hết cả 80% biển Đông vì thế ông ấy bảo là các nước khác khiêu khích, chứ thực sự Việt Nam không có khiêu khích."


Bà Bonner Glaser là Giám đốc ban Trung Quốc Học thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến Lược Quốc tế: “Trung Quốc phải đáp ứng những quan tâm đã được nêu lên về tấm bản đồ 9 đoạn của họ.”

Về sự kiện Trung Quốc quy lỗi cho Việt Nam và Philippine là đã khởi động đợt leo thang căng thẳng kỳ này, Tiến sĩ Trần Trường Thủy, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề Biển Đông thuộc Học viện Ngoại giao Việt Nam, nói rằng chính Trung Quốc mới là bên gây hấn, sau khi cắt dây cáp các tàu dò tìm dầu khí Việt Nam.

Đả phá lập luận của báo chí Trung Quốc cho rằng giới lãnh đạo Việt Nam đã khuấy động tình hình Biển Đông để đánh lạc hướng dư luận trong nước khỏi chú ý tới những vấn đề nội bộ, Tiến sĩ Thủy nói rằng chính Trung Quốc, bằng những hành động của mình, đã gây sự chú ý của dân chúng Việt Nam tới các vấn đề Biển Đông.

Tiến sĩ Trần Trường Thủy nói thêm rằng hình ảnh của Trung Quốc dưới con mắt người Việt đã xấu đi đáng kể, và giữa hai nước giờ đây cạnh tranh đang tăng, trong khi hợp tác ngày càng giảm.

GS Ngô Vĩnh Long: “Trung Quốc sẽ ngày càng cường điệu vấn đề Biển Đông và nhiều vấn đề khác, đe dọa an ninh của vùng Đông Nam Á, thì thế giới phải có trách nhiệm nói ra cho mọi người biết. Một cường quốc lớn như Mỹ có trách nhiệm đối với an ninh của khu vực Đông Nam Á bởi vì, như Ngoại trưởng Hillary Clinton đã nói, đây là quyền lợi của Mỹ.”

Đó là ý kiến của giáo sư Ngô Vĩnh Long, giáo sư môn Quan hệ Quốc tế của Trường Đại học Maine, chuyên nghiên cứu các vấn đề Đông-Á và Đông Nam Á.

Có mặt trong cử tọa, Tiến sĩ Trần Đình Hoành, luật sư tư vấn trong các lĩnh vực đầu tư và di trú hành nghề ở Hoa Kỳ, bầy tỏ quan ngại về số phận của hàng ngàn ngư phủ Việt Nam, trong hai năm qua đã bị Trung Quốc bắt giữ và xách nhiễu. Ông kêu gọi Bắc Kinh hãy nghiêm túc xét việc hủy bỏ lệnh cấm đánh bắt cá mà nước này đã đơn phương áp đặt, từ tháng Năm cho tới tháng Tám năm nay.

Tiến sĩ Hoành: “Chúng ta phải hủy bỏ lệnh cấm đánh bắt cá, không thể ban hành lệnh cấm đó để cho hàng trăm, hàng ngàn ngư dân không có khả năng kiếm sống trong 3 tháng trời. Họ đã bị bắt giữ, và liên tục bị quấy nhiễu trong suốt mấy năm qua.”

Tiến sĩ Hoành cho rằng không thể nói tới một giải pháp lâu dài trong khi nhiều người bị tác động hàng ngày vì chính sách của Trung Quốc.

Tiến sĩ Hoành: “Muốn đạt một giải pháp hòa bình, lệnh cấm đánh bắt cá phải bị hủy bỏ, bởi vì nó tác động đến quá nhiều người, khi nhiều người bị tác động như thế, thì quý vị phải hiểu là nó sẽ ãnh hưởng tới tư duy và chính sách của chính phủ. Chính phủ Việt Nam không thể khoanh tay đứng yên, không làm gì cả.”

Tiến sĩ Hoành nhắc tới cuộc chiến giữa Trung Quốc với hải quân Việt Nam Cộng Hòa hồi năm 1974: “Năm 1974, một cuộc chiến đã xảy ra giữa Trung Quốc và quân đội miền Nam Việt Nam, khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa, lúc đó Việt Nam còn bị chia đôi. Cuộc chiến đó khẳng định rõ rệt một điều, đó là Việt Nam chưa bao giờ nhượng lại quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Tôi muốn công khai nêu lên tại diễn đàn này sự kiện đó, bởi vì chúng ta chưa ai nhắc tới nó, và tôi muốn bảo đảm chúng ta hiểu rõ vấn đề.”

Giáo Sư Carl Thayer, thuộc Học Viện Quốc Phòng Australia, xác nhận rằng hồi năm 1974, khi Trung Quốc chiếm phần phía nam quần đảo Hoàng Sa, Hà nội đã không lên tiếng phản đối.

GS Thayer: “Tôi có một bài viết đăng trong những năm 1990, trích lời người Việt Nam nói rằng chúng tôi không phản đối 'bởi vì kẻ thù lớn hơn của chúng tôi là đế quốc Mỹ, và vì thế chúng tôi không bình luận gì về vụ đó'; nhưng cũng vì thế mà người Trung Quốc bây giờ cứ mang điều đó ra mà khai thác.”

Về bức thư của ông Phạm văn Đồng, giáo sư Thayer nói ông đã xem qua tài liệu này, đoạn thư liên hệ chỉ có 3 câu, và chỉ để trả lời việc Trung Quốc nới rộng các vùng lãnh hải của họ ra ngoài phạm vi được quốc tế chấp nhận.

GS Thayer: “Điều duy nhất mà Việt Nam đã làm là ghi nhận chuyện Trung Quốc nới rộng phạm vi lãnh hải của họ. Thế thôi. Đó là theo tôi hiểu, từ lâu tôi không đọc lại tài liệu đó, báo chí Trung Quốc đã tung ra bức thư đó sau cuộc chiến tranh biên giới, nhưng nó không có dính dáng gì tới việc ủng hộ cái bản đồ chữ U (của Trung Quốc) bây giờ.”

Điểm này được Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng giải thích rõ hơn:

GS N.M.Hùng: “Ông ấy nói là ông Phạm văn Đồng viết cái công hàm, sau khi Trung Quốc nói là tôi có chủ quyền trên cái đảo đó, thì Việt Nam bảo tôi đồng ý với ông Chu Ân Lai, như vậy nhưng ông Việt Nam giải thích rằng ông chỉ đồng ý theo luật biển, mà luật biển là từ đảo ra chỉ có 12 hải lý thôi, chứ không phải nhận tất cả các đảo đó là của Trung Quốc.”

Một thành viên của một tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách và chiến lược người Trung Quốc yêu cầu không nêu danh tính, bầy tỏ ý kiến như sau: “Trung Quốc có ý định tốt như bất kỳ quốc gia nào khác, tuy nhiên các cường quốc lớn, dù có ý tốt, có thể lâm vào tranh chấp vì một tính toán sai lầm, theo tôi, mở kênh thông tin để thảo luận với nhau là điều thiết yếu. Tôi nghĩ rằng chính phủ trung ương có thể đang cứu xét một thời điểm thuận tiện để có thể mở thảo luận.”

Bênh vực quan điểm của nhà nước Trung Quốc triệt để hơn là một nhân vật bị chất vấn nhiều nhất trong hội thảo 2 ngày, đó là Giáo sư Tô Hạo của trường Đại học Ngoại giao Trung Quốc. Nói chuyện với Ban Việt Ngữ Đài VOA, Tiến sĩ Tô Hạo nói vấn đề Biển Đông nên được giải quyết trong nội bộ các nước Á châu.

Ông cho rằng trong kỷ nguyên mới và một trật tự thế giới tương lai, Châu Á không còn phải nhắm mắt đi theo các giá trị Tây Phương, mà ông cho là không còn hợp thời trong thời hiện đại, khi mà Á Châu, và người dân khu vực có một thế đứng mới. Ông đề nghị một giải pháp toàn Á Châu, không có sự can thiệp của phương Tây, để giải quyết cuộc tranh chấp Biển Đông.




Hoai Huong - VOA
Cử tọa tham dự Hội Thảo An Ninh Hàng Hải Biển Đông tại trụ sở CSIS hôm 20 tháng Sáu, 2011

Nhưng Trung Quốc không phải là bên duy nhất bị chất vấn, một số người có mặt trong cử tọa đã nêu lên tính mơ hồ trong sách lược của Hoa Kỳ liên quan tới cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, một người Philippines phát biểu như sau: “Điểm tôi muốn nêu ra ở đây là liệu có tốt cho khu vực hay cho Hoa Kỳ hay không, khi mà Hoa Kỳ duy trì tính mập mờ về chiến lược như thế... Trong các vấn đề chính trị và quan hệ quốc tế, chúng ta cần phải rõ rệt để mọi người biết rõ đường đi nước bước của chúng ta, cũng giống như khi lái xe, muốn quẹo trái, chúng ta phải bật đèn báo hiệu trước, quẹo phải cũng thế, không làm như thế thì tai nạn rất dễ xảy ra. Tôi tin rằng sẽ có lợi cho khu vực nếu tất cả các bên liên quan minh định vị thế của mình. Chỉ khi nào mọi sự đều rõ rệt thì mới có hy vọng ổn định và duy trì ổn định khu vực.”

Giáo sư Ian Story thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore góp ý: “Tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Điều ông nêu lên rất đúng. Về mặt chiến lược, tôi tin rằng cần phải tránh sự mập mờ và Hoa Kỳ cần đưa ra quan điểm rõ rệt hơn về vị thế của Washington trong các vấn đề Biển Nam Trung Hoa, nếu không, như ông nói, tai nạn dễ xảy ra đưa đến những hiểu lầm, nhận thức sai lạc, rồi rốt cuộc, đến những tính toán sai lầm.”

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Ernest Bower, người dẫn chương trình tại hội thảo An Ninh Hàng Hải tại Biển Đông, cũng đồng quan điểm.

Ông Ernest Bower: “Tôi cũng đồng ý với điều đó. Sự minh bạch và cách ứng xử rõ rệt không những của Hoa Kỳ, mà của tất cả các bên liên quan là điều thiết yếu.”

Một số điểm tranh cãi khác gồm định nghĩa pháp lý của các từ được dùng, thế nào thì gọi là đảo, thế nào là bãi đá ngầm, đâu là thềm lục địa...vv, một người trong cử tọa nêu ý kiến: “Câu hỏi đặt ra là có thể làm chủ một thềm lục địa hay không, có thể nào sở hữu một thềm lục địa trong triều đại nhà Tống hay không? Tôi cho rằng điều rất quan trọng là khi nói tới các khái niệm, chúng ta phải rất rõ rệt, phải bảo đảm những khái niệm ấy thích hợp với thực tế tại hiện trường.”

Xem ra một giải pháp cho vấn đề Biển Đông vẫn còn rất xa vời, và cuộc hội thảo An ninh Biển Đông có thể là khởi điểm của một cuộc tranh luận, hy vọng dẫn tới một tiến trình vô cùng phức tạp để tìm một giải pháp không quân sự cho cuộc tranh chấp vẫn đang leo thang từng giờ.

Source : VOA

Quý vị có thể bình luận về đề tài hôm nay, đọc các tin mới nhất, xem phóng sự video, và trao đổi với các độc giả khác trên trang web của chúng tôi ở địa chỉ www.voatiengviet.com, hoặc các trang web xã hội Facebook, Twitter và Yahoo 360 plus.

Tìm bài viết này tại:
http://www.voanews.com/vietnamese/news/debate-on-south-china-sea-issues-csis-06-25-2011-124540784.html

TS Trần Vinh Dự - Diễn biến hòa bình mang màu sắc Trung Quốc (1)

Thứ Ba, 21 tháng 6 2011

Diễn biến hòa bình mang màu sắc Trung Quốc
Trần Vinh Dự


Diễn biến hòa bình (peaceful evolution) là một khái niệm độc đáo trong chính trị học của Việt Nam. Trang Báo Điện Tử của ĐCS Việt Nam có bài trích lược từ cuốn sách “Phòng, chống ‘diễn biến hòa bình’ ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Trung tướng Lê Minh Vụ - Giám đốc Học viện Chính trị quân sự và Thiếu tướng Nguyễn Tiến Quốc đồng chủ biên. Bài báo này giải thích khá dài dòng về diễn biến hòa bình nhưng không đưa ra một định nghĩa thực sự cô đọng.

Diễn biến hòa bình là gì?

Theo cách giải thích của bài báo trên, có vẻ như diễn biến hòa bình được hiểu là các biện pháp phi bạo lực của nước ngoài sử dụng nhằm chống phá Đảng CS và nhà nước Việt Nam. Các biện pháp này trải rộng trên cả 4 lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa/xã hội, và an ninh/quốc phòng.

Chính trị: các biện pháp nhằm mục tiêu gây khủng hoảng hệ thống chính trị.


Kinh tế: các biện pháp chống phá đường lối, chính sách kinh tế; thúc đẩy chuyển hoá cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế quan trọng.


Văn hóa/ xã hội: các biện pháp chống phá đường lối, chính sách văn hoá - xã hội; thúc đẩy sự biến đổi chệch hướng giá trị văn hoá, đạo đức; biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp; lợi dụng các mâu thuẫn, khiếu kiện, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và dân chủ.


An ninh/quốc phòng: các biện pháp chống phá đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và công an nhân dân.


Gần đây khái niệm diễn biến hòa bình ít được nhắc đến ở Việt Nam. Một phần vì các nội hàm của nó ít nhiều bị thay đổi. Thí dụ vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế và xây dựng kinh tế thị trường hay vấn đề tây phương hóa các giá trị văn hóa/xã hội không còn bị coi là nặng nề nữa mà được thừa nhận nghiễm nhiên như là một quá trình tất yếu.

Thế nhưng gần đây mối đe dọa mang tên Trung Quốc khiến nhiều người bắt đầu lo ngại. Và mặc dầu tôi không mấy tin vào một phong trào diễn biến hòa bình chống Đảng CS và nhà nước Việt Nam mang tầm vóc thế giới như nhiều người Việt Nam tin tưởng hồi những thập kỷ trước, tôi tự đặt câu hỏi liệu khái niệm này có áp dụng cho cái cách mà Trung Quốc đang dùng để tấn công Việt Nam trong giai đoạn này hay không?

Trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc

Đầu tiên phải kể đến là khái niệm “hòa bình” luôn được Trung Quốc lặp đi lặp lại trên tất cả các bài phát biểu quan trọng của quan chức ĐCS và nhà nước Trung Quốc. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố "Trung Quốc luôn cam kết gìn giữ hòa bình và ổn định tại Biển Đông" trong khi Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt (người dẫn đầu đội quân tiến vào Thiên An Môn hồi hơn 20 năm trước) thì nói Bắc Kinh “sẽ nỗ lực vì hoà bình, ổn định ở biển Đông”. Ở cấp cao hơn, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào cũng tuyên bố “đưa quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” Trung Quốc - Việt Nam phát triển lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình, ổn định và phát triển ở châu Á và trên thế giới” còn Thủ tướng Ôn Gia Bảo thì từ năm 2004 đã rao giảng khắp thế giới về học thuyết “trỗi dậy hòa bình” (peaceful rise) của Trung Quốc.

Trên thực tế, “trỗi dậy hòa bình” (hay sau này được gọi nhẹ đi là “phát triển hòa bình” – peaceful development) là học thuyết phát triển của Trung Quốc trong thế kỷ 21. Nó cho rằng từ trước tới nay sự xuất hiện của một siêu cường mới thường dẫn tới những thay đổi lớn trong cấu trúc chính trị của thế giới, và thậm chí cả chiến tranh. Lý do là các siêu cường này thường lựa chọn con đường bành trướng bằng bạo lực và vì thế tự đưa mình đến chỗ thất bại. Học thuyết này cho rằng trong thế giới ngày nay, Trung Quốc cần phải phát triển một cách hòa bình và duy trì một môi trường quốc tế hòa bình.

Theo cách nói của Thủ tướng Ôn Gia Bảo, sự trỗi dậy của Trung Quốc “sẽ không đem đến tổn thất cho bất kỳ quốc gia nào, và cũng không gây ra mối đe dọa cho bất kỳ quốc gia nào.” Còn theo cách nói của Kenneth Lieberthal, giám đốc quan hệ Châu Á của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Bill Clinton thì “chính sách này nhằm tạo ra ‘một môi trường cho phép tối đa hóa các cơ hội phát triển kinh tế của Trung Quốc’”.

Theo David Denoon, cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và là giáo sư về chính trị Châu Á tại Đại học New York được Council for Foreign Relations trích dẫn lại hồi năm 2006, Trung Quốc đã thể hiện được kỹ năng ngoại giao thực sự trong giai đoạn cuối thập kỷ 90 và đầu những năm 2000 qua việc hợp tác với ASEAN để giải quyết tranh chấp trên biển qua việc ký COC, thiết lập quan hệ ngoại giao và kinh tế với các nước Nam Mỹ và Phi Châu, tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với Pakistan và đạt được những tiến bộ lớn trong việc đàm phán với Nga và Ấn Độ. David Danoon cho rằng “Trung Quốc đã chuyển đổi từ chính sách cực kỳ hiếu chiến và bạo lực hồi năm 1970 và 1980 với việc sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự sang một con đường mới mang tính ngoại giao hơn nhiều vào những năm 90”.


SOURCE : VOA

( Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ )


Tìm bài viết này tại:
http://www.voanews.com/vietnamese/blogs/du/dien-bien-hoa-binh-06-21-2011-124299889.html

Trần Vinh Dự - Diễn biến hòa bình mang màu sắc Trung Quốc (2)

Thứ Năm, 23 tháng 6 2011

Diễn biến hòa bình mang màu sắc Trung Quốc (tiếp theo và hết)


Trần Vinh Dự

Từ trỗi dậy hòa bình sang diễn biến hòa bình

Cho tới nay, dựa trên các phát biểu của quan chức cao cấp Trung Quốc, có vẻ như cách tiếp cận phát triển không dựa trên chiến tranh vẫn được giới lãnh đạo nước này tôn trọng. Tuy nhiên, tinh thần của “trỗi dậy hòa bình” không còn được như trước. Với việc thế giới phương Tây rơi vào khủng hoảng và suy yếu, Nhật Bản chìm đắm trong hết “thập kỷ bị quên lãng” này tới “thập kỷ bị quên lãng” khác, và sự phát triển không ngừng về thế và lực của mình, đế quốc mới nổi này đã tỏ ra ít kiên nhẫn hơn so với những năm trước.

Một phần của sự thiếu kiên nhẫn này được thể hiện ở động thái hiện đại hóa quân đội, tăng ngân sách quốc phòng (vốn đã khổng lồ), tích cực phát triển các hạm đội ở Đông Hải và Nam Hải (Biển Đông Việt Nam), sản xuất tàu sân bay, thí nghiệm phát triển máy bay tàng hình, và đặc biệt là chuẩn bị cho năng lực thực hiện chiến tranh thông tin (Information Warfare – IW, hay còn gọi là Integrated Network Electronic Warfare” -INEW)

Một phần khác được thể hiện ở chỗ cách nước này xử lý các vấn đề liên quan đến tranh chấp với láng giềng cũng mang màu sắc hiếu chiến hơn, dù là tinh tế:

Ở phía Nam, tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông (DOC) trên Biển Đông do Trung Quốc đặt bút ký hồi đầu những năm 2000s không còn được nước này tôn trọng. Trung Quốc thường xuyên tấn công, bắt giữ, thậm chí giết hại ngư dân các nước Việt Nam và Philippines trên các vùng biển bị tranh chấp. Thông qua các lực lượng dân sự trá hình, Trung Quốc cũng thường xuyên ngăn cản các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của các nước này ngay cả trên phần thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của họ. Trung Quốc còn đang chuẩn bị đưa giàn khoan dầu có khả năng hoạt động ở vùng nước sâu vào khai thác tài nguyên dưới lòng Biển Đông. Những động thái này dẫn tới các phản ứng chính thức ở mức độ khác nhau cả từ Philippines và Việt Nam. Trong khi Philippines đang chuẩn bị kiện Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc thì ở Việt Nam liên tục nổ ra các cuộc biểu tình tuần hành phản đối đế quốc này.

Ở phía Đông, tàu chiến, kể cả tàu ngầm, và máy bay của Trung Quốc thường xuyên thăm dò, khiêu khích Nhật Bản. Các thỏa thuận về thăm dò và khai thác chung với Nhật Bản hồi năm 2008 (dưới hình thức một liên doanh) cũng nhanh chóng bị quên lãng. Không khí chống Nhật Bản ở Trung Hoa Đại lục cũng được đẩy lên rất cao với các cuộc biểu tình rầm rộ được nhà nước bật đèn xanh. Đáp trả lại từ phía Nhật Bản là các cuộc biểu tình chống Trung Quốc từ phía quần chúng và chính phủ Nhật Bản đứng về phía Việt Nam và Philippines liên tục lên tiếng phản đối các động thái khiêu khích của Trung Quốc trên biển.

Đối với Việt Nam, có lẽ vấn đề “diễn biến hòa bình” mang màu sắc Trung Quốc không chỉ dừng ở việc chèn ép Việt Nam trên biển. Nó còn thể hiện đa dạng ở nhiều mặt khác của đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội.

Đầu tiên phải kể đến ảnh hưởng ghê gớm của Trung Quốc đối với Việt Nam trên khía cạnh kinh tế. Chỉ trong bốn tháng đầu năm 2011, giá trị nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc đạt khoảng 7,1 tỉ USD, tăng gần 28% so với cùng kỳ năm 2010 trong khi xuất khẩu chỉ có gần 3 tỉ USD. Trong năm 2010, cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc thâm hụt 12,7 tỉ USD, gần bằng với giá trị nhập siêu của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Nhiều người cho rằng nếu “rút cái phích cắm” Trung Quốc thì cỗ máy kinh tế Việt Nam sẽ không thể vận hành được.

Điều này có cơ sở vì Việt Nam phải nhập rất nhiều máy móc, bán thành phẩm, và nguyên vật liệu từ Trung Quốc. Sự hiện diện của Trung Quốc ở Việt Nam cũng hết sức đáng kể với việc các nhà thầu của nước này trúng phần lớn các gói thầu lớn, đặc biệt là các gói thầu do nhà nước Việt Nam tổ chức đấu dưới hình thức EPC (theo số liệu của Diễn đàn kinh tế Việt Nam (VEF), có tới 90% công trình thượng nguồn ở Việt Nam như khai khoáng, luyện kim lọt vào tay các nhà thầu Trung Quốc).

Điểm thứ hai được nhiều người nhắc đến là sự xâm thực của văn hóa Trung Quốc trong hầu hết các mảng của đời sống xã hội của Việt Nam. Phần lớn các phim truyền hình được chiếu trên các kênh của Việt Nam là phim Trung Quốc (trừ một số phim Hàn Quốc hiện nay bắt đầu lấn sân). Sách truyện của Trung Quốc dịch ra tiếng Việt nhan nhản trong các cửa hàng sách Việt từ Nam ra Bắc. Thanh thiếu niên Việt Nam thuộc lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử Việt Nam.

Trên thực tế thì Việt Nam không phải là đối tượng duy nhất được Trung Quốc nhắm vào trong cuộc xâm thực này. Theo YaleGlobal, Trung Quốc đang nỗ lực mở rộng “quyền lực mềm” thông qua việc truyền bá văn hóa ra thế giới. Với đặc trưng lịch sử của mình, Việt Nam dễ dàng trở thành một trong những nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của chiến lược truyền bá văn hóa của Trung Quốc.

Điểm thứ ba là về mặt xã hội, Trung Quốc đang có một cộng đồng gốc Hoa rộng khắp và có ảnh hưởng lớn về kinh tế ở Việt Nam. Không chỉ thế, theo nhiều nguồn tin, việc di cư của lao động thô sơ Trung Quốc sang Việt Nam cũng là việc đáng lưu tâm. Theo Tuổi Trẻ đưa tin hồi đầu năm 2009, phần lớn các nhà thầu Trung Quốc khi thi công ở Việt Nam đều mang theo công nhân Trung Quốc. Trong cùng năm 2009, VietnamNet cũng đưa tin nhiều vụ gây rối của công nhân Trung Quốc chống lại dân Việt Nam địa phương.

Con số chính thức do Thiếu tướng Đặng Thái Giáp - Cục trưởng Cục Công tác chính trị, Tổng cục Xây dựng lực lượng, Bộ Công an, cho biết vào tháng 07/2009 thì có khoảng 35.000 lao động (thô sơ) Trung Quốc làm việc tại VN tại thời điểm đó, tập trung ở một số địa bàn trọng điểm như TP.HCM, Tây nguyên, miền Trung. Theo Thiếu tướng Giáp, một số doanh nghiệp Trung Quốc đưa người lao động vào cả các khu vực biên giới, vùng sâu, vùng dân tộc... tiềm ẩn những phức tạp về an ninh trật tự. Nhiều người không đủ tiêu chuẩn lao động, có người chỉ là lao động phổ thông nhưng vẫn được phía Trung Quốc cấp hộ chiếu công vụ; một số trường hợp nhập cảnh vào VN kết hôn với người Việt nhưng không đăng ký theo quy định.

Con số 35 nghìn người mà thiếu tướng Giáp đưa ra không phải là một con số quá lớn, nhưng cho tới nay nó đã là một con số cũ. Tuy nhiên đây cũng là con số đáng lưu tâm vì sự hiện diện về kinh tế (kéo theo sự hiện diện về con người) ở Việt Nam chỉ có tăng chứ không giảm.

Với việc ngày càng lấn át Việt Nam trên biển, đặt Việt Nam vào vòng ảnh hưởng ngày càng chặt về kinh tế, xâm thực về văn hóa, và tăng dần sự hiện diện của người Hoa trong xã hội, có vẻ như Trung Quốc đang đặt Việt Nam trong một quá trình diễn biến hòa bình mang màu sắc Trung Hoa.
---------------------------------


Source : VOA / Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự

Camarade -- Đồng chí

Camarade -- Đồng chí


by André Menras Hồ Cương Quyết —
Cập nhật : 24/06/2011 09:42

Cộng tác viên: Hàn Thuỷ (dịch)

André Menras Hồ Cương Quyết






Camarade



(A la mémoire de Jean Ferrat)


C’est un joli nom, camarade,
C’est un joli nom, tu sais.
J’ai rêvé de toi, camarade
Quand tu m’adoptais
Tu me rassurais, tu me protégeais
De ton corps meurtris, camarade
De tes yeux pleins de clarté.
Puis j’ai douté de toi, camarade
De ton cœur
Et de ta fierté.
C’est un nom terrible, camarade
C’est un nom terrible, tu sais.
J’ai rougi de toi, camarade
De ta matraque
De ton trousseau de clés.
Que fais-tu ici, camarade ?
Que fais-tu ici aujourd’hui ?
Laisse-moi passer, camarade,
Crier ma douleur, ma fierté.
As-tu oublié, camarade ?
Douleur du pays volé
Fierté de ne pas céder
Honneur de la prison
Déshonneur du geôlier
Viens à mes côtés, camarade
Pour te rassurer et nous protéger
C’est un joli nom, camarade
C’est un joli nom, tu sais...


HCQ




Đồng chí



(để tưởng nhớ Jean Ferrat)*


Tên ấy thực đẹp, đồng chí,
Tên ấy thực đẹp, anh biết không.
Trong giấc ngủ tôi nhớ anh, đồng chí
Khi đón nhận tôi
Anh làm tôi yên tâm, tôi được anh bảo vệ
Đồng chí, bằng thân thể bầm tím
Bằng đôi mắt đầy ánh sáng.
Rồi tôi đã ngờ anh, đồng chí
Ngờ tấm lòng anh
Ngờ cả niềm kiêu hãnh.
Tên ấy thực khó mang, đồng chí
Tên ấy thực khó mang, anh biết không.
Tôi xấu hổ vì anh, đồng chí
Vì dùi cui anh giương
Vì chùm chìa khoá ngang lưng.
Anh đến đây làm gì, đồng chí ?
Anh đến đây làm gì hôm nay ?
Đồng chí, hãy cho tôi đi tới,
Gào lên nỗi đau, gào niềm kiêu hãnh.
Quên rồi sao anh, đồng chí ?
Nỗi đau bị chiếm đoạt đất nước
Niềm kiêu hãnh đã không lùi bước
Vinh dự của người tù
Ô nhục của cai ngục
Hãy tới bên tôi, đồng chí
Để anh tự yên tâm, và bảo vệ chung
Tên ấy thực đẹp, đồng chí
Tên ấy thực đẹp, anh biết không...


Hàn Thuỷ dịch








* Chú thích của người dịch : Bài thơ này lấy cảm hứng từ bài hát rất nổi tiếng cùng tên – viết năm 1968 – của Jean Ferrat, ca sĩ lớn người Pháp; mà bạn đọc có thể nghe ở đây :

http://www.paroles-musique.com/paroles-Jean_Ferrat-Camarade-lyrics,p10267 .

Source : Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org - Contributeurs

25/6/11

Hoàng Cầm – một đời “nhớ tiếc”, một đời “níu xuân xanh”

Hoàng Cầm – một đời “nhớ tiếc”, một đời “níu xuân xanh”


Hoàng Hưng
Cập nhật : 19/04/2011 21:51




HOÀNG CẦM – một đời “nhớ tiếc”,
một đời “níu xuân xanh”





Hoàng Hưng






Là nhà thơ được yêu mến bậc nhất trong đời sống thơ đương đại, gần một năm sau khi lìa trần, Hoàng Cầm vẫn là một hồ sơ chưa được bạch hóa. Cả về đời lẫn về thơ.

Về đời, tuy ông đã kể khá nhiều với người hâm mộ, với giới truyền thông, nhưng tiếc thay phần lớn chỉ là những câu chuyện tình đã được thi vị hóa và huyền thoại hóa trước tiên bởi chính người kể và khuyếch đại sau đó bởi người nghe, trong khi phần quan trọng nhất trong văn nghiệp cùng những hệ lụy của nó lại chưa có cơ hội trình ra ánh sáng. Về thơ, có thể nói ngoài những tác phẩm tình ý rõ ràng như Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống..., thành tựu lớn nhất của ông là Về Kinh Bắc chưa được hiểu và phân tích đến nơi, một phần do tính chất mơ hồ, đa diện, đa nghĩa của một số bài quan trọng, mà chính tác giả cũng nói rằng mình không minh định được, ông còn sẵn sàng khoác thêm một màn sương khói hư hư thực thực bằng những câu chuyện kiểu như bài thơ ra đời từ tiếng ai văng vẳng trong đêm…

Lại nữa, truyền thông nước ta góp phần lớn vào việc làm cho công chúng cảm nhận Hoàng Cầm một cách phiến diện. Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất, ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai loại tình: tình quê hương quan họ và tình “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức văn chương.

Có lẽ đây là dịp để, sau những tràng vỗ tay ồn ào cũng như những vòng hoa thương tiếc, cả sau khi những ân oán thời cuộc thường chi phối sự nhìn nhận tác giả và tác phẩm đã lùi xa vừa đủ, ta có điều kiện lắng xuống, tịnh tâm để nhận diện con người và thơ Hòang Cầm một cách thuần túy hơn.

Tôi chưa dám nói về kịch thơ, truyện thơ Hoàng Cầm, ở đó ngay từ Kiều Loan, và sau đến Người con gái nước Tần, Trương Chi, tài năng của một nhà soạn kịch sóng với tài năng của người nhuần nhụy ngôn ngữ thơ đảm bảo giá trị cho những tác phẩm thuộc một thể loại sân khấu tiếc rằng vì hoàn cảnh lịch sử đã không được nuôi dưỡng. Tôi tự hạn chế trong lĩnh vực THƠ viết hoa.

Điều đầu tiên tôi muốn nói, Hoàng Cầm đa dạng hơn những gì công chúng quen nhìn thấy.

Ở nửa cuối cuộc đời, người ta dễ thấy ông, mà ông cũng thường tự nhận, là con người dễ dãi, uỷ mị, thậm chí nhu nhược, có gì đó nữ tính,“theo dòng mẫu hệ”. Có thể trong sâu xa con người ông phần “âm” có sẵn đã nổi lên do hoàn cảnh khốn cùng ông bị đẩy vào, trong hoàn cảnh ấy cái “âm”, cái “ẩn” có tác dụng bảo toàn, che chở. Cũng nên lưu ý đến tính nữ ở những vai nam trong quan họ hay chèo, một đặc trưng văn hóa dân gian đồng bằng Bắc Bộ mà Hoàng Cầm thấm đẫm. Vì thế người ta dễ quên đi gương mặt hùng của anh bộ đội Hoàng Cầm trong tấm ảnh mũ nan áo trấn thủ chụp ngày mới giải phóng thủ đô, quên đi giọng ngâm thơ sang sảng trên đài phát thanh của một Hoàng Cầm trong Đêm liên hoan “Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng/ Ta muốn hét cho vỡ toang lồng ngực/ Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn”. Mê mải những “em mặc yếm thắm em thắt lụa hồng” bên kia sông Đuống, ta bỏ qua những anh “bộ đội bên sông đã trở về/ Con bắt đầu xuất kích/ Đồn giặc bắt đầu run trong sương/ Dao lóe giữa chợ/ Gậy lùa cuối thôn.” Cũng như khi cùng tác giả trở về Kinh Bắc, bị ám ảnh quá nhiều vì cái lá Diêu Bông, cỗ bài tam cúc chị chị-em em, người ta không mấy quan tâm đến tâm trạng bi phẫn Trăng lên chém đầu ngọn gió, Cành si bưng chậu máu chát chao… Người ta cũng tránh nhắc đến dũng khí của một nhân vật chủ chốt Nhân Văn – Giai Phẩm, người quyết định công bố Nhất định thắng và sau đó khẳng khái bênh vực tác giả của nó (Con người Trần Dần).

Tất nhiên thơ Hoàng Cầm cũng đa dạng như con người ông. Và thay đổi khá nhiều theo theo thời gian, hoàn cảnh. Không thể nhận ra tác giả những lời thơ lãng mạn tuổi 20 “Những khoảng chiều buồn phơ phất lại/ Anh đàn em hát níu xuân xanh” trong những giai đoạn kháng chiến, đầu hòa bình. Nhưng đến những năm tháng của tuổi 70, 80 thì ta nhiều lúc bắt gặp ông trở lại nhạc điệu, thi ảnh, và cả ngôn từ của thời “vớt mắt em về bến hoá sinh”. Vâng, ở cái tuổi xưa nay hiếm, Hoàng Cầm vẫn chạy theo những mối tình đơn phương, ảo vọng, vẫn “níu xuân xanh” với hết sinh lực (không còn bao nhiêu) và thi lực (vẫn tràn đầy).

Giữa hai đầu lãng mạn đầu đời và “níu lãng mạn” cuối đời, ta có Hoàng Cầm thơ kháng chiến lượng không nhiều mà nổi đình đám chỉ cần với một Bên kia sông Đuống. Một Hoàng Cầm thơ trữ tình phê phán sắc sảo và cay độc thói quan liêu đạo đức giả: “Rúc đầu vào nách vợ/ Hút hít như chó con…Mắt thầy nhắm nghiền lại/ Thầy đọc kinh giáo điều… Dao ngọc với gươm vàng/ Chém nát nhừ trận gió…”, “Diễn văn cót két chân giường mới/ Gặm hết tình yêu hết ước mơ. Ta có cả một Hoàng Cầm biết tụng ca anh hùng với những hình tượng sáng tạo “Anh đứng là lưỡi cày/ Anh nằm là dòng mương/ Anh ngồi là cót thóc/ Anh đi là con đường”. Rất ít người để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam (U gì, tặng khối u của Đặng Đình Hưng) đầy bi phẫn kinh hoàng ác mộng: “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao”… “lố nhố nhiều u gì sau xe hình mắt lé mã tấu trùng trùng răng chuột mặt nạ người đẹp ngọt xớt thanh xà nép lá bồ đề”.


Về Kinh Bắc


Nhưng có thể nói, tác phẩm gắn chặt nhất với tên Hoàng Cầm truyền lại cho hậu thế phải là Về Kinh Bắc. Hoàn cảnh ra đời tối ưu cho một kiệt tác: tác giả bị dồn đẩy vào tâm thế chìm đắm hoàn toàn trong thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng lượng giải thoát độc nhất (“cô đơn là cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng” – Đặng Đình Hưng); tác giả đang ở độ chín tới của tuổi tác và tài năng.

Về Kinh Bắc là tổ khúc tám nhịp hồi quang một vùng văn hóa lịch sử, trên nền ấy nổi lên nhịp Năm gửi gắm tâm sự của một đứa “Em” (không) gửi tới “Chị”, người mà “Em” thầm yêu, cả tin, rồi vỡ mộng, nhưng chẳng dám thốt ra lời gì hơn là nỗi lòng bơ vơ, ngậm ngùi, có chút hờn trách.

Hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc. Với những chớp lóe ấn tượng thật gợi cảm trong nhịp Một, cũng là khúc dạo (prelude) của một đại tổ khúc, gồm năm đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - lướt nhanh một Kinh Bắc huyền tích (Néo Đông Triều khép mở gió kỳ lân/ Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ…), Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại… Gió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc (Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu… Kèn già lam ai tập thổi/ Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…). Với lịch sử bi hùng được kể trong ba nhịp Hai, Ba, Bốn. Với chân dung những người con gái đa tình, đa truân trong nhịp Năm. Với phác hoạ những hội hè trong nhịp Sáu. Có thể nói Về Kinh Bắc cùng với truyện thơ Tiếng hát quan họ và nhiều bài thơ lẻ cuối đời cho thấy Hoàng Cầm là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) và romance.

Nhưng cũng phải nhận rằng, Về Kinh Bắc in đậm vào dư luận và sống trong lòng công chúng phần nhiều ở chùm thơ đặc biệt trong nhịp Năm: bộ ba Cây, Lá, Quả (Cây Tam cúc, lá Diêu bông, Quả vườn ổi), mở rộng là bộ bốn (Cây, Lá, Quả, Cỏ - Cỏ Bồng thi). Không nói tới việc số phận đoạn trường của chùm thơ này kéo theo số phận đoạn trường của tác giả đã góp phần không nhỏ làm cho chúng nổi tiếng và được yêu mến, “đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm ngùi.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991).

Ngoài chùm thơ trên, có Về với ta, một bài làm thanh cả nhịp cuối, nhịp kết của tập thơ. Không nổi tiếng với công chúng rộng, nhưng bài thơ được đánh giá cao trong giới bạn thơ của tác giả và cũng là một trong những bài tâm đắc nhất của ông. Tôi nghĩ bài này chứa đựng những gì là Hoàng Cầm nhất.

Về mặt thi pháp, thực ra Về Kinh Bắc chưa tạo dựng một thi pháp nhất quán rõ rệt như ở Trần Dần, Lê Đạt, nhưng nó rất riêng một lối thơ Hoàng Cầm của thời kỳ này, cũng là lối thơ Hoàng Cầm nhất.

Trước tiên là một nhạc điệu Hoàng Cầm: dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt. Có thể nhận ra tất cả hồn quan họ ngân nga trong ấy. Thứ nhạc này khiến cho thơ tự do không vần của tác giả, trong khi theo sát diễn biến của từng tâm trạng cụ thể, thậm chí còn du dương hơn lối thơ vần điệu (cuối đời tác giả hay tự hát thơ của mình trong những cuộc gặp gỡ bỏ túi). Ta có thể gọi nó là “điệu tâm hồn Hoàng Cầm”.

Rất rõ một lối tạo hình Hoàng Cầm: xen tả với gợi, xen ấn tượng, biểu tượng với khắc hằn xuất biểu. Ở những bài thành công nhất, việc sử dụng biểu tượng gửi gắm những tâm ý không nói ra được (có thể là “tàn dư” của thủ pháp “biểu tượng hai mặt” thời Nhân Văn – Giai Phẩm nhưng đã từ tầng lý trí chìm xuống tầng sâu tiềm thức, bộc phát, nên sức ám ảnh rất cao), kết với sức gợi và ám của nhạc thơ, cho ta một Hoàng Cầm của thi pháp tượng trưng thời mới – tôi tạm gọi là “tân tượng trưng”.

Hoàng Cầm cũng có một kiểu dắt dẫn tuyến thơ: Một cách mở đầu hầu như bao giờ cũng tự phát từ sự mách bảo của tiềm thức, bản năng, không từ sự lập ý (cho nên ông hay nói về tiếng người trong đêm đọc câu thơ mở đầu cho bài thơ của mình), rồi phát triển bài thơ xen kể với tả, và cấu trúc bài thơ không bao giờ thiếu kịch tính.

Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm tài hoa óng chuốt bay bướm nhưng vẫn tự nhiên, tuy cũng có những lúc hơi lạm phát vàng son song ít khi rơi xuống sáo mòn.

Có một nét rất riêng Hoàng Cầm nữa: sự tạo dáng ký thác tâm trạng trong các bài thơ. Ngay từ Bên kia sông Đuống, cái dáng nghiêng nghiêng của con sông đã ám ảnh bao nhiêu người yêu thơ ông (có nhà nghiên cứu còn ngây thơ thử đi đo độ nghiêng của sông Đuống thực!). Trong một lần chở xe đạp nhà thơ trên phố dịp ông vào Sài Gòn lần đầu, tôi bỗng “phát hiện” cái thế nghiêng nghiêng của con sông có lẽ là từ cái dáng nằm nghiêng nghiêng của chính tác giả trong cái đêm trằn trọc nhớ về con sông quê sa vào tay giặc. Cái dáng này cũng như tiên cảm sự chông chênh của đời ông! (Đứng không yên ổn, ngồi không vững vàng – Kiều). Trong Về Kinh Bắc, ta gặp cái dáng bơ vơ Em đứng nhìn theo em gọi đôi, lạc lõng Từ đấy em đi khắp sông khắp núi/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới diêu bông, lủi thủi Lẽo đẽo em đi vườn mai sau/ Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng, bị du đưa như trong cơn mộng du Chị đưa em đến chốn này/ Cheo leo mỏm đá, chết đứng không trói mà không đi… em vọng ai đâu mà hóa đá… kìa rau muống dại kín em rồi…

Bao trùm tất cả, Về Kinh Bắc dựng lên một không khí, một thế giới Hoàng Cầm. “Thế giới thơ Hoàng Cầm như một cõi mơ giữ nguyên những cái không hề có thật, cái “lá diêu bông” là cái lá gì, “cầu bà Sấm bến cô Mưa” là ở đâu, nhưng cứ ngỡ như là thật; có những chất liệu bình dị của vùng quê Kinh Bắc một thời vừa đủ xa để nhớ tiếc, cỗ bài tam cúc đôi cá đòng đong... nhưng lại kết thành hư ảo hàm chứa một cái gì bí ẩn. Hoàng Cầm thuộc nòi thi sĩ giao tiếp được với người âm, biết cách gọi về những gì đã mất, đẩy cái trước mắt ra xa vời, nên thơ anh ám ảnh như mộng triệu đòi được giải mã.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991). (Tác giả rất tâm đắc ý cuối này, ông lấy nó khi viết Chân dung tự thú năm 1994: “Gọi chiều xưa trở lại/ Đẩy chiều nay về xa/ Thường trò chuyện với ma/ Như với người đang sống”).

Về Kinh Bắc là tập thơ được Hoàng Cầm sáng tác trong mùa Đông-Xuân 1959-1960 tại nhà riêng (43 Lý Quốc Sư Hà Nội), sau khi ông bị kỷ luật vì vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Bản thảo sau đó được ông chép tặng một số rất ít người quý mến mà số lượng ngày càng tăng dần, nhất là sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Tuy có tiếng xì xầm về những “ẩn ý” oán trách xã hội của một số bài trong đó, nhất là bài Lá Diêu bông, nhưng chưa hề có nhận định hay kết luận chính thức nào của các cơ quan hữu trách về tập thơ, cũng chưa hề có một quyết định nào không cho phép lưu truyền nó. Nhưng đến khoảng cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, khi một số bài thơ do Hoàng Cầm chép tặng được truyền ra hải ngoại, thì Về Kinh Bắc đã “thành vấn đề” đối với “các cơ quan chức năng”.

Năm 1982, một nhà văn người Việt từ Canada về xin nhà thơ chép tặng toàn bộ tập thơ để mang đi. Cùng lúc đó, tình cờ tôi từ Sài Gòn ra, cũng xin ông chép tặng để mang vào. Trong bối cảnh ấy vụ án Về Kinh Bắc ra đời với mục tiêu phá vỡ từ trong trứng một âm mưu “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.

Tháng 8 năm 1982, tôi – người mang tập bản thảo do Hoàng Cầm chép tặng với phụ bản tranh của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái và bìa của nhạc sĩ Văn Cao – bị bắt, ngay sau đó là tác giả của nó.

Trong quá trình điều tra, vì quá yếu mệt, để mong sớm được ra, nhà thơ đã nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ qua một số bài thơ trong tập và ông tỏ lòng ăn năn hối lỗi. Điều trớ trêu là, sau khi có lá thư thỉnh nguyện của một số trí thức Pháp gửi về xin trả tự do cho nhà thơ, ông lại bị kéo dài thời gian giam giữ. Ông được “tạm tha” sau 16 tháng “giam cứu” (giam giữ để điểu tra) tại Hỏa Lò (nhà tạm giam Hà Nội) và Trại tạm giam của Bộ Nội vụ - từ cuối tháng 8 năm 1982 đến cuối tháng 12 năm 1983.

Thời gian bị giam giữ đã ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe tinh thần của Hoàng Cầm. Phải đến hàng năm sau, nhờ sự động viên của bạn bè, ông mới dần hồi phục.

Sau Đổi Mới, một số bài trong Về Kinh Bắc được công bố trong vài tập thơ của Hoàng Cầm (Mưa Thuận Thành, Lá Diêu bông, Bên kia sông Đuống), trong đó có những bài quan trọng nhất mà dăm năm trước đây còn bị coi là “phản động”. Đến năm 1994 thì Về Kinh Bắc được xuất bản. Trong giải thưởng Nhà nước về VHNT trao cho Hoàng Cầm năm 2007, tuy Về Kinh Bắc không được nêu danh, nhưng có những tập thơ kể trên.

Sau Về Kinh Bắc, thơ Hoàng Cầm không còn tập trung được sức mạnh vào một tác phẩm lớn, không còn giữ được nhạc điệu rất riêng, nhưng thế giới thơ Hoàng Cầm vẫn hiện diện một phần ở tâm trạng tải trên hàng trăm bài thơ lẻ. Một tâm trạng tha thiết đòi yêu, níu yêu, không cam chịu, nhưng không giấu được tiếng thở hắt phẫn chí, ngậm đắng, nuốt cay: Gió cấp ba thổi méo thân hình… Vào tim dao khía bịa ra cười… Thứ thuốc mà ông mang tên càng già càng đắng.

Cuộc đời và thi nghiệp của Hoàng Cầm là một trường hợp điển hình cho điều mà tôi coi là một trong những “bí quyết” thành công trong văn giới Việt Nam đương đại. Đó là sự “nằm giữa”. Nằm giữa con người thi nhân và con người chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), con người Hoàng Cầm là một mẫu lý tưởng ngấm ngầm cho một bộ phận trí thức văn nghệ sĩ; thất bại trong cuộc đời tranh đấu phủ thêm hào quang cho thi nghiệp của ông. Nằm giữa lối sáng tác truyền thống coi cảm hứng từ chính cuộc đời mình là động lực tự nhiên với ý thức về sự làm mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt. Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương Tây. Nằm giữa kể chuyện và giãi lòng. Nằm giữa thực và mộng, lộ và ẩn, hình ảnh và biểu tượng, huyền thoại và chuyện thật, văn chương và thế sự. Thơ Hoàng Cầm dễ lan truyền mà không bình dân, đáp ứng tâm lý thưởng thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá đặc biệt, khi văn nghệ đang chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó; trong cảnh tranh tối tranh sáng, tiếng xì xào lắm khi còn mạnh hơn lời bình chính thức.

Ngẫm lại một đời thơ ông, tôi thấy ngay từ thưở 20 đến khi về cõi, ông như không thôi bị ám ảnh bởi cái nhu cầu nội tâm sâu xa đọng trong một chữ NÍU.

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh

Bao nhiêu tha thiết hàm chứa cái gì bất lực, tội nghiệp trong câu thơ từ 70 năm cũ dự cảm một điều quý báu nhất sắp vuột khỏi tay.

Đời ông là cả một đời nhớ tiếc những cái đã mất ấy (“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao xót xa như rụng bàn tay”), mà ông chỉ hòng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh. Níu một mối tình ảo,níu một thời trầu cay mà đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu lòng ta cũng vì thế.




Hoàng Hưng


Bán đảo Tân Phong mùa trăng tháng 3/2011


-----------------------


Nguồn : Bài in trong tuyển tập Thơ Hoàng Cầm do Công ty Nhã Nam phát hành tháng 4/2011 đã bị biên tập cắt, sửa một số chỗ. Đây là bản gốc tác giả gửi Diễn Đàn.