7/8/13

Trần Doãn Nho - Tự Lực Văn Đoàn và chuyện văn phong





“- Trời muốn trở rét…
Nói xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống lại hết cả những ngày mới trở rét trong đời.”
(Đôi bạn)
“Trời lạnh”, “trời rét” là sự kiện. “Trời trở rét” nghe đã khác. “Trời muốn trở rét” lại càng khác hơn và trở thành một cái gì riêng của Nhất Linh. “Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn” lại càng riêng hơn nữa.
Cũng là trời rét, nhưng Dương Nghiễm Mậu viết khác hẳn:
Trời trở rét làm cho nền trời co nhàu lại, mọi người đi đứng một cách nhẹ nhàng như con mèo khôn khéo lựa mình chui vào lần chăn trong đêm mùa lạnh” (Tuổi nước độc)
Những cái khác, cái riêng đó tạo nên một hiện tượng ngôn ngữ gọi là văn phong.
Mô tả thân xác một con người ta có nhà sinh lý học, mô tả trăng sao, ta có những nhà thiên văn học, mô tả cây cỏ sông núi, ta có những nhà địa lý học, nói chuyện đạo đức thì có những nhà tu hành, chuyện học hành thì có những nhà giáo dục. Những cách viết đó, ta cần sự kiện, cần chi tiết, cần tài liệu và tất nhiên cần văn phạm, cú pháp, nhưng không cần một cái gì quá riêng gọi là văn phong. Nhưng viết văn thì cần văn phong. Hay nói một cách khác, chỉ có văn phong mới tạo nên những nhà văn.
Có lẽ ông Buffon là người đầu tiên bàn về văn phong trong nghệ thuật viết văn. Trong bài diễn văn Discours sur le style[1] đọc trước Hàn Lâm Viện Pháp vào tháng 8/1753, Buffon đưa ra một lời phát biểu đã đi vào lịch sử: Văn tức là người (Le style, c’est l’homme). Nhận xét này – theo Nhất Linh[2], do Phạm Quỳnh dịch ra tiếng Việt – trở thành danh ngôn bàn về chuyện viết văn, thực ra khác với nguyên văn. Nguyên văn của nó là: Ces choses sont hors de l’homme, le style est l’homme même.[3] Những sự vật này (tức là lượng kiến thức, những sự kiện độc đáo…) thì nằm ngoài con người, nhưng văn phong chính là con người. Theo tôi hiểu, văn là để diễn tả sự vật, nhưng không phải là sự vật, mà nó là sản phẩm của chính con người. Nói cách khác, con người không tạo ra sự vật, nhưng tạo ra văn phong. Văn phong, do đó, mang tính cách người. Tính cách người nói chung chứ không phải là cá tính nhà văn. Tất nhiên, văn phong có thể phản ảnh một phần nào đó con người riêng tư của nhà văn, nhưng không có nghĩa là phản ảnh tính tình, phẩm cách nhà văn. Viết hung bạo không có nghĩa là nhà văn ấy tính tình hung bạo, viết thanh cao không có nghĩa là tính tình nhà văn ấy thanh cao, viết bạo về tình dục không có nghĩa là nhà văn ấy đa dâm. Biến sự vật bên ngoài, qua trung gian của những con chữ, thành một cái gì để con người thưởng thức, lưu giữ, xúc động và hành động…chính là văn phong.
Quan niệm của Nhất Linh và Thạch Lam về chuyện viết

Nhất Linh bàn khá kỹ về vấn đề văn phong trong Viết và đọc tiểu thuyết [4]. Theo ông, "Văn tức là người" là một câu vắn tắt chỉ cốt bày tỏ rằng: mỗi người có một lối văn khác biệt, không ai giống ai. Tâm hồn nhà văn, ý tưởng cùng sở thích riêng của từng nhà văn không ít thì nhiều cũng biểu lộ ra trong lối hành văn, người đọc có thể nhận được nếu tinh ý (…) Nói tóm lại "con người" của nhà văn thế nào cũng biểu lộ ra trong văn, không sao giấu giếm được.
Tuy thế, Nhất Linh khẳng định: “Trong tiểu thuyết, không cần văn chương”. Vì “văn trong tiểu thuyết là thứ ít quan trọng nhất.” Theo ông, “đặt văn chương lên một bực quá ư quan trọng trong tiểu thuyết” là một điều sai lầm. Ông cho đó là một thành kiến văn chương, và chính cái thành kiến văn chương đó đã cản trở nước ta không có những truyện hay. Để viết được một cuốn truyện, cái chính là “có những chi tiết, việc xảy ra hay, nhận xét đúng, hiểu biết thâm thúy cuộc đời và sự rung động tế nhị; những cái ấy mới khó, nghìn vạn người mới có một. Viết xong chỉ việc nhờ người sửa lại cho đúng mẹo, đúng chính tả, chấm câu cho mạch lạc; việc này có hàng vạn người làm nổi. Những mánh khóe về viết: đặt câu cho khỏi sai mẹo, chỗ nào nên xuống dòng, nên chấm phẩy, chấm câu, chỉ ít lâu là thâu thái được, không khó gì.” Ông cho rằng “đức tính” của một tiểu thuyết gia là: một linh hồn phức tạp, dồi dào, dễ rung động, một bộ óc có trí nhận xét, quan sát tinh vi, hơn cả những người có học rộng (bởi vì học rộng đến đâu cũng không làm cho tâm hồn mình dễ cảm xúc hay nhận xét giỏi hơn).”
Để chứng minh cho luận điểm này, Nhất Linh dẫn chứng tài kể chuyện của những ông đồ, ông khóa, theo đó, “Chỉ bằng vài nét nho nhỏ, những người đó đã làm cho các nhân vật như sống dưới mắt ta với cả những việc xảy ra trong đời sống hằng ngày với tất cả cái phức tạp xấu lẫn đẹp của cuộc đời. Lúc họ kể chuyện họ tự nhiên, họ thành thực, họ chính là họ (…) Chính tôi đã được nghe một bà kể lại cho nghe một chuyện vừa xảy ra, bà ta kể một cách linh động và rất dí dỏm đến nỗi tôi thấy tôi cố rán sức viết lại cũng không thể nào hay hơn được. Bà ấy thực đã "viết tiểu thuyết" bằng lời nói, bà đã "viết văn" bằng lời nói.”
Dẫu văn “không giữ địa vị quan trọng trong tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết vẫn có văn.” Văn, theo Nhất Linh, là “xếp đặt chữ, hoặc xếp đặt câu theo một thứ tự nào để chữ và câu diễn được đúng cái ý mình định diễn tả.” Ông đề cao cách viết giản dị. Thế nào là giản dị? Giản dị là viết “như lời nói thường, càng giản dị, càng không có văn chương càng hay. Khi nhìn thì nói nhìn, đi thì nói đi, quả tim đập thì nói quả tim đập v.v…”. Ông cho rằng điều quan trọng là “tìm ra được những chi tiết hay”. Nếu không tìm ra được những chi tiết hay thì “có nắn nót đến mấy đi nữa văn vẫn là văn trống rỗng, không đánh lừa được ai.” Nói tóm lại, khi mình đã có được cái chính (nhận xét đúng, nhìn đời một cách riêng biệt, tìm được những chi tiết hay, v.v…) thì mình sẽ thành được một văn sĩ có tài, còn văn chương chỉ là thứ phụ thêm vào.
Chính trong quan điểm đó, ông thích Tolstoï vì “lối văn của Tolstoï lúc nào cũng trong sáng giản dị như lời nói thường mà vẫn sâu sắc vô cùng.” Và ông không mấy thích Dostoïevsky, vì “Lối văn của Dostoïevsky nặng nề khó hiểu, loanh quanh”. Ông nhận thấy “Sự băn khoăn của Tolstoï (nhất là khi ông trở về già) khác hẳn sự quằn quại bệnh hoạn của Dostoïevsky”.
Trong một cái nhìn như thế, Nhất Linh không thích những nhà văn “cách tân” sau này. Ông gọi họ là “những nhà văn lập dị", chỉ chú trọng quá về mặt hình thức. Ông quả quyết: “Hình thức của họ chỉ là một thứ hình thức kỳ quặc để cốt độc giả chú ý và tưởng họ thâm thúy. Nhưng độc giả họ tinh khôn lắm, không dễ bị ai đánh lừa và lối văn lập dị hiện nay chẳng bao lâu cũng sẽ biến mất.” Ông khen họ là có đầu óc tìm tòi cái mới lạ, nhưng theo ông, văn phong chỉ là cái vỏ bề ngoài. Mà “cái vỏ ngoài thì dù đẽo gọt chạm trổ khéo đến đâu, làm cho nó lạ mắt đến đâu, cái vỏ bao giờ cũng chỉ là cái vỏ.” Nhất Linh kết luận về văn phong: “Tuyệt đích, đối với tôi là viết giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn hơi điểm một chút khôi hài rất nhẹ, kín đáo.”
Viết và đọc tiểu thuyết, được viết từ 1952-1960, không phải là một lý thuyết văn học, hiểu như một quan điểm được soạn thảo nhằm xây dựng và hướng dẫn một khuynh hướng văn học, mà chỉ là một tổng kết kinh nghiệm về việc viết (và đọc) tiểu thuyết của chính ông, đồng thời “giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ”, nhất là những ngườimới bước chân vào làng văn.”
Trước đó khá lâu, Thạch Lam, trong Theo giòng, vài ý nghĩ về văn chương[5], đã bàn về việc viết và đọc tiểu thuyết. Cũng như Nhất Linh, Thạch Lam cho rằng “văn tức là người”. Ông viết: “Theo ý tôi, một tác phẩm nào của nhà văn cũng có một chút ít nhà văn trong ấy; muốn dùng danh từ gì mặc lòng, tả chân, khách quan, hay chủ quan, cái bản ngã của tác giả cũng lộ ra trong những câu văn tác giả viết.” Thạch Lam nhấn mạnh đến vai trò của tâm hồn. Theo ông, “tài năng không phải ở cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo mà thôi.”[6]
Cũng như Nhất Linh, Thạch Lam chuộng sự thành thật, xem thành thật là tiêu chuẩn để trở thành nhà văn. Một nhà văn “không thành thực, không bao giờ trở nên một nhà văn có giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay mà thôi.”[7] Tại sao phải thành thực? Vì “Sự thật bao giờ cũng giản dị và sâu sắc”[8] Trong tiểu thuyết, xây dựng một nhân vật hoàn toàn quá, thánh thiện quá, chỉ đó chỉ là loại phường tuồng. “Một nhân vật hoàn toàn là một nhân vật không thực” và gọi cái “hoàn toàn” đó là một thứ “hoàn toàn” lạnh lẽo, theo ông.[9]
Tuy nhiên khi bàn về cách viết, Thạch Lam khác với Nhất Linh. Trong lúc Nhất Linh quả quyết rằng “văn trong tiểu thuyết là thứ ít quan trọng nhất” và do đó, “đặt văn chương lên một bực quá ư quan trọng trong tiểu thuyết” là một điều sai lầm thì với Thạch Lam, “Bên ta, có bao nhiêu người viết văn, tưởng mình là văn sĩ, là thi sĩ một cách quá dễ dàng. Họ làm thơ để có một bài thơ, viết truyện để có một quyển truyện. Họ không muốn một tý cố công nào, họ viết thế nào xong thôi, thế nào cũng được. Làm thợ, đi buôn còn phải khó nhọc, còn phải học nghề; tại làm sao viết văn lại không muốn học, không muốn cố?” Những người này, theo ông, “cái gì cũng viết, chỗ nào cũng đăng, làm cho ta chán nản”. Ông tán đồng ý kiến của André Gide khi nhà văn Pháp nổi tiếng này cho rằng “Nếu họ viết ít đi, ta sẽ thấy thích viết hơn” vì, theo Gide, trong chuyện viết, “Có hai mươi cách diễn đạt ý tưởng, nhưng chỉ có một cách là đúng”. Thạch Lam, trong khi chê bai loại nghệ sĩ mà ông gọi là “thợ văn khéo” nhưng thiếu tâm hồn, lại nhấn mạnh về vai trò quan trọng của việc viết văn: “Trước khi đến được cách đúng ấy còn phải bao nhiêu ngày giờ, bao nhiêu khó nhọc, bao nhiêu công tìm. Mà cũng có khi chỉ cần đến chỗ đúng mà thôi. Những nhà văn giá trị ít khi mình lại tự bằng lòng mình. Mỗi câu văn viết ra thường là một dịp cho họ ân hận, băn khoăn.”[10]
Về cách viết văn, tôi đồng ý với Thạch Lam.

Văn phong: cuộc phiêu lưu của chữ

Văn phong, nói chung, là cách viết. Tất nhiên là viết thì phải có câu, có kéo, phải nắm vững từ ngữ, ngữ âm, các quy tắc tu từ của ngôn ngữ, biết cách mô tả các chi tiết, vân vân, tức là biết cách dùng câu, chữ cho phù hợp với sự kiện, hoàn cảnh và nhân vật. Nhưng viết như thế nào không phải là điều đơn giản. Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến của Nhất Linh khi ông cho rằng “đức tính” của một tiểu thuyết gia là “một linh hồn phức tạp, dồi dào, dễ rung động, một bộ óc có trí nhận xét, quan sát tinh vi” nhưng hoàn toàn không tán đồng lối nói khẳng định của ông “Trong tiểu thuyết, không cần văn chương”. Nhận xét này có gì mâu thuẫn với những nhận xét khác, cũng của Nhất Linh, theo đó, viết hay là “tả đúng sự thực”, “diễn tả được một cách linh động” các trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh, tế nhị của tâm hồn”. “Tả đúng”, “diễn tả được một cách linh động” chính là văn phong hay theo cách dùng chữ của ông, “văn chương”. Với văn phong, ta mới có thể biến những cái – theo cách nói của Nhất Linh – “giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc”, những cái “mông lung bí ẩn của tâm hồn” thành hiện thực. Nếu như thế, theo tôi, viết không đơn giản chỉ ghi lại trung thực những gì xảy ra rồi “nhờ người sửa lại cho đúng mẹo, đúng chính tả, chấm câu cho mạch lạc” là xong.
Nhất Linh đưa ra những người có tài kể chuyện như là bằng chứng cho luận điểm của ông. Thực ra, kể chuyện (hay) hoàn toàn khác với viết (hay). Kể chuyện cũng như diễn kịch: có tiếng nói, có âm thanh, có thái độ, cử chỉ cụ thể, có bày tỏ cảm xúc; những yếu tố này góp phần làm cho lời kể – những con chữ nói ra – trở nên sống động. Tuy nhiên, khi viết lên giấy, tức là sử dụng những ký hiệu vô hồn, thì mọi điều khác hẳn. Viết làm sao cho những ký hiệu này có âm thanh, có màu sắc, gây nên cảm xúc vân vân đòi hỏi phải vận dụng chữ một cách nào đó, vừa phản ảnh những trạng thái phức tạp của tâm hồn vừa truyền đạt chúng đến người đọc. Văn phong quan trọng ở chỗ đó. Không tạo nên được một văn phong cần thiết thì không thể có văn chương, dù tâm hồn của anh có phong phú, sâu sắc đến đâu chăng nữa!
Hãy đọc một đoạn văn bình thường, rất bình thường của Nhất Linh:
Bóng chiều sẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong hơn lên, trong như không có nữa, mong manh như sắp tan đi để biến thành bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoảng đưa, hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều? Mắt Loan lặng nhìn Dũng, nàng nói:
- Em nghe thấy tiếng sáo diều ở đâu
Dũng đặt tay vào rá đậu ván tìm mấy chiếc lá lẫn trong quả đậu.
- Tôi thích trước cửa buồng có một giàn đậu ván vì hoa đậu ván đẹp
Loan đáp:
- Hoa đậu ván màu tim tím…
Nàng nói câu ấy, tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì. Một bàn tay Loan rời cạnh rá, đặt gần tay Dũng. Mấy ngón tay thong thả cời những quả đậu lên lại bỏ xuống. Dũng nghĩ nếu lúc này đặt tay mình lên tay Loan và nắm lấy, Loan sẽ yên lặng: Loan, cũng như chàng, chắc sẽ phải cho thế là một sự tự nhiên. Một giây phút đợi chờ.
Đoạn văn này tả sự kiện “tình trong như đã” của hai nhân vật Loan và Dũng trong “Đôi bạn”. Câu kéo rất đơn giản, không có gì cầu kỳ, tưởng như cầm bút lên là viết được. Nhưng không phải thế! Đọc một đoạn văn như thế, người ta thường có cảm giác rằng có một Loan đàn bà và một Dũng đàn ông đang đứng gần nhau, rằng có mùi thơm, rằng có tiếng sáo diều, rằng có hoa đậu ván màu tim tím và nhất là tưởng rằng có bàn tay của Loan đặt gần tay Dũng và Dũng muốn đặt tay anh ta lên tay Loan, vân vân và vân vân. Thực ra, tất cả chỉ là cách sắp chữ: từ “mong manh như sắp tan”, “lặng nhìn”, “hoa đậu ván màu tim tím”…cho đến “tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì”, “thong thả cời những quả đậu lên rồi bỏ xuống”, “Loan sẽ yên lặng”, “một giây phút đợi chờ”. Nhà văn đã dùng văn phong của riêng mình, để tạo cho ta cái cảm giác (rất thật) rằng có những sự kiện như thế. Nhà văn đã dùng cái giả để tạo ra cái thật. Chính Nhất Linh, khi đề cập đến kỹ thuật viết trong các tác phẩm “luận đề” của mình, cũng thú nhận: “Độ ấy tôi chỉ coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván bài, họ không phải là cái chính và chỉ dùng những chi tiết nào lợi cho cái ý chứng tỏ của mình không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại luận đề của mình.”[11]
Thực ra, theo tôi, không những nhân vật mà tất cả các chi tiết nêu ra đều là “những quân cờ” và điều này diễn ra không chỉ trong những tác phẩm luận đề, mà trong tất cả các cuốn tiểu thuyết khác của Nhất Linh. Viết là chọn cách viết, là sử dụng chữ để mô tả những gì mà mình cho là cần thiết. Có lẽ vì thế mà Huỳnh Phan Anh có một cái nhìn rất khác về Nhất Linh trong “Bướm trắng”: “Bướm trắng  không chỉ là một cuốn sách thêm vào số lượng tác phẩm của Nhất Linh. Nó còn thể hiện ước muốn tích cực của người viết, viết chống lại những gì mình đã viết, viết không có nghĩa là viết lại một tác phẩm nào đó đã viết, viết khác đi, viết như thế tác phẩm mình chưa hề hoàn tất, cũng chưa hề bắt đầu và chỉ đang hứa hẹn”.[12] Cũng ở điểm này mà Phan Huy Đường cho rằng “văn không là người” vì cùng một người có thể có nhiều văn phong khác nhau. Ông viết: “Văn không là người, nó hiện-thực dưới dạng ngôn-ngữ quan-hệ của một người với thế-giới ở một thời điểm nhất định của đời mình trong một vấn đề và một hoàn cảnh lịch-sử nhất định của loài người.”[13]
Khác với cách nhìn của Nhất Linh, tôi nhận thấy chính văn phong của Nhất Linh đã tạo nên Nhất Linh, chứ không phải là những điều linh tinh khác.
Cách viết của mỗi tác giả ở mỗi tác phẩm, với tôi, là một điều bí ẩn. Cái lạ là, nó không có gì bí ẩn cả. Cũng chừng ấy chữ, cũng chừng ấy dấu chấm, phẩy, ai cũng viết ra được. Thế mà không phải ai cũng viết ra được như thế. Lại càng không bắt chước được. Nếu muốn viết thì rồi cũng viết ra được một cái gì đó, nhưng một là, nó nhạt nhẽo, vô hồn, hai là nó không giống ai. Chẳng thế mà Thạch Lam bảo viết một câu văn ra không dễ, mà phải học, phải tìm, phải cố. Cách viết văn đâu chỉ là cái mẹo về văn phạm, ngữ pháp! Vì như Nhất Linh nói, văn, có người viết điềm đạm, có người viết, hóm hỉnh, có người viết nặng nề, có người viết tối tăm, bí hiểm…Cái điềm đạm, hóm hỉnh hay nặng nề, bí hiểm đó đến từ đâu nếu không biểu lộ qua cách viết. Tôi gọi đó là hơi văn, hay nói giản dị hơn, hơi chữ. Hơi chữ khác từ tác giả này đến tác giả khác. Đôi khi cùng một tác giả, mà mỗi bài, mỗi truyện hay thậm chí mỗi đoạn lại có một hơi khác nhau. Cũng có bài, ta không thấy có hơi. Trong lúc đó, có một số tác giả, văn của họ tỏa ra một hơi hướm riêng biệt vì có cách hành văn khác thường, độc sáng. Có khi, cách viết làm cho ta say mê đến nỗi quên cả cốt truyện và nhân vật. Hơi văn, hơi chữ có thể không quyết định chuyện hay, dở của một tác phẩm nhưng nhất định nó đóng góp phần riêng rất lớn của nó vào đó.[14]
Trong cuộc thăm dò sự vật và tương quan giữa con người và sự vật, tiếc thay và cũng vui thay, chúng ta không có cách nào, không có phương tiện nào khác ngoài những con chữ. Nhân vật, sự kiện, thái độ, tiếng khóc, nụ cười, nỗi buồn, niềm vui cho đến trăng, sao, mây, nước, gì gì thì cũng phải qua chữ. Đau cũng phải dùng chữ mà đau, nhớ thì cũng phải dùng chữ mà nhớ. Khi bàn về một tiểu thuyết hay một truyện ngắn, ta thường bàn về nhân vật, về cốt truyện, về sự kiện, về tư tưởng, tưởng như không có chúng sẽ không có văn chương. Ta quên rằng chất liệu để chúng thành hình là chữ, hay nói cho đúng hơn là cấu tạo chữ, là xếp đặt chữ làm sao để cho chúng trở thành những sinh thể. Ấy thế mà, ta chỉ có vài chục chữ cái, khoảng chừng vài ngàn từ vựng và một số rất giới hạn các dấu chấm câu! Chính vì thế, văn phong theo tôi, – xin dùng lại một chữ của Paul Ricoeur – là “một cuộc phiêu lưu của chữ” (aventure du mot).[15] Phiêu lưu vì trong văn chương, người ta dùng cái giới hạn của chữ để nói lên những điều vô hạn của cuộc đời. Không phiêu lưu thì văn phong chỉ là một trò vẽ chữ vô hồn.
"Chuyến tầu đêm nay không giống như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sang hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.
Con tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu. Ðêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng." (Hai chị em/Thạch Lam).
“Con tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua.” Với một cách sắp chữ độc đáo như thế, câu văn đọc lên nghe vang vang cả một trạng thái tâm hồn phức tạp: ước ao, tiếc nuối, buồn, tuyệt vọng…
Nhà văn, như thế, không viết chữ mà điều động chữ, hà hơi thở sống vào trong chúng. Và khi cần, họ bất chấp văn phạm, mẹo luật. Họ vượt ra ngoài những quy tắc ngữ pháp thông thường. Họ lệch chuẩn. Chẳng thế mà Henry de Montherlant (1895-1972), nhà văn Pháp, phát biểu:“ Nhờ sự táo bạo dám phạm những lỗi văn phạm mà chúng ta có được những nhà văn lớn.”[16] Đúng thế, trong cuộc phiêu lưu của mình, chữ có khi như muốn phá tung mọi xiềng xích của ngữ pháp, mẹo luật. Chúng muốn được giải thoát, tự do. Trong một số trường hợp, câu thúc chữ sẽ đồng nghĩa với câu thúc trí tưởng tượng và câu thúc ham muốn diễn tả. Cái lạ là: dường như càng ra ngoài vòng cương tỏa của cú pháp, càng “lệch chuẩn”, thì chữ có lúc lại càng phản ảnh được nhiều hơn bản chất của sự việc, sự vật và cảm giác.
Thật lâu. Trong tối. Rồi khóc một mình, khóc ngồi lên, khóc xuống giường, khóc chân đất đi ra (…) Nàng đưa chúng trở lại bàn. Kéo ghế. Ngồi xuống. Hai bàn tay trắng muốt của nàng, ngón út cong lên, khởi sự cuốn dần những cuốn bi tròn trĩnh. Xong. Nàng nhặt từng cuốn, nhúng vào nước chấm. Và bắt đầu ăn. Nàng ăn, đói bụng, đẹp mắt, ngon lành, phúng phính, đầy miệng. Và vừa ăn vừa khóc tiếp (Một truyện rất ngắn/Mai Thảo)
Ở những đoạn văn như thế này, Mai Thảo bóc chữ khỏi câu, bóc câu khỏi đoạn. Chữ, như bị nén lại. Một chữ hay một cụm chữ bây giờ chứa đựng nhiều chữ khác. Cái ngắn tạo nên cảm giác bứt rứt, bồn chồn. Những dấu chấm và dấu phết bây giờ không mang giá trị của những ngắt quãng mà là những âm vang, những dồn nén. Chúng là những ý tưởng không nói ra. Chúng trở thành những con chữ dấu mặt. Ở đây, quy luật văn phạm chào thua. Không có. Không cần có. Chính cái không cần đó lại làm giàu thêm nội dung của con chữ.
Tả một người thổi kèn, Dương Nghiễm Mậu viết: “một lần da sần sùi không hơi nóng, không thoi thóp thở, một thứ gì sượng sần, nhớp nháp, tim tôi đập mạnh, mồ hôi đổ nóng, má tôi chạm vào một lần đất sỏi khô. Một điệu kèn ré lên buốt nhức (…) Tiếng kèn thấu vào lục phủ ngũ tạng hắn, như một nhịp điệu man rợ, như ngọn lửa nhiệt đới oằn oại, dấy lên những đam mê, dục lạc, những thèm khát đớn đau của thân phận nhược tiểu. (Dương Nghiễm Mậu/Buồn vàng).
Thoi thóp thở, sượng sần, nhớp nháp, man rợ, oằn oại, thèm khát đớn đau…Dương Nghiễm mậu tận dụng tính chất cụ thể, gợi hình của hình dung từ. Câu văn tạo cảm giác.
Túy Hồng lại có một cách viết khác:
Thương chồng, thương luôn những ly rượu của chồng. Thương chồng, thương cả chiếc miệng nói nhanh. Thương chồng, thương cả tật rung đùi, thương từ ngón chân cái, ngón chân út đến sợi tóc sớm bạc trên đỉnh đầu, thương từ đầu gối thương lên đôi môi lười biếng tạo những chiếc hôn, đôi môi chỉ biết hôn khi có chuyện cần…
Chữ của Túy Hồng thả rong, nghe như cái gì tuôn chảy. Đọc Túy Hồng như lội trong giòng chảy miên man của chữ kéo theo những bứt rứt, những lo toan, những buồn vui và cả những rác rến của cuộc đời. Việc và vật như hòa chung với chữ, tan loãng trong chữ, tưởng chừng như văn không còn là phương tiện, là con đò chở cuộc sống mà chính là cuộc sống. Đọc Túy Hồng, ta nhớ văn hơn là nhớ sự.
Còn Sinh, Sinh yêu tôi vô tả vô tận, yêu bám lấy tôi như vẩy cá dính vào con cá. Xá tội mà yêu, nhắm mắt mà yêu, ở xa cũng yêu. Ở gần, chàng van xin tôi như hát vè con cá, ở xa, chàng liên miên thú tội trên mặt giấy. Sinh khư khứ nắm lấy tình yêu như cái lỗ mũi cố níu lấy hơi thở. Sinh yêu tôi cho đến giấc ngủ chung thân, chứ không phải như một kẻ níu lấy mạn thuyền bơi một hồi rồi bỏ. Yêu đến ngây thơ rồ dại, nhưng, cũng chín chắn lắm lắm, son sắt lắm lắm. Trên cuộc đời này, hầu hết đàn ông đều đểu, chỉ còn lại Sinh và vài người là khác. Chàng dệt mối tình từ đầu đến cuối, từ mặt tiền đến mặt hâu. Nhưng tôi đã coi Sinh giống như bất cứ người đàn ông nào khác.” (Túy Hồng/Những sợi sắc không)
Trong lúc đó, ở Phạm thị Hoài:
Man Nương, em không rón rén nhưng cũng không thật đàng hoàng băng qua một hành lang dài bếp dầu xô chậu và guốc dép vãi như kẹo trước mỗi cửa phòng nào cũng bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ. Trước cửa phòng tôi chỉ có một đôi dép nhựa tái sinh nâu thô kệch cở bốn mươi sáu là ít nhất. Động tác đầu tiên của em là cúi nhón đôi giày tràn trề nữ tính vừa trút ngoài cửa vào theo, đặt chính xác ở góc càng mở cửa càng là tàng hình. Rồi mới úp mặt vào ngực tôi mở sẳn, rồi hai bàn chân trần tìm trèo lên hai chân tôi cũng đã mở sẳn em có thêm năm centimet bệ đỡ để nhích úp mặt vào cổ tôi, rồi hai cánh tay tìm ghì lên vai tôi để em đu úp mặt vào mặt tôi, thế là tới đích.
Câu chữ kéo lê, co dãn. Lại thừa. Trạng từ chen lẫn tính từ, giới từ giành giựt chỗ đứng với danh từ và động từ. Dường như những khía cạnh giấu ẩn của sự vật, những trạng thái tâm lý phức tạp đòi hỏi những con chữ phải dịch chuyển một cách tự do, tùy hứng. Điều này có lẽ không khác mấy trong trường hợp hội họa lập thể: phá tung phép phối cảnh, phá tung những hình dạng tiêu chuẩn là con đường mở ra để đi sâu hơn vào bản chất của hình thể sự vật và nội tâm con người. Nói như Alain Robbe-Grillet, “Tất cả cái lợi của những trang sách diễn tả – nghĩa là vị trí cuả con người trong những trang này – không phải nằm trong những sự vật được diễn tả, mà nằm ngay trong chuyển động của sự diễn tả.” Tại sao? Ông khẳng định “Văn bản không phải là sự phô bày một chân lý, mà là cuộc phiêu lưu của một tự do.”[17]
Thử đọc thêm một trích đoạn của một nhà văn hiện nay:
Miên đứng dậy và ngay trước mắt chúng, lột phăng bộ da của mình như cởi một bộ đồ lặn. Bộ da còn hơi non nên một số chỗ bị rách. Miên ném phịch bộ da đó lên bàn. Bọn chúng đưa tay sờ mó vào bộ da, nhăn mặt nghĩ ngợi. Một số đứa sờ vào tấm thân trần truồng nóng hổi của Miên. Chúng ấn ấn vào những mạnh máu, có đứa còn kéo căng những sợi gân của Miên rồi thả chúng đánh bạch một cái vào da thịt.(Tạ Xuân Hải/Lột/trang mạng Tiền Vệ)
Tạ Xuân Hải diễn tả những điều không-cần-phải-là-hiện-thực. Chữ ở đây không cần quy chiếu vào bất cứ cái gì, bất cứ một hiện thực nào hay một ý tưởng nào rõ nét. Diễn tả ở đây chỉ là để diễn tả. Chỉ là cách trình diễn ngôn ngữ. Trong ý hướng này, Nguyễn Hưng Quốc quả quyết: Viết văn là ném chữ vào cái thế giới tối tăm mù mịt của những điều chưa biết và không biết. Chữ bay đến đâu, biên giới của tác phẩm trải dài ra đến đó. Biên giới của tác phẩm trải dài đến đâu, lãnh thổ văn học được mở rộng đến đó. Viết, với các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa, nghĩ cho cùng, là một cách thăm dò chính khả thể và khả tính của cái viết. (Chủ nghĩa hậu hiện đại/Những mảnh nghĩ rời/trang mạng Tiền Vệ).
Qua sự khai phá của những nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ), chữ bắt đầu một cuộc phiêu lưu trên những trang giấy, đưa chúng ta qua nhiều chuyến hành trình văn chương thú vị với nhiều thế hệ, nhiều chặng đường khác nhau. Mỗi một thế hệ, mỗi một hoàn cảnh cung cấp cho văn chương Việt Nam những khía cạnh đa dạng của phiêu lưu chữ. Nguyễn Tuân, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Cung Tích Biền, Nguyễn Thi Ngh…rồi những Kiệt Tấn, Trần Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Lynh Barcadi…và nhiều, nhiều nữa. Tùy từng cá nhân và tùy từng tác phẩm, những con chữ bơi lội, vùng vẫy, dẫn chúng ta vươn tới những vùng trời xa lạ, mới mẻ.
Cuộc phiêu lưu của chữ vẫn tiếp tục và gần như vô tận! Một cuộc phiêu lưu không có ngày kết thúc. Đó là một phiêu lưu trong việc đi tìm bản lai diện mục của sự vật và cũng là cuộc phiêu lưu đi tìm bản lai diện mục của chính những con chữ.
Văn là thời
Cách viết văn TLVĐ đã tạo nên một bước ngoặt cho nền văn chương đương đại Việt Nam. Vì thế, nói không ngoa, cuộc cách mạng của TLVĐ là cuộc cách mạng văn phong.
Cố gắng vượt ra khỏi vòng kiểm thỏa của thứ văn biền ngẫu, đăng đối, sáo mòn, đầy dẫy những từ Hán Việt, những lối nói văn hoa những rỗng tuếch kiểu "Sao anh chẳng lo xa đến cái nỗi gió kép mưa đơn, sương thu nắng hạ, bây giờ em đã tàn tã trong mưa, tơi bời trước gió", những nhà văn TLVĐ đã sáng tạo ra một cách viết mới, thấm nhuần ngôn ngữ Việt. Nó được Việt-nam-hóa một cách toàn diện. Đó là một thứ văn phong trong sáng, tiêu chuẩn, đơn giản, trở thành một dụng cụ sử dụng trong việc diễn tả sự, việc, người, cảnh, tâm tình…trong mọi tình huống khác nhau và trong quá trình hư cấu hóa, vốn là đặc điểm hàng đầu của văn chương. Với cách viết này, những nhà văn TLVĐ đã sáng tạo ra những Loan, Dũng, Mai, Lộc, Phạm Thái, Lan, Ngọc, Trương, Hậu, Trương, bà mẹ Lê…, những trạng huống tâm lý phức tạp trong “Bướm trắng” hay những hình tượng lý tưởng về cái đẹp trong “Đẹp” của Khái Hưng (KH) hay những đoạn tả cảnh, tả tình hết sức đặc sắc và độc đáo trong nhiều truyện ngắn của Thạch Lam. Với cách viết hoàn toàn mới, văn chương Việt Nam thoát khỏi thứ văn chương “lý tưởng hóa”, thứ văn chương đã tạo ra những nhân vật “hoàn toàn” mà Thạch Lam gọi là cái “hoàn toàn lạnh lẽo”. Ông nhận xét: “Những tiểu thuyết luân lí ngày xưa khiến chúng ta lãnh đạm và không làm chúng ta cảm động, chính vì các nhân vật trong truyện hoàn toàn quá. Những nhân vật ấy hình như ở một thế giới riêng, không có những hèn yếu và băn khoăn của người đời và chúng ta không thấy hình ảnh mình ở những nhân vật ấy. Sự bịa đặt, dù hoàn toàn, không bao giờ bằng sự thực.”[18]
Văn TLVĐ có những ông tham, bà phán, trường bảo hộ, ô-tô, thầy thư ký, quan lớn, ái tình, xem tiểu thuyết, nhà giây thép…và không có hư vô, thân phận, nhược tiểu, da vàng, đại bác đêm đêm dội về thành phố, hư hao, quằn quại, hơi thở rướn cong, vòng tay học trò, nụ hôn, hao hụt, mệt nhoài, ray rứt, vết chém, vết thù…Thời đó chưa có những trào lưu triết học hiện đại, hay đã có, nhưng chưa gây ảnh hưởng vào xã hội và văn chương như phân tâm, thiền, tính dục, cộng sản… Thời đó cũng chưa có chiến tranh, xã hội tuy là thuộc địa nhưng tương đối an bình, ổn định. Những xung đột, mâu thuẫn xã hội chưa gay gắt. Văn cũng như chính đời sống, luôn luôn nằm trong không khí của thời đại của mình, cách này hay cách khác. TLVĐ cũng không thể khác hơn. Có thể nói, văn là thời. Le style, c’est le temps. Văn phong TLVĐ mang đầy hơi hướm của một thời.
Tuy nhiên:
Mai tỳ tay lên bao lơn cửa nhìn xuống con sông sâu thẳm, nước đỏ lờ đờ, điểm hạt mưa xuân lấm tấm. Chiếc buồm trắng con con, xen lẫn vào bọn buồm nâu sắc thẫm, to bản, cột cao, trôi theo giòng nước, theo chiều gió trôi đi như lướt trong cảnh rộng bao la, mà biến vào đám xa xa mờ mịt. Mai thở dài lo sợ vẫn vơ cho số phận chiếc thuyền con, lại chạnh nghĩ vơ vẫn đến số phận mình…(…) Xe hỏa sang bên kia cầu đã lâu, mà Mai vẫn còn tựa nhìn ra ngoài, vì cô có cái cảm giác Lộc đương nhìn cô, nên cô ngượng mà không dám quay lại. Xe từ từ dừng bánh trước ga Gia Lâm. Mai mỉm cười, tưởng tượng trời đương mưa gió sấm sét bỗng tạnh bặt.
- Cô nghĩ gì thế?
Mai quay đầu lại. Lộc vẫn ngồi bên cạnh. Cái nụ cười của cô vẫn còn nở trên cặp môi thắm, khiến Lộc nhìn cô rồi cũng cười. (Khái Hưng/Nửa chừng xuân)
Hay:
Trương ký tên rồi nhúng tay vào chén nước trên bàn rỏ mấy giọt vào quãng giữa bức thư. Chàng lấy tay áo thấm qua cho nước làm hoen nhòe mấy chữ.
Trương không buồn đọc lại bức thư, tắt đèn nằm yên đợi giấc ngủ đến. Nhà bên cạnh hôm nay cũng tắt đèn sớm, chắc là không có khách. Một lúc sau lại có tếng hát rời rạc và buồn thiu:
Sân lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trong cửa bể chiều hôm…
Tiếng người chồng gắt:
- Hát buồn bỏ mẹ. Thôi im đi cho người ta ngủ.
Trương mỉm cười: tấn kịch nhỏ ấy đủ diễn hết cả nỗi buồn của đôi vợ chồng sa sút một đêm vắng khách, cũng đương nằm ngủ không được vì nhớ quê hương.
(Bướm trắng/Nhất Linh)
Đọc lại những đoạn văn khá bình thường này, gần 80 năm sau khi nó ra đời, ta cảm thấy gì? Quá cổ xưa? Quá lạc lõng? Quá TLVĐ? Không. Lâu rồi, đọc lại, tôi thấy lạ là cách diễn đạt vẫn mới mẻ, vẫn hiện đại và vẫn hao hao như ai đó mới sáng tác hiện nay. Chỉ trừ một số cây bút cách tân độc đáo (không ai có thể bắt chước được), cho đến bây giờ, theo thiển ý, văn chương Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng của TLVĐ, cách này hay cách khác.
Phiêu lưu theo cuộc chữ, như một kẻ đi xa, giang hồ phiêu bạt, sống với văn minh thị thành, với đèn đường, với quán rượu, với vũ trường…bây giờ trở về đọc lại Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, Thạch Lam, Hoàng Đạo tưởng như được về thăm căn nhà cũ, thăm cô láng giềng lúc tóc còn để chỏm, thăm ngôi đình đầu làng, thăm bến đò, cái ao, mảnh vườn xưa, tìm thấy những gì thân quen, đầm ấm ở đó.
Nhưng cũng như thân phận con người, trong cái “thời”, văn đã có ươm mầm mống cho sự “vượt thời”. Vượt thời mà cũng là “vô thời” (intemporel).
Hậu ngồi sát lại bên tôi, tôi nghe thấy hơi thở của cô rồn rập. Buổi sớm cô mặc cái áo lụa mỏng màu đỏ, càng tươi bên nước da trắng muốt của Hậu. Tôi đoán thấy cái thân hình mềm mại, hai cánh tay chắc rắn, đôi vú nhỏ và tròn. Người Hậu như thoảng ra một thứ hương thơm ngát và say sưa" (…) Hậu đưa tay nắm lấy tay tôi, lần lên vai rồi kéo tôi lại gần mình. Mái tóc chúng tôi vướng vào nhau, tôi thấy trước môi tôi cái miệng xinh thắm của nàng. Chúng tôi lặng lẽ ôm lấy nhau, say sưa trong cái hôn đầu tiên đắm đuối của linh hồn.
(…) Vừa xuống thuyền, Hậu đã ôm quàng lấy tôi, kê ðầu vào má tôi, ngập ngừng nói những lời ân ái. Tôi thấy tấm thân trẻ và dẻo dang của Hậu quấn lấy tôi như một giây leo. Chúng tôi hòa hơi thở với nhau, tóc nàng bỗng buông sõa trên người tôi, thoảng ra một thứ hương ngát dịu và đầm ấm. (Nắng trong vườn/Thạch Lam)
Mấy ai nghĩ đó là thứ văn phong đã được viết ra cách đây tám thập niên về trước, khi văn chương đương đại Việt Nam đang còn ở trong thời kỳ trứng nước. Nhận xét về cách viết của Thạch Lam, Khái Hưng phát biểu: "Ở Thạch Lam sự thành thật trở nên sự can đảm, đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn. Tôi xin thú thật rằng những điều nhận xét gay go về mình và những người sống chung quanh mình, tôi cũng thường có song vị tất đã dám viết ra. Tôi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới ở nước ta tôi thấy ở Thạch Lam. [19]
Và đây là một viễn kiến về văn chương tương lai trong tư tưởng của Khái Hưng qua phát biểu của nhân vật Nam với một cô gái tên Trinh trong “Đẹp”:
"Tôi định viết một quyển tiểu thuyết thực dầy, dầy ít ra là một nghìn trang chữ corps 8. Một quyển tiểu thuyết không có chuyện. Trong đó tôi sẽ ném vào từng nắm việc thường xảy ra hàng ngày, và từng nắm tư tưởng nhạt nhẽo và đậm đà, giả dối và thành thực, y như những việc làm, những lời nói ở cửa hàng bán đồ nấu. (…) Còn chuyện, nếu có chuyện, thì tôi cho nó đi như nó đi, nghĩa là nó muốn đi thế nào mặc nó, quí hồ nó đến được chỗ kết cục." (Nhân vật Nam trong “Đẹp, Phượng Giang xuất bản,1952, tr. 193)[20]
Nghe như Khái Hưng đang nói về một cuộc phiêu lưu nào của chữ trong việc đi tìm sự vật!
*
Xin được kết luận bài viết bằng một đoạn văn trích từ đoạn kết của “Đôi bạn” của Nhất Linh:
Tiếng nhạc ngựa ở đâu vẳng tới, giòn và vui trong sự yên tĩnh của buổi chiều. Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương trông như một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần…
Thế nào là “một nỗi nhớ xa xôi”? Và thế nào là “một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần…” Chắc không ai phải mất công trả lời một câu hỏi như thế. Tại sao? Tại vì nỗi nhớ đó là thứ nỗi nhớ của chữ, nỗi nhớ văn chương. Chữ, và cách xếp đặt chữ – văn phong – có khác biệt, có cá biệt, có thời tính, có cách tân kiểu này kiểu nọ, nhưng bản chất vẫn là vô thời.
Chữ là cái còn lại sau khi tất cả đều mất.
Với chúng ta, Nhất Linh, bây giờ, là một nỗi nhớ xa xôi. Rất xa xôi.
Hôm nay, ngày 7 tháng 7. Năm mươi năm rồi còn gì!

Trần Doãn Nho (7/2013)

[1] Georges-Louis Leclerc, Count de Buffon (1707 – 1788), Discours sur le style, xem ở:
http://pedagogie.ac-toulouse.fr/philosophie/textes/buffondiscourssurlestyle.htm
[2] Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, NXB Đời Nay, Sài Gòn 1972; bản điện tử do trang mạng Talawas thực hiện. Xem ở:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9297&rb=08
[3] Les ouvrages bien écrits seront les seuls qui passeront à la postérité: la quantité des connaissances, la singularité des faits, la nouveauté même des découvertes, ne sont pas de sûrs garants de l’immortalité: si les ouvrages qui les contiennent ne roulent que sur de petits objets, s’ils sont écrits sans goût, sans noblesse et sans génie, ils périront, parce que les connaissances, les faits et les découvertes s’enlèvent aisément, se transportent et gagnent même à être mises en oeuvre par des mains plus habiles. Ces choses sont hors de l’homme, le style est l’homme même. Phan Huy Đường dịch: “Chỉ những tác phẩm viết hay mới được lưu truyền hậu thế : lượng kiến thức, những sự kiện độc đáo và ngay cả những phát minh mới lạ đều không đảm bảo chắc chắn sự vĩnh cửu : nếu những tác phẩm lưu chứa chúng chỉ bàn chuyện nhỏ nhen, bị trình bày thiếu nhã nhặn, thanh cao, thiên tài, chúng sẽ tiêu vong, bởi vì kiến thức, sự kiện và phát minh đều có thể bị rút đi, chuyển đi nơi khác và có khi nên được những bàn tay khéo léo hơn sử dụng. Tất cả những thứ ấy ở ngoài con người, [trong khi đó] văn phong [của một con người] là chính nó.Phan Huy Đường, xem ở: http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/vankhonglanguoi.htm
[4] Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, trang mạng Talawas.
[5] Thạch Lam, Theo dòng, vài ý nghĩa về văn chương, Nxb Đời Nay (1941). Có thể xem ở trang mạng “sách xưa”,
http://sachxua.thuvienso.info/threads/theo-dong-vai-y-nghi-ve-van-chuong-thach-lam-92-trang.503/#.UcdanfnIWOg
[6] Thạch Lam, tr. 26,27
[7] Thạch Lam, tr. 10
[8] Thạch Lam, tr. 32
[9] Thạch Lam, tr. 41
[10] Thạch Lam, tr. 8,9
[11] Nhất Linh, bài đã dẫn.
[12] Huỳnh Phan Anh, Đi tìm tác phẩm văn chương (tiểu luận phê bình), Đồng Tháp xuất bản, Sài Gòn, 1972,  tr 130, tr.130, tr.131, xem ở Việt Nam Thư Quán,
http://vnthuquan.org/%28S%28iik5ka45p2fnll45fcyd2j45%29%29/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n4n3n1n31n343tq83a3q3m3237n2n
[13] Phan Huy Đường, Văn không là người, http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/vankhonglanguoi.htm
[14] Xem Trần Doãn Nho, Hơi chữ, Da Màu, http://damau.org/archives/10057#comments
[15] Paul Ricoeur, La métaphore vive, tr. 51. Thực ra, Ricoeur dùng cụm từ “cuộc phiêu lưu của chữ” để chỉ hiện tượng ẩn dụ trong văn chương.
[16] C’est à l’audace de leurs fautes de grammaire que l’on reconnaît les grands écrivains.
[17] Un texte n’est pas le dévoilement d’une vérité, mais l’aventure d’une liberté. Alain Robbe-Grillet, Pour un nouveau roman, Collection “Critique”, Les Éditions de Minuit, 1963, tr. 9
[18] Thạch Lam, Theo dòng, vài ý nghĩa về văn chương, tr. 43
[19] Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Xem ở Thụy Khuê, http://thuykhue.free.fr/stt/t/thlam01.html
[20] Bản điện tử:
http://tinhhuong.net/threads/dep-trong-tu-luc-van-doan-phuong-giang-1952-khai-hung-260-trang.11230/#.Udy92G2s_Xg

Trần Doãn Nho

Source : damau.org

6/8/13

Hoàng Ngọc Tuấn 'Tôi không phải là tác giả viết về tuổi thơ'






05.08.2013

bởi Nguyễn Mạnh Trinh



Ai mà chẳng có trong đời một mối tình. Dù lớn hay nhỏ, dù thành hay không, thì cũng là những giây phút trong đời chẳng thể nào quên. Nhất là với những người, lẫn lộn giữa thực và mộng, chập chờn giữa lãng mạn và thực tế, thì chữ tình yêu lại có vị trí của khói sương, và chữ hình như để biểu tỏ một sự thể gần cận mà mơ hồ. Hoàng Ngọc Tuấn, người dùng ngôn ngữ thi ca để dệt nên tình yêu, dùng mơ mộng để cấu tạo nên thực tại, tác giả phác họa những mối tình ngây thơ, của những chàng tuổi trẻ như chú gà trống ưỡn cổ gáy vang đi vào đời. Những tác phẩm như Hình như là tình yêu, Ở một nơi ai cũng quen nhau, Thơ Về Đường Sơn Cúc,… một thời là những quyển sách mà tuổi trẻ Sàigòn mến chuộng. Dù trong không khí chiến tranh, nhưng những ý tưởng ngây thơ, những tâm tình như sợi cỏ long lanh buổi sáng đã làm tuổi trẻ tươi đẹp hơn, những bản nhạc nồng thắm hơn và những vần thơ cũng rộn rã hơn.
 
Được biết ở trong nước, để tưởng niệm ngày giỗ của ông, nhà xuất bản Phương Nam ấn hành tuyển tập truyện ngắn Hình như là tình yêu. Ngày ra mắt sách cũng là một dịp để bạn bè và người ái mộ nhà văn tưởng niệm tụ họp coi như làm lễ giỗ khá long trọng. Ở hải ngoại thì cũng đã tái bản một tập truyện khác của ông: Ở một nơi ai cũng quen nhau.” 

Trước năm 1975, Hoàng Ngọc Tuấn nổi tiếng là nhà văn viết cho tuổi học trò ngây thơ hồn nhiên. Sau năm 1975, mặc dù ông vẫn còn sinh nhai bằng nghề viết nhưng không có tác phẩm nào tiếp theo được chú ý. Có người ví von, văn nghiệp của ông đã chết từ sau 1975. Viết về thể thao hay sưu tập những truyện cười, chắc không phải là công việc làm của một nhà văn đã có nhiều tác phẩm được hâm mộ. Với những bút hiệu gần như là vô danh: Huấn Toàn, Nhị Ngọc, Mây Biếc, Tú Ân, Ngọc Nhị, những bài đăng báo hoàn toàn chỉ là để mưu sinh và không có một chút âm vang nào.

Trong một bài viết tưởng niệm Hoàng Ngọc Tuấn, nhà văn Nguyễn Đạt cho tôi hình dung ra một cuộc sống đơn độc và buồn của một người cầm bút mà tôi nghĩ lúc còn trẻ ngây thơ yêu đời lắm.  Thú thực tôi không thân quen cũng như hiểu biết gì về anh nhiều, nên qua những điều mà anh viết tôi phỏng đoán vậy. Còn, đời sống mọi người sau 1975 thì cả nước đi xuống chứ chẳng riêng một mình ai. Ở Việt Nam, rất nhiều người cùng một lứa bên trời lận đận như thế lắm. Nhất là người cầm bút, sống trong một chế độ mà nhà văn gốc tích từ văn học miền Nam nếu được hoạt động cũng chỉ đóng vai cây kiểng và góp mặt khiêm nhường. Rồi tôi nghe anh bị bệnh nan y và hoàn cảnh rất đơn độc khó khăn.…

 Năm 1972,  trong cuộc phỏng vấn “Đi tìm các tác giả được ưa thích hiện nay” của tuần báo Khởi Hành, Hoàng Ngọc Tuấn là một tác giả được ghi tên nhiều lần đều đặn sau mỗi lần lấy ý kiến độc giả qua từng số báo. Sở dĩ có hiện tượng ấy bởi vì trong truyện Hoàng Ngọc Tuấn có nét lãng mạn của tình yêu thuở mới lớn và nhân vật của ông sinh động tự nhiên chứ không có những sinh hoạt giả cách thời thượng nhưng rỗng không mà các nhà văn tập tành hiện sinh tạo ra. Sự kiện Hoàng Ngọc Tuấn có nhiều fans ái mộ cũng là điều dễ hiểu.
     
Nhà văn Võ Phiến đã nhận xét về tác phẩm Hoàng Ngọc Tuấn:

Những nhân vật ấy và nghệ phẩm ấy như đều nhìn chúng ta, nhoẻn cười một cái cười tinh quái và thông minh. Và như vậy là bởi vì kẻ tác thành nên chúng, Anh Hoàng Ngọc Tuấn, là một người vui vẻ. Anh vừa ngông, lại vừa nghịch, vừa thơ, lại vừa trẻ, cho nên anh quyến rũ vô tả.”
…”
Thế mà, theo như Nguyễn Đạt, những ngày cuối của tác giả Hình như là tình yêu sao vắng nụ cười đến thế. Ở lại Sài Gòn, chịu qua bao nhiêu sự thay đổi, mỗi ngày thêm mệt mỏi, nặng nề vác trên vai những khó khăn chồng chất của một thời thế hỗn loạn.  Và rốt cuộc cũng chỉ là cuộc trở về mà ai cũng phải có một lần trong đời.…

Tuần báo Tuổi Ngọc của nhà văn Duyên Anh trước 1975 đã có bài phỏng vấn nhan đề “Hoàng Ngọc Tuấn và Một Buổi Chiều”.  Tác giả thổ lộ: “Văn chương không phải là một nghề nghiệp hiểu theo nghĩa thông thường. Văn chọn tôi chứ tôi không chọn được, khi ta làm một cái nghề gì đó, nghề nghiệp ấy đòi hỏi một thời khóa biểu, một giờ giấc, một số lương bổng nhất định, một số giờ nghỉ ngơi cuối tuần như thứ Bảy Chủ nhật chẳng hạn. Tôi viết văn thì không như thế. Ngày nào cũng rong chơi như một ngày Chủ nhật và ngày nào cũng bận rộn làm việc như một ngày thứ Hai. Đêm là ngày, ngày cũng là đêm. Đời của một kẻ sáng tác không có mùa hè hoàn toàn rảnh rang mà là suốt năm tràn đầy mùa xuân thôi thúc hứng khởi. Nhưng nếu nói một cách đơn giản hơn thì tôi theo đuổi chuyện văn chương vì đó là một sinh hoạt có ý nghĩa nhất trong đời sống theo ý kiến riêng của tôi. Sau nữa tôi không biết làm việc khác được ngoài sự viết…””
 
Nói về truyện ngắn đầu tay Buổi Chiều Hạ Lan: “Khoảng 67 hay 68 gì đó. Sau hai năm học ở đại học và bắt đầu thấy rằng những chữ mình viết ra coi có có vẻ thích thú hơn là những chữ trong cours. Lúc đó tôi chẳng có công việc gì làm cả. Buổi sáng đang đói và thèm cà phê mà không có tiền và chẳng đi đâu được. Tôi ngồi lại một mình trong căn phòng của hội đoàn CPS (khu Khám Lớn Cũ)… Hiện tại thì trống rỗng, nhạt nhẽo, kỷ niệm thì ngọt ngào hào hứng… Thế là tôi bắt đầu viết. Và tôi đã viết chỉ trong một buổi sáng để xong Buổi Chiều Hạ Lan. Hỏi thời gian bao lâu để nghĩ về  thì câu trả lời là: “ Đêm hôm trước. Đêm tối, ánh sáng, cô đơn, và, viết, thế là có Buổi Chiều Hạ Lan.” “

Nghĩ về những người phê bình văn học: “Họ thường kết luận là chờ đợi và tin tưởng ở những tác phẩm mới hơn của tôi. Tôi mong họ giữ mãi niềm tin đó vì đó cũng là niềm tin  mạnh mẽ của tôi. Bây giờ chỉ còn việc biến niềm tin thành hành động.”…”
    ” 
Được biết anh thích đọc Saroyan, mến Salinger, phục Dostoievsky, nhưng chẳng mê ai cả,  và khi bị hỏi có bị ảnh hưởng nào không thì tác giả Cô Bé Treo Mùng trả lời: “Tôi không biết. Người đọc sẽ dễ thấy hơn tôi. Nhưng tôi sẽ rất sung sướng nếu được ảnh hưởng ít nhiều của tinh hoa nhân loại. Sáng tác thì dĩ nhiên trong cô độc nhưng con người sáng tác nào cũng phải sống với cuộc đời nhận lấy những dấu vết của cuộc đời và thụ hưởng gia tài nghệ thuật chung của con người.””
   
Mấy chục năm sau, có một người ái mộ Hoàng Ngọc Tuấn, tác giả Songcon viết bài tưởng niệm và gián tiếp trả lời khi cho rằng trong truyện ngắn đầu tay Buổi Chiều Hạ Lan  Hoàng Ngọc Tuấn chịu ảnh hưởng rất nặng của J.D. Sallinger của The Catcher in the Rye. Nhân vật Holden Caufield có phảng phất bóng dáng trong truyện Hoàng Ngọc Tuấn.
  
Trong tuần báo Mây Hồng số ra mắt năm 1972 ở Sài Gòn thời trước, Hoàng Ngọc Tuấn đã trả lời những câu hỏi phỏng vấn một cách thực thà. Như: Là một tác giả thường viết về tuổi thơ xin anh cho biết vì nguyên do nào mà anh đã chọn đề tài này? Anh viết: “Trước hết tôi thấy tôi không phải là một tác giả viết về tuổi thơ. Có lẽ độc giả thấy những nhân vật trong truyện tôi có một vài người nhỏ tuổi nên tưởng thế. Ngay cả một cuốn sách mới đây của tôi Thư về đường Sơn Cúc tuy bé tí xíu như hạt tiêu nhưng cũng không phải là một chuyện về tuổi thơ. Khi sáng tác tôi ít phân biệt về tuổi thơ hay tuổi già. Một thời nào tôi đã sống qua tôi thường viết về nó. Do đó dĩ nhiên là có một vài truyện tuổi thơ của tôi. Một đề tài nằm mãi trong tôi, tự dưng có ngày phải nhảy ra đời để thành một chuyện. Tôi không chọn lựa đề tài.”

Nếu đọc lại Thư về đường Sơn Cúc, tôi có một cảm giác khá kinh ngạc. Đây là văn viết bằng thơ hay thơ dùng văn để diễn tả một câu chuyện tình? Một trao đổi bằng thư giữa hai người mang tên Bạn Lớn và Bạn Nhỏ? Những cuộc đối thoại, có nhiều khi như là độc thoại, để diễn tả lại cảm giác mong manh của tâm tình bứt đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu” khởi đầu cho chuyến viễn du tình ái? Ai là một xao động theo nghĩa của chữ  “Hình như”?

Tôi đã bắt chước như nhà văn Nguyễn Đình Toàn trong đoạn trích dẫn, giở những trang sách, đọc những câu văn xuôi mà óng ả mượt mà như thơ của Hoàng Ngọc Tuấn trong “ Thư về đường Sơn Cúc:

“... căn nhà của em ở trên một con đường xác xơ ven biển, nhà không có số và gió đã thổi mất tấm bảng chỉ đường. Nhưng có hề gì đâu tôi sẽ gửi cho em về địa chỉ mới Con đường Sơn Cúc vì mỗi ngày em đều đi qua đó.
Ông có biết một loài hoa ấy không?
Cả nhà gọi nó là cây cúc rừng
Chỉ có mình em gọi là hoa Sơn Cúc.
Hoa vàng óng ả.
Hoa vàng mật ngọt.
Vàng rực rỡ cả một lối mòn
Được gọi là Đường Sơn Cúc của em.
Tôi thấp thoáng trông hình bóng em chao mờ giữa một rừng hoa thắm. Mỗi sớm mai từ nhà đến trường, với cặp sách giáo khoa trên tay mà hồn đã bay lãng đãng đến tận cuối chân trời nào một mình em lững thững không hề nôn nóng vội vàng nhớ đến tiếng chuông reo vào lớp.””

Cúc rừng? Sơn Cúc? Cùng là tên của một loài hoa dại mà sao chữ Sơn Cúc lại mở ra một không gian nào mới, nào lạ, của những cuộc sống nào mơ hồ của những người nam và nữ xôn xao với tâm tình nửa ngỏ nửa e ấp trao nhau. Thơ, tản văn, hay là bất cứ thể loại nào, cũng chỉ là một, là ngôn ngữ mật ngọt đậm đà của giây phút xôn xao đầu tiên của thời mới lớn, mà Hoàng Ngọc Tuấn đã viết bằng cái tâm trong veo của mình.

Trả lời câu hỏi: Qua các truyện ngắn của anh, tuổi thơ thường hiện lên những hình ảnh thơ mộng, tuổi thơ của anh có êm đềm như thế không? Hoàng Ngọc Tuấn thổ lộ: “Hơn thế nữa là đằng khác. Tôi tiếc chưa có thì giờ và tâm hồn bình yên để làm sống lại những ngày xưa êm đẹp đó. Thuở nhỏ, tôi theo gia đình đổi chỗ ở hoài, từ tỉnh này qua tỉnh khác, mỗi năm học một trường. Huế, Qui Nhơn, Ban Mê Thuột, v.v. Trường Bà Sơ, trường Thầy Dòng (La San), trường Thầy Chùa (Bồ Đề), trường tư, trường công... đủ cả. Hồi đó tôi yêu thương rất nhiều điều, và tôi mừng mà thấy đến nay tôi vẫn chưa thay đổi.”…”
 “

  
Sáng nay, mới ngủ dậy, nằm lơ mơ trên giường nghe chim rân ran ngoài hiên, cầm những cuốn sách của Hoàng Ngọc Tuấn, tôi nghĩ mình phải viết bài tưởng niệm này khác hơn.  Mình phải viết về cái mình nghĩ đối với tác giả hơn là trích dẫn những điều tác giả đã nói về mình và tác phẩm mình qua những bài phỏng vấn. Dù tôi không có cái may là bạn với anh như những anh Nguyễn Đạt, Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân Sơn... hay có chung thời sinh hoạt ở những phong trào sinh viên học sinh thuở nào. Thế mà, trong bài viết hiếm ý nghĩ chủ quan của mình. Không biết có phải là nghĩ về anh một cách gián tiếp không có gì hơn là qua những thổ lộ những tâm sự để mường tượng lại vóc dáng văn chương của anh vào một thời mà có lẽ chắc anh cũng ngầm hãnh diện về những thành quả của mình.  Cầu chúc linh hồn anh sẽ rong chơi và không vướng bận gì với những trăn trở cuối đời trong cõi tạm này.

Hoàng Ngọc Tuấn mất ngày  9 tháng 7 năm 2005 ở bệnh viện Chợ Rẫy vì bệnh ung thư thực quản. Ông suốt đời độc thân mặc dù những nhân vật của ông yêu nhau thật lãng mạn. Sau năm 1975, đời sống của ông thật nhiều khó khăn. Những năm của thập niên 1990, ông là một ký giả thể thao và sau thì sống bằng những khoản nhuận bút hiếm hoi về những bài lượm lặt kiến thức rất vụn vặt đăng trên báo. Cái chết của ông cô đơn âm thầm  cho mãi đến 10 ngày sau mới có báo Tuổi Trẻ đăng một cách trễ tràng mẫu tin nhỏ là nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn đã từ trần cách nay hơn một tuần.

Trước 1975, Hoàng Ngọc Tuấn là một tác giả được giới trẻ rất ái mộ. Một cây bút về sau  của những năm của thập niên 1990, 2000 là Nguyễn Nhật Ánh cũng có lối viết ảnh hưởng khá sâu đậm từ Hoàng Ngọc Tuấn.[NMT]


Source : VOA

Link :

Người nhặt lá




                          

tranhodung

Tôi  đi nhặt những chiếc lá 

còn sót lại 

của mùa thu

để sưởi ấm mùa đông giá rét

mà Thượng đế sau khi  tạo ra trái đất

Ngài mệt mỏi ,  đã ngủ quên

 Mùa đông trở thành món quà 

dành cho những người nghèo

những kẻ khốn cùng

những phận đời hèn mọn

không thể chen chân vào 

những giáo đường trang hoàng rực rỡ

cùng tiếng nhạc reo vui

"Thiên đường dành  cho những kẻ khốn khó"

Người  đã hứa như vậy .

Nhưng  còn bận rộn nghe những lời ngợi ca 

trong các thánh đường

Người    chưa quên những người nghèo 

giữa  mùa đông giá rét

"Chỗ các ngươi là ở Thiên đàng .

"Hãy đợi !"

......

Nhà cách mạng hô to  :

"Ta sẽ tạo nên thiên đường  

ngay trên mặt đất này

Chẳng cần phải đợi đến đời sau

Thiên đường trên mặt đất này

sẽ dành cho những người nghèo !"

Sau khi có được   vinh quang 

( do những người nghèo khó  tạo nên )

 nhà cách mạng  đã  lãng quên

ai đã đội lên đầu mình vòng nguyệt quế

......

Tôi  vẫn còn đi nhặt  lá vàng


Để sưởi ấm 

Những người không còn nơi trú ẩn  

cho  qua mùa đông giá rét


Tôi  vẫn còn đi nhặt 

những chiếc lá vàng

còn sót lại 

của mùa thu

để sưởi những mùa đông

buốt giá hoang vu trên mặt đất


tranhodung .washington.usa. 


                                      

5/8/13

Lời Người trên cây thập tự






Hỡi các ngươi !

Loài người trên trái đất

Ta đem tự do đến cho  kẻ khốn khó

Ta đem tình yêu đến cho kẻ bị nguyền rủa

Ta đem ánh sáng thắp lên trên trái đất tối tăm này

Ánh sáng thắp lên


 Từ Đức tin

 Sự Trông cậy

Từ Tình yêu thương


Ta đem sự sống lại cho người đã chết

Ta rửa và lau khô vết thương của con người

Ta vực dậy  những kẻ  tội lỗi , nghèo hèn

Những kẻ nô lệ

Đứng dậy làm người tự do

Dưới ánh mặt trời

Ta  dạy các ngươi  :

Hãy yêu thương nhau

Hãy yêu thương anh em mình

và yêu thương cả kẻ thù mình !


Ta chỉ mang đến điều tốt đẹp cho con  người

Cớ sao  các ngươi bắt bớ ,đóng đinh ta ?

( Và lời cuối cùng  Người nói với Cha  trên trời ) 

"Cha ôi ! Sao Cha nỡ lìa bỏ con" ? (*)

( Lâu rồi , có người thầm hỏi :

Không biết Người đã gặp được Cha mình chưa? )


-----------------------------------------------
(*)   Mark  15:34 (New Testament) 

4/8/13

LỜI TRẦN TÌNH CỦA GIU-ĐA

       
                                               

LỜI TRẦN TÌNH CỦA  JUDAS
                                                 
                                                      tranhodung

Ta là tên tội đồ

Ngàn năm mang thập giá

đem theo nỗi hàm oan

Chưa nói ra Sự Thật

Nào phải ta bán Chúa

Bằng vào một nụ hôn

Mà vì ta thương Chúa

Xuống thế gian làm người

Ai đem lời dối trá

Viết vào trang thánh kinh

Nào phải ta bán Chúa

Vì lợi cho riêng mình

“Ôi ! Mấy đồng tiền máu

Ngàn năm làm ta đau ! “

Ta là tên tội đồ

Mang thập tự  hàm oan

Hai ngàn năm có lẻ

( và mấy ngàn năm sau ? )

Hãy tin ta -  Giu-Đa

Lời ta là Sự Thật !

Ta «  đóng vai »  bán Chúa

Đó chính là ý Cha !

( điều này ta nói nhỏ
 chắc là Chúa  bỏ qua ! )

«  Lạy Cha ở trên Trời

(để ) danh Cha được tôn thánh

( để ) Nước Cha được đến

(để ) ý Cha được nên ...» (* )

mà con đành mãi mãi

mang tội danh phản đồ

( Ôi ! cái thập tự giá
Nghìn năm làm ta đau ! )

Hỡi con người trần thế

Có tin lời ta chăng ?

Lời ta là sự thật

Giấu kín mấy ngàn năm

Nếu không tin , cứ hỏi

Chúa Trời ngồi trên cao !

( Sau này ,khi ngươi chết
Có hỏi, cũng không sao ! )

 Bạn bè ta ngày ấy

vườn Ghết-Sê-Ma –Nê

cả thảy đều biết rõ

Sự thật như thế nào

Họ,  một tuồng như nhau

Biết mà không dám nói

Họ  khôn ngoan quá đỗi

Nên được phong Thánh cả

Ngồi chơi nơi nước Trời !


Chỉ mình   ta chân thật

(và khờ khạo tin Người ? )

Nên ngàn năm khổ đau

Ngàn năm vác thập giá

Đi tìm lời giải oan

T.H.D.

--------------

(*) : Kinh Lạy Cha




3/8/13

hạt bụi



      
      Trần Hồ Dũng


Xưa là hạt bụi
Chúa thổi hồn vào
Bụi nương trần thế
làm người trăm năm
Mai hồn đi mất
Thân xác nào còn
Trở về hạt bụi
Nỗi buồn đi quanh

Ta  và hạt bụi

Hạt bụi là ta

Bụi  ngàn năm trước 
Bụi  ngàn năm sau
Bụi , người  năm trước
Bụi , người hôm qua   
Bụi bay vào mắt
Hay ta  -  Nỗi niềm