1/11/13

Phạm Đình Trọng - “Về với dân”

Nhà văn Phạm Đình Trọng vừa gửi tới Bauxite Việt Nam bài viết “Về với dân” và cho biết: đây là bài ông nhận “đặt hàng” của BVN ngay khi có tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần (chiều 4/10/2013), nhưng vì một số lý do, hôm nay ông mới gửi đăng. Ngoài những nhận định cá nhân về con người và sự nghiệp của vị Tướng đã ra đi, nhà văn Phạm Đình Trọng, người từng có thời gian làm việc tại Ban Ký sự lịch sử quân sự, còn đề cập và phân tích về một vài nhân vật lịch sử hàng đầu có liên quan đến cuộc đời tướng Giáp. Tuy nhiên, từ đó, phần viết này lại mở ra những vấn đề rất lớn của lịch sử Việt Nam đương đại còn chưa được soi tỏ, đáng để tìm hiểu, mổ xẻ một cách khách quan, công bằng. Vì thế, mặc dù đã chính thức tuyên bố chấm dứt các bài viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ ngày 15/10/2013, hôm nay BVN xin giới thiệu bài “Về với dân” của nhà văn Phạm Đình Trọng như một ngoại lệ, tất nhiên, những gì nhà văn cung cấp được viết với bút pháp và quan điểm của ông.Bauxite Việt Nam

----------------------------------------------------------------------------------------------------


Phạm Đình Trọng
Nhà văn quân đội

1. TÔI KHÔNG HÁT ĐỒNG CA
Buổi tối cuối cùng ở Hà Nội trong chuyến đi chớp nhoáng, tôi nhận được phone của Ban Biên tập Bauxite Việt Nam báo tin đại tướng Võ Nguyên Giáp mất và đặt tôi viết bài. Có đôi điều làm tôi đắn đo không thể viết ngay và viết xong tôi cũng không muốn gửi ngay cho người đặt bài.
Dù Võ Nguyên Giáp không vướng vào những sai lầm chính trị, không tham gia trực tiếp vào những tội ác mà những người cộng sản đã gây cho dân tộc Việt Nam trong những vụ tàn sát đẫm máu như Cải cách ruộng đất, hãm hại tinh hoa, trí tuệ Việt Nam như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại (1967), gây hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam như khi đẩy một bộ phận dân tộc Việt Nam ở miền Nam vào những trại tập trung khắc nghiệt, dã man, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn là người có công rất lớn, có thể coi là công đầu, giúp Chủ nghĩa cộng sản chiến thắng và ngạo nghễ ngự trị trên đất nước Việt Nam.
Khi chủ nghĩa Cộng sản đã phơi bày những tội ác chống lại loài người, mang lại đau thương chết chóc thê thảm cho dân tộc Việt Nam, phá nát đạo lí, văn hóa Việt Nam, nhấn chìm dân tộc Việt Nam văn hiến lún sâu trong nghèo đói, lạc hậu, trong bạo lực mất tính người và gây hận thù, chia rẽ, li tán sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam, khi những người Cộng sản lứa đàn em gần gũi của Võ Nguyên Giáp như Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính… đã thấy rõ bản chất của học thuyết Cộng sản, đã quyết liệt dấn thân vào cuộc chiến đấu đầy hi sinh mất mát để xóa bỏ cái ác trên đất nước Việt Nam thân yêu thì Võ Nguyên Giáp vẫn trung thành với Cộng sản, vẫn thành kính ngợi ca Đảng Cộng sản.
Khi những đồng đội, những bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất của Võ Nguyên Giáp như Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng cục Tác chiến, đại tá Đỗ Đức Kiên, Cục trưởng cục Tình báo, đại tá Lê Trọng Nghĩa, Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, thượng tá Hoàng Thế Dũng… bị cái ác Cộng sản vu cho tội xét lại và bị hãm hại đến thân tàn ma dại, khi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh khảng khái lên tiếng bảo vệ đồng đội, bảo vệ những người lính trung thực bị hãm hại và bình thản chấp nhận bị hạ quân hàm, bị mất các chức vụ và con người trung thực, nghĩa khí, lương thiện của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh đã bộc lộ sáng chói, thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp im lặng giữ thân, giữ chức.
Viết về một người như vậy, dù người đó đã góp thêm ánh hào quang cho trang sử Việt Nam giữ nước, cũng không thể không đắn đo.
Từ khi Tướng Võ Nguyên Giáp nằm xuống liền có ngay một dàn đồng ca đông đảo hòa giọng ngợi ca vị Tướng chiến trận. Cả một ngôi đền lừng lững đã được dựng lên trong không gian tâm linh dân tộc và vị Tướng vừa nằm xuống trở thành vị Thánh trong ngôi đền râm ran tiếng tụng niệm. Tôi đánh giá cao công tích của Tướng Giáp trong cầm quân trận mạc nhưng tôi không phải là tín đồ rập đầu tụng niệm trong ngôi đền kia, tôi không thể góp giọng trong dàn đồng ca kia. Dàn đồng ca cả triệu người dù say sưa đến đâu cũng không thể ngân nga mãi. Tôi chờ sự yên tĩnh trở lại, chờ sự “thoát đồng” trở về đời thực để được nói đôi điều thường tình của một người phàm thế.
2. HAI VỊ TƯỚNG, HAI SỐ PHẬN
Tháng Hai, năm 1951, đại hội đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam. Ngoài chủ nghĩa Mác Lê nin, đại hội còn chính thức lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng tư tưởng của Đảng Lao động Việt Nam, đại hội đẩy dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi vào cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu đánh vào chính dân tộc Việt Nam, gieo rắc hận thù giai cấp trong lòng dân tộc Việt Nam, bắn giết, tù đày chính nòi giống Việt Nam, hủy hoại tận gốc những giá trị văn hóa, đạo lí Việt Nam. Trước khi có đại hội Đảng tai họa này, cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ đơn thuần là cuộc kháng chiến chống xâm lược, giành và giữ độc lập dân tộc, là sự nối tiếp sự nghiệp cứu nước của Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám…
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”
Lời kêu gọi của vị thống soái cuộc kháng chiến đã nêu đúng bản chất khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương 1946 – 1954. Không còn con đường nào khác, buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến giữ nước, cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến chính nghĩa, thuận đạo lí đã thu hút, tập hợp được sức mạnh cả dân tộc Việt Nam. Tài năng và khí phách Việt Nam được khai thác, phát huy cao nhất. Từ đó xuất hiện những người lính anh dũng vô song và những nhà cầm quân lỗi lạc. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, trước đây Việt Nam đã có Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, nay có Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng tài khác.
Sau trận thắng lớn đầu tiên, thu đông năm 1947, đánh tan cuộc hành quân đầy tham vọng của quân viễn chinh Pháp nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Nam, ngày 20. 1. 1948, Chính phủ Việt Nam kháng chiến liền quyết định phong tướng cho những nhà cầm quân vừa thắng trận, vừa để hoàn chỉnh về tổ chức của một Nhà nước có quân đội được tổ chức chính qui, hiện đại, vừa để ghi nhận sự lớn mạnh của quân đội kháng chiến. Mười một chỉ huy cấp cao của quân đội kháng chiến được phong tướng. Một đại tướng: Võ Nguyên Giáp. Một trung tướng: Nguyễn Bình. Chín thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình.
Trong mười một vị tướng trên, trung tướng Nguyễn Bình là người ra đi đầu tiên, ông mất năm 1951, khi mới 45 tuổi và đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ra đi sau cùng. Cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi nhất trong mười một vị tướng nhưng trung tướng Nguyễn Bình cùng với đại tướng Võ Nguyên Giáp, người có cuộc đời binh nghiệp lâu dài nhất là hai vị tướng để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và để lại tình cảm sâu nặng nhất trong lòng người dân Việt Nam. Cũng vì dấu ấn sâu đậm hai vị tướng này để lại trong lịch sử và trong lòng dân, hai vị tướng còn để lại cả bí ẩn về tai nạn cuộc đời mà lịch sử còn phải soi rọi, khám phá.
Có công lao lớn với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Không một lần vướng sai lầm chính trị. Được Chủ soái Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng, gửi gắm. Được tướng sĩ trong toàn quân yêu quí coi là người anh cả của quân đội. Có sức mạnh của đội quân nhiều công trạng đứng phía sau. Với sức mạnh quân đội và ưu thế chính trị cá nhân đó, Võ Nguyên Giáp thừa sức thâu tóm quyền lực tuyệt đối trong tay nhưng ông không có mưu đồ quyền lực. Không tham vọng quyền lực nhưng ông lại là nạn nhân của những tham vọng quyền lực.
Sự lừng lẫy của vị tướng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, sự nổi tiếng của vị tướng đánh thắng đội quân hùng mạnh nhất thế giới làm cho thế giới chỉ biết có hai người khi nhắc đến cuộc chiến tranh Việt Nam là: “Hồ Chí Minh! Giáp! Giáp! Hồ Chí Minh! Giáp! Giáp!” (tiếng hô của người dân nhiều nước trên thế giới trong những cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam những năm bảy mươi, tám mươi, thế kỉ hai mươi). Vị tướng lừng lẫy trong lịch sử và trong thời đại đó đã làm cho người có quyền lực và háo danh, muốn để lại tên tuổi trong lịch sử chịu không nổi vì sợ bị lu mờ. Có quyền lực trong tay, họ liền dùng quyền lực xóa bỏ cả lịch sử, xóa bỏ tên tuổi tướng Giáp trong lịch sử. Suốt mấy chục năm trời tên tướng Giáp bị xóa khỏi trang sử Điện Biên Phủ. Họ ngụy tạo ra hồ sơ Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp, ngụy tạo ra vụ Sáu Sứ, một âm mưu đảo chính cung đình để ám sát con người chính trị Võ Nguyên Giáp.
Nhắc đến vụ việc cả hệ thống quyền lực ngang nhiên giết chết con người chính trị Võ Nguyên Giáp, tôi lại nhớ đến vụ phục kích giết chết con người thể xác trung tướng Nguyễn Bình.
Tên tuổi trung tướng Nguyễn Bình những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ cũng lừng lẫy như tên tuổi Võ Nguyên Giáp sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, sau 30.4.1975. Sau năm 1945, các tổ chức vũ trang của các giáo phái, của các tổ chức chính trị ở Nam Bộ nhiều như nấm. Nguyễn Bình đã tập hợp, thống nhất các tổ chức vũ trang này thành lực lượng kháng chiến chống Pháp và Nguyễn Bình trở thành vị tư lệnh đầy quyền uy của Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Người dân Nam Bộ truyền miệng những câu chuyện về sự ngang tàng, nghĩa khí, về sự xuất quỉ nhập thần của tướng Nguyễn Bình và họ tham gia kháng chiến chống Pháp vì lòng yêu nước và vì thần tượng tướng Nguyễn Bình chứ họ không hề biết đến những người Cộng sản.
Người đứng đầu tổ chức Cộng sản ở Nam Bộ lúc đó chỉ là trưởng phòng dân quân không ai biết đến trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ của Tướng lừng danh Nguyễn Bình. Con người đó sau này ra Hà Nội đứng đầu cả Đảng Lao động Việt Nam, con người luôn chứa chất trong lòng tham vọng lớn về quyền lực và nỗi đố kị, tị hiềm không phải chỉ với riêng tướng Giáp. Đội quân kháng chiến của tướng Nguyễn Bình đang lớn mạnh thì tướng Bình được triệu tập ra Việt Bắc. Và những họng súng ở một ổ phục kích đã chờ đón tướng Bình ngay trong chặng đường rừng đầu tiên. Lập tức ông phải nhận lấy cái chết âm thầm đầy bí ẩn trong rừng sâu trên đất Campuchia!
3. KHẮC KHOẢI XUÂN MẬU THÂN 1968
Sau năm 1975, học xong khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du, tôi có hai năm làm việc ở Ban Kí Sự Lịch Sử Quân Sự thuộc Tổng Cục Chính Trị. Ban có nhiệm vụ hoàn thành bản thảo bộ kí sự lịch sử “Trận Đánh Ba Mươi Năm” gồm 5 tập. Từ 1945 đến 1975, ba mươi năm chiến tranh được chia ra làm năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là một tập sách. Gần ba mươi nhà văn, nhà báo quân đội chia làm năm nhóm, mỗi nhóm hoàn thành một tập bản thảo. Tôi và nhà văn Đào Thắng được bổ sung về Ban ở giai đoạn cuối và làm tập năm do nhà văn, thượng tá Nam Hà làm trưởng nhóm. Gặp gỡ các tướng lĩnh, những người hoạch định các chiến dịch, những người chỉ huy những trận đánh. Đọc hồi kí của các tướng lĩnh quân đội miền Bắc, quân đội miền Nam, quân đội Mĩ. Sục vào các kho hồ sơ lưu trữ… Nguồn tư liệu gốc ngổn ngang đó cho chúng tôi hình dung đầy đủ và chính xác từng chiến dịch từ cơn cớ ban đầu, đến diễn biến ở bản doanh, diễn biến ở mặt trận và giá máu phải trả. Từ đó chúng tôi cũng nhận ra những góc khuất của chiến tranh, những góc khuất của lòng người. Người háo danh, háo quyền lực đã không tiếc máu xương của hàng triệu người lính và dân lành để thỏa mãn sự háo danh đó.
Đầu năm 1967, Bí thư trung ương cục miền Nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới từ mặt trận miền Nam trở ra Hà Nội đã cùng Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn hình thành ý tưởng Xuân Mậu Thân 1968 Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định và chỉ đạo Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu làm kế hoạch thực hiện.
Trong mười một ủy viên Bộ Chính trị, tướng Giáp là người duy nhất lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa Xuân 1968. Theo ông sức mạnh chiến tranh của quân Mĩ, quân đồng minh ở Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn đang trên đỉnh cao với hơn nửa triệu quân Mĩ và quân đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn. Chưa đủ thời gian thấm đòn chiến tranh nhân dân của ta, hơn nửa triệu quân Mĩ với máy bay chuyển quân bay rợp trời, xe tăng dàn trận bò kín đất đang chủ động mở những cuộc hành quân lớn đánh vào vùng đất quân giải phóng kiểm soát. Lúc đối phương lực đang còn mạnh và thế đang lên mà dốc vốn vào tổng công kích trận cuối cùng chỉ cháy túi, kiệt vốn, tự sát. Căn cứ quân nước ngoài không đặt trong thành phố, thị xã. Đánh vào tất cả thành phố, thị xã, trung tâm hành chính đông dân là nhằm vào người dân. Đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố là mang chết chóc đến cho dân lành và dàn mỏng lực lượng ta ra phơi mình trên địa hình trống trải, lạc lõng trong đường phố bàn cờ nhằng nhịt sẽ bị tiêu diệt đến người lính cuối cùng, chỉ tự chuốc lấy thương vong lớn, không thể có chiến thắng quyết định.
Thời điểm này chỉ nên mở cuộc tập kích chiến lược: Bất ngờ đồng loạt đánh vào tất cả các căn cứ quân Sài Gòn, quân Mĩ và đồng minh trên toàn miền Nam, cùng với tiêu hao sinh lực là đánh mạnh vào tinh thần chiến đấu của đối phương, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mĩ đòi Chính phủ đưa con em họ về nước, tạo ra bước ngoặt về cục diện chiến tranh. Khi yếu tố bất ngờ không còn, sức mạnh của đội quân khổng lồ, sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của công sự phía đối phương được phát huy thì ta phải thu quân bảo toàn lực lượng cho những chiến dịch đánh lớn và quyết định tiếp theo.
Lí giải đúng đắn đó của tướng Giáp chỉ là một ý kiến lẻ loi đã bị bỏ qua.
Tháng 6 năm 1967, dưới sự chủ trì của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, hội nghị trung ương 14, khóa ba quyết định Tổng tiến công và Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968. Chiều 5. 7. 1967, Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm trước hôm lên đường trở lại miền Nam triển khai chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Từ bữa cơm đạm bạc, thân tình ở ngôi nhà sàn trong phủ Chủ tịch trở về nhà riêng ở phố Lý Nam Đế, Bí thư Trung ương cục miền Nam rạo rực nghĩ đến chiến thắng trong tầm tay. Niềm tin chiến thắng Xuân Mậu Thân mạnh đến nỗi suốt đêm đó Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh âm thầm vui sướng đến mất ngủ. Quá phấn khích, rạng sáng ngày 6. 7. 1967, ông bị cơn nhồi máu cơ tim cướp đi mạng sống.
Còn Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, đồng tác giả Tổng công kích Xuân Mậu Thân 1968, cũng có niềm tin vững chắc vào chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đến mức ông đã trù liệu cả việc giành độc quyền chiến thắng, không cho những đối thủ chính trị được ghé tên, chia phần chiến thắng của ông bằng cách không để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp có mặt ở trong nước trong suốt thời gian chuẩn bị và quá trình diễn ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Không có mặt ở trong nước là không can dự gì vào chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 chỉ hoàn toàn từ Lê Duẩn, do Lê Duẩn, của Lê Duẩn.
Từ 5. 9. 1967, Hồ Chí Minh cùng người thư kí riêng thân tín đã phải lẻ loi, âm thầm rời đất nước sang Bắc Kinh nghỉ ngơi theo “quyết định của Bộ Chính trị và hội đồng bác sĩ”! Gần bốn tháng sau, mãi đến 23. 12. 1967 Hồ Chí Minh mới được điện mời về để tham dự cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28. 12. 1967 và để đọc lời chúc Tết Mậu Thân 1968 cho đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam ghi âm. Xong việc, ngày 2. 1. 1968 Hồ Chí Minh lại tất tả, lủi thủi lên máy bay sang Tàu.
Là Chủ tịch đảng, Chủ tịch nước, có quê hương đất nước, có mấy chục triệu thần dân sùng bái mà Tết Mậu Thân 1968 tuổi già Hồ Chí Minh phải đón Tết bằng bánh bao, cơm Tàu, trong cô đơn, trong trống vắng lạnh lẽo nơi đất khách quê người như một kẻ thất thế lưu vong, không người thân thích, không hoa đào mứt tết, không bánh chưng, dưa hành. Đối xử như vậy với đương nhiệm Chủ tịch đảng, đương nhiệm Chủ tịch nước lại đã ở tuổi 78, thật tệ bạc, tàn nhẫn và độc ác!
Lại nữa, với âm mưu gì mà bố trí để một người già gần 80 tuổi đi chuyến bay vào đêm đông giá rét? Rồi khi máy bay hạ cánh trong đêm thì người lái lâu năm thuộc đường băng liền phát hiện ra đèn sân bay lệch mười lăm độ, máy bay phải lượn đến vòng thứ hai vẫn không dám hạ cánh. Báo cho sân bay nhưng đèn dẫn đường hạ cánh vẫn không thay đổi. Nếu là người lái chưa thuộc đường băng cứ hạ cánh theo đèn dẫn thì máy bay đã trượt khỏi đường băng và nổ tung rồi. Nhờ người lái lão luyện thuộc đường băng như thuộc đường ngõ xóm nhà mình nên cho máy bay hạ cánh theo trí nhớ, nhờ thế máy bay mới an toàn, người đi chuyến bay đó là Hồ Chí Minh mới còn mạng sống.
Không biết trong toan tính giành độc quyền chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn có tính đến sự cố chuyến bay chở Hồ Chí Minh hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm đêm 23. 12. 1967 không nhỉ? Một sự cố nghiêm trọng như vậy mà cho chìm xuồng lặng lẽ, không điều tra làm rõ cũng là điều rất không bình thường. Sự cố tày đình đó do sơ xuất của những người quản lí, khai thác sân bay gây ra, tất sẽ được tìm ra và truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn. Không được điều tra làm rõ, chỉ có thể là sự cố được bí mật tạo dựng bởi quyền lực tối cao như từ trên trời rơi xuống, không ai dám đụng đến, không thể khui ra, thôi đành cho qua!
Trong những ngày Hồ Chí Minh sống khắc khoải cô đơn bên Tàu thì Võ Nguyên Giáp cũng phải ngậm ngùi sống ở trời Tây Hungari hiu quạnh.
Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra đúng như những gì Võ Nguyện Giáp đã cảnh báo: Mang chết chóc đến dân lành và đội quân ở rừng đánh vào thành phố, ở lại giữ thành phố đã phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm.
Hai bên tham chiến đã thỏa thuận ngừng chiến dịp Tết Nguyên đán để người dân được bình yên ăn tết. Bội ước thỏa thuận, đúng giao thừa Tết Mậu Thân, đêm 31. 1. 1968 lịch tây, đội quân ở rừng do Hà Nội chỉ huy, thực sự là đội quân miền Bắc, nổ súng đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bị bất ngờ, quân miền Nam và đồng minh không kịp phản ứng, đành để mất nhiều khu vực trong các thành phố, thị xã cho đội quân miền Bắc làm chủ. Tình thế này dẫn đến hai hậu quả.
Một. Vùng thành phố, thị xã do quân miền Bắc làm chủ trở thành nơi chiến sự ác liệt nhất, nơi tập trung bom đạn của cả hai phía, nơi tắm máu dân lành. Thành phố Huế là nơi quân miền Bắc ở lại lâu nhất, 28 ngày, cũng là nơi tang thương nhất. Hơn 116 000 ngôi nhà bị tàn phá, trong đó 9 776 ngôi nhà bị san bằng, 3 776 dân lành bị bom đạn giao tranh giết chết. Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã.
Hai. Đội quân miền Bắc đánh vào thành phố chỉ nhờ yếu tố bất ngờ mà giành được thắng lợi ban đầu. Yếu tố bất ngờ không còn, đội quân đánh vào thành phố từ chủ động thành bị động, phải lấy thế yếu, thế bị động, thế cô lập, bị bao vây, chia cắt, phơi mình ra trên địa hình đường phố trống trải và lạ lẫm đương đầu với thế mạnh áp đảo của đội quân miền Nam. Cố giữ các thành phố, thị xã, những trung tâm hành chính để hòng dựng lên một chính quyền cách mạng thay thế chính quyền Sài Gòn nhưng càng cố giữ thành phố, thị xã thì các thành phố, thị xã miền Nam càng trở thành vực thẳm không đáy chôn vùi quân miền Bắc. Đơn vị sau thế chỗ đơn vị trước đã bị xóa sổ nhưng đơn vị thế chỗ càng về sau quân số càng ít ỏi! Nhiều đơn vị, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cả du kích bị xóa sổ nhiều lần! Nhiều đảng bộ, chi bộ hi sinh trắng không còn một đảng viên! Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực.
Lứa nhà văn quân đội chúng tôi hình thành trong cuộc chiến tranh Nam Bắc được Tổng cục Chính trị tập hợp về từ giữa năm 1976 đến mùa hè năm 1984 vẫn đang có mặt đông đủ ở Vân Hồ Ba, Hà Nội. Và Vân Hồ Ba Hà Nội trở thành địa chỉ thường xuyên lui tới của những người cầm bút đất kinh kì. Một buổi chiều muộn nhà văn Bùi Bình Thi phóng xe máy từ nhà sáng tác Quảng Bá, Hồ Tây đến Vân Hồ Ba hấp tấp kể với chúng tôi câu chuyện nhà văn vừa chứng kiến về người khởi xướng vụ tắm máu Tết Mậu Thân 1968 chạy trốn, chối bỏ trách nhiệm trước người dân, trước lịch sử.
Sau một ngày đóng cửa hì hục viết, trước bữa cơm chiều, các nhà văn đang ở trại sáng tác Quảng Bá thường sang phòng nhà văn quân đội, đại tá Xuân Thiều tán chuyện đợi nhà bếp mở cửa. Chiều nay vừa đủ mặt thì bỗng Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng người bảo vệ xuất hiện ở cửa phòng. Từ đại hội lần thứ tư cuối năm 1976, Đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam và chức Bí thư thứ nhất đổi thành Tổng Bí thư. Khu nhà nghỉ của cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản bên Hồ Tây, cách nhà sáng tác của Hội Nhà văn dăm phút đi bộ. Tổng Bí thư Lê Duẩn đang nghỉ ở đó. Buổi chiều ông đi dạo và ghé vào nhà sáng tác của các nhà văn. Các nhà văn đều là đảng viên Cộng sản nhận ra Tổng Bí thư của mình liền nồng nhiệt đón tiếp. Tổng Bí thư vui vẻ hỏi tên từng nhà văn. Nghe nhà văn Xuân Thiều tự giới thiệu là đại tá, Tổng Bí thư tươi cười hỏi: Đại tá hỉ? Nhà văn đại tá hỉ? Tốt hỉ? Nghe nhà văn Bùi Bình Thi xưng tên, ông bảo: À, à, Thi lãnh đạo Hội Nhà văn hỉ? Nhà văn cao lớn Bùi Bình Thi có nước da ngăm ngăm đen, có khuôn mặt đầy đặn và hàng lông mày rậm giống nhà văn Nguyễn Đình Thi vội cải chính: Dạ, thưa bác, cháu là Bùi Bình Thi, không phải Tổng Thư kí Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi ạ!…
Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, đại tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều… Mới nghe có thế, Tổng Bí thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại tá mà ngu! … rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.
Thực chất của Tết Mậu Thân 1968 là vậy. Đến người chủ mưu khởi xướng ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 cũng co cẳng chạy trốn khi nghe nhắc đến Mậu Thân 1968 thì hàng năm có nên tưng bừng kỉ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 không nhỉ? Chiến tranh đã qua lâu rồi. Cần thoát ra khỏi tuyên truyền tâm lí chiến, không thể coi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968, người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, người Việt bị giết chết nhiều nhất trong một chiến dịch, người Việt kề nòng súng vào tai người Việt bắn ngay trên đường phố là chiến thắng của bất kì phía nào, của bất kì ai.
Trở về với bản thể con người, trở về với cội nguồn dân tộc để nhận ra rằng Xuân Mậu Thăn 1968 là mùa xuân tang tóc của dân tộc Việt Nam, là trang đau buồn của lịch sử Việt Nam. Trang đau buồn đó cần ghi lên hàng đầu tên hai người. Một tên phải viết bằng mực đen và một tên viết bằng mực đỏ. Tên viết bằng mực đỏ là Võ Nguyên Giáp. Dù Võ Nguyên Giáp bị gạt ra bên lề chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 nhưng tiếng nói của Võ Nguyên Giáp khi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 được soạn thảo, tiếng nói không đưa chiến tranh chết chóc vào nơi tập trung dân cư, không đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố, là tiếng nói của trái tim Con Người, tiếng nói của dòng máu đỏ Việt Nam.
4. ĐƯỜNG VỀ
Bị xóa tên khỏi trang sử Điện Biên Phủ mà ông đã viết lên. Bị đẩy vào vai bị can trong những vụ án chính trị giả tạo. Kẻ làm những việc đó để chặn con đường chấp chính của Võ Nguyên Giáp lại đã mở cho Võ Nguyên Giáp con đường trở về với dân. Đánh xong giặc Ân, Thánh Gióng lại lên làm vua, lại xa dân trong ăn chơi hưởng lạc, lại đối lập với dân trong bòn rút, bóc lột dân thì Thánh Gióng đâu có được dân thờ. Dân gian truyền miệng câu chuyện đánh xong giặc, Thánh Gióng cưỡi ngựa bay về Trời là dân gian đã đưa Thánh Gióng trở về với dân, mãi mãi ở trong lòng dân. Nhờ thế non nước Việt Nam đã có làng Phù Đổng nơi Thánh Gióng ra đời, lại có ngọn núi Sóc linh thiêng, nơi Thánh Gióng về Trời, nơi Thánh Gióng về sống trong lòng dân. Như làng Phù Đổng, như ngọn núi Sóc, Thánh Gióng sẽ còn mãi với non nước, với lịch sử, với dân tộc Việt Nam.
Không trở về Trời, Võ Nguyên Giáp trở về cuộc sống của người dân để nói tiếng nói của dân. Võ Nguyên Giáp lên tiếng ngăn chặn việc phá hội trường Ba Đình. Ba lần Võ Nguyên Giáp viết thư cho những người đang chấp chính đòi dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Chẳng có chức tước, danh vị, hàm cấp nào cao quí bằng được trở về với dân. Vì thế mọi danh hiệu, mọi hàm cấp Anh hùng, Nguyên soái, Đại Nguyên soái chẳng còn có giá trị gì với Võ Nguyên Giáp. Không bay về Trời. Không vào chỗ dành riêng cho tầng lớp vua quan xa dân ở Mai Dịch, Võ Nguyên Giáp về với non nước Việt Nam, về với dân gian Việt Nam ở doi đất bình dị ven biển Vũng Chùa, Quảng Bình quê nhà.
Ra đời bởi học thuyết sai trái, nhà nước Cộng sản Việt Nam phải tồn tại bằng dối trá. Với Nhà nước Cộng sản Việt Nam dối trá đó, mỗi người dân ngay thẳng, lương thiện, chân chính đều phải mang một nỗi oan khiên.
Nỗi oan khiên bị cướp những giá trị tinh thần của con người văn hóa nhiều vô kể. Nỗi oan khiên của người dân bị cướp của cải vật chất càng nhiều gấp bội. Người có tài, có nhiều công lao đóng góp, có lòng dũng cảm và niềm say mê cống hiến thì bị gạt ra, trở về hòa lẫn vào dân gian. Tài năng đành mai một. Ý chí cống hiến cũng đành vất bỏ. Kẻ bất tài, hèn nhát, vô tích sự, không biết làm việc, chỉ có nỗi thèm khát, tham lam của con người sinh vật, chỉ chăm chăm kiếm chác, mưu cầu danh lợi cá nhân thì danh vị, chức tước đầy mình. Những kẻ như vậy ngày nay ở chỗ nào cũng nhan nhản và Hồ Xuân Mãn, Bí thư tỉnh ủy, Anh hùng lực lượng vũ trang, nhân vật gương mẫu, xuất sắc trong học tập đạo đức Hồ Chí Minh là một dẫn chứng. Cả một thể chế dối trá đã tạo nên nhan nhản những Hồ Xuân Mãn cũng đã tạo nên triệu triệu dân oan.
Cả một dân tộc oan khiên và mất mát đã mở rộng lòng đón Võ Nguyên Giáp về với dân như một dân oan vĩ đại trong lịch sử.
P. Đ. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Source : BVN


VÌ SAO ĐỒNG QUI SINH RA XUNG ĐỘT: CÀNG TRỞ NÊN GIỐNG NHAU, TRUNG QUỐC VÀ MỸ LẠI CÀNG XA NHAU

VÌ SAO ĐỒNG QUI SINH RA XUNG ĐỘT: CÀNG TRỞ NÊN GIỐNG NHAU, TRUNG QUỐC VÀ MỸ LẠI CÀNG XA NHAU

Tháng 11 1, 2013
Mark Leonard
Trần Ngọc Cư dịch
pro&contra – Từ nhiều năm nay, mọi động thái đối ngoại của Hà Nội đều được dư luận đánh giá như những dấu hiệu hoặc là tiếp tục thân – thậm chí phụ thuộc – Bắc Kinh, hoặc là đang bắt đầu xích lại gần Washington, theo nghĩa hai khả năng đối lập. Trong bài viết sau đây, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế Mark Leonard chỉ ra rằng Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên giống nhau và hệ quả của điều đó trong trật tự thế giới hiện tại và sắp tới.
______________
Nhiều người lo ngại rằng trong một tương lai không xa, thế giới sẽ bị chia ra nhiều mảng vì hố sâu ngăn cách giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng nới rộng. Họ nêu lên câu hỏi, vì sao một chế độ độc tài cộng sản và một chế độ dân chủ tư bản có thể bắc một chiếc cầu để khắc phục khoảng cách giữa hai bên? Nhưng đã đến lúc ta nên từ bỏ cái tư duy cho rằng hai nước này đến từ những hành tinh khác nhau và những căng thẳng giữa chúng là sản phẩm của những dị biệt giữa hai quốc gia. Trên thực tế, cho đến tương đối gần đây, Trung Quốc và Mỹ khá hòa hợp với nhau – chính vì những lợi ích và thuộc tính của hai nước khác nhau. Ngày nay, chính những tương đồng ngày càng gia tăng, chứ không phải những dị biệt, đang đẩy hai nước cách xa nhau.
Quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn tương phản với quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô, nước sau cùng đã thách thức quyền lực Mỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, khi địa chính trị trước hết là một cuộc xung đột ý thức hệ, sự tiếp xúc ngày càng gia tăng và tính đồng qui ngày càng phát triển giữa hai xã hội phân cách nhau đã nuôi dưỡng được chính sách hoà hoãn.
Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện quốc tế trong thời đương đại đã đảo ngược tiến trình tương tác đó. Ngày nay, các nước cạnh tranh nhau vì địa vị quốc tế thì nhiều, mà vì ý thức hệ thì ít. Do đó, những dị biệt giữa các đại cường thường dẫn đến sự bổ túc cho nhau và hợp tác với nhau, trong khi sự tương đồng thường là nguyên nhân xung đột. Trong khi tái quân bình nền kinh tế và rà soát lại chính sách đối ngoại của mình, Bắc Kinh và Washington ngày một đối đầu về những lợi ích chung. Và hình như Sigmund Freud đã tiên đoán được trường hợp này: Trung Quốc và Mỹ càng trở nên giống nhau, thì hai nước lại càng ít thích nhau. Freud gọi hiện tượng này là “nỗi ám ảnh về những dị biệt tiểu tiết”: đó là xu thế tập trung vào những dị biệt rất nhỏ giữa những người vốn dĩ giống nhau để biện minh cho những tình cảm xung khắc của họ. Hẳn nhiên, hai nước này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng hố sâu chia rẽ hai nước một thế hệ trước đây đã thu hẹp lại, và khi càng giống nhau thì càng dễ trở nên xung đột.
Vào thời điểm Tổng thống Mỹ Obama lên cầm quyền năm 2009, ông hi vọng đưa Trung Quốc vào các cơ chế toàn cầu và khuyến khích nước này đồng hóa lợi ích của mình với việc duy trì hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo sau Thế chiến. Nhưng chỉ gần năm năm sau, theo một quan chức Mỹ nắm vững tư duy Tổng thống Mỹ mà tôi có dịp trao đổi vào đầu năm nay, thái độ của Obama đối với Trung Quốc được mô tả chính xác nhất là “thất vọng”. Theo quan chức này, Obama thấy rằng phía Trung Quốc đã bác bỏ nỗ lực của ông trong việc tạo dựng một dạng “G-2” không chính thức trong chuyến viếng thăm Trung Quốc đầu tiên của ông, tháng Mười Một 2009, và những bất đồng giữa Bắc Kinh và Washington về thay đổi khí hậu, về những vấn đề trên biển và an ninh mạng đã khiến Obama tin rằng Trung Quốc là một vấn nạn hơn là một đối tác.
Về phần mình, lãnh đạo Trung Quốc không muốn đề cao một trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo, một trật tự mà họ không đóng vai trò tạo dựng. Đó là lý do tại sao, trong thời gian trước cuộc họp với Obama tháng Sáu vừa qua tại Khu nhà nghỉ Sunnylands tại California, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thúc đẩy thiết lập một “loại quan hệ đại cường mới” – một cách nói được mã hóa để người Trung Quốc nhắn nhủ người Mỹ phải tôn trọng Trung Quốc như một quốc gia ngang hàng với Mỹ, phải đáp ứng những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, và phải dự kiến Trung Quốc xác định lợi ích của mình chứ không hậu thuẫn những nghị trình quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Trong khi hai cường quốc lớn nhất toàn cầu chiều chuộng chứng thần kinh của mình, phần còn lại của thế giới đâm ra lo lắng. Trong một loạt vấn đề kinh tế và địa chính trị quan trọng, Bắc Kinh và Washington ngày càng ra sức qua mặt nhau hơn là đầu tư vào những định chế chung. Điều này sẽ có hiệu ứng sâu xa trên thế giới. Mặc dù mậu dịch toàn cầu sẽ bành trướng và các định chế toàn cầu sẽ còn tồn tại, nhưng chính trị quốc tế sẽ không bị khống chế bởi các quốc gia giàu mạnh hay các tổ chức quốc tế mà bởi những cụm quốc gia xích lại gần nhau vì có lịch sử và mức độ giàu có giống nhau, và tin tưởng rằng lợi ích quốc gia của chúng bổ túc cho nhau. Những nhóm quốc gia thực tiễn và có phần tùy nghi này sẽ tìm cách phát triển thế mạnh của chúng từ trong nhóm ra ngoài, và sự tương tác giữa chúng với nhau sẽ làm lu mờ đội hình của cái trật tự tự do đa phương và thống nhất mà Mỹ và đồng minh đã cố gắng xây dựng từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt.
KẾT THÚC THỰC THỂ CHIMERICA
Trong gần hai thập kỷ qua, Trung Quốc và Mỹ đã tận hưởng một quan hệ cộng sinh gần như tuyệt hảo. Tiền tiết kiệm của Trung Quốc nuôi sức tiêu thụ của Mỹ. Các công ty Trung Quốc chế tạo những sản phẩm do các công ty hậu công nghiệp Mỹ thiết kế và bảo dưỡng. Và chính sách đối ngoại hướng nội của Trung Quốc trên cơ bản không làm lung lay vai trò bá quyền của Mỹ. Nhà sử học Niall Ferguson và nhà kinh tế Moritz Schularick cho rằng hai nước đã quyện chặt vào nhau đến nỗi họ bắt đầu gọi chúng như một thực thể riêng: “Chimerica” [China + America, ND].
Nếu quả thật từng có một Chimerica thì nó tồn tại nhờ cái thực tế là: mặc dù triết lý cai trị của hai quốc gia khác nhau sâu sắc, nhưng chúng chỉ khác nhau theo cung cách cái ổ khóa và cái chìa khóa khác nhau. Trung Quốc được điều hành theo “đồng thuận Đặng Tiểu Bình”, mang tên của nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lùi về phía sau vào những năm 1990, nhưng viễn kiến của ông vẫn tiếp tục dẫn đường cho nước này nhiều năm nữa. Mục đích trước tiên của Đặng là duy trì ổn định quốc nội và quốc tế bằng cách tránh xa một nghị trình đầy tham vọng trong chính sách đối ngoại và, thay vào đó, chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế thông qua xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, tín lý cai trị của Mỹ trong thập niên 1990 dựa vào một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa can thiệp nhằm bảo vệ một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo, một trật tự đặt cơ sở trên tự do mậu dịch ở nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong nước nhờ sức mạnh tín dụng. Hai viễn kiến này không có gì giống nhau, nhưng chúng cũng ít khi đối đầu xung đột; thật ra, chúng thường bổ túc cho nhau. Hẳn nhiên, trong giai đoạn này, Bắc Kinh và Trung Quốc vẫn cạnh tranh với nhau. Nhưng vì hai nước xuất phát từ những mức quyền lực rất chênh lệch, cuộc đọ sức trở thành bất đối xứng đến nỗi ít gây ra cọ xát. Vả lại, hai cường quốc này thường theo đuổi những mục đích hoàn toàn khác nhau và dựa vào những phương tiện rất khác nhau. Tại châu Á, Mỹ tập trung vào việc duy trì vai trò siêu cường quân sự của mình và chống lại bất cứ sáng kiến kinh tế nào mà Mỹ không nắm quyền hoạch định – thậm chí cả khi chúng được đưa ra bởi một đồng minh như Nhật Bản là nước đã đề nghị thành lập một quỹ tiền tệ châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98, một ý tưởng bị Washington bác bỏ. Trái lại, vào thời điểm đó, Trung Quốc đã tìm cách trấn an các nước láng giềng về “cuộc trỗi dậy hòa bình” của mình bằng cách hậu thuẫn việc hội nhập đa phương trong khu vực và hứa hẹn các nước này một phần thưởng kinh tế trong cuộc trỗi dậy của Trung Quốc thông qua các hợp đồng thương mại. Ở bên ngoài châu Á, lúc bấy giờ Bắc Kinh và Washington cũng tránh giẫm đạp lên chân nhau: Mỹ dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ với các nước dân chủ tiên tiến khác và các nước giàu năng lượng tại Trung Đông, còn Trung Quốc thì dồn các nỗ lực ngoại giao của mình vào việc tìm kiếm cơ hội tại châu Phi và châu Mỹ La tinh, những vùng mà Mỹ đã rút lui.
HOÁN CHUYỂN VỊ TRÍ
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã kết thúc kỷ nguyên Chimerica. Thức tỉnh vì nhận ra sự yếu kém của mình trước các lỗi hệ thống đã đưa đến cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh và Washington cương quyết tái quân bình quan hệ kinh tế với nhau, một quan hệ mà cả hai nước đều nhận thấy đã trở nên thiếu lành mạnh. Nhưng trong khi rà soát lại chính sách đối nội và đối ngoại của mình để tìm cách thích nghi với nền kinh tế toàn cầu đột nhiên trở nên yếu kém, cả hai nước bắt đầu phản ánh lẫn nhau trong những cung cách có khả năng thúc đẩy tính cạnh tranh hơn là tính bổ túc.
Trong lãnh vực kinh tế, Trung Quốc đang tìm cách giảm bớt sự lệ thuộc lâu dài vào hàng xuất khẩu và đang cố gắng kích thích mức tiêu thụ trong nước và phát triển một nền kinh tế dịch vụ nội địa. Trong khi đó, Mỹ đang nâng đỡ khu vực chế tạo hàng hóa của mình, một phần bằng chủ trương hạ giá đồng Mỹ kim thông qua việc gia tăng nguồn tiền cho các ngân hàng [quantitative easing] và bằng việc trợ cấp khu vực chế tạo xe hơi, và khuyến khích tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu chủ đạo thông qua một loạt hợp đồng thương mại mới với các nước giàu, gồm Nhật Bản và các quốc gia trong khối Liên Âu.
Các nỗ lực sản xuất hàng hóa giá trị cao của Trung Quốc và những toan tính tái công nghiệp hóa của Mỹ sẽ dẫn đến tình trạng là hai nước sẽ cạnh tranh trực tiếp hơn, khi nước này tiến gần đến phương thức sản xuất và tiêu thụ truyền thống của nước kia. Chẳng hạn, Trung Quốc không còn muốn cung cấp các linh kiện rẻ tiền bên trong chiếc iPhone chỉ để đứng nhìn những lợi nhuận lớn nhất dồn vào tay một công ty Mỹ. Thay vào đó, Trung Quốc đang khuyến khích các công ty Trung Quốc nên theo gương Huawei, một công ty đặt trụ sở tại Quảng Đông đã cực kỳ thành công trong việc bán ra các điện thoại thông minh bắt chước chiếc iPhone, mà lợi nhuận của công ty này vẫn nằm trong nước. Tuy nhiên, trong quan hệ của mỗi nước với phần còn lại của thế giới, cả hai cường quốc đang trở nên giống nhau một cách rất ngoạn mục – trong một số trường hợp gần như đang hoán chuyển vai trò truyền thống của nhau. Trung Quốc đang phấn đấu để điều hành ảnh hưởng toàn cầu đang lên của mình. Giới tinh hoa trong chính sách đối ngoại của đất nước này đang lao vào một cuộc tái tư duy rộng lớn về chiến lược Trung Quốc; họ chất vấn mọi tín điều trong đường lối “ẩn mình để chờ thời cơ” của thời đại Đặng Tiểu Bình, gồm cả truyền thống tránh can thiệp vào nội bộ nước khác của Trung Quốc. Tiến trình này được thúc đẩy bởi cuộc chiến do NATO lãnh đạo năm 2011 nhằm lật đổ nhà lãnh đạo Libya Muammar al-Qaddafi, khi Trung Quốc kinh ngạc nhận ra rằng nhiều nước đang phát triển đã ủng hộ việc can thiệp của quốc tế. Sức ép đòi hỏi Trung Quốc phải có một chính sách đối ngoại ít thụ động hơn phát xuất từ các công ty Trung Quốc muốn được che chở tại những thị trường nguy hiểm ở nước ngoài; từ một đội ngũ trí thức theo chủ nghĩa toàn cầu chủ trương rằng trong một thế giới mà Trung Quốc hiện diện tại nhiều điểm nóng, Bắc Kinh phải từ bỏ sự dè dặt của mình để chấp nhận các hoạt động quốc tế; và từ những người hoạch định chính sách Trung Quốc hiếu chiến tin tưởng rằng Trung Quốc cần phải quyết đoán hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình ở nước ngoài. Thậm chí nếu những tranh luận này có thắng thế đi nữa, Trung Quốc sẽ không vội tung ra những cuộc can thiệp vì lý do nhân đạo theo kiểu Mỹ nhưng những người làm chính sách Trung Quốc sẽ bớt rụt rè hơn trong việc can thiệp vào nội bộ của nước khác. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong), Viện trưởng Viện Bang giao Quốc tế Hiện đại tại Đại học Thanh Hoa, đã nói với tôi, “Khi Trung Quốc mạnh bằng Mỹ, chúng tôi sẽ có một đường lối đối với vấn đề chủ quyền giống hệt như Mỹ.”
Và khi đề cập đến chính trị khu vực, những trí thức diều hâu như Diêm đang bày tỏ những hoài nghi về việc Trung Quốc có nên đặt lợi ích kinh tế cao hơn những mục tiêu chính trị hay không. Sự chuyển biến tư duy này có thể giải thích quyết định của chính phủ Trung Quốc năm 2010 trong việc tạm thời ngưng xuất khẩu khoáng sản đất hiếm sang Nhật Bản và quyết định của Trung Quốc hai năm sau đó trong việc giới hạn nhập khẩu trái cây từ Philippines trong thời gian hai nước xung đột về các đảo trong Biển Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam – N.D.]. Những động thái này diễn ra song song với việc chính quyền có vẻ dung túng những cuộc biểu tình đôi khi bạo động được tổ chức bởi các phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc nhằm chống lại các công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Trung Quốc, dù sự bất ổn đó đã khiến một số công ty này phải dời sang Việt Nam.
Trong một chuyển biến nhiều kịch tính hơn, giới hàn lâm Trung Quốc cũng đang tranh luận là liệu nước họ có nên xét lại việc chống đối các liên minh thường trực không. Năm ngoái, Diêm và các trí thức diều hâu khác công khai đề nghị rằng Trung Quốc nên phát triển các hình thức gần như liên minh với khoảng trên một chục nước, gồm các cộng hòa Trung Á, Miến Điện, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, và Sri Lanka, cấp cho họ những đảm bảo an ninh và, đối với những nước nhỏ trên danh sách này, có lẽ cả sự che chở của chiếc dù hạt nhân Trung Quốc. Những động thái này không phải là điều mà nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick nghĩ tới vào năm 2005 khi ông kêu gọi Trung Quốc nên trở thành một “thành viên có trách nhiệm” trong trật tự toàn cầu.
Tiếp sức cho tính quyết đoán quốc tế ngày một gia tăng của Trung Quốc là sự phát triển một hệ thống chính trị trong nước ngày càng tham gia bàn việc nước, trong đó nhiều trường phái khác nhau thi đua tranh luận vấn đề và cũng là nơi Internet và nhất là các phương tiện truyền thông xã hội đã tạo ra một công luận sinh động hơn trước nhiều. Trong quá khứ, các nhà làm chính sách phương Tây thường lên án Trung Quốc đã dùng thủ đoạn để nuôi dưỡng hận thù dân tộc rồi lấy cớ là hành động của mình bị hạn chế vì sự phẫn nộ của người dân. Nhưng ngày nay, tiếng trống thúc quân của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc có vẻ chân thật hơn là ngụy tạo. Trong Chiến tranh Lạnh, các nhà phân tích phương Tây cho rằng Đảng Cộng sản là xấu và xã hội dân sự là tốt. Nhưng ngày nay, Đảng Cộng sản có xu thế thúc đẩy một sự tự chế ở nước ngoài, trong khi người dân Trung Quốc bình thường lại đòi hỏi Đảng phải có hành động cứng rắn hơn.
Trong khi Trung Quốc cân nhắc phải làm thế nào để nới rộng ảnh hưởng quốc tế và những cam kết của mình, thì Mỹ đang ra sức hòa giải cái tham vọng siêu cường quốc tế của mình với tâm trạng thấm mệt chiến tranh của người dân và những đe dọa về nợ nần quốc gia. Obama đã tìm cách phát triển một mô hình lãnh đạo ít tốn kém: một phiên bản kiểu Mỹ của đường lối Đặng Tiểu Bình, với sự khác biệt là trong khi Đặng cố gắng che giấu sự giàu có đang gia tăng của Trung Quốc, thì Obama lại tìm cách che giấu sự thiếu hụt nguồn lực ngày càng trầm trọng của Mỹ. Trên thực tế, đường lối này của Mỹ gồm: trừng phạt các nước thù nghịch như Iran và Bắc Triều Tiên bằng biện pháp kinh tế,  truy kích khủng bố bằng máy bay không người lái, tránh đơn phương can thiệp ở nước ngoài mà có xu thế “lãnh đạo từ đằng sau”, và thiết lập những quan hệ thực tiễn với các quốc gia hùng mạnh như Nga. Từ góc nhìn của Trung Quốc, dấu hiệu có vẻ báo nguy nhất đối với Trung Quốc là chiến lược “xoay trục” về châu Á của Mỹ có vẻ như mô phỏng theo chính sách ngoại giao đa phương và chiến lược thương mại của Bắc Kinh. Thật vậy, như một nhà chiến lược của Lầu Năm góc đã nói với tôi gần đây, “Thay vì chơi cờ tướng, chúng tôi đang chơi cờ vây”, một loại cờ bàn cổ đại của Trung Quốc. Nhưng thậm chí khi Trung Quốc và Mỹ phát triển những đường lối khác nhau để bành trướng ảnh hưởng, cả hai đều bám lấy một hình thức của chủ nghĩa biệt lệ [exceptionalism]. Cả hai đều tin rằng mình khỏi phải tuân theo một số yếu tố nhất định của luật pháp quốc tế và mình được định mệnh giao phó một vai trò khống chế khu vực tại châu Á. Tuy nhiên, cả hai nước đều khó có thể hòa hợp cái xác tín ấy với cảm giác mà mỗi bên đều có, rằng trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau này mình đã bị nước kia chơi trội. Người Mỹ than phiền về mất công ăn việc làm, còn người Trung Quốc thì than phiền về việc đã mất đi những số tiền dành dụm bằng mồ hôi nước mắt. Washington than phiền rằng Bắc Kinh không chơi theo luật, còn Bắc Kinh thì phản bác rằng những luật này đều do phương Tây bày ra để kềm hãm các nước khác. Khi căng thẳng gia tăng, nhiều khía cạnh của quan hệ Mỹ-Trung mà đã có thời cả hai bên cho là cơ hội lại có vẻ đang ngày càng là những mối đe dọa.
HAI BÊN TÌM ĐƯỜNG TRÁNH NHAU
Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã tự do hóa nền kinh tế của mình, tạo ra một giai cấp trung lưu lên đến hàng trăm triệu người, và chứng kiến sự ra đời một công luận đích thực [a genuine public sphere] trong số hơn 500 triệu người dân Trung Quốc sử dụng Internet. Trung Quốc đã được đón mời vào các định chế quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và G-20 và được nhiều Tổng thống Mỹ liên tiếp đối xử bằng những tuyên bố công khai bày tỏ sự kính trọng. Nhiều nhân vật tại Washington từng hi vọng rằng những chuyển biến này sẽ đi liền với việc Trung Quốc gia tăng hậu thuẫn đối với hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Nhưng họ đã thất vọng vì thấy Trung Quốc không đáp ứng theo mong muốn của mình.
Thật vậy, thay vì bị những định chế toàn cầu chuyển hóa, Trung Quốc theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương rất tinh vi, làm thay đổi trật tự toàn cầu. Ở G-20, Trung Quốc đứng cùng phe với các nước chủ nợ, như Đức, một nước mà Trung Quốc đã liên minh năm 2010 khi người Đức chống lại một gói kích thích kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xuất. Washington cũng thất vọng vì Bắc Kinh đã góp phần kết liễu Vòng đàm phán Doha về thương mại thế giới, bằng cách giữ thái độ bất động vào thời điểm các cuộc đàm phán có dấu hiệu lâm nguy. Tại LHQ, Trung Quốc đã đẩy lùi sự phát triển các qui phạm bảo vệ tự do: trong thời gian 1997-98, các quốc gia khác bỏ phiếu theo Washington về những vấn đề nhân quyền tại Đại hội đồng là 80% số lần; trái lại, vào năm đó, các nước “bỏ phiếu theo” Bắc Kinh về các vấn đề này là 40%. Vào năm 2009-2010, những con số này gần như bị đảo ngược: khoảng 40% bỏ phiếu theo Mỹ và gần 70% theo Trung Quốc trên các vấn đề nhân quyền. Sự thay đổi lập trường này một phần là do Trung Quốc giành được hậu thuẫn của các nước đang phát triển bằng cách cho vay nhẹ lãi, trực tiếp đầu tư, và hứa hẹn bảo vệ những nước này trong trường hợp Hội đồng Bảo an LHQ đưa ra những nghị quyết trừng phạt họ.
Trước sự thất vọng của phương Tây, các học giả Trung Quốc, như nhà sử học vai vế Thì Ân Hoành (Shi Yinhong), tranh luận rằng phương Tây không nên quá bận tâm về việc “thúc đẩy Trung Quốc hội nhập vào trật tự tự do của phương Tây”, mà thay vào đó nên điều chỉnh cái trật tự ấy “để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc”, như Thì đã nói với tôi gần đây. Sự điều chỉnh này sẽ đòi hỏi một sự tái phân phối rộng lớn ảnh hưởng chính thức trong các định chế tài chính và an ninh toàn cầu, theo đó quyền lực được phân phối cho các quốc gia thành viên sẽ không tùy thuộc vào các khái niệm được định sẵn từ trước là ai sẽ có quyền cai quản, mà tùy thuộc vào “sức mạnh đích thực mà mỗi nước có được và sự đóng góp mà mỗi nước đã thể hiện”, như Thì lý giải. Trên thực tế, Thì tranh luận, Mỹ sẽ phải chấp nhận một thế cân bằng quân sự với Trung Quốc (chí ít ở phía đông Đài Loan), việc thống nhất bằng đường lối hòa bình của Trung Quốc và Đài Loan theo điều kiện của Bắc Kinh, và một khoảng “không gian chiến lược” nhỏ hẹp nhưng quan trọng đối với Trung Quốc ở tây Thái Bình Dương. Hơn thế nữa, hệ thống liên minh của Mỹ cần phải “giảm bớt tập trung vào quân sự và giảm bớt việc lấy Trung Quốc làm mục tiêu”.
Nhưng cho dù giới tinh hoa Trung Quốc có muốn gì đi nữa, phương Tây vẫn chưa sẵn sàng điều chỉnh trật tự thế giới hiện hữu để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc. Và thay vì chấp nhận những nhượng bộ cần thiết cho một G-2 hay sự bế tắc của nguyên trạng, các cường quốc phương Tây đang tránh đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi theo đuổi những quan hệ và những chính sách nhằm hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc uốn nắn hệ thống quốc tế theo ý mình.
Trong những năm gần đây, chẳng hạn, một nhóm quốc gia có lợi tức cao do Mỹ lãnh đạo và gồm cả Australia, Canada, Malaysia, và Singapore đã bắt đầu đàm phán để thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, một thương ước cố ý loại trừ Trung Quốc và nhấn mạnh những tiêu chuẩn khắt khe đối với các doanh nghiệp nhà nước, với quyền lợi công nhân, với các biện pháp bảo vệ môi trường, và quyền sở hữu trí tuệ. Nếu cuối cùng Nhật Bản cũng gia nhập, các thành viên của TPP sẽ chiếm đến 40% GDP toàn cầu. Thậm chí còn tham vọng hơn cả TPP là những cuộc đàm phán được khởi động gần đây về Hiệp định Đối tác Đầu tư xuyên Đại Tây Dương, một kế hoạch đã được bàn bạc từ lâu nhằm tạo ra một hiệp ước tự do mậu dịch giữa EU và Mỹ, một hiệp ước sẽ cho các nước phương Tây những lợi thế đáng kể trong bất cứ một cuộc đàm phán thương mại nào sau này với Trung Quốc. Mục tiêu của những hiệp ước mới này không phải là để đẩy Trung Quốc ra khỏi nền mậu dịch quốc tế, mà để soạn ra các qui định không có sự tham gia của Trung Quốc để rồi sau này buộc Trung Quốc phải chấp nhận chúng. Phương Tây cũng đang có những nỗ lực song song trong lãnh vực an ninh. Mỹ đang cố gắng sử dụng chiến lược xoay trục hướng về châu Á để củng cố những quan hệ lâu đời với nhiều nước chung quanh Trung Quốc nhằm gây cản trở cho tham vọng bá quyền quân sự của Trung Quốc ở khu vực tây Thái Bình Dương. Trong các nỗ lực can thiệp quốc tế, phương Tây đang gia tăng “việc tìm kiếm diễn đàn” [forum shopping]: hợp tác với những tổ chức khu vực, như Liên đoàn Á rập và Liên hiệp châu Phi, và dựa vào những liên minh không chính thức, như Nhóm Bạn của Syria [Friends of Syria], bất cứ khi nào chính sách ngoại giao tại LHQ bị bế tắc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng hoạt động ráo riết không kém để qua mặt phương Tây. Trung Quốc đã thành lập các định chế an ninh của chính mình, như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, và đã ký kết các thoả ước mậu dịch đơn phương và đa phương với nhiều nước khắp thế giới. Trung Quốc cũng thường xuyên tổ chức các hội nghị thượng đỉnh với các đối tác BRICS và đang cố gắng thành lập một ngân hàng phát triển BRICS với tiềm năng nắm giữ một danh mục cho vay lớn gấp ba lần danh mục cho vay của Ngân hàng Thế giới. [BRICS: viết tắt của Brazil, Russia, India, China, South Africa, ND]
CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỒNG ĐA PHƯƠNG
Đứng giữa các trật tự thế giới do Mỹ và Trung Quốc dẫn đầu là các cơ chế toàn cầu như Hội đồng Bảo an LHQ, Nhóm G-20, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, và Ngân hàng Thế giới. Nhưng chúng thường gặp phải bế tắc do các bất đồng giữa những nước thành viên. Do đó, thay vì buộc các cường quốc mới nổi [emerging powers] phải thích nghi với các định chế phương Tây, hi vọng lớn nhất có thể có được từ những định chế này là chúng sẽ là nơi để các đại cường thảo luận những vấn đề đặc biệt bức thiết: chẳng hạn, cuộc tan chảy tài chính toàn cầu 2008 hay sự ngoan cố của Bắc Triều Tiên về vấn đề hạt nhân. Sự yếu kém và vô bổ của những định chế này có thể trở nên ngày một tồi tệ, vì đáng lẽ phải hợp tác để cải tổ những diễn đàn chung đã có sẵn, các cường quốc phương Tây lại cố gắng xây dựng “một thế giới phi-Trung Quốc” trong khi Trung Quốc và các nước đối tác cố gắng tạo ra cái mà một số nhà phân tích gọi là “một thế giới phi-Tây phương.” Chẳng hạn, Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương có thể ảnh hưởng [tiêu cực] đối với WTO. Như chuyên gia kinh tế Bỉ André Sapir đã lý giải, nếu các nước chiếm gần một nửa GDP toàn cầu thành lập hệ thống giải quyết tranh chấp riêng, tách khỏi WTO, thì cái WTO một thời kiêu hãnh này “sẽ giống như một tổ chức khác có trụ sở tại Geneva, Tổ chức Lao động Quốc tế, một nơi có mặt tiền xinh đẹp trên hồ Léman mà hằng năm các vị bộ trưởng đến đọc những bài diễn văn hay ho nhưng chẳng bao giờ lấy những quyết định quan trọng.”
Thay vì coi những cơ chế đa phương toàn cầu là tối cần, các nước sẽ dựa nhiều hơn nữa vào các mạng lưới mới thành lập giữa các quốc gia có cùng mức độ thịnh vượng. Xin tạm gọi hiện tượng này là “chủ nghĩa tương đồng đa phương” [similateralism]. Một trong những hậu quả của hiện tượng này sẽ là một hình thái lưỡng cực mới và lạ thường, bên ngoài có vẻ giống Chiến tranh Lạnh chứ không còn giống như thế giới của hai thập niên qua. Những khác biệt này sẽ bao gồm một nước Mỹ mất dần thanh thế, một đối thủ khôn ngoan hơn (và thành công hơn) ngang hàng với Washington, và các nước phi liên kết hùng mạnh hơn trước. Nhưng những động lực của chính trị toàn cầu trên cơ bản cũng sẽ khác với những động lực chi phối thế giới trong năm thập kỷ sau Thế chiến II.
Một, khác với Chiến tranh Lạnh, bản chất của cuộc đua này chủ yếu sẽ là địa kinh tế [geoeconomic] hơn là địa chính trị [geopolitical], do hậu quả của những tốn kém ngày một gia tăng của việc duy trì sức mạnh quân sự.
Hai, sự cạnh tranh Mỹ-Trung có đặc tính là: hai cường quốc đã lệ thuộc vào nhau ở mức độ cao, vì sự xâm nhập lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là rất sâu đậm. Tuy nhiên, các nhà làm chính sách của hai nước lại coi sự lệ thuộc lẫn nhau này là một mối nguy cần phải giảm bớt và quản lý, chứ không coi đó là một công thức để xây dựng những quan hệ nồng ấm. Mỹ cần Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu chính phủ của Mỹ, và các bang của Mỹ đang cạnh tranh ráo riết để thu hút đầu tư Trung Quốc. Nhưng Washington cũng lo lắng về sự quá lệ thuộc vào vốn Trung Quốc và lo sợ gián điệp mạng Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc cần tìm một nơi an toàn để cất giữ những lượng tiền dự trữ của mình và cần đến công nghệ Mỹ để xây dựng một xã hội tri thức. Nhưng Bắc Kinh tức giận vì cho rằng chính sách gia tăng nguồn cung tiền [quantitative easing] của Cục dự trữ Liên bang Mỹ đang làm tiêu tán đống tiền của Trung Quốc và nghi ngờ rằng Washington đang hoạt động để thúc đẩy việc thay đổi thể chế tại Trung Quốc.
Ba, mặc dù nhiều nước phi liên kết cuối cùng phải chọn một chiến tuyến trong Chiến tranh Lạnh, nhưng trong những thập niên tới, những nước phi liên kết có thể khai thác sự hiện hữu của những khối quyền lực linh động hơn, không đòi hỏi nếu theo phe này phải loại bỏ phe kia. Hậu quả sẽ là một trật tự thế giới lang chạ [a promiscuous world ordwer] trong đó các nước có thể ký kết các hiệp định với cả Trung Quốc lẫn Mỹ.
Sau cùng, Bắc Kinh và Washington sẽ kình chống nhau vì địa vị toàn cầu chứ không phải vì ý thức hệ. Cho đến nay Trung Quốc vẫn còn quá yếu và ở vào thế thủ, chưa đủ sức để đưa ra một phương án thay thế cho cái trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo, nhưng tình hình này sắp thay đổi. Trung Quốc và Mỹ sẽ sử dụng cùng một thứ từ ngữ trong việc lý giải những động lực của mình như: “trật tự,” “tính chính đáng,” “tăng trưởng kinh tế,” và “trách nhiệm.” Nhưng, như người ta thường nói, hai nước này sẽ bị chia cách bởi cùng một ngôn ngữ.
MARK LEONARD là Đồng sáng lập viên kiêm Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu và là Nhà nghiên cứu Chính sách công trong chương trình Bosch tại Học viện Xuyên Đại Tây dương. Ông là tác giả của hai cuốn sách gây tiếng vang và được dịch ra gần 20 thứ tiếng là Why Europe Will Run the 21st Century (2005) và What Does China Think? (2008).
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra

AFR Dân Nguyễn - Ai nuôi hacker?


01-11-2013

Ai nuôi hacker?

AFR Dân Nguyễn 
Lâu nay ta hay nghe nói tới hacker. Người ta cảnh báo về nguy cơ bị mất tiền của cá nhân hay thậm chí của các nhà bank, nếu thông tin cá nhân bị lọt vào tay hacker. Như vậy, dễ thấy là bọn hacker phải giỏi về lĩnh vực công nghệ thông tin (Mà ta gọi là IT). Bọn này đi ăn cắp tiền của cá nhân hay tập thể, hoặc của nhà nước, và chúng tự nuôi mình!


Nhưng còn một loại hacker khác. Bọn này chuyên đi phá các trang mạng trên NETWORK hay INTERNET, mà người ta hay gọi tắt là trên MẠNG. Đây hẳn không phải bọn vô công rồi nghề. Chắc chắn chúng được trả lương, chẳng hơi đâu chúng đi làm cái công việc không đem lại thu nhập mà phải tốn thời gian đi truy tìm, theo dõi từng trang mạng…

Đã có thời gian Bộ quốc phòng Mỹ la lối về việc hacker đánh phá và ăn cắp thông tin của Bộ quốc phòng nước này, mà bọn hacker bị cáo buộc là từ Trung Quốc; Và nếu thông tin này là đáng tin cậy, thì hẳn nhiên, bọn hacker, nếu không phải là người của An ninh mạng, thì cũng phải là người của Bộ quốc phòng, hoặc là người của một cơ quan nào đó thuộc Nhà nước Trung Quốc.

Ở Việt Nam, thời gian gần đây, một số bản tin thời sự cũng cảnh báo về nguy cơ bọn hacker tấn công các trang thông tin trên mạng. Có lúc người ta còn cảnh báo khá cụ thể những trang như Dân Trí, hay Vietnamnet bị tấn công…

Nhưng người đọc dường như chưa bao giờ thấy những trang báo mạng trên bị hack, nghĩa là truy cập rất dễ vào. TTO (Tuổi trẻ online) và một số trang khác cũng được bản tin thời sự của VTV từng cảnh báo bị tấn công; Và cũng như Vietnamnet hay Dân trí, người ta cũng dễ dàng truy cập những trang báo này- những tờ báo vẫn được gọi nôm na là báo Chính thống, báo Lề phải (Hay Lề đảng, cũng thế.).”

Thường thì bất cứ việc gì người ta làm, đều phải có mục đích. Kẻ thực thi một việc phải thủ lợi cho mình, giống như bọn hacker rình đánh cắp thông tin cá nhân để cuỗm tiền của khổ chủ là cá nhân có số tài khoản bị hacker “Bẻ khóa”.

Giả thiết những trang báo mạng “Lề phải” kể trên bị hack thật, thì bọn hacker là ai? Ai trả lương, nuôi dưỡng chúng? Không lẽ bọn Mỹ, bọn Tây phương? Hay “Các thế lực thù địch”?

Chúng “Thèm vào!”… Nói nhanh cho đỡ mất thì giờ. Vài ba cái tờ báo mạng vừa kể trên chẳng là gì với “Chúng” để chúng phải làm cái trò bẩn đi chặn, đi “làm nhiễu” khiến người đọc không thể hoặc khó truy cập. Với “Chúng”, mấy tờ báo kể trên chỉ là những tờ lá cải, không hơn không kém, vì ngoài những tin cướp giết, hiếp rất “Lá cải”, thì cũng là những tin lá cải không kém như Phòng chống tham nhũng, hay về Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM, hoặc nào là Chủ trương của đảng, là Pháp luật của nhà nước, Kinh tế vĩ mô, Tái cấu trúc kinh tế nhà nước…

Điều đáng nói ở đây là, trong khi truyền thông chính thống cảnh báo về những trang mạng chính thống bị hacker tấn công, (Nhưng thực tế không bị tấn công, vì không có hacker nào tấn công), thì một loạt các trang báo mạng của “lề trái” (Còn gọi là các trang blog) bị chặn (Hay bị hack), khiến người đọc không thể truy cập.

    Đến đây thì câu hỏi ai là kẻ tấn công các trang blog lề trái nói trên, cũng cần nghiêm túc đặt ra, và phải được dư luận vạch mặt. Những trang đã và đang bị hack như Basam, Danluan, Phuong Bich, Huynh ngoc chenh, Nguyen Huu Vinh, Nguyen xuan Dien…và rất nhiều trang “Lề trái” khác. Đó là những trang thường chuyển tải những bài viết mang tính phản biện cao, giống như những đòn “Vỗ mặt” đối phương.

Người viết bài này đang đọc Quechoa, thấy đường LINH có bài “Sức lay động của DẬY MÀ ĐI” trên Basam, vào không được;  Thấy trang XÃ HỘI DÂN SỰ cũng có “Sức lay động của DẬY MÀ ĐI”,  vào cũng không được!... Đoán nội dung bài Sức lay động… nên cố gắng “Vào” để đọc …mà không được!...

Nhiều bài có lẽ rất rất đáng để đọc và suy gẫm, trên các trang báo mạng lề trái bị chặn kiểu đó. BBC, RFA cũng trong tình trạng bị “Bọn này” hack.

Chắc chẳng ai ấu trĩ tới mức cho rằng những trang báo “Lề Dân” bị chặn, bị hack bởi bọn hacker chuyên “Bẻ khóa” đánh cắp tiền trong nhà bank tiến hành.

Chúng là ai, và ai nuôi dưỡng chúng, cũng là câu hỏi chẳng lấy làm khó trả lời.

Điều đáng nói nữa là, trong khi bọn hacker đánh cắp tiền nhà bank hoạt động lén lút, luôn bị pháp luật “Sờ gáy” bất cứ lúc nào, thì bọn hack các trang báo mạng lại hoạt động có tổ chức và được trả lương!

 Oct/31st/2013.

Source : Blog  Quê Choa


Mặc Lâm - Sự không tưởng của CNXH


01-11-2013

Sự không tưởng của CNXH

Mặc Lâm
Theo RFAChủ nghĩa xã hội và những mảng lý luận khác của đảng cộng sản Việt Nam được nhiều nhà phân tích cho là đang trong cơn khủng hoảng. Có nhà lý luận còn quả quyết Chủ nghĩa xã hội đã phá sản từ lâu nhưng Việt Nam vẫn lên tiếng bảo vệ nó như bảo vệ quyền lực của giới lãnh đạo.


Trong một bài viết mới dây trên Tạp Chí Cộng sản, Nhị Lê đã nhắc lại nguyên lý không thay đổi của Đảng: “Càng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước càng phải xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh toàn diện và chúng ta càng phải nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Thế nhưng đội ngũ giai cấp công nhân ấy sau bao nhiên năm chịu sự lãnh đạo của đảng không hề có một chút gì thay đổi so với trước, khác chăng là người công nhân không bị sự kềm cặp của những tay cặp rằn của thời Pháp thuộc để thay vào đó là những quản đốc hay giám thị nước ngoài trong các khu công nghiệp  của thời kỳ đổi mới. Điều quan trọng và cần thiết nhất cho giai cấp công nhân là hệ thống công đoàn độc lập do họ lập nên lại không hề xuất hiện tại Việt Nam.

Bài viết trong Tạp chí Cộng sản này có đoạn: “Khép lại thế kỷ XX, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cách mạng nước ta đã thu được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử trọng đại trên bình diện dân tộc và quốc tế, không ai và không gì có thể phủ nhận nổi.”

Trên bình diện dân tộc, dù là người yêu đảng nhất cũng không thấy được điều gì mà chủ nghĩa xã hội mang lại tại Việt Nam từ khi theo chân Liên Xô theo đuôi chủ nghĩa này như theo đuôi một phong trào, một lý thuyết. Trên bình diện quốc tế lại càng là một con số không tròn trĩnh vì Việt Nam luôn tự phủ định chủ nghĩa xã hội đối với quốc tế khi liên tục khẩn khoản yêu cầu họ thừa nhận Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường, khắc tinh của CNXH 

Đối với Karl Marx chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kinh tế-xã hội chuyển quyền điều khiển các phương tiện sản xuất từ tay của một số ít của dân chúng sang tay tập thể qua một cuộc cách mạng để dành lấy quyền hành từ một chế độ tư bản hay quân chủ, phong kiến.

Ấn tượng về mô hình phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa do Liên Xô chủ đạo đã thúc đẩy Việt Nam thực hiện một nền kinh tế tập trung cho phép nhà nước nắm tất cả quyền sản xuất lẫn phương tiện sản xuất. Nền kinh tế tập trung tuy sau đó được cải tổ thành kinh tế thị trường nhưng phương tiện sản xuất như đất đai vẫn nằm trong tay nhà nước.

Sau nhiều năm sống chung với khẩu hiệu và kiên trì với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mới đây Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu:  “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.
Đại tá Phạm Xuân Phương, người nhiều năm công tác trong Cục chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam trả lời câu hỏi tại sao Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn luôn khẳng định là Việt Nam không thay đổi mục tiêu tiến tới chủ nghĩa xã hội mặc dù nhìn nhận con đường của nó là mịt mùng không có điểm đến:

“Cơ bản ông ấy không đủ khả năng đề ông ấy hiều nhưng bên cạnh ấy nó cũng là quyền lợi. Ông ta ngu dốt lại hưởng tất cả mọi quyền lợi thì việc gì mà thay đổi trong khi ông ta lại đang làm vua ở xứ sở này. Những cái đó nó quan hệ với nhau nó tạo ra những mối rang buộc và cú như thế mà ông ta hót. Trí thức Việt Nam kể cả những người bảo hoàng nhất người ta cũng không thể nào nghe và chấp nhận việc ổng nói nữa.”

Đường đi không đến

Nhà văn Xuân Vũ có một cái tựa rất hay cho một trong những tác phẩm của ông, đó là “Đường đi không đến”. Tựa cuốn hồi ký này thật thích hợp với câu nói của ông Tổng bí thư trong thời gian hiện tại mặc dù hai sự việc xảy ra cách nhau đúng 40 năm.
Giáo sư Đặng Phong, một chuyên gia kinh tế chính trị của Đại học Kinh tế Quốc dân một lần trước khi tạ thế đã nói với chúng tôi về vấn đề này, ông giải thích tại sao lãnh đạo Việt Nam vẫn khư khư ôm cái lý thuyết tuy hay nhưng đã phá sản là chủ nghĩa xã hội:
“Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm xã hội chủ nghĩa thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu. Cái nội dung thật của nó là cái gì thì không tìm thấy đâu. Nó là một món nợ của lịch sử. Người Việt Nam chưa bao giờ xây dựng chủ nghĩa xã hội như Liên Xô nhưng Việt Nam đã đi theo con đường đó mà ngày nay chưa ai dám thẳng thắn tuyên bố rằng con đường đó là sai lầm bởi vì tuyên bố như thế rất nguy hiểm về mặt tâm lý xã hội.”

Người quan tâm đến sự vận động của hệ thống chính trị tại Việt Nam vẫn kỳ vọng một thay đổi có tính cốt lõi là nhìn nhận sự vô nghĩa của chủ nghĩa xã hội để đất nước có cơ hội khẳng định và hòa nhập vào dòng chảy quốc tế. Tuy nhiên kỳ vọng này theo đại tá Phạm Xuân Phương khó được ông Tổng Bí thư chấp nhận:

“Cái gốc chính là ông ta không có khả năng để thay đổi. Không khả năng quan sát để nhận thức hiện thực trong khi thế giới nó đã khác rồi. Mọi người đã thấy khác nhưng ông ta thì không bao giờ thấy khác. Vẫn cứ nhìn xã hội Việt Nam, nhìn chung quang khu vực, nhìn thế giới như những năm 60. Vì vậy ông ta cứ tiếp tục hò hét Chủ nghĩa xã hội vẫn là mùa xuân nhân loại, vẫn là chủ nghĩa tư bản đang dãy chết, khó khăn của cách mạng Việt Nam chỉ là tạm thời…những luận điểm từ những năm trước đây bất kỳ một người nào ở trường lý luận ở trình độ sơ cấp người ta cũng biết được điều đó mà ông Trọng ổng lại mang trình độ sơ cấp ra ông ấy làm.”

Và Giáo sư Đặng Phong nhận xét:

“Thế bây giờ đang đi theo cái mô hình đó của Liên Xô mà thừa nhận mô hình đó là thất bại là sai lầm, đổ bể thì nó sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của con người toàn xã hội. Nó ảnh hưởng đến cả vị trí của bộ máy nhà nước nữa cho nên người ta vẫn phải giữ lại như một cái mục tiêu và có thể cái mục tiêu đó không biết bao giờ tới nơi nhưng không bỏ được.” 

Nhiều đảng viên cao cấp và kỳ cựu không còn thiết tha chú ý tới những lý luận hay nghị quyết mà đảng đưa ra trong các kỳ đại hội nữa là điều hiện đang trở thành phổ biến. Khi niềm tin của họ bị coi thường thậm chí lạm dụng thì mọi tuyên bố dù của cấp nào cũng chỉ nhằm mục đích giữ chắc cái ghế mà họ đang ngồi. Đại tá Phạm Đình Trọng, nhà văn, nhà báo của tờ Văn Nghệ Quân Đội cho biết sự thật này:

“Những cái phát biểu, bàn luận hay lý luận của họ càng ngày càng lạc hậu thụt lại quá xa cuộc sống. Thí dụ như cái câu ông Nguyễn Phú Trọng nói rằng “hiến pháp nó quan trọng sau cương lĩnh của đảng” thì nó lạc lỏng vô cùng. Điều này chỉ có thể nói được ở những năm 60 của thế kỷ trước. lúc mà chủ nghĩa cộng sản thế giới đang thắng thế thì người ta có thề bỏ qua nhưng đến bây giờ mà vẫn nói như thế thì thật là sai trái.”

Câu hỏi mà nhiều đảng viên đang đặt ra, khi lý luận và chủ thuyết đã phá sản, đảng sẽ chứng minh vai trò dẫn dắt toàn đảng toàn dân bằng phương pháp gì trong cái gọi là thực tiễn của xã hội hôm nay?

Source : Blog QUE CHOA