Kiệt Tấn
Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa
Sự vật cần ta giải thích?
Sự vật có đó, có thể ngay từ lúc chưa có ta (hoặc chưa có con người) trên đời. Sự vật có đó tự đời nào. Rồi thình lình ta xuất hiện, đối diện, và tìm cách giải thích. Giải thích là tìm cách làm cho đầu óc duy lý chấp nhận. Sự vật có trước. Giải thích đến sau. L’existence précède l’explication. Giả dụ như không có ta và không có giải thích thì sao? Liệu sự vật có biến mất? Liệu sự vật có mất hết "lý do để hiện hữu", mất hết "nghĩa / ý nghĩa"? Nếu Roquentin (Sartre) không xuất hiện trong công viên và đến ngồi trên băng ghế thì cái rễ cây sẽ vĩnh viễn không có lý do để hiện hữu, và sẽ vĩnh viễn không được cái ý thức nào đó ban phát cho một nghĩa / ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình. Rồi thì cái rễ cây sẽ ra sao? Nó có hề hấn gì không? Giả thử như Roquentin có xuất hiện trong công viên, nhưng Roquentin mù mắt, không nhìn thấy cái rễ cây, không đặt vấn đề "lý do hiện hữu", không đặt vấn đề "ý nghĩa" của cái rễ cây, và cũng không "buồn nôn" gì hết thì liệu các "vấn đề" đó nó có tự đặt ra không? Liệu trong đêm khuya, cái rễ cây nó có gác tay lên trán và tự hỏi: "Ta từ đâu đến, đến để làm gì và đi về đâu?" hay không?
Như vậy, tự nó, "vấn đề lý do hiện hữu và ý nghĩa" có một thực thể gì độc lập của riêng mình hay không? Hay nó chỉ là một hoang tưởng được nguỵ tạo bởi một tâm trí cực kỳ dao động, phát xuất từ cái tâm vọng chấp. Một khi cái tâm vọng chấp rồi thì nó vọng hiện, làm xuất hiện các vấn đề. Và những lời nói của ta trong trạng thái đó cũng giống như lời mê sảng của một người đang trải qua một cơn mộng dữ trong lúc mê ngủ. Roquentin đã để cho mình bị cái rễ cây thôi miên, như một người ngó dây thấy rắn, rồi đâm ra loạn tưởng. Trong cơn mộng mê, những cảnh trí ta ngó thấy đều tưởng chừng như có thiệt. Chúng chỉ tan biến khi nào ta đã tỉnh mộng hồi lâu. Có khi rất lâu. Có khi trở thành hoài niệm thương động, hoặc ám ảnh dai dẳng, khó lòng mà dứt tuyệt cho được.
Lấy một cảnh sông núi hùng vĩ nào đó. Nó có đó từ đời kiếp nào. Chợt một bữa đẹp trời nọ, có người đến chiêm ngưỡng và làm thơ để ca tụng. Rồi hôm sau, có kẻ đến thưởng thức và vẽ tranh để diễn tả. Rồi hôm sau nữa, có một người buồn nôn đến đặt vấn đề hiện hữu và buông lời nguyền rủa để thể hiện cái tâm bất ổn của mình. Thơ, tranh, lời nguyền rủa cũng giống như là cái giải thích chủ quan của ta về sự vật vậy thôi. Nó không mắc mớ gì tới sự vật hết ráo. Nó cũng chẳng nói lên được một sự thật nội tại nào của sự vật. Sự vật không cần tới những thứ sản phẩm nhân tạo đó để hiện hữu, hoặc để làm nguyên do, làm lý do, làm nghĩa, làm ý nghĩa, hoặc để làm cái chi chi cho mình hết ráo. Có hay không có gì thì nó cũng vậy thôi: Nó có đó. Lấy trường hợp của Sartre đây. Sartre có cần tới một Đấng nào, hay một ai đó đứng bên ngoài ban cho Sartre một lý do hiện hữu (raison d’être) để có thể hiện hữu? Nếu có, thì tại sao phải là Đấng đó, người đó, và tại sao phải là cái lý do hiện hữu đó? Nếu không có ai ban cho mình một lý do hiện hữu nào hết thì Sartre tính sao? Thế còn cái L’existence précède l’essence của ông, ông để nó ở đâu?
Tuy nhiên, mặc dù diễn giải của ta chỉ có tính cách nguỵ tạo, nhưng cái tâm vọng chấp của ta cũng có thể tác hại tới sự vật và tới ngay cả ta. Chẳng hạn như ta tuyên bố cái cây marronnier "phi lý", nó không có lý do gì để hiện hữu, rồi ta vác búa tới đốn bỏ. Hoặc ta tuyên bố "cuộc đời ta phi lý" rồi ta uống thuốc độc tự tử để phản đối (phản đối ai? phản đối gì?) Hoặc là cầm súng leo lên tháp chuông, rồi bắn đại vào đám đông vì cho rằng "cuộc đời họ phi lý", và hiu hiu tự cho rằng mình đã làm được một hành động vô cớ (acte gratuit). Vô cớ thiệt sao? Thử nghĩ kỹ lại đi. Nếu không mê muội và nghĩ lầm rằng "cuộc đời phi lý" thì liệu cái hành động vô cớ (cố tình mà vô cớ được sao?) nó có xảy ra hay không? Vô cớ hay là vô minh, hoặc mê lầm? Nói tóm, đối với sự vật, diễn giải và giải thích của ta là không thiết yếu, là nguỵ tạo, có thể sai lầm và tác hại.
Tướng không và giả danh
Sartre: "[…] nó (hiện hữu) chỉ vỏn vẹn là hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật." Khi viết như vậy, có phải Sartre đã linh cảm mơ hồ cái tính cách "vô bổ và vô hiệu" của "hiện hữu" (theo chữ của Sartre dùng trong câu này) đối với sự vật? Và khi Sartre kết luận: "[…] nhưng ta không bao giờ có thể diễn dịch được chúng (thể vật hiện hữu)", phải chăng Sartre cũng ngụ ý rằng mọi sự diễn dịch, giải thích, diễn giải đều "vô bổ và vô hiệu", không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật? Tính cách "vô bổ vô hiệu" này cũng có thể áp dụng cho "cái nhìn, cái tên, cái nghĩa, cái ý nghĩa" mà ta ghép lên sự vật. Jean Vioulac: "Rồi khi đó, ý thức sẽ sắp xếp các dữ kiện […] và ban cho tổng hợp đó cái nghĩa "cây"".
Cái nghĩa "cây" (và luôn cả ý nghĩa) không giống như chất bổ mà cây hút được từ trong đất và trở thành thực sự những sớ cây cấu tạo cây marronnier. Cái nghĩa và ý nghĩa không bao giờ nhập thể được vào thân cây như là chất bổ và sớ cây. Nó vĩnh viễn đứng bên ngoài, và sẽ "không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của cái cây (sự vật)", như Sartre đã linh cảm.
Cái nghĩa "cây" ở đây cũng đồng thời là cái tên gọi (nom) của sự vật đã được ý thức hướng tới và chiếu rọi. Tuy nhiên, có gọi cái khối chất hình ống màu nâu ù lì sừng sững trước mặt là cây, là arbre, là tree, hoặc là cái chi chi khác đi nữa thì cũng chẳng ăn nhập gi tới nó hết. Cây, arbre, tree, tất cả đều chỉ là những tên gọi. Không có cái tên gọi nào đúng hơn tên gọi nào. Tất cả đều chỉ là qui ước và đều là giả danh.
Trong Trời đất, muôn pháp vốn có "tướng không" và không có tên gọi (vô danh). Mọi tên gọi, mọi nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người bày đặt ra, vì vậy đều là giả danh, giả ý, giả nghĩa, phát xuất từ cái tâm chia chẻ phân biệt của mình mà nguỵ tạo ra. Chẳng hạn như thoạt tiên trái đất là nguyên một khối liền lạc, mà mọi đất đai đều không có tên. Sau đó con người xuất hiện, chia phe đánh nhau, vạch ra biên giới rồi đặt một cái tên (Việt Nam, Pháp, Anh, Đức…) cho vùng đất nằm trong vòng một biên giới khép kín, trước đây vô danh. Cũng giống như là mua một con chó con rồi đem về đặt cho nó cái tên Mực vậy. Nhưng trong Trời đất, không có vùng nào tự nó có tên là France, không có con thú nào tự nó có tên là chó, là chien, là dog, và cũng không có một con chó nào tự nó có tên là Mực hết. France, chó và Mực đều là giả danh.
Nói "tướng không" là nói sự vật không có hình tướng riêng của mình, chớ không phải là "không có gì hết". Tướng là hình tướng. Diễn rộng ra, nói "tướng không" có thể hiểu là mọi vật, mọi pháp đều không có hình tướng (tướng) riêng, không có bản chất (tánh) riêng, hay một cái gì riêng của nó hết. Chỉ do nhơn duyên tạo tác mà xuất hiện, và đều có tính cách vô thường, không ngừng biến đổi. Bởi lẽ đó nên các pháp đều là giả tướng và giả danh, do cái tâm vọng chấp, chia cắt và nguỵ tạo ra.
Ở đây, qua cái nhìn được thể hiện trong câu hiện hữu chỉ là hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài, Sartre đã thấp thoáng thấy được cái "tướng không" theo nhãn quan của Phật giáo, nhưng vẫn hãy còn chấp có (ngũ uẩn). Trong khi đó, theo nhãn quan của Tâm Kinh thì năm uẩn đều "Không" (Bát nhã). Việc trình bày lập luận và giảng giải Tâm Kinh không nằm trong khuôn khổ bài này.
Khái niệm và cái tháp Eiffel
Jean Vioulac: Sự đóng góp có tính cách quyết định của khái niệm (notion) "ý hướng" (intentionnalité) chính ở chỗ nó chỉ cho thấy rằng các sự vật tự nó không có ý nghĩa (sens), chúng tiếp nhận một ý nghĩa từ một ý thức nhắm vào chúng và quan sát chúng […] Hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần túy ù lì và không nghĩa lý (insignifiante), cái chất bột (pâte) của sự vật có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause) và không lý do (raison) […] Như vậy, ngay từ trong yếu tính (essence) của mình, hữu thể là phi lý (absurde).
"Khái niệm" (và ý niệm) chỉ là một sản phẩm của trí tuệ, tự nó không có thực thể: nó do trí tuệ bày đặt ra, chớ không tự có trong Trời đất. Dựa vào một khái niệm không có thực thể mà tuyên bố là sự vật không ý nghĩa, không nguyên do, không lý do, phi lý, liệu khẳng định đó có vững chắc hay không? Phi lý? Thiệt vậy sao? Bất cứ một sự vật nào, khi nó có đó, thì là nó có lý do để có đó. Điểm này sẽ được khai triển ở mục "nhân quả" và "nhân duyên" thuộc phần HAI của bài. Nói rằng nó không có lý do để hiện hữu, chẳng qua là chỉ để lộ cái dốt nát, cái mê muội của mình mà thôi: "Tôi không biết cái lý do hiện hữu của nó". Cũng giống như một người dân quê ở Việt Nam không biết có cái tháp Eiffel ở bên Pháp, nên đối với cái tâm trí của mình, cái tháp Eiffel không có, mặc dù cái tháp Eiffel quả thiệt có đó. Nhưng cũng có thể là: "Nó có lý do để hiện hữu, nhưng tôi không chấp nhận cái lý do đó". Hoặc đúng hơn: "Tôi không bày đặt ra được một lý do hiện hữu nào cho nó hết". Mà bày đặt là nguỵ tạo.
Nhưng nếu quyết định tìm ra cho bằng được nguyên do và lý do hiện hữu của cái rễ cây thì cũng không khó. Thoạt tiên, có cái hột marron còn sống. (Nếu hỏi "Hột marron nguyên thủy từ đâu đến?" thì xin kiếm Thượng đế hoặc ông Darwin mà hỏi). Kế đến, có người làm vườn ươm cái hột marron, bón phân, tưới nước, nó mọc cao lên khoảng một mét. Kế đến, trong làng lập ra một công viên nên cần có bóng mát. Người làm vườn bèn đem cây marronnier còn non tới trồng ở giữa vườn. Rồi nhờ phân bón, nhờ nắng, nhờ nước… cây non mọc lớn lên thành cây marronnier cao ngất. Cũng như mọi loại cây khác, cây marronnier cần có nhiều rễ lớn để giữ chặt nó xuống đất. Nhưng gần gốc cây thì rễ bò trên mặt đất. Rồi bỗng một hôm có anh chàng Roquentin lần xần bước vô công viên, đến ngồi trên băng ghế, chợt ngó thấy cái rễ cây, rồi thắc mắc, rồi quăng câu hỏi lớn lên không trung: "Sao cái rễ cây nó không có lý do gì để hiện hữu mà nó vẫn ù lì có đó?" Roquentin không tìm được giải đáp, cái rễ cây rớt xuống trúng u đầu người hỏi. Rồi buồn nôn. Rồi ói mửa tới mật xanh, vân vân…
Nguyên do và lý do hiện hữu của cái rễ cây, đối với tất cả những người "bình thường" là như vậy đó. Tại sao? Tại trong thiên nhiên nó như vậy. Rất là bình thường và giản dị. Cái rễ cây nó không cần đến một "lý do hiện hữu" thiêng liêng, siêu nhiên hoặc siêu triết nào đó do Thượng đế, hoặc Thần Brahman, Thần Tháp Rùa, ông Bành Tổ, bà Thánh mẫu, hay một triết gia siêu việt nào đó ban cho mới có quyền hiện hữu hết ráo! Mà cho dù là như vậy đi nữa cũng không phải là giải thích cuối cùng. Nếu hỏi tiếp: "Tại sao nó lại như vậy?" thì trả lời làm sao đây? Làm gì có cái vấn đề nhức đầu "Cái rễ cây nầy từ đâu đến? Đến để làm gì? Rồi đi về đâu?". Nó có nguyên do và lý do để hiện hữu ngay trong sự hiện diện của nó. Vậy thôi. Rất là trần tục. Rất là có hình chớ chẳng có siêu hình gì hết ráo. Đâu có cái chi mà phải rắc rối cuộc đời (một cách lẩm cẩm) như vậy?
Ý thức làm "Xà vương chịu phép"!
Tương tự, nói rằng: "Sự vật tự nó không có ý nghĩa, hữu thể là phi lý", rất có thể là chỉ vì "tôi không bày đặt ra được một ý nghĩa nào cho nó hết". "Ý nghĩa" chỉ là một "ý niệm", một sản phẩm của trí tuệ, không có thực thể, không tự có trong Trời đất – cũng như "khái niệm". Ta có thói quen nghĩ rằng cái gì cũng phải có ý nghĩa để minh chứng cho sự hiện hữu của nó. Ta phải có ý nghĩa. Vợ ta phải có ý nghĩa. Con ta phải có ý nghĩa. Cái ý nghĩa đó phải như thế nào mới xứng với cái tên "ý nghĩa" (AOC ?) Ta cũng bù trất. Tuy nhiên, điều đó cũng không ngăn được ta tiếp tục đòi hỏi: Con chó của ta cũng phải có ý nghĩa. Cục gạch cũng phải có ý nghĩa. Cho tới "rong rêu sỏi đá" gì cũng đều phải có ý nghĩa hết ráo. Bằng không thì "rong rêu sỏi đá" sẽ phi lý buồn nôn. Cái rễ cây cũng bị kẹt luôn. Nếu không muốn mang tiếng là "phi lý" thì cái rễ cây phải nghe lời ta phán: "Cái rễ cây kia! Mày phải có ý nghĩa!" "Nhưng cái ý nghĩa gì vậy đại ca?" Biết cái rễ cây nó phải mặc cái áo "ý nghĩa" như thế nào mới được ta chấp nhận? Chẳng lẽ ta muốn cái rễ cây phải cạo đầu đi tu hay phải đi tìm gặp Thượng đế thì cuộc đời của nó mới có ý nghĩa?
Bởi có bày đặt ra cái ý niệm "ý nghĩa" nên mới nảy sanh ra cái ý niệm "phi lý", phát xuất từ cái tâm đối đãi nhị nguyên của mình. Nói rằng sự vật "tiếp nhận ý nghĩa" nhưng thiệt ra thì không hề có sự tiếp nhận. Chỉ có ý thức muốn dán cái ý nghĩa hư giả do tâm trí của mình bày đặt ra lên sự vật nhưng mà nó không dính (cũng như là ta đổ nước và nước trợt trên lá sen). Vậy thôi. Ý thức (hoặc tâm trí) đã tinh ranh tự biểu diễn cái trò ảo thuật "dán ý nghĩa" với chính mình. Rồi tin thiệt là sự vật quả có thực sự tiếp nhận cái ý nghĩa do mình bày đặt ra. Cũng giống như là vẽ rắn mà thêm chưn. Cái "chưn ý nghĩa" vốn nó rất là trừu tượng nên ta muốn vẽ nó như thế nào đó thì cứ vẽ, miễn là có chưn và cái chưn đó đúng goût của ta là được. Vẽ xong rồi, ta xoa tay khoan khoái tuyên bố là con rắn đã hoan hỉ tiếp nhận những cái chưn mà ta đã vẽ thêm: "Xà vương phen này đã chịu phép!" Nếu không có ta làm phước vẽ thêm cho cái "chưn ý nghĩa" thì Xà vương làm sao có cẳng để mà chạy jogging mỗi buổi sáng? Bởi lẽ đó, ta có thể tuyên bố: "Con rắn không có chưn (cái chưn ý nghĩa!) là con rắn phi chưn (!) ngay từ trong yếu tính của nó". Hoặc giả, trước cái thời điểm (khúc quanh lịch sử!) sự vật (hữu thể) được ý thức phù thuỷ của ta dán cho một ý nghĩa, ta hiên ngang tuyên bố: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó! » Có ai dám nghi ngờ hay phản đối gì không?
Nhưng may mắn thay! Bỗng một phép màu xuất hiện: Trên thinh không thình lình vang lên một tiếng nổ rợp trời. Rồi chợt có một Ý thức tràn đầy từ tâm độ lượng cỡi trên đám mây ngũ sắc chói loà từ từ giáng lâm. Ý thức mở thần nhãn nằm ngay giữa trán cao rộng phóng hào quang chiếu rọi "Hữu thể phi lý" (sỏi đá rong rêu), trong lòng vô cùng thương xót. Đoạn Ý thức nghiêng chiếc hồ lô mầu nhiệm của mình trút ra một Ý nghĩa chói ngời và hỉ xả bố thí cho "Hữu thể phi lý" để làm phước. "Hữu thể phi lý" hoan hỉ quỳ xuống tiếp nhận ý nghĩa, đoạn cúi rạp người đảnh lễ và chắp cả hai tay mình lên trán mà lạy như tế sao. Bèn cất tiếng tán thán để hồi hướng công đức của Ý thức từ bi rối rít. Và kể từ đó "Hữu thể (hết) phi lý" cùng vợ con sống một cuộc đời lai láng tràn trề ý nghĩa, không biết để đâu cho hết! Cái trò ảo thuật này là tuồng ruột của cái tâm phô diễn ngã mạn. "Tự biên tự diễn" một mình từ đầu đến cuối là nghề của chàng. Cái nghề của ý thức!
Ý nghĩa vẽ rắn thêm chưn
Nói "Hữu thể phi lý ngay từ trong yếu tính của nó", điều này không sai, nhưng cũng không đúng. Hữu thể vốn tự nó không có một cái lý riêng hay ý nghĩa riêng nào của nó hết – không giống như mỗi người chúng ta có một trái tim riêng của mình trong lồng ngực. Thường khi, trong đời sống, mỗi người chúng ta đề ra cho mình một mục tiêu để nhắm tới, và gọi nó là ý nghĩa cuộc đời (cho nó le lói?) Đối với một đầu óc duy lý, thì bất cứ việc gì cũng cần phải có một ý nghĩa thì nó mới chấp nhận. Bất luận ý nghĩa nào, miễn phù hợp với cảm quan của chàng là được. Bởi vậy, nếu ý nghĩa đó do chính chàng bày đặt ra thì quá good! Nhưng xét cho kỹ lại thì cuộc đời giống như một quả cầu pha lê trong suốt không màu. Ta sơn lên quả cầu đó một màu chọn theo ý ta, rồi gọi cái màu đó là ý nghĩa đời ta. Biết màu nào mới thực sự là ý nghĩa và thực sự thuộc về bản chất của cuộc đời, không tuỳ thuộc vào phê phán chủ quan của cá nhân? Nhưng tại sao ý nghĩa đó mà không là một ý nghĩa khác? Nếu cho rằng dựa trên những tiêu chuẩn "khách quan" để chọn lựa, thì tại sao lại chọn lựa những tiêu chuẩn đó? Rồi cứ thế mà lòng vòng.
Như đã nói, thường khi ta ban cho đời mình một ý nghĩa cho nó le lói là để tự trấn an. Đó là một nhu cầu tâm lý. Chẳng hạn như ta đặt cái mục tiêu "gặp gỡ Thượng đế" (và xưng hô mày tao với Người?) để cho cuộc đời mình có vẻ "siêu nhiên". Như vậy, cái ý nghĩa minh chứng cho sự hiện diện của ta trên cõi đời này: "Đời tui rất là hữu ích và có mục đích, bởi vì nó có… mục tiêu"! Bèn vỗ ngực mình thùm thụp mà tuyên bố: "Bởi cuộc đời của tui có một ý nghĩa (do tui bày đặt ra) cho nên nó rất là… ý nghĩa"! Ý nghĩa gì? "Ý nghĩa cuộc đời", dĩ nhiên. Nói gọn: "Cuộc đời tui nó rất là có ý nghĩa cuộc đời do tui ban cho!" Logique không chịu được! Hết cãi!
Tuy nhiên, hữu thể "không" có lý riêng, nhưng cũng đồng thời "chẳng phải không" có lý. Vừa "không" vừa "chẳng phải không", đó là cách lập luận của Trung quán luận. Một đầu óc logique theo kiểu tây phương khó lòng mà nắm bắt được cách lập luận này. Sở dĩ ta tuyên bố "hữu thể phi lý" là tại vì ta muốn cho nó có một cái lý riêng nằm sẵn bên trong yếu tính của nó và thuộc về nó (như trái tim của ta thuộc về ta). Nhưng vì ta muốn một điều nghịch lý mà không thể được, nên bèn tuyên bố "hữu thể không có lý (riêng)", và do đó mà hữu thể phi lý!
Cũng giống như con rắn vốn tự nó không có chưn, nhưng cũng chẳng phải (là nó) không có chưn. Nói con rắn có chưn cũng sai, mà nói nó không có chưn cũng không đúng. Bởi lẽ nếu cho rằng đúng thì ta cũng có thể kể ra một loạt: con rắn không có lông, con rắn không có sừng, con rắn không có túi, con rắn không có tóc, vân vân và vân vân… Tuy rằng nó không sai, nhưng mà nói như vậy là nói nhảm. Vì vậy, khi xét kỹ lại, ta sẽ thấy là cái "vấn đề chưn" không đặt ra cho con rắn. Không có gì bắt buộc nó phải có chưn hết ráo. Nó không có chưn là nó không có chưn, vậy thôi. Thí dụ như bất thần có ai đó trách "Tại sao trái xoài nó không có chưn?" Rồi tuyên bố liền tù tì sau đó: "Trái xoài phi chưn là trái xoài phi lý!" Bảo đảm ta sẽ nghĩ thầm: "Cha nội nầy bị chạm dây… là cái chắc!" Tương tự như đối với con rắn, ta cũng có thể phán: "Cái cây nó mù, nhưng cũng chẳng phải là cái cây nó mù. Nó không thấy đường, nhưng cũng chẳng phải là nó không thấy đường. Nó không có mắt, nhưng cũng chẳng phải là nó không có mắt". Cũng bởi lẽ ta quá quen thuộc và nghiện ngập cái logique của mình (mọi con thú đều bắt buộc phải có chưn), nên ta muốn con rắn nó cũng phải có chưn (như mọi con thú khác) thì mới hợp lý, nghĩa là hợp với cái logique của ta. Nhưng vì muốn quái gở như vậy mà không thể được, ta bèn tuyên bố: "Con rắn (không có chưn) là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó". Có chưn là có lý, không chưn là phi lý, giản dị như vậy thôi. Con rắn không có chưn là tại vì sự tiến hoá đã đưa đẩy nó như vậy, chớ không phải tại vì cái lý do "ngẫu nhiên" hoặc vì cái lý do phi lý (phi lý mà lại là lý do!) mà nó không có chưn. Tuyên bố "Con rắn không có chưn (ý nghĩa) là phi lý" cũng giống như phán rằng: "Đồng hồ không người lái là phi lý". Hoặc: "Giữa trời không nở hoa sen là phi lý". Ai phi lý? Có biết đâu ta đã quên rằng chưn rắn – ý nghĩa là cái chuyện hoàn toàn hoang tưởng. Hoang tưởng tới mức phi lý!
Cogito hay "ăn gatô"?
Như vậy, "phi lý" là vấn đề của ta và do ta bày đặt ra, chớ không phải là vấn đề (yếu tính) của con rắn (hay nói chung là của hữu thể). Bởi lẽ đó, tuyên bố rằng "Hữu thể phi lý, hữu thể không có ý nghĩa" thì cũng giống như là tuyên bố "con rùa không có lông, con thỏ không có sừng, con rắn không có chưn, trái xoài không có cẳng"… vậy thôi. Đó chỉ là những niệm khởi trùng trùng của cái tâm mê lầm, chấp trước, cái tâm vọng hiện. Sở dĩ cái tâm nó chấp trước (chấp vào ý nghĩa) nên khiến cho niệm khởi, rồi từ đó mà vấn đề nảy sinh, là để nó chứng minh rằng nó (cái tâm) thường trực có mặt và nó rất là năng động. Giống như một đứa con nít khoái "quậy" để cho mọi người chú ý tới nó. Cái kiểu: "Ta suy tưởng không ngừng, ta không ngừng khám phá ra những vấn đề "nhớn", ta không ngừng quăng những câu hỏi "nhớn" lên không trung (rớt xuống u đầu!) Vậy ta rất là (đỉnh cao) trí tuệ!" Rất là le lói! Rất là nặng phần trình diễn. Đó là cái tâm phô diễn và ngã mạn. Thứ đến, nếu không còn một niệm nào sanh khởi nữa hết thì tâm trí nó cũng bị dập tắt theo. Vì tâm trí lo sợ mình bị diệt nên nó cứ khởi niệm không dứt, cứ trùng trùng niệm khởi để duy trì sự hiện hữu của mình: "Cogito ergo sum!". "Tôi suy nghĩ, vậy tôi có!". Và do đó, để cho đúng với cái logique cartésienne: "Nô cogito thì nô ergo sum". Tuy nhiên, trong đời sống hằng ngày, cho dù có "nô cogito, ta vẫn ergo sum" như thường. Không tin, thử lấy kim nhọn đâm vào đít triết gia đang say ngủ thì biết. Nhưng nghĩ cho cùng thì chỉ có: "Ăn gatô, ergo sum!" là đúng hơn hết và chắc ăn hơn hết. "Đỉnh cao trí tuệ" mà nghe được cái khẳng định phàm tục này chắc chắn sẽ nổi giận đùng đùng, giận bầm gan tím ruột, giận tới mức bỏ ăn. Một cơn thịnh nộ tuyệt đỉnh siêu hình, nhuốm đầy màu sắc triết lý và thông minh, phóng ra bốn phía hào quang ngũ sắc chói loà lấp lánh (… quá cỡ thợ mộc!) Cho nó le lói lói le le lói!
Nãy giờ bàn luận dông dài về ba cái chuyện "ý nghĩa" với lại "phi lý" là bàn về những cái chuyện nguỵ tạo, những cái chuyện lẽ ra không nên có. Thì có khác chi là luận bàn về những cái chuyện không có. Không có mà vẫn bàn. Cũng rất hào hứng giống như là bàn về ba cái chuyện lông rùa sừng thỏ. Rốt cuộc, cũng chỉ là hý luận mà thôi.
Tuy nhiên, vì rùa thỏ vẫn hãy còn đó nên thử bàn thêm chút nữa về cái chuyện không có cho nó rốt ráo. Tuyên bố: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể phi lý, hữu thể không có ý nghĩa". Nhưng một khi đã nói tới những cái mà hữu thể không có rồi thì là nó vô cùng. Chẳng hạn như: "Hữu thể không có màu sắc, không có mùi vị, không có âm thanh, không có hương thơm, không có tình cảm, không có…, không có…, không có…" Biết chừng nào mới kể hết ra cho được những cái mà hữu thể không có? Nếu bây giờ, tuyên bố: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể không có màu sắc, vậy hữu thể phi lý", có ai chấp nhận chăng? Hoặc tuyên bố: "Vì hữu thể không có màu sắc nên nó không sắc màu", tương tự như là đã tuyên bố: "Hữu thể không (tự) có lý nên nó phi lý", hoặc: "Hữu thể không (tự) có ý nghĩa nên nó vô nghĩa"! Quá logique! Không phản bác vào đâu được. Đúng là nói chuyện huề vốn!
Ý niệm và logique của cái lỗ rún
Trở lại cái buồn nôn của Roquentin. Thoạt tiên, cái rễ cây có đó. Nó thực sự hiện hữu đầy đủ trong tất cả cái nghĩa vật chất của nó. Chợt có người tới ngó nó lom lom, rồi chiếu rọi ý thức của mình lên nó. Rồi vì không lý giải được sự hiện hữu của nó nên xao động. Một khi ta bị xao động rồi thì cái tâm ta nó vọng hiện, và do đó mà niệm niệm sanh khởi. Từ đó phát sinh ra cái ý niệm ý nghĩa, rồi kế đến là ý niệm đối nghịch của nó là phi lý theo cái logique nhị nguyên của ta.
Khởi đầu, ý niệm chỉ là một pháp ở dạng thức trừu tượng. Nhưng khi ta bắt đầu khảo sát, suy diễn và thuyết lý về nó rồi thì ý niệm dần dần khoác lên mình nó những lớp thịt da hư giả. Rồi cứ thế mà ý niệm tiếp tục tăng trưởng, cho tới lúc tưởng chừng như nó chuyển sang dạng thức cụ thể và trở thành có thiệt: một thực thể (tưởng chừng như) có "chất bột" rắn chắc không thua gì cái rễ cây. Ý niệm ý nghĩa / phi lý cũng giống như là một cái tin đồn. Cứ đồn riết rồi tin chắc cái chuyện đồn đãi là có thiệt. Hồi Đệ nhị Thế chiến, Hitler nghe theo cái tin đồn là chắc chắn quân Đồng minh thế nào cũng đổ bộ ở Pas-de-Calais nên đã dồn hết quân lực và chiến xa ở địa điểm này để chận đánh. Dè đâu Đồng minh lại đổ bộ ở Normandie! Hậu quả: Hitler đã đại bại và tự tử chết, chết vì một cái tin đồn không có thiệt. Cũng như đã có vô số người đã chết vì một cái ý niệm không đâu, một lý thuyết không tưởng, một chủ nghĩa hoang tưởng sai lầm nào đó. Hoặc cũng giống như một người mắc chứng tâm lý "huyền thoại" (mythomane), cứ đội nón trái ấu, đút tay dưới áo và ngày đêm săm soi bóng mình trong gương, và cuối cùng tin thiệt mình là Nã phá luân đệ nhứt. Rồi ra ngoài xa lộ Biên Hoà kéo quân con nít ở truồng và chiến xa ba bánh cà tàng… đi đánh Nga ở miệt Cà Mau!
Ý niệm trở thành có thiệt cho tới mức đối với một đầu óc duy lý, các ý niệm trừu tượng trở nên còn quan trọng hơn là cái rễ cây cụ thể hiện hữu lù lù trước mặt. Giờ đây, đối với đầu óc duy lý, các ý niệm "ý nghĩa" và "phi lý" đã trở nên còn quan trọng hơn là cái "hữu thể" rễ cây. Trong cách thức biến chuyển và tạo tác của mình, ý niệm cũng giống như là loại dây leo từ từ lớn lên, bò quấn chằng chịt, và cuối cùng siết chết cái thân cây đã khứng chịu làm giàn cho nó leo. Đó là cái cực kỳ nguy hiểm của hý luận và ngụy biện: sự vọng chấp tột bực sẽ đưa tới cuồng tín.
Tự đời đời kiếp, trong Trời đất vạn pháp vốn nó Như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng phải không có nghĩa. Không hề có cái gì thực sự là cái "ý nghĩa" cả. Thực sự trong cái nghĩa "tự nó thực có", tự nó có thực tướng. Ý nghĩa và phi lý chỉ là hoang tưởng, hoàn toàn do ta bày đặt ra, hoàn toàn do ta nguỵ tạo ra.
Như trái đất nó quay, thì nó quay như vậy, chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Như loài khủng long xuất hiện, con khủng long có đó, nó chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Nó xuất hiện rồi nó tuyệt chủng. Như vậy đó, chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Điều đó thuộc về đời sống của Trái đất. Đơn giản vậy thôi. Loài khủng long không tuyệt chủng để cho loài có vú vươn lên. Đó chỉ là do nhơn duyên mà sinh diệt. Nhưng tiến tới Bát nhã thì trong "tướng không" chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt: Vạn pháp chỉ là vô thường. Chẳng có pháp nào sinh ra, chẳng có pháp nào diệt đi. Chỉ có một dòng biến dịch bất tận, vô thủy vô chung. Các pháp cứ thế mà biến hoá lăn trôi hoài hoài.
Và loài có vú vươn lên cũng không phải để cho giống homo xuất hiện. Đó chỉ là cách diễn giải do con người bày đặt ra nhằm hợp lý hoá cái vận hành của Trời đất, sao cho nó phù hợp với cái logique, cái logique của con người dĩ nhiên! Hợp lý hoá để có thể nhờ đó mà ban cho sự vận hành của Trời đất một ý hướng, một dự án, một phương hướng, một mục tiêu, một cứu cánh, để cuối cùng dán cho sự vận hành đó một ý nghĩa (do ta bày đặt ra), một ý nghĩa mà tự nó không hề có (hoặc không bao giờ ai biết được). Trời đất vận hành theo cái lẽ của Trời đất. Cái lẽ này không mắc mớ gì tới cái logique của con người hết ráo. Cũng như một ông già 90 tuổi không thể nào hành động theo cái logique của thằng lỏi 5 tuổi, và lăn ra nằm vạ khi bị trái ý. "Trời chẳng chìu lòng người!", con người thường hay than thở làm như đó là một điều bất hạnh. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là một điều rất tốt đẹp và may mắn cho tất cả muôn loài. Thử tưởng tượng nếu Trời chìu lòng Tần Thủy Hoàng, chìu lòng Hitler, Staline, chìu lòng Pol Pot, Bush con! Ngay cả cái rễ cây nó không mắc mớ gì hết tới cái logique cartésienne hay cái triết thuyết siêu đẳng nào đó của con người. Cái rễ cây nó có cái logique của cái rễ cây. Con người léo nhéo à? Thì "Đi chỗ khác chơi! Hãy xê ra cho người ta mọc! Và chớ có quên bê cái phi lý của ông theo!"
Con người có thói quen đem cái lỗ rún của mình ra mà làm chuẩn cho trăng sao. Và đem cái "đỉnh cao trí tuệ" của mình ra mà đo lường Trời đất. Nhưng than ôi! Cái lỗ rún của con người thì nó méo tứ tung, còn cái trí tuệ của con người thì nó mê lầm không dứt. Trời đất không hề đòi hỏi và cũng không hề cần đến một ý nghĩa nào đó do con người ban phát để vận hành hết ráo. Trời đất vận hành tự đời đời kiếp kiếp, từ lúc chưa có con người (thì lấy ai mà ban phát ý nghĩa?). Con người chỉ mới xuất hiện ở sát na chót cùng của vũ trụ. Không có một hữu thể nào, không có một vật nào, không có một pháp nào cần tới con người (hay ý thức nào đó) ban cho một cái nghĩa, một cái tên, một cái giả danh, một cái lý do hiện hữu, một cái ý nghĩa hiện hữu gì hết ráo!
Nói "sự vật, mọi pháp không hề có ý nghĩa, nhưng cũng chẳng phải vô nghĩa" bởi lẽ "ý nghĩa" chỉ là một ý niệm, một vấn đề do con người nguỵ tạo ra. Chớ chẳng phải là sự vật, mọi pháp nó vô nghĩa, nó phi lý, hay là nó vô cái chi chi, nó phi cái chi chi hết ráo. "Ý nghĩa" và "phi lý" là những ý niệm do con người nguỵ tạo ra như là một cái "tiểu xảo" (như những ký hiệu toán học trong một phương trình), nhằm để chứng minh một điều gì đó mà mình cho là hợp lý, là đúng. Hoặc chỉ đơn giản vì bởi Trí tuệ (đỉnh cao!) nó muốn biểu diễn cái trò "ban phát ý nghĩa / phi lý", như một Đấng "Thượng đế bỏ túi". Cho nó le lói với Trời đất. Le lói với đời sống. Le lói với thiên hạ. Vậy thôi! Khi dùng ý thức của mình để từ chối ban phát ý nghĩa hoặc lý do hiện hữu cho một sự vật nào đó là "Thượng đế bỏ túi" đã sử dụng quyền năng siêu nhiên của mình để mà "hư vô hoá" (néantisation, chữ của Sartre) sự vật(!) Tuy nhiên, mặc dù đã bị hư vô hoá, nhưng nếu chẳng may sự vật từ trên không trung rớt xuống trúng cái "đỉnh cao trí tuệ" thì bảo đảm và hiển nhiên Thượng đế bỏ túi sẽ vẫn bị u đầu hay bị lủng túi như thường!
Ngẫu nhiên mà ông Christophe…
Một sự vật, khi nó có đó rồi, là nó có lý do để có đó. Sự kiện “nó có đó” là một bằng chứng hùng hồn. Cái “nó có thể không có đó” chỉ là một giả thuyết và là chuyện đã qua. Cái “nó có đó” là một thực tại và là chuyện bây giờ. Trước khi nó có đó thì sự xuất hiện của nó có tính cách xác suất (probable), may rủi. Nhưng một khi “nó có đó rồi” thì sự hiện hữu của nó là một điều hiển nhiên (évidence), không thể nào khác hơn được: nó không thể nào không có đó, nó có lý do để có đó, và giờ đây nó đã thực sự có đó, không có cách gì phủ nhận được hết, và cũng không có vấn đề chọn lựa hay tự do chối bỏ ở đây. Có nhắm mắt lại thì nó vẫn còn đó. Mở mắt ra lại thấy nó có đó.
Chẳng hạn như khi xưa Christophe Colomb lên đường đi tìm xứ Ấn Độ. Nhưng vì dụng cụ định hướng thời đó không chính xác và thô sơ nên đoàn thuyền thám hiểm của ông có thể lạc tới bất cứ nơi nào. Tuy nhiên, một khi ông đã đặt chưn lên Mỹ châu rồi thì đó là một sự kiện lịch sử và là một điều hiển nhiên: khi phân tích lại lộ trình, điều kiện thời tiết, giông bão, trăng sao… ta có thể biết được vì nguyên do nào và vì lý do nào (mặc dù không do chính ông chọn lựa) mà cuộc thám hiểm trên đại dương đã đưa đẩy đoàn thuyền của ông tới châu Mỹ thay vì Ấn Độ. Tuyên bố rằng sự hiện diện của Christophe Colomb tại châu Mỹ không có nguyên do và không có lý do là một khẳng định hàm hồ và nguỵ biện. Nó chẳng khác gì cái lập luận: “Một buổi sáng nọ Christophe Colomb từ trên giường ngủ bước xuống, và đùng một cái, ông đặt chưn lên châu Mỹ”. Không! Chẳng có cái gì là ảo thuật. Chẳng có cái gì là “khi không” hết ráo. Ông đã lên đường. Và ông đã tìm kiếm. Ông có nguyên do để có đó! Ông có lý do để có đó! Cho dù có phản bác rằng nguyên do này và lý do này là ngẫu nhiên thì cũng chỉ là cãi cọ nhau về ba cái từ ngữ và ý niệm mà thôi (cái trò vọc giỡn và quăng bắt chữ nghĩa).
Chung chung, ngẫu nhiên có nghĩa là tình cờ, may rủi. Ngẫu nhiên là cái cách thức (mode), là cái “như thế nào” (comment) của sự xuất hiện của nguyên do và lý do. Hỏi: “Nó xuất hiện như thế nào?” Đáp: “Nó xuất hiện một cách ngẫu nhiên”. Ngẫu nhiên có nghĩa là không đoán trước, không định trước được. Nó chẳng có ý nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa hoặc phi lý và cũng không hàm ý là “không có lý do”. Ngẫu nhiên chỉ là một cách thức, chẳng hạn con chim nó bay bằng cách đập cánh. Ngẫu nhiên chẳng những không làm thay đổi hoặc phủ nhận, mà trái lại chính nó đã đưa tới sự kiện: “Lần đầu tiên Christophe Colomb đã đặt chưn lên châu Mỹ vào giờ đó, ngày đó, tháng đó, năm đó. Và sự kiện này có nguyên do và lý do của nó. Nguyên do: thám hiểm. Lý do: đi lạc”. Mọi bàn luận chỉ là diễn giải, có thể đúng, có thể sai, hoặc cả hai. Nhưng chắc một điều: nó không cần thiết cho sự kiện. Sự kiện có trước. Giải thích đến sau. Mà không đến cũng được, cũng chẳng có trăng sao gì hết.
Sự vật đã có đó rồi thì sao?
Một khi sự vật đã có đó rồi thì những giả thuyết bày đặt ra về sự không hiện hữu, về những cái “lẽ ra…” của sự hiện hữu của nó chỉ là vọng tưởng. Một sự vật, khi nó có đó rồi, thì nó “hiển nhiên”: tự nó là lý do hiện hữu cho chính nó. Tự nó là giải thích cho chính nó. Tự nó là sự thật cho chính nó. Mọi tranh luận xung quanh, mọi bàn cãi xung quanh, mọi lý thuyết được dựng ra xung quanh cái chuyện “không có lý do hiện hữu” của nó chỉ là hý luận. Bàn chơi cho vui. Thuyết chơi cho vui. Vậy thôi.
Bất cứ vật nào, một khi đã có đó rồi, thì ta không có cách nào khác hơn được là phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Đó là thái độ “biết điều” nhứt. Chấp nhận theo cái nghĩa là phải nhìn nhận. Bởi lẽ ta không có cách nào phủ nhận được sự hiện hữu của nó, cho dù ta có nại cái lý do là “nó không có lý do nào để hiện hữu” – theo cách suy diễn của ta, theo cái logique của ta, dĩ nhiên. Nại cái lý do như vậy là nguỵ biện. Là vọng chấp. Là ngã mạn. Có buồn nôn tới mật xanh, có vò đầu bứt tóc tơi bời hoa lá, hoặc có bày đặt ra một luận cứ rất là “siêu việt”, hay một luận thuyết rất là “siêu triết” nào đó để phản bác hoặc để chối bỏ thì cũng chỉ là tự biểu lộ cái tâm chấp trước, cái tâm ôm giữ, cái tâm ngã mạn, cái tâm vọng động của mình mà thôi. Chớ sự vật, nó tuyệt nhiên bất động. Cái rễ cây nó có đó, nó nằm đó, và nó sẽ vẫn tiếp tục nằm đó, bất động. Tuy bất động, nhưng nó vẫn không hề ngưng biến dịch trong cái lẽ vô thường.
Bây giờ thử đặt vấn đề ngược lại. Hôm đó Roquentin lần xần bước vô công viên và đến ngồi trên băng ghế. Rồi vân vân… Chợt có một người lần xần thứ hai bước vô công viên, dùng ý thức chiếu rọi Roquentin, thấy anh ta chỉ là “chất bột” ù lì, mềm nhão, không có lý do gì để hiện hữu. Rồi buồn nôn và tuyên bố: “Cái anh chàng ngồi kia là phi lý!” Liệu cái tuyên bố này có khiến cho Roquentin trở thành phi lý vĩnh viễn? Hoặc hết lần xần? Hay là không hề hấn gì? Và cũng chẳng hay biết gì hết.
Giả dụ như thay vì xảy ra trong công viên, cảnh đó xảy ra ở tiệm Café de Flore. Anh chàng lần xần nọ bước vô tiệm café, ngắm nghía Sartre ngồi nhâm nhi café nóng, hút ống vố, mũi dí vào sách. Hồi lâu, thấy Sartre chỉ là “chất bột” ù lì ngớ ngẩn, không có lý do hiện hữu (raison d’être), và sự hiện hữu của Sartre cũng chẳng có nghĩa lý gì hết ráo. Bèn tuyên bố lớn tiếng cho hết mọi người trong tiệm café nghe rõ: “Hữu thể Sartre là phi lý!” Liệu Sartre sẽ phản ứng ra sao? Sẽ ngợi khen rối rít cái “ý thức sáng suốt”? Hay là sẽ lập tức phản đối liền tù tì: “Sao? Cái đồ nhảm nhí! Ông là triết gia đây mà lại không có lý do hiện hữu à? Ông đây mà lại là phi lý à?”
Bởi các lẽ đó, khi xét kỹ lại, nếu ta có đặt vấn đề nguyên do và lý do hiện hữu, hoặc vấn đề ý nghĩa hiện hữu của cái rễ cây thì vấn đề đó là cái vấn đề của ta, chớ không phải là vấn đề (yếu tính) của cái rễ cây: cái rễ cây nó không có vấn đề hiện hữu hay bất cứ một vấn đề gì hết ráo. Từ mấy trăm triệu năm nay, từ lúc con người chưa xuất hiện trên trái đất này, dòng họ “rễ cây” nó vẫn mọc như vậy, và nó vẫn ù lì như vậy. Sự thể: Con người chỉ mới xuất hiện từ 5 triệu năm nay. Rồi mãi cho tới đầu thế kỷ 20 này, chợt có một người lần xần bước vô công viên, rồi tình cờ tới ngồi trên băng ghế bắc bên trên cái rễ cây, rồi xao động, rồi buồn nôn, rồi bày đặt ra vấn đề hiện hữu của cái rễ cây. Và tiếp theo đó, dùng ý thức ảo thuật của mình mà dán lên cái rễ cây một ý nghĩa, rồi hô toáng lên là cái rễ cây đã tiếp nhận ý nghĩa của mình ban cho (nhưng thiệt ra thì cái ý nghĩa đó nó không dính và chỉ là lớp sơn hoa hoè bên ngoài). Rồi khóc thét, rồi tuyên bố là “Cái rễ cây nó phi lý”! Hết! Cái sự thể đó nó không ăn nhập gì tới cái rễ cây, và nó cũng không hề hấn gì tới cái rễ cây hết ráo. Cái người lần xần đó cũng giống như một người đang lo sợ, lúc chạng vạng đi vào một bến tàu. Anh ta nhìn thấy những sợi dây luộc ngổn ngang, nhưng vì tâm trí mình đang dao động nên cứ đinh ninh đó là những con rắn độc, rồi hoảng hốt la hét bỏ chạy. Và kể từ đó, cứ tin chắc là cái bến tàu vốn nó đầy rắn độc – tương tự như cái người lần xần tin chắc rằng “cái rễ cây phi lý ngay từ trong yếu tính của nó” vậy.
Nói rộng ra, cho dù là cái rễ cây hay bất luận một sự vật nào khác, bất luận một pháp nào khác, bất cứ một hữu thể nào khác, thì cũng vậy thôi. Cái vấn đề có chăng là ở chỗ thường khi chính ta đã bày đặt ra vấn đề. Chính ta đã nguỵ tạo ra vấn đề. Bởi lẽ chính cái tâm của ta đã vọng chấp. Bởi lẽ chính cái tâm của ta đã vọng hiện. Và cũng vì lẽ đó mà niệm niệm sanh khởi. Trí tuệ hay cái tâm của ta là một nhà ảo thuật chuyên môn vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa. Gần cuối cuộc đời mình, Sartre cũng đã phần nào ý thức ra được mình là nạn nhân của chữ nghĩa khi viết Les Mots. Ý niệm và chữ nghĩa đối với trí tuệ cũng giống như là những ký hiệu toán học đối với Einstein hoặc Poincaré và những nhà toán học khác. Chúng chỉ là những ký hiệu không có thực thể, không tự có trong Trời đất. Nếu cần, trí tuệ sẽ dùng nguỵ biện để tráo trở chữ nghĩa, và dùng hý luận để bẻ cong ý niệm hầu mê hoặc ta. Một khi ta bị nó mê hoặc rồi, ta sẽ trở thành cuồng tín và lôi kéo kẻ khác vào tròng cho nó mê hoặc theo. Và tin rằng “hữu thể là phi lý”!
Từ chơn không tới hiện hữu
Hiện hữu là một lễ hội, một cuộc vui. Hay ít ra cũng là buồn vui, sướng khổ lẫn lộn. Bởi lẽ đó, khi khám phá ra hiện hữu, lẽ ra ta phải thú vị và vui mừng chớ sao lại buồn nôn và rùng mình ớn lạnh? Có phải vì bởi vọng chấp, vì bởi mê lầm, ta ngỡ ngó thấy phi lý và hư vô lấp ló đằng sau hiện hữu? Tuyên bố rằng hiện hữu, rằng hữu thể là phi lý, phải chăng là ngụ ý rằng lẽ ra hiện hữu, lẽ ra hữu thể không đưọc (quyền) có đó thì mới hữu lý, thì mới hợp lý. Nhưng cái lý ở đây là “cái lý” gì? Và tại sao phải là “cái lý” như vậy mới là hợp lý? Đã nói “hiện hữu”, đã nói “hữu thể”, mà lại cho rằng lẽ ra nó “đừng có đó”, như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao? Nhưng nếu không có hiện hữu, không có hữu thể thì đâu còn gì nữa để mà bàn, mà luận. Hơn nữa lại là bàn luận cái thuyết về sự hiện hữu?
Jean Vioulac: Ngẫu nhiên là tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu. Nhưng nếu nó không hiện hữu thì làm sao biết được nó là cái gì để mà nói, mà bàn, mà thuyết, mà luận? Luận về cái “không hiện hữu”, luận về cái “không có”, phỏng đặng chăng? Vậy mà vẫn luận, thì luận ra làm sao? Chẳng lẽ cái “không hiện hữu” là nền tảng của luận thuyết về cái “có hiện hữu”. Cái đó, kinh Phật gọi là hý luận. Luận chơi cho vui vậy thôi. Luận chơi cho đỡ buồn vậy thôi. Cũng giống như là hý luận dông dài về ba cái chuyện sừng thỏ lông rùa, rễ mù cây điếc, chó gáy gà sủa, cánh khỉ vảy heo. Hay là hý luận về một cái chuyện hoang tưởng hoa hoè nào khác đó phát xuất từ cái tâm chấp trước vọng hiện của mình mà ra.
Trong khoa thiên văn, thuyết Big Bang cho rằng thoạt tiên có cái vụ nổ (khủng bố?) ban đầu. Rồi kế đó vật chất bị năng lượng của chơn không thúc đẩy tràn ra muôn hướng trở thành vũ trụ. Đó là thuyết lấy cái CÓ làm khởi điểm. Cần lưu ý là chơn không tuy rằng không có vật chất mà vẫn có năng lượng. Tuy nhiên, trong khoa thiên văn và vật lý hiện đại, giờ đây có thêm hai thuyết mới về sự sáng tạo của vật chất và vũ trụ lấy cái không làm khởi điểm – nhưng có lẽ không bao giờ chứng minh được một cách cụ thể. Một thuyết cho rằng khởi đầu, trong chơn không (vide) có những sợi dây (cordes) phi vật chất cực nhỏ, không bao giờ có thể thấy được (không tướng?). Không rõ vì lẽ gì, những sợi dây này chợt rung động (vibrations), và tuỳ theo tần số (fréquence) mà phát sinh ra mọi chất trong vũ trụ, cũng giống như sợi dây đờn rung theo 7 tần số khác nhau mà phát ra 7 âm đô, rê, mi, fa, sol, la, si. Vì vậy mà có thể ví vũ trụ như là một hợp tấu khúc vĩ đại. Các sợi dây cấu trúc này có thể là một dạng thức của năng lượng, vì năng lượng có thể biến thành vật chất và ngược lại. Các vật chất do dây “không tướng” tạo ra hợp lại tạo thành thiên thể, trăng sao, ngân hà, vũ trụ. Thuyết kia cho rằng khởi đầu chỉ có chơn không (vide). Rồi không rõ vì lẽ gì bỗng nhiên chơn không chợt dao động (fluctuations) “Maria hỡi ! Linh hồn con ớn lạnh!”, và làm nảy sinh ra nhiều vũ trụ khác nhau. Lạ lùng thay! Có một sự trùng hợp hi hữu: Ngay từ nguyên thủy, trong kinh Phật đã có thuyết “chơn không diệu hữu”: Từ trong chơn không, khi hội đủ nhơn duyên, sẽ xuất hiện những sắc tướng, rồi từ đó mà vạn pháp tương tạo lẫn nhau. Và cũng bởi đó mà chúng sanh trùng trùng duyên khởi, không hề ngừng nghỉ một sát na nào. Vô thủy vô chung. Bất tận…
Ý chính
Tóm lược các ý chính trong phần MỘT:
Tuyên bố sự vật không có nguyên do và lý do hiện hữu là một khẳng định hàm hồ và độc đoán.
Bởi cái tâm dao động, vọng chấp và vọng hiện nên nó làm xuất hiện các vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý"
Đối với sự vật, diễn giải và giải thích của ta là không thiết yếu, nguỵ tạo, có thể sai lầm và tác hại.
Bởi cái tâm phô diễn vốn nó "tự biên, tự diễn" nên nó bày đặt ra các vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý" để được tự diễn giải lấy một mình như một trò múa rối.
Cái tâm cứ khởi niệm không dứt là để duy trì sự hiện hữu của mình: Cogito ergo sum!
Trong Trời đất, vạn pháp vốn nó Như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa. Ý nghĩa và phi lý phát xuất từ cái tâm trí nhị nguyên của con người.
Ý nghĩa của đời sống, chính là đời sống. Lẽ sống của sống, chính là sống. Lý do để hiện hữu, chính là hiện hữu.
Sự vật vốn tự nó hiển nhiên: Nó là lý do hiện hữu của chính nó, nó là sự thật cho chính nó.
Trí tuệ là một nhà ảo thuật, chuyên môn vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa.
Khi ta đặt cái vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý" đối với sự vật, thì đó là vấn đề của ta, chớ không phải là vấn đề của sự vật.
Từ chơn không, khi hội đủ nhơn duyên, sẽ xuất hiện các sắc tướng. Và chúng sanh trùng trùng duyên khởi.
Xem tiếp bài 2 : Ngẫu nhiên - Tất định / Nhân duyên – nhân quả
Bagnolet, ngoại ô Paris
Tháng Sáu 2008
© 2008 talawas