Sự tan rã của Mặt Trận Thống Nhất
Tiến trình của công tác tổ chức mà Doriot khi sang thăm đã trình bày cho Thanh Niên đã bị giảm thiểu vào thời gian thương lượng hợp nhất với Cách Mạng Đảng bị thất bại. Vừa lúc công cuộc xây dựng đảng và vận động hậu thuẫn từ CSQT của Hồ Chí Minh đang bắt đầu cho kết quả thì mặt trận thống nhất tại Quảng Châu thình lình tan rã. Cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch ngày 12 tháng 4 1927 đã phá vỡ phong trào công nhân cánh tả tại đây và đẩy ĐCS Trung Quốc vào hoạt động bí mật. Những diễn biến tương tự cũng đã xảy ra tại các thành phố của Trung Hoa Dân Quốc - việc bắt bớ hàng loạt và hành hình những nhà hoạt động công đoàn đã bắt đầu khoảng ngày 14 tháng 4 tại Quảng Châu. Lúc ấy Hồ Chí Minh hoặc đã chạy lên miền bắc hoặc đang trú ẩn tại lãnh sự quán Nga. Ông giải thích với QTCS sau khi quay lại Moscow rằng người Nga duy nhất còn lại Quảng Châu "đã không giúp đỡ hoặc cố vấn được gì cho chúng tôi, hay ít ra là tiếp tục trả lương thông dịch cho tôi vì tôi hoàn toàn không thể tìm được việc làm... Tôi không còn cách nào khác là để mình bị bắt hoặc tiếp tục công tác tại Xiêm sau khi quay lại Moscow."[163] Mật thám Constantin báo cáo rằng Hồ và những người cộng sản Việt Nam khác đã bị các thành viên của nhóm yêu nước đối lập tại Quảng Châu tố giác. Nhóm này do Tam Kam Say (Dam Giam Tay)[164] đứng đầu, có sự tham gia của Nguyễn Hải Thần, là một tổ chức có tư tưởng cách mạng dân tộc thuần tuý tại Quảng Châu. Hai đồng chí của Lý Thụy đã bị bắt giữ, cùng với bốn hoặc năm người Việt khác vừa từ Bắc Kỳ đến, theo báo cáo của Konstantin. Lâm Đức Thụ đã phải liều thân đứng ra để bị bắt chung với Hồ Tùng Mậu nhằm che dấu vỏ bọc mật thám của mình. Ông viết cho liên lạc viên Sở Liêm Phóng vào ngày 13 tháng 5 1927 rằng ông đã bị giam từ ngày 15 tháng 4. "Sự hiện diện của Hồ Tùng Mậu là một cản trở trong việc viết và chuyển thư từ của tôi," ông giải thích. "Ngài có hiểu được lòng tôi không, thưa Ngài? Vào lúc này tôi vẫn chưa manh động vì tôi luôn đặt lòng tin vững chắc của mình vào Ngài." Đến giữa tháng 6 họ đã được trả tự do, và Lâm Đức Thụ lại tiếp tục công việc mật báo về những nhà cách mạng.[165]
Mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần trở nên xấu hẳn khi căng thẳng trong mặt trận thống nhất ngày càng tăng. Nguyễn Hải Thần trở nên gần gũi hơn với nhóm kháng chiến đối lập, những người này chú trọng hơn về hành động quân sự hơn là Hồ. Như Lâm Đức Thụ đã tường thuật Tam Kam Say và Phạm Nam Sơn "rất chuyên nghiệp trong việc tiêu thụ tiền giả và buôn lậu thuốc phiện và đã lợi dụng Nguyễn Hải Thần để thành lập đảng này."[166] Lâm Đức Thụ báo cáo vào cuối tháng Giêng rằng Nguyễn Hải Thần đang thảo luận với Tam Kam Say và những thành phần khác để thành lập một đảng mới.[167] Đến tháng 3 Thụ báo cáo rằng Lý Thụy đã chấm dứt việc tham khảo ý kiến với Hải Thần.[168] Lâm Đức Thụ cũng nói rằng việc điều hành những vấn đề liên quan đế tài chính một cách quá bí mật của Hồ đã đánh mất lòng tính nhiệm của những đồng chí khác: "Hầu như mọi chi phí của tập thể đều do Lý Thụy thanh toán theo một phương pháp rất tài tình: ông đưa tiền cho Hồng Sơn hoặc Tùng Mậu để họ chi trả bằng ngân khoản của mình... Cách này làm cho những người Trung Kỳ tin cậy lẫn nhau và không tin tưởng vào những đồng hương đến từ những vùng khác trong khối Liên Hiệp Đông Dương, và việc không tin tưởng nhau này đã đẩy Hải Thần và Phạm Nam Sơn thành lập tổ chức riêng của họ." (tiền này là từ chính phủ Quảng Châu chi trả, Thụ viết, dưới sự yêu cầu một tuỳ viên Nga.)[169]
Dù thế hai nhóm này vẫn tiếp tục hợp tác trong khuôn khổ của Học Viện Hoàng Phố. Đến tháng 2 1927 Thụ cho rằng đã có 53 người Việt theo học tại Hoàng Phố kể từ tháng 12 năm trước. Những học viên tốt nghiệp trong đó có Lê Hồng Sơn và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng) được chọn để hướng dẫn các học viên người Việt mới, và một bộ phận đặc biệt dạy tiếng Việt đã được lập riêng cho họ.[170] Sự thật là Thanh Niên vẫn còn bám lại tại Quảng Châu sau cuộc đảo chính tháng 4 bằng cách giữ gìn quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc không cộng sản bao gồm những người cánh tả trong Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Trường hợp những thành viên như Trương Văn Lềnh, ông trà trộn hoàn toàn vào tổ chức đối lập, theo mật báo của Lâm Đức Thụ cho Sở Liêm Phóng vào ngày 8 tháng 4.[171] Trương Văn Lềnh đã tìm cách giữ được việc làm trong chính quyền Quảng Châu, đầu tiên là một cai đội và sau đó là đại đội trưởng cảnh sát đến cuối tháng 10 1927. Sau đó ông phục vụ trong quân đội của tướng Quốc Dân Đảng Tương Phát Khuệ[172] Sự nghiệp chính trị của Lê Hồng Sơn thì cũng dính dáng một phần đến Trương Phát Khuê - ông làm việc dưới quyền của Trương từ 1926 khi đóng quân tại đảo Hải Nam.
Tung tích của Hồ Chí Minh vào giai đoạn ấy là nguồn gốc của những đồn đãi ít nhất là cho đến tháng 12 1927. Có thể ông đã chỉ thị cho Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu để họ đưa ra những tin tức sai lạc trong cộng đồng Việt kiều. Ví dụ như Konstantin đã báo cáo vào ngày 1 tháng 5 rằng Lý Thụy đã bị bắt cùng với những thành viên khác của Thanh Niên. Sau đó Lâm Đức thụ lại báo rằng ông đã trốn đi Hán Khẩu (Hankou - ND)[173] và cuối năm đó gia nhập quân đội của Diệp Đĩnh (Ye Ting - ND) tại Sán Đầu (Swatow hay Shantou - ND).[174] Một thiếu nữ người Quảng Châu mà Hồ đã "cưới" vào tháng 10 1926 tên là Tuyết Minh, đã không được cho biết ông đã đi đâu.[175] Theo báo cáo của chính Hồ với QTCS về hành tung của mình thì chúng ta biết được ông đã rời Quảng Châu và trực chỉ đến Thượng Hải. Có lẽ ông đã đi qua ngõ Hán Khẩu, nơi có cuộc họp của Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6. Nhưng ông không hề đề cập đến việc này. Ông đã đi đường biển từ Thượng Hải đến Vladivostok cùng với Jacques Doriot và đến Moscow vào khoảng tháng 6.[176] Tại Vladivostok ông gặp Voitinsky, ông này đã tìm cách thuyết phục Hồ quay lại Thượng Hải để hoạt động cùng những người Pháp và người Việt tại đó. Nhưng Hồ dường như đã quyết định yêu cầu thêm ngân sách để tiếp tục mở các lớp đào tạo chính trị tại Xiêm. Tại Moscow ông chỉ có một tiếp xúc ngắn ngủi với những người Việt tại Đại Học Lao Động Phương Đông, những người này đã thành lập một chi bộ cộng sản với 5 thành viên. Họ là "Fon-Shon" (Nguyễn Thế Rục, một người miền bắc họ hàng với Nguyễn Thế Truyền); "Le-man" (Ngô Đức Trì, con của học giả và cựu tù nhân chính trị Ngô Đức Kế người Hà Tĩnh); "Jia-o" (Bùi Công Trung, một ký giả và nhà hoạt động trẻ từ miền trung Việt Nam, trước đây tham gia hội Jeune Annam tại Sài Gòn); "Min-Khan" (Bùi Lâm, một thuỷ thủ và thợ in từ Hải Phòng, thành viên ĐCS Pháp tại Paris); và "Lequy" (Trần Phú), người được bầu làm bí thư chi bộ.[177] Trong một mẫu thư ngắn Hồ chỉ thị cho chi bộ cộng sản này phải học tập chính trị tốt. Vào ngày 25 tháng 6 ông cũng đã gửi báo cáo cho Nông Dân Quốc Tế về phong trào nông dân tại Quảng Đông.[178] Sau một thời gian nằm viện để điều trị bệnh lao, vào tháng 11 ông được gửi về Paris với những chỉ thị mới của QTCS.[179]
Những thành viên còn lại của phái bộ Borodin rời khỏi nơi trú nạn ở Trung Quốc vào tháng 7 1927 sau khi cố gắng tập hợp một mặt trận thống nhất với những người cánh tả trong Quốc Dân Đảng bị thất bại. Một lần nửa ảo tưởng thoả hiệp với lãnh đạo Quốc Dân Đảng là Uông Tinh Vệ đã tan biến, và ĐCS Trung Quốc phải tự tìm ra sách lược mới để bảo toàn những thành quả có được từ những năm tháng trong mặt trận thống nhất. Sau 3 năm phục vụ trong hàng ngũ quân đội do Quốc Dân Đảng chỉ huy, những người cộng sản Trung Quốc giờ đây phải tự huy động lực lượng chiến đấu riêng trong vòng chỉ vài tháng. Stalin và QTCS thình lình thay đổi chính sách vào tháng 7, sau khi những người đầu tiên trốn thoát cuộc đảo chính tháng 4 về đến Moscow báo cáo (trong số đó có một nhân vật tên "Freyer" đã đệ trình một báo cáo dài cho Nông Dân Quốc Tế về Phong Trào Nông Dân cũng như về Hồ Chí Minh).[180] Trong một nghị quyết ra ngày 14 tháng 7, Ban Chấp Hành QTCS tuyên bố, "Vai trò cách mạng của chính quyền Vũ Hán (Wuhan - ND) đã chấm dứt; nó đang trở thành một lực lượng phản cách mạng. Đây là một đặc điểm mới mà tầng lớp lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc cần nên quan tâm rõ ràng và đầy đủ." Dù thế những đảng viên cộng sản vẫn được khuyên là nên lưu lại trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng để thiết lập chiến lược của một mặt trận thống nhất từ "dưới lên": để "tăng cường hoạt động trong khối quần chúng vô sản... xây dựng các tổ chức công nhân... củng cố công đoàn... giúp quần chúng lao động sẵn sàng có hành động quyết định... phát triển cách mạng ruộng đất... vũ trang cho giai cấp công nhân và nông dân... tổ chức một cuộc đấu tranh cân sức với những thành phần phá hoại đảng."[181]
Kể từ sau vụ tàn sát chống cộng do Quốc Dân Đảng phát động vào tháng 4, lãnh đạo ĐCS Trung Quốc cuối cùng đã phản công. Cố gắng đầu tiên của họ nhằm giành lại quyền lực từ phe Quốc Dân Đảng "phản động" xảy ra vào ngày 1 tháng 8, khi hai tướng Diệp Tĩnh (Ye Ting - ND) và Hạ Long (He Long - ND) khởi quân tại Nam Xương (Nan Chang - ND), thủ phủ của Giang Tây (Jiang Xi - ND). Chu Ân Lai chính là nhân vật chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa Nam Xương. Sự kiện này đã tạo dựng nền móng cho Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, theo các nhà sử học của ĐCS Trung Quốc, bắt đầu thời kỳ lãnh đạo quân đội độc lập của những người cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dập tắt trong vòng 3 ngày, khi tướng Trương Phát Khuê mà những người cộng sản nghĩ là đồng minh của họ, đã tấn công quân nổi loạn bằng lực lượng của mình. Quần chúng nông dân đã không đến tiếp ứng cho những người cộng sản đang bị bao vây và họ bắt buộc phải rút về phía nam thành phố Sán Đầu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông. Nơi đó họ đã tìm cách dựng lên một thủ đô mới để rồi bị đánh bại vào đầu tháng 10. Trong lúc đó Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc họp vào ngày 7 tháng 8 tại Hán Khẩu, trong dịp ấy lãnh đạo đảng Trần Độc Tú đã bị lên án là kẻ "thoả hiệp cánh hữu", ông đã trở thành vật tế thần cho sự thất bại của mặt trận thống nhất. Hội nghị tuyên bố chính sách mới về cách mạng ruộng đất và vũ trang chống lại Quốc Dân Đảng. Giới lãnh đạo lâm thời "quyết định biến công tác huy động nông dân cho cuộc khởi nghĩa Trung Thu là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng".[182] Besso Lomidadze, đại diện mới của QTCS, đã đóng vai trò chủ động trong việc hình thành quyết định trên. Dù thế, mãi cho đến ngày 19 tháng 9 Bộ Chính Trị Uỷ Ban Trung Ương mới quyết định sẽ không còn làm ra vẻ chiến đấu dưới ngọn cờ của Quốc Dân Đảng Cánh Tả. Từ đó về sau ĐCS Trung Quốc đã chiến đấu cho quyền lực sô viết dưới ngọn hồng kỳ của họ.[183] Trong một cuộc họp vào tháng 11 1927 của Bộ Chính Trị Lâm Thời ĐCS Trung Quốc, những người cộng sản đã xác nhận con đường tả khuynh của mình, lần nữa dưới ảnh hưởng của Lominadze. Mặc dù số lượng thành viên của họ đã giảm thiểu một cách đáng kể từ tháng 4, họ vẫn quyết định rằng "tình hình cách mạng" vẫn đang ở điểm cao và chiến lược kháng chiến vũ trang vẫn nên tiếp tục.[184]
Những người cộng sản Việt Nam tham gia lực lượng Quốc Dân Đảng chắc hẳn đã lâm vào tình huống khó xử - có thể là vào năm 1927 họ đã không có đủ thời gian để tìm được một lựa chọn rõ rệt là nên chiến đấu dưới ngọn cờ cộng sản hay dưới quyền chỉ huy của nhân vật khó hiểu Trương Phát Khuê. Dù sao chúng ta đã biết được từ những báo cáo của Lâm Đức Thụ rằng một trong những người hùng của nhóm Việt Nam là Lê Hồng Sơn cùng một số thành viên Thanh Niên khác vẫn còn liên hệ với Trương Phát Khuê mãi cho đến tháng 11 1927. Lâm Đức Thụ báo cho Sở Liêm Phóng ngày 13 tháng 11 rằng vẫn còn "một số đông đảng viên cộng sản" nằm trong quân đội của Trương Phát Khuê, trong đó có cả Lê Quang Đạt và Trương Văn Lềnh. Đạt lãnh lương 200 đồng Đông Dương (Piastre - ND) và Lềnh 150 đồng mỗi tháng.[185] Tại Quảng Châu, việc thanh trừng cộng sản đang được tiến hành bởi Tướng Lý Tế Thâm (Li Ji Shen - ND), người mà theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi cho Nông Dân Quốc Tế, đã chống phá dữ dội các tổ chức nông dân địa phương.[186] Vì thế khi quân đội Trương Phát Khuê tổ chức đảo chính tướng Lý vào ngày 17 tháng 11, thành phần lãnh đạo Thanh Niên đã cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. "...những thành viên trong nhóm Tùng Mậu rất vui mừng vì việc những đồng chí của họ trở lại sẽ giúp họ tìm được việc làm và hậu thuẫn dễ dàng hơn...," Lâm Đức Thụ phán đoán về vụ đảo chính.[187]
Trong giai đoạn thay đổi chính trị này, những người Việt vẫn tiếp tục đến học tập tại Quảng Châu. Họ bao gồm một số người từ Bắc Kỳ sau này trở thành lãnh đạo của một nhóm cấp tiến ly khai khỏi tổ chức Thanh Niên vào năm 1929: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Hội.[188] Thật vô cùng khó khăn để ta biết sự thật ngoại trừ phán đoán về việc họ đã chịu ảnh hưởng chính trị từ đâu sau tháng 4 1927 vì tình hình chính trị trong Thanh Niên cũng như tại Quảng Đông trở nên rất phức tạp. Có những sự việc dường như mâu thuẫn nhau. Trong nội bộ Thanh Niên đã có những nỗ lực hoà giải với những tổ chức quốc gia đối lập, trong khi đó trong ĐCS Trung Quốc lại có khuynh hướng khởi nghĩa. Trong khi đó, những thành viên còn lại của Thanh Niên tại Quảng Châu đã bắt đầu tìm cách phối hợp việc kết nối lại với Nguyễn Hải Thần đang bị bỏ rơi trong mùa thu năm 1927. Lâm Đức Thụ đã báo cáo hai cuộc họp ngày 18 và 24 tháng 10 nhằm thống nhất hai đảng. "Ngày Chủ nhật hôm qua," ông viết "Ngô Thanh và Đinh Tế Dân đã gặp Tùng Mậu, Văn Lềnh và Quang Đạt tại công viên. Họ đã thảo luận sự cần thiết phải chấm dứt những xung đột giữa hai bên." Tùng Mậu cho rằng họ đã giải quyết được những bất đồng.[189] Tiểu sử của Nguyễn Đức Cảnh nói rằng trong tháng 9 1927 ông đã đến Quảng Châu để gặp Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên Hội để phối hợp hoạt động giữa hai phong trào. Là người quê Thái Bình, sinh năm 1908, Cảnh bị đuổi học tại Nam Định vào năm 1926 vì đã tổ chức bãi khoá. Ông là thành viên của Nam Đồng Thư Xã, hội này vào tháng 12 1927 đã chuyển thành Việt Nam Quốc Dân Đảng.[190] Cũng như những học viên trước đó, ông đã đầu quân vào Thanh Niên sau khi tham gia các khoá học dựa trên cương lĩnh của Hồ Chí Minh. Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Hội cũng có thể đang ở Quảng Châu cùng lúc với Nguyễn Đức Cảnh. Tiểu sử chính thức của Ngô Gia Tự viết rằng ông cũng ở Quảng Châu giữa năm 1927. Ta không biết được là ông có theo dõi cuộc đảo chính tháng 4 hay không.
Những học viên người Việt cũng đã biết được những sự kiện xảy ra tại hai huyện Hải Phong và Lục Phong phía đông Quảng Châu. Một số quân lính rút lui từ Nam Xương về Sán Đầu đã tái hợp tại các huyện này, nơi xảy ra những thắng lợi đầu tiên của phong trào nông dân Quảng Đông. Những người lính này bắt đầu nổi dậy vào ngày 25 tháng 10 để thành lập sô viết. Sau cuộc tấn công tàn bạo của quân đội Lý Tế Thâm, những người nông dân và lãnh đạo cộng sản của tỉnh này hình như đang muốn trả thù. Chính quyền cách mạng lâm thời được thiết lập tại Hải Phong và Lục Phong "hoàn toàn thuộc cộng sản và vũ trang đầy đủ", Fernando Galbiati viết.[191] Ông đã trích dẫn một lá thư của Tỉnh Uỷ Quảng Đông trong đó viết rằng "việc tiêu diệt bọn địa chủ phải được tiếp tục cho đến khi không còn tên nào.[...] Để chứng tỏ vấn đề đánh chiếm Hải-Lục-Phong không phải là mong manh như ngôi nhà trên cát."[192] Như Galbiati chỉ ra, phong trào Sô Viết Hải-Lục-Phong đã được quản chế chắc chắn, được điều khiển bởi "một tiểu tổ trung ương, mệnh lệnh của nó được thực hiện bởi những thành viên của Nông Hội". Những người trong ĐCS Trung Quốc vẫn giữ bí mật tối trọng và chỉ được biết đến trong Sô Viết như là những "zuzhi" (cơ cấu - ND).[193]
Sự ra đời của sô viết nông dân Hải-Lục-Phong đã khích lệ hàng ngũ lãnh đạo ĐCS Trung Quốc tổ chức một cuộc nổi dậy tại Quảng Châu. Nguyên nhân tiên khởi chính là sự cạnh tranh giữa Trương Phát Khuê và Lý Tế Thâm, vì thế vào ngày 26 tháng 11 những người cộng sản Quảng Châu đã nhận định rằng sự tranh chấp giữa các tướng quân phiệt đã tạo ra một cơ hội thuận lợi để tổ chức khởi nghĩa. Ngày hành động được quyết định là 13 tháng 12. Nhân vật cộng sản người Đức là Heinz Neumann, người chuyển giao các chỉ thị của Stalin tại Quảng Châu, đã ra quyết định cuối cùng cho việc khởi nghĩa, có lẽ là vì áp lực của Stalin đã muốn có một thắng lợi ở Trung Quốc nhân dịp Đại Hội thứ 15 của Đảng Cộng Sản Sô Viết. Cuộc khởi nghĩa ba ngày đã bị đè bẹp bởi những lãnh binh Quốc Dân Đảng vừa lên kết lại với nhau, một lần nữa đã gây ra hậu quả là sự trả thù dã man đối với những người cộng sản và dân lao động đã tham gia khởi nghĩa. Nó đã trở thành một huyền thoại động viên cho ĐCS Trung Quốc, cho dù nó không được chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như đã thiếu sự hỗ trợ của tầng lớp lao động. Nhưng nó đã ảnh hưởng như thế nào đến những người cộng sản Việt Nam đang ở tại Quảng Châu hoặc đang theo học tại Học Viện Hoàng Phố?
Theo tài liệu sử chính thức của ĐCS Việt Nam thì những thành viên của Thanh Niên Hội đã tham gia vào cuộc nổi dậy và có 24 người bị bắt.[194] Những người trong hàng ngũ học viên sĩ quan tại Hoàng Phố rất có thể đã tham gia, vì đây là lực lượng quân sự duy nhất lúc ấy có thể bảo vệ các công xã. Một người Việt là Phùng Chí Kiên được kể là đã rút về Sô viết Hải-Lục-Phong sau khi cuộc nổi dậy bất thành, và trở thành chỉ huy một đơn vị vũ trang cộng sản.[195] Nhưng theo lời khai của một người cộng sản miền nam quen biết Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc thì sau khi tham gia khởi nghĩa Quảng Châu, ông đã trở về lại Hoàng Phố đến khi bị bắt đi tù vào đầu năm 1929. Chỉ sau khi ra tù vào mùa thu 1929 Kiên mới tham gia ĐCS Trung Quốc và gia nhập Hồng Quân tại Đông Khu (Dong Kiang - ND), Quảng Đông với chức đại đội trưởng.[196] Một học viên sĩ quan Hoàng Phố khác bị bắt sau khởi nghĩa là Trần Văn Cung (Quốc Anh), người này vào năm 1929 đã cầm đầu một tổ chức ly khai khỏi Thanh Niên.[197] Một nguồn tin tại Hà Nội cho biết rằng Trương Văn Lềnh là một trong trong những lãnh đạo công xã, sau đó đã thay đổi tên họ và quân phục để trà trộn vào quân đội quốc dân.[198] Cũng rất có thể là ông đã tham gia quân đội Trương Phát Khuê ở ngoại ô Quảng Châu. Không may là báo cáo của Lâm Đức Thụ đã không đề cập đến những gì đã xảy ra. Nhưng vào tháng 5 1928 ông đã báo rằng 24 người Việt Nam vẫn đang học tập hoặc giảng dạy tại Hoàng Phố. Trong số đó có Lê Duy Nghĩa (Lê Duy Điếm) và Mạnh Văn Liễu (một bí danh khác của Phùng Chí Kiên). Những thành viên Thanh Niên bị bắt trong thời gian khởi nghĩa đã được thả vào ngày 13 tháng 5, đa số đều trong tình trạng sức khoẻ kém.[199] Tài liệu lịch sử công xã cho biết rằng một học viên sĩ quan người Việt tên Đỗ Huy Liêm đã chết trong cuộc nổi dậy;[200] nhưng thực ra ông đã lưu lại Hoàng Phố cho đến cuối năm 1928 và quay lại làm việc tại Thanh Niên rồi cho Đông Dương Cộng Sản Đảng tại Bắc Kỳ cho đến khi ông bị bắt vào năm 1930.[201] Dù thế, đối với những thành viên và học viên mới, công xã và phong trào Sô viết Hải-Lục-Phong là một kinh nghiệm mới mẻ cho họ. Vào lúc này, ĐCS Trung Quốc đang trên con đường khởi nghĩa: việc thành lập các sô viết tại thành phố và nông thôn là nhiệm vụ ưu tiên hành đầu. Nhưng ngược lại với tiêu chuẩn của Hà Nội về hình ảnh của năm 1928, Thanh Niên đã tìm cách tiếp tục hoạt động và đào tạo quân sự cho đến cuối năm, khi làn sóng đàn áp phong trào cộng sản lần thứ hai bắt đầu.
Đến cuối năm 1927, cộng sản Việt Nam đã chia làm hai luồng tư tưởng trong nhóm Việt kiều tại Trung Quốc. Một nhánh tiếp thu chủ thuyết mặt trận thống nhất của những năm trước, trong khi nhánh kia lĩnh hội chiến lược vũ trang mới của ĐCS Trung Quốc. Vì đã không còn cơ cấu của QTCS tại Quảng Châu vào cuối năm 1927 nên những người Việt đã không còn nguồn chỉ thị hoặc tư tưởng chủ đạo nào khác ngoài ĐCS Trung Quốc. Vì Hồ Chí Minh đã rời khỏi Trung Quốc nên ông không bắt buộc phải theo bên nào. Sau chuyến trở về Moscow ông rút vào hoạt động bí mật và có vẻ đã đứng ngoài những tranh chấp đã chia rẽ phong trào cộng sản Việt Nam vào năm 1929. Mặc dù người Pháp tiếp tục nhận được tin tức về những kế hoạch nổi dậy trong suốt năm 1927 nhưng dường như Hồ đã không dính dáng gì đến những kế hoạch này. Ông vẫn giữ nguyên là một nhà tổ chức thận trọng và kiên nhẫn bất chấp kết quả đầy bạo lực của cuộc thử nghiệm về phong trào thống nhất. Khi Grigory Voitinsky đề nghị tại Vladivostok rằng ông nên quay về Thượng Hải để làm việc với những toán quân Việt Nam thì ông đã từ chối. "Chúng tôi có nên tập hợp vài người lính Việt Nam ở Thượng Hải (những người này đã nói với tôi rằng họ đang tính quay về tổ quốc), và huỷ bỏ những công việc vừa được bắt đầu tại Đông Dương?" ông đã hỏi trong một báo cáo gửi cho Moscow. Ông đề nghị được chuyển công tác đến Xiêm để: "làm việc hay đúng hơn là tiếp tục công việc về Đông Dương - cho dù kết quả sẽ xa vời và ít hiển thị hơn - thì vẫn quan trọng hơn bởi vì những đồng chí khác có thể thay thế tôi ở Thượng Hải, nhưng ở Xiêm thì không thể. Và vì tin tức từ những phản ứng của người Trung Quốc đang được thực dân Pháp loan truyền rộng rãi, đã gieo thêm những bi quan cho người Việt, và nếu chúng ta ngưng hoạt động bây giờ thì những gì chúng ta đã làm được trong ba năm qua sẽ mất cả, và sẽ rất khó khăn để làm lại từ đầu, trên tinh thần của những người Việt thì họ đã bị thất vọng vài lần rồi."[202]
CHƯƠNG 4: TỪ CON ĐƯỜNG CŨ ĐẾN HÀNH TRÌNH MỚI (1927-9)
Những di chuyển của Hồ Chí Minh
Khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu vào tháng 4 1927, ông qua Thượng Hải và Vladivostok để đến Moscow. Tại Moscow, như ta đã thấy, ông đã tìm kiếm hậu thuẫn để đến cơ sở mới tại Xiêm nhằm tiếp tục công việc mà ông đã bắt đầu tại Quảng Châu. Một phần của mùa hè năm ấy ông phải nằm viện ở Crimean để điều trị bệnh lao. Tháng 9 1927 QTCS soạn thảo chỉ thị cho những công tác tương lai của ông và gửi ông đi Paris vào tháng 11 để phối hợp chương trình của ông với Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp.[1] Mặc dù giờ đây ĐCS Pháp có trách nhiệm nuôi dưỡng phong trào cộng sản tại Đông Dương nhưng trên thực tế thì các đảng viên ĐCS Pháp hoạt động dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Moscow.
Mặc dù QTCS đã không còn ảo tưởng về Quốc Dân Đảng, những chỉ thị để Hồ đem đến Paris vẫn phản ánh chiến lược mặt trận thống nhất với các lực lượng quốc gia. Bản chỉ thị dài hai trang (đề ngày 12 tháng 9 1927) chỉ định "AK" (Ai Kvak, theo cách phát âm của Nga) phải giúp kích hoạt "những nhà cách mạng dân tộc trong số những người Đông Dương lưu vong (trước tiên tại Paris rồi toàn nước Pháp) bằng cách thiết lập một đội ngũ cộng sản cốt cán trong những phần tử này... " Rồi ông phải thành lập những liên hệ với Đông Dương với mục đích chuyển giao những hoạt động cách mạng vào quốc nội. Trong lúc ấy, nhằm hợp tác với ĐCS Pháp, ông được chỉ thị soạn thảo một cương lĩnh hành động cho phong trào cách mạng dân tộc tại Đông Dương. Sau tài liệu này được thông qua bởi Ban Chấp Hành QTCS, ông sẽ phát hành nó ở Đông Dương và "nghiên cứu khả năng để tăng cường những hoạt động cách mạng tại quốc gia lân cận như Xiêm."[2] Đông Dương Cộng Sản Đảng "cần bắt đầu vận hành trong một tương lai gần" và sẽ dựa vào "những tổ chức cách mạng dân tộc cành nhiều càng tốt với điều kiện những người thiên tả trong các tổ chức này giữ được quyền tự do phê phán tuyệt đối." Khẩu hiệu chính trị cơ bản của phong trào cách mạng được định nghĩa như sau: (1) độc lập; (2) đánh đuổi các lực lượng chiếm đóng; và (3) triệu tập Uỷ Ban Lập Pháp và tạo ra chính quyền cách mạng dân chủ, bảo đảm việc phân phát toàn bộ đất đai cho nông dân, dùng chính sách thống nhất các giai cấp để ủng hộ quyền lợi của người lao động, cương quyết bảo vệ nền độc lập của nước nhà chống lại mọi tấn công của đế quốc tham tàn." Điểm cuối cùng của chỉ thị ra ngày 12 tháng 9 lưu ý rằng QTCS sẽ theo đuổi nỗ lực tạo dựng những liên lạc với Đông Dương qua ngõ Trung Quốc.[3]
Vì một số lý do Hồ đã không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp, ông báo cáo lại với Moscow. Chiến dịch ruồng bố những hoạt động cộng sản tại Paris đã xảy ra cùng lúc với khủng hoảng chính trị trong nội bộ ĐCS Pháp, có lẽ việc này có liên quan đến phong trào thanh trừng các phần tử Trotskyist đang xảy ra tại Liên Bang Xô Viết để hướng tới Đại Hội Đảng 15 vào tháng 12. Cùng thời gian ấy Jacques Doriot, người bảo trợ của Hồ tại Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp, đã bị bắt giam tại Pháp. Hồ viết rằng những thành viên còn lại của Uỷ Ban đã tránh những tiếp xúc riêng với ông. Ý ông muốn nói đến trong báo cáo là việc "thiếu linh động" trong hoạt động của Uỷ Ban có thể đã làm nó tê liệt về mặt chính trị. "Trong suốt một tháng rưỡi có mặt tại Paris," ông giải thích, "trong khi Đồng Chí Doriot đang ở tù, tôi đã không có được bất kỳ một cơ hội nào để thảo luận một cách nghiêm túc với các đồng chí khác. Đã vài lần tôi đã đề nghị những địa chỉ chính xác để có thể liên lạc với họ khi tôi quay lại phương Đông, nhưng đồng chí có trách nhiệm đã không cho tôi biết."[4]
Hồ đã không đề cập đến những liên lạc giữa ông và những người Việt khác tại Paris, nhưng chúng ta tự hỏi là không biết ông có tìm cách gặp lại Nguyễn Thế Truyền không. Ít nhất là cho đến năm 1926, Truyền vẫn là đầu mối tiếp xúc chính giữa những người Việt cánh tả tại Paris và Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Chính ông là người đã sắp xếp để gửi những người Việt Nam, trong đó có một số họ hàng của mình, đi Moscow học tập.[5] Vào đầu năm 1927, sau sự sụp đổ của Công Đoàn Thuộc Địa vào năm 1926, Truyền đã thành lập một tổ chức mới mang tên An Nam Độc Lập Đảng.[6] Việc ra đời của đảng dân tộc vào năm 1927 thì thường được xem như là bước khởi đầu cho việc phân chia giữa những người Việt quốc gia và thân cộng sản. Nhưng hiện tại đã có những bằng chứng rằng Truyền đã đi theo một chính sách dành cho các nước thuộc địa được QTCS chấp nhận, có thể nó được thực sự củng cố trong thời gian Bukharin còn nắm quyền trong Ban Chấp Hành QTCS. Chỉ thị của Jaques Doriot nhằm biến Thanh Niên trở thành một đảng quốc gia đại chúng là một ví dụ cho chính sách này; Chỉ thị tháng 9 của Hồ Chí Minh cũng là một dấu hiệu của việc các nhóm cộng sản thuộc địa được phép tồn tại bên trong những đảng cách mạng quốc gia. Ngay cả đến mùa đông năm 1929, những thành viên của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp vẫn còn tiếp tục thi hành chính sách này tại Algeria bằng cách tạo dựng một đảng dân tộc Algeria tên Ngôi Sao Bắc Phi (L'Étoile Nord-africanine - ND).[7]
An Nam Độc Lập Đảng có liên hệ mật thiết với chi nhánh ở Pháp do QTCS lãnh đạo mang tên Liên Đoàn Phản Đế. Nhóm này đã tổ chức đại hội đầu tiên vào tháng 2 1927. Trong một bản báo cáo của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp gửi cho QTCS vào tháng 3 1927, tác giả báo cáo có nhắc đến việc An Nam Độc Lập Đảng đang tạo dựng các chi bộ tại miền nam nước Pháp và dự định tổ chức đại hội vào mùa hè. "Chúng tôi sẽ tham gia vào các cuộc họp của nhóm này tại Paris nhằm giúp đỡ những hoạt động của họ một cách thực tế hơn," bản báo cáo viết.[8] Truyền, cùng với hai nhà hoạt động khác từ Việt Nam là nhà báo Trịnh Hưng Ngẫu thuộc đảng Jeune Annam và Dương Văn Giáo thuộc đảng Lập Hiến - đã tiến hành một cuộc hành trình diễn thuyết bằng tiếng Pháp vào tháng 10, trong đó họ kịch liệt lên án chính sách và thể chế của Pháp. Sở Liêm Phóng cho rằng những cuộc hội họp trên được tổ chức với sự đồng loã của ĐCS Pháp.[9] Nhưng cũng như Hồ, có lẽ Truyền cũng thấy được rằng làm việc với ĐCS Pháp trở nên khó khăn hơn nhiều sau khi Doriot bị bắt. Truyền trở về Việt Nam vào tháng 12. Đến mùa hè 1928 chính sách của QTCS về hoạt động của các nước thuộc địa càng trở nên phức tạp, nhưng mãi cho đến giữa năm 1929 QTCS mới dứt khoát thay đổi quan điểm của mình trong việc hợp tác với những người quốc gia phi cộng sản tại các nước thuộc địa.
Vào tháng 12 1927 Hồ chuyển từ Paris đến Brussels để tham dự một hội nghị, ông cho biết. Nhưng đó không phải, khác với mọi người thường viết, là Đại Hội lần 1 của Liên Đoàn Phản Đế vì nó đã xảy ra vào tháng 2 trước.[10] Có thể là ông đã tham dự một cuộc họp nội bộ của Ban Chấp Hành Liên Đoàn được tổ chức vào ngày 9 tháng 12 ở Brussels.[11] Từ trung tuần tháng 12 đến tháng 5 1928 ông ở tại Berlin để chờ đợi tiền và chỉ thị từ QTCS cho chuyến trở về châu Á của mình. Ông nhận 18 đồng Mark (mệnh giá tiền Đức - ND) mỗi tuần từ tổ chức Trợ Giúp Đỏ (Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS - tương tự như Hội Chữ Thập Đỏ - ND) để trang trải chi phí thường nhật nhưng không đủ để sống qua ngày, ông nói.[12] Trong thời gian bị bắt buộc ở đây, ông đã viết hồi ký về phong trào nông dân Quảng Châu, trong đó miêu tả Bành Bái như một vị anh hùng. Bài viết dài 120 trang, không mang tính chính trị và thống kê, chỉ quan tâm đến cuộc sống nông dân, ông giải thích. Nông Dân Quốc Tế đã từ chối nhận trách nhiệm hiệu đính cần thiết để xuất bản, nhưng một số tài liệu của Hồ đã lọt ra và được xuất bản.[13] Việc ông đã có những tiếp xúc nào với cộng đồng người Hoa tại Berlin thì không được rõ. Nhưng không có gì ngạc nhiên nếu ông đã trao đổi quan điểm với những người có liên hệ với Liên Đoàn Phản Đế vốn đã có cơ sở tại Berlin. Vợ của Tôn Dật Tiên là Tống Khánh Linh (Song Qing Ling - ND) đã đến Berlin vào cuối năm 1927 và dường như đã ở đấy cho đến cuối năm 1928 để thành lập một "Đệ Tam Đảng" cho Trung Quốc.[14] Trong lá thư đề ngày 21 tháng 5 gửi cho Moscow, Hồ thông báo cho các đầu mối rằng ông sẽ liên lạc với họ qua Comade Chutto, một người Ấn làm việc trong Liên Đoàn Phản Đế.[15] Vì thế có vẻ Liên Đoàn đã là một đầu mối tiếp xúc quan trọng của ông tại Berlin.
Trong mùa đông ấy, QTCS đang bận tâm với những vấn đề quan trọng bội phần hơn là về Hồ Chí Minh và chương trình di chuyển của ông. Leon Trotsky và 148 thành viên của nhón Đối Lập của ông đã bị trục xuất ra khỏi Moscow vào cuối tháng Giêng, sau Đại Hội thứ 15 của ĐCS Liên Xô. Trong trọn tháng 2 QTCS đang bận rộn với Hội Nghị Toàn Thể lần 9 của Ban Chấp Hành. Sau khi ra tù, trên đường tham dự Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS, Jaques Doriot ghé qua Berlin và đã hứa sẽ giải quyết "trở ngại" của Hồ. Nhưng mãi cho đến trung tuần tháng 4 Hồ vẫn không nhận được tin tức gì từ Moscow lẫn Doriot.[16] Nông Dân Quốc Tế cũng chẳng giúp được gì. Hồ đã yêu cầu họ giúp cho 500 Đô-la và một "kế hoạch tổ chức thiết thực để tôi có thể hoạt động một cách hữu ích."[17] Dombal không những từ chối cung cấp ngân quĩ mà còn nói rằng ông biết quá ít về tình hình nông dân ở Đông Dương để đưa ra một kế hoạch tổ chức chắn chắn. Ông khuyên Hồ nên dùng kinh nhiệm của mình về phong trào nông dân Trung Quốc để bắt đầu những bước căn bản để xây dựng những liên hiệp nông dân.[18] Vào ngày 12 tháng 4 Hồ viết thư cho Jules Humbert-Droz, một người cộng sản gốc Thụy Sĩ trong Ban Bí Thư QTCS, ban này chịu trách nhiệm về những vấn đề của những thuộc địa Pháp. Thư nói "đồng chí có thể mường tượng được tình trạng thể xác cũng như tinh thần của tôi lúc này: biết được còn rất nhiều việc phải làm nhưng lại không làm được gì cả, lo nghĩ, thiếu tiền, sống ngày qua ngày trong tình trạng bị ép buộc phải bất động, vân vân."[19] Cuối cùng Humbert-Droz đã bảo Hồ (bằng 2 mẫu ghi chú ngắn đề ngày 28 tháng 4) rằng quyết định về việc chi trả cho chuyến đi và ba tháng đầu làm việc đã được chấp nhận: "Số tiền chúng tôi gửi trong tương lai sẽ tuỳ thuộc vào tin tức từ đồng chí. Tôi nghĩ tốt hơn là đồng chí nên tìm cách tự lực cánh sinh hơn là chờ đợi giúp đỡ."[20]
Trong sự tiễn đưa thờ ơ ấy, Hồ Chí Minh đã quay lại châu Á vào cuối tháng 5, từ Thụy Sĩ sang Ý, và từ đó đi đường thuỷ đến Băng Cốc. Lúc ấy chắc hẳn ông đã biết được việc đàn áp phái Đối Lập Trotsky to Stalin khởi xướng bên trong ĐCS Liên Xô cũng như những khuynh hướng khác chống lại chính sách của Stalin bên trong QTCS. Ta có thể giả định rằng ông cũng đã được đọc những tài liệu của Đại Hội Toàn Thể thứ 9 Ban Chấp Hành QTCS được tổ chức vào tháng 2 1928, trong đó có một số nghị quyết về Trung Quốc. Những nghị quyết này đã nói rõ người Nga nghĩ rằng đã đến lúc các đồng chí Trung Quốc nên cẩn trọng hơn, nên dừng lại sau cố gắng khởi nghĩa đầy liều lĩnh vào cuối năm 1927 (dĩ nhiên là nó đã tiến hành dưới sự chỉ đạo của đại diện của QTCS là Lominadze và Neuman.) Hiện trạng của cách mạng Trung Quốc được cho là không mang đặc tính xã hội hoặc "cố định" như Lominadze đã nhận định một cách sai lầm, mà vẫn đang nằm trong giai đoạn "dân chủ tư sản". Đường hướng chiến lược cơ bản của ĐCS Trung Quốc là "sẵn sàng dùng bạo lực để dấy lên những làn sóng cách mạng mới". Nhưng nhiệm vụ hiện tại vẫn là "nắm được quần chúng công nhân và nông dân, giáo dục chính trị cho họ, tập hợp họ đi theo đảng và tuyên ngôn của đảng." Mặc dù một "nhiệm vụ chiến lược cấp bách" đã được giải thích như "tổ chức và hành động qua khởi nghĩa quần chúng vũ trang," lực lượng tiên phong của giai cấp công nông vẫn không được tách rời khỏi quần chúng và "coi nhẹ những cuộc nổi dậy".[21] Vì phong trào cách mạng Việt Nam chưa được phát triển như của Trung Quốc, có thể Hồ Chí Minh đã hiểu những nghị quyết hơi mâu thuẫn này như là như một xác nhận cho những chính sách riêng của mình: đào tạo và tổ chức chính trị một cách thận trọng.
Điều quan trọng mà ta nên lưu ý rằng Đại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn còn lênh đênh trên biển. Có thể ông đã không biết đến những tin tức chi tiết về kết quả của đại hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng chứng có được, dường như ông đã đi châu Á với hành trang không có gì ngoài những chỉ thị trong tháng 9 1927 để thực hiện công tác của mình.
Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần 6
Đến mùa hè 1928 việc đấu tố chống lại phái Trotskist đã làm xáo trộn QTCS và ĐCS Pháp. Nhưng một cuộc thanh trừng đẫm máu khác lại vừa bắt đầu. Trên thực tế, đến khi Đại Hội 15 ĐCS Liên Xô diễn ra vào cuối năm 1927, những người theo Stalin đã bắt đầu chỉ trích Bukharin là đã không quan tâm đến "những đe doạ của cánh hữu" trong QTCS.[22] Nhưng Stalin vẫn chưa sẵn sàng thanh toán những đồng minh cánh hữu của mình. Hai hệ thống điều hành chính sách đang hình thành tại Nga với Stalin đang tăng cường hoạt động thông qua những thành viên do ông chỉ định và những tổ chức như đoàn Komsomol để thi hành việc thu thập ngũ cốc cũng như những chính sách khác.[23] Đại Hội 6 QTCS, một hội nghị kéo dài từ ngày 12 tháng 7 mãi đến 1 tháng 9, đã phản ánh tình trạng hai hệ thống này. Đây là lúc bắt đầu cho sự chuyển đổi phương hướng của QTCS, một quá trình kéo dài trọn một năm cho đến Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 1929. Người ta thường cho rằng Cương Lĩnh và Luận Cương của Đại Hội 6 QTCS đã đánh dấu một thời kỳ mới cho phong trào cộng sản Việt Nam. Nhưng thật khó để thiết lập một mối liên hệ trực tiếp về nguyên nhân và hệ quả giữa Moscow và những sự kiện tại Việt Nam cho đến mùa thu năm 1929, hoặc ngay cả những chính sách cho những quốc gia thuộc địa thực sự là gì.
Vào mùa hè 1928 những người lãnh đạo ĐCS Trung Quốc đã tập trung tại Moscow, nơi Đại Hội 6 ĐCS Trung Quốc đang nhóm họp từ ngày 18 tháng 6 đến 11 tháng 7, trước thềm Đại Hội QTCS. Đại hội này được tổ chức dưới sự bảo trợ của Bukharin và đã thông qua những chính sách ôn hoà hơn để Trung Quốc trình bày trước Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9. Nhưng tính chất lưỡng hệ trong các chính sách của QTCS vào thời điểm này đã được phản ánh trong nghị quyết Đại Hội, đa số đều mang tính mập mờ và đôi khi mâu thuẫn. Bukharin cổ xuý cho một liên minh phản đế nhưng xem nhẹ thành phần tiểu tư sản. Khẩu hiệu: "chiến thắng mở màn tại một hay nhiều tỉnh" đã trở thành cái mà Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao - ND) gọi là "thần dược" (panacea - ND), một cách biện hộ cho chủ nghĩa manh động vào cuối năm 1927 mà không phải nói rằng cuộc cách mạng Trung Quốc đang ở lúc "cao trào".[24] Đại Hội đã bầu chọn một Bộ Chính Trị mới, dẫn đầu bởi Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa - ND). Những thành viên khác là Hạ Tế An (Qu Qiu Bai - ND), Chu Ân Lai, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm (Cai Hesen - ND), Lý Lập Tam (Li Li San - ND), Hạng Anh (Xiang Ying - ND). Ba thành viên của bộ chính trị mới đã quay về lại Trung Quốc trước Đại Hội QTCS là Hướng Trung Phát, Thái Hoà Sâm và Lý Lập Tam, những người này theo lời Trương Quốc Đào là có nhiệm vụ tổ chức đảng.[25] Những ảnh hưởng cá nhân của những nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc vừa quay về lại Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 1928, sau khi đại hội đảng của họ kết thúc và trước khi đại hội QTCS bắt đầu, có thể lúc đầu đã có nhiều tác động đến những người cộng sản Việt Nam hơn là bản thân Đại Hội 6 QTCS.
Mặc dù Đại Hội 6 QTCS thường được xem là một sự kiện quyết định mà từ đó đã cho ra những từ ngữ như "hành trình mới" và "vô sản hoá", thực ra nó chỉ là bước đầu của việc chuyển hướng tổ chức. Bukharin, vẫn là Tổng Bí Thư của QTCS, đã chiếm độc quyền trong việc soạn thảo và thông qua bản "Cương Lĩnh Chung của Đệ Tam Quốc Tế". Nhưng vị thế của ông đã bị yếu đi vì sự lũng đoạn của Stalin trong ĐCS Liên Xô - đến tháng 12 1928 ông đã từ chức trong QTCS mặc dù chưa chính thức bị cách quyền cho đến tháng 6 1929. Với vị thế của Bukharin trong QTCS, những đồng minh "cánh hữu" của ông trong các đảng châu Âu như Jules Humbert-Droz vẫn giữ được ảnh hưởng cho đến mùa đông.[26] Vì thế đến mùa hè 1928, QTCS vẫn phần nào hậu thuẫn cho chính sách hợp tác với tầng lớp dân chủ xã hội cánh tả và thiếu nhất trí trong việc phân tích một cách đúng đắn hiện trạng của chủ nghĩa tư bản thế giới. Đoàn đại biểu Liên Xô mà chủ yếu là những người theo Stalin, đã không hài lòng với "Đề Cương"của Bukharin, và "đã hiệu chỉnh nó nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng quốc tế của những kế hoạch kinh tế Xô Viết và những mâu thuẫn của sự ổn định tư bản cũng như tăng cường việc tấn công vào những người dân chủ xã hội cánh tả."[27] Dù vậy giọng điệu tận thế miêu tả "Giai Đoạn Thứ Ba" về diễn biến của chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh cũng không được mạnh mẽ mấy khi nó được đưa ra trong Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào năm 1929. Tại Đại Hội 6, Bukharin đã miêu tả Giai Đoạn Thứ Ba như một "ổn định của chủ nghĩa tư bản" mà cuối cùng sẽ trở thành một khủng hoảng mới của chủ nghĩa này.[28] Đến mùa hè 1929, Otto Kuusinen đã báo cáo lên Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 rằng "hiện đã hoàn toàn thống nhất trong việc nhận định về Giai Đoạn Thứ Ba như là một thời kỳ tan rã của sự ổn định của chủ nghĩa tư bản và hơn nữa - cũng là giai đoạn chín muồi của một cao trào cách mạng mới."[29]
Kuusinen, một nhà cộng sản lão thành người Phần Lan, là người đứng đầu Uỷ Ban Thuộc Địa tại Đại Hội và được giao trách nhiệm lãnh đạo Ban Bí Thư Cục Đông Phương khi Đại Hội bế mạc. Ông đã trở thành một trong những người điều hành của QTCS ở phương Đông. Nhưng chính Cương Lĩnh Chung của Bukharin là văn bản súc tích nhất về chính sách của Đệ Tam Quốc Tế đối với các nước thuộc địa. Cương lĩnh đã liệt kê tám nhiệm vụ chính:
(1) Lật đổ chủ nghĩa tư bản ngoại bang, chế độ phong kiến và tầng lớp địa chủ;
(2) Thành lập nền chuyên chính dân chủ của giai cấp công nông trên nền tảng của chính quyền xô viết;
(3) Tiến tới độc lập nước nhà và thống nhất chính trị;
(4) Huỷ bỏ nợ quốc gia;
(5) Quốc hữu hoá những cơ sở kinh doanh lớn của giai cấp tư bản (trong những ngành công nghiệp, giao thông, ngân hàng, vân vân);
(6) Sung công tài sản của những đại địa chủ, nhà thờ và tu viện, quốc hữu hoá toàn thể đất đai;
(7) Thực hiện chính sách ngày làm tám tiếng; và
(8) Thành lập quân đội cách mạng công nông.[30]
Trong nội bộ Uỷ Ban Thuộc Địa, cố gắng của Kuusinen nhằm thiết lập một chính sách chi tiết hơn cho "những nước thuộc địa và bán thuộc địa" đã gặp phải một chống đối khá mạnh. Các đại biểu không hiểu được cách thức phân chia các nước thuộc địa ra 4 thành phần khác nhau của ông cũng như sự thiếu rõ ràng về chiến lược đối với những nước lạc hậu hơn.[31] (Việc phân loại này đã bị huỷ bỏ trong văn bản chính thức của luận cương.) Trong bài phát biểu bế mạc của mình vào ngày 21 tháng 8, Kuusinen đã thú nhận rằng trong Luận Cương của mình, đoạn nói về "những tiến triển phi tư bản cho những nước thuộc địa lạc hậu" đã thiếu những luận chứng cần thiết. (ông cũng nhắc là Luận Cương 1920 của Lenin cũng thiếu luận chứng về phần này.) Ông đề nghị vào thời điểm này, thời điểm của "hướng đi riêng" đến chủ nghĩa cộng sản, nên được sự quan tâm đặc biệt từ uỷ ban soạn thảo, uỷ ban này vẫn chưa bắt đầu làm việc.[32] Trong những nhận xét về hoạt động của uỷ ban soạn thảo, ông có nhắc đến bản Luận Cương trong phần đề cập đến những vấn đề chiến lược hiện nay chỉ được áp dụng cho một nhóm các nước thuộc địa sau: Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập và Nam Dương - "chắc chắn là những quốc gia thuộc địa quan trọng nhất", theo như ông nói.[33]
Luận Cương cho các Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa đã không được xuất bản trên tờ Inprecor (viết tắt của International Press Correspondence, một tạp chí cộng sản đa ngôn ngữ của QTCS - ND) vào cuối năm 1928, không như những nghị quyết và luận cương khác của Đại Hội; cuối cùng nó được in thành tập sách mỏng với 96 trang bằng tiếng Nga đề năm 1928 nhưng không rõ chính xác là khi nào.[34] Trong văn bản chính thức, luận cương giữ nguyên quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là một lực lượng rệu rã, không có một vai trò tiến bộ trong tương lai, ngay cả trong những nước thuộc địa. Một bài viết ngắn với quan điểm đối lập của đoàn đại biểu Anh gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa đã được xuất bản vào ngày 27 tháng 12 1928.[35] Thành viên người Ý Angelo Tasca (Serra), người đứng đầu Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Roman trong một thời gian ngắn tại Đại Hội 6 cũng không mấy hài lòng. Ông đã viết cho Kuusinen vào tháng Giêng 1929 than phiền về Luận Cương. "Chúng không hoàn toàn là một luận cương chính trị hay là một cương lĩnh hành động, trong cả hai trường hợp chúng đều không đầy đủ. Tôi không biết là ĐCS Pháp đã can dự nhiều vào việc soạn thảo hay không..."[36] Đến tháng 7 Tasca liền bị đưa ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo của QTCS. Jacques Doriot, người khởi xướng mặt trận thống nhất tại Việt Nam, để giữ được chức vụ của mình trong ĐCS Pháp, đã phải công khai từ bỏ quan điểm của mình về việc hợp tác với phái dân chủ xã hội.[37] Khó khăn trong việc tìm ra ý kiến thống nhất về đường hướng đúng đắn cho các quốc gia thuộc địa là dấu hiệu cho tình trạng tồi tệ chung của guồng máy QTCS trong giai đoạn cuối năm 1928. Vào tháng 11 Andres Nin, một đảng viên cộng sản Tây Ban Nha, đã bộc lộ trong một mẫu thư gửi cho Trotsky: "Tình trạng QTCS đang vô cùng lộn xộn. Chẳng có việc gì hoàn tất. Mọi người đều ngóng chờ kết quả của trận đấu đá giữa Stalin và cánh hữu. Một sự băng hoại hoàn toàn," ông than phiền.[38]
Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Đại Hội 6 gồm ba người do ĐCS Pháp lựa chọn từ những nhà hoạt động ở Paris. Một trong ba người ấy là Nguyễn Thế Vinh, họ hàng với Nguyễn Thế Truyền. Ông đã theo học tại Moscow từ tháng 9 1926 đến tháng 11 1927 nhưng đã rời khỏi đây vì lí do sức khoẻ.[39] Người thứ hai là một một thuỷ thủ Bắc Kỳ có gọi là "Ban", người này không lâu sau Đại Hội đã rời bỏ đảng.[40] Người thứ ba là Nguyễn Văn Tạo, một người miền Nam và là thành viên của ĐCS Pháp, ông đã thành lập một tổ chức cộng sản người Việt tại Paris vào tháng 4 1928.[41] Ông đã đọc một bài diễn văn gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa vào ngày 17 tháng 8 với bí danh là "An".[42] Phân tích của ông về chủ nghĩa thực dân Pháp cũng gần giống với quan điểm của Kuusinen về sự phát triển của hệ thống thuộc địa tại Ấn Độ: ngành tiểu công nghiệp của Việt Nam đã bị phá huỷ bởi sự cạnh tranh giữa các công ty nằm trong tay của tư sản bản xứ và đế quốc; những người thợ thủ công đang gia nhập giai cấp vô sản trên đà lớn mạnh; sản lượng nông nghiệp bị đình trệ. Báo cáo của ông không hề nhắc đến việc đào tạo những nhà hoạt động người Việt tại Quảng Châu hoặc việc thành lập Thanh Niên Hội. Vì lý do này nên rất có thể Hồ Chí Minh đã không phải là người soạn thảo bài phát biểu của Tạo, theo phỏng đoán của Sở Liêm Phóng sau này. Một nhóm khác bao gồm những người Việt tương đối kinh nghiệm tại Nga trong thời gian giữa năm 1928 trong đó có Trần Phú, Ngô Đức Trì và Lê Hồng Phong. Hình như họ chỉ tham gia Đại Hội với tư cách quan sát viên. Ta không rõ lý do tại sao họ không được là thành viên của đoàn đại biểu chính thức. Hai trong số ba đại biểu từ Paris hình như đã trở thành những người "không được chào đón" (nguyên văn Latin: Peronae Non Gratae - ND). Sau đó vào năm 1930, một lá thư đầy bất bình của một nhà hoạt động người Việt có trụ sở tại Paris được gửi đến Ban Bí Thư Đông Phương có nhắc đến việc một đại biểu của đoàn Việt Nam tại đại hội đã phê phán hoạt động của Uỷ Ban Thuộc Địa trong ĐCS Pháp, hai đại biểu (có lẻ là Nguyễn Thế Vinh và Ban) đã được đưa vé tàu quay về Pháp ngay ngày hôm sau.[44] Vào tháng 9 1928 một quá trình tái tổ chức trong QTCS lại một lần nữa chuyển giao phần trách nhiệm Đông Dương lại cho Phân Bộ Trung Đông, một chi nhánh của Đông Phương Cục bao gồm cả Ấn Độ và Nam Dương.[45] Vì thế, dù ĐCS Pháp và Uỷ Ban Thuộc Địa của đảng này vẫn tiếp tục được cho là có trách nhiệm trong phong trào Việt Nam, trên lý thuyết thì nguồn hướng dẫn tư tưởng chính thống giờ đây đã thuộc về Ban Bí Thư Cục Đông Phương do Kuusinen đứng đầu.
Tại Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đã có dịp công bố một cách có hệ thống hơn về những chiến lược trong buổi khai mạc đại hội vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin, người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá nội bộ của ĐCS Liên Xô, đang dùng QTCS để biểu lộ phong cách lãnh đạo mới của mình. Trong báo cáo này mà sau đó đã được in với đầu đề Tình Hình Quốc Tế và Những Nhiệm Vụ của Quốc Tế Cộng Sản, Kuusinen kêu gọi các đảng cộng sản nên trở thành "hoá chất tinh khiết", để sẵn sàng cho "trận chiến quyết định quyền lực".[46] "Nếu không gột rửa mình khỏi những phần tử cơ hội cũng như vượt qua được mong muốn hàn gắn quan hệ với chúng, các đảng cộng sản sẽ không thể đạt được thành công để tiến đến giải quyết những khó khăn mới, lớn dậy từ sự tôi luyện của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại mới của phong trào công nhân," ông tuyên bố.[47] Thành viên của bất cứ đảng cộng sản nào không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ.[48] Giờ thì không còn những lập lờ về chiến lược của mặt trận thống nhất - M.N. Roy, thành viên cộng sản người Ấn, người tin tưởng vào một mặt trận thống nhất với những người Ấn Độ quốc gia, đã bị lên án.[49] Trong phần kết luận đầy phấn khích, Kuusinen tuyên bố rằng "Con đường hiện tại của Quốc Tế Cộng Sản là một con đường mới, nhưng nó cũng là con đường cũ. Ba phần tư thế kỷ trước, Marx đã tuyên khởi khẩu hiệu hiện thời của chúng ta "Giai cấp chống lại giai cấp" trong lời hiệu triệu cho cuộc cách mạng đấu tranh giai cấp của ông. Đây là hướng đi mới của chúng ta."[50]
Đại Hội Mở Rộng lần thứ 10 đã không chú ý nhiều đến việc điều chỉnh chi tiết hơn về những hướng dẫn cho các quốc gia thuộc địa đang trong những hoàn cảnh phát triển khác nhau. Cách mạng thế giới, một cuộc cách mạng thuần tuý cộng sản, đã được xem như như là một lực lượng khổng lồ đang chiến đấu cho giai cấp vô sản trên toàn địa cầu. Kuusinen đã hưng phấn tột bật trong khả năng hùng biện của mình:"Nhìn lại những cuộc đấu tranh toàn cục đã xảy ra trong một thời gian ngắn kể từ Hội Nghị Thế Giới lần 6, ta có thể nói rằng: đội quân thế giới của những chiến sĩ giai cấp tích cực đang phát triển nhanh chóng. Những người thợ mỏ ở vùng Ruhr (một khu vực ở Đức - ND) và Scotland, những người thợ dệt ở Balan và Pháp, những chiến sĩ tại phòng tuyến Berlin, những người biểu tình và đình công ở Bombay, những phu đồn điền ở Columbia, những người khởi nghĩa da đen ở Congo, những nông dân đang đình công tại Czechoslovakia và Balan, những công nhân cách mạng và du kích bần nông tại Trung Quốc, những nhà tranh đấu người Ma Rốc và hàng trăm nghìn người khác - đây là một đạo quân tích cực khổng lồ."[51] Thảo luận của Kuusinen về đấu tranh quần chúng là dấu hiệu của những gì sẽ xảy ra tại Việt Nam trong vài năm tới. "Trong giai đoạn hiện tại, điểm xuất phát của đấu tranh quần chúng là những quyền lợi tiên khởi và thường nhật của nhân dân", ông nói. "Chúng ta phải lưu ý điều này trong những chiến lược của mình. Nhưng cuộc đấu tranh hiện nay không chỉ giới hạn trong những đòi hỏi cấp bách và cục bộ này - nó có chiều hướng mạnh mẽ và rõ ràng để đi xa hơn nữa.[52]
Hồ Chí Minh đặt chân đến Xiêm vào lúc QTCS đang bắt đầu chuyển sang các chính sách có tính chất giai cấp mạnh mẽ hơn vào mùa hè 1928. Vì ông không có bất cứ báo cáo nào gửi cho QTCS trong khoảng 16 tháng ở Xiêm, từ tháng 7 1928 đến tháng 11 1929, chúng ta nắm được thông tin trong giai đoạn này nhờ vào một số hồi ký của những đảng viên cộng sản kì cựu và trong cuốn sách của Trần Dân Tiên, được cho là tự truyện của Hồ. Hình ảnh của một nhà chính trị lưu vong bị quên lãng rút ra từ những lá thư của ông đã biến thành một nhà hiền triết khổ hạnh bí mật, băng rừng đến từng bản làng. Mặc dù lúc ấy ông độ khoảng 35 - 36 tuổi nhưng trong sách Trần Dân Tiên ông được gọi là "ông già Chín" và luôn đi trước cảnh sát một bước. Tiên đã viết rằng có lúc Hồ phải gia nhập một tu viện Phật Giáo để tránh sự truy lùng của mật thám Pháp.[53] Việc này hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng nó đã không được nói đến trong bất cứ hồi ký của người Việt nào đề cập về thời gian Hồ ở Xiêm.
Việc thiếu tài liệu thông tin trong thời gian này thật vô cùng thất vọng, vì người ta cho rằng Hồ Chí Minh đã hoạt động nhiều hơn là chỉ thành lập các hội tương tế, đóng vai già làng hoặc dựng trường học. Âm vọng về những thay đổi trong đường lối của QTCS đã lan đến Trung Quốc, Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á vào mùa thu 1928, nhưng chúng ta không biết gì nhiều từ những hồi ký có được rằng nó đã có ảnh hưởng ra sao đến miền Bắc Thái Lan. Những người biết được danh tính thật của ông thì chỉ có vài học viên Thanh Niên mà ông đào tạo tại Quảng Châu và Cao Hoài Nghĩa, một cựu thuỷ thủ và cũng có lẽ là một thành viên trong nhóm của Hồ tại Quảng Châu.[54] Đến năm 1929 tin đồn lan đến châu Âu rằng ông đã bị bắt.[55] Thành phần lãnh đạo của Thanh Niên tại Quảng Châu cho là ông vẫn còn ở Moscow.[56] Không rõ việc này đơn giản chỉ là thói quen giữ bí mật tài tình của ông hay vì một lý do đặc biệt nào đó mà ông phải nằm im chờ đợi. Ta có thể đoán rằng ông đang đợi chờ cho những đợt cuồng phong chống những người Trotskyist lắng xuống. (Mặc dù khó có thể cho ông là một phần tử Trotskyist, nhưng trong nội bộ ĐCS Pháp, ông đã từng tiếp xúc với Doriot, người được cho là thân Trotskyist.) Cũng có thể ông sợ bị tố giác bởi những người Việt không theo cộng sản mà ông đã có liên hệ khi còn ở miền nam Trung Quốc; hoặc có thể ông đang nghi ngờ Lâm Đức Thụ là một chỉ điểm của Pháp.
Đi bộ từ thị trấn trung tâm Phichit, Hồ đến Udon, một trong những tâm điểm của cộng đồng người Việt hải ngoại, vào tháng 8 1928, theo hồi ký của Hoàng Văn Hoan.[57] Căn cứ vào những gì rút ra được từ hồi Ký của Hoan và những người khác trong thời điểm này, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất cẩn trọng, thu thập tin tức về tình hình địa phương, giúp tổ chức và xây dựng trường lớp đào tạo thanh niên Việt Nam tại một ngôi làng ngoại ô Udon.[58] Hoan viết rằng sau khi ở lại Udon, Hồ chuyển đến Nakhon Phanom bên dòng Mekong.[59] Võ Mai, một thành viên của Thanh Niên vùng Nghệ An, trong năm 1931 đã khai với người thẩm cung mình rằng ông đã đưa tám học viên từ Vinh đến Lakhon (tên cũ của vùng Nakhon Phanom) vào tháng 10 1928. Ông ở lại với họ trong khoá học dài 3 tháng rồi dẫn họ về lại Vinh vào thánh 12. Lời khai của Võ Mai không nhắc đến sự hiện diện của Hồ Chí Minh tại Xiêm, nhưng thời điểm của nó cho thấy chuyến đi có thể có liên hệ với việc Hồ có mặt tại đây. Võ Mai, một liên lạc viên đã làm việc chung với Thanh Niên Kỳ Bộ tại Trung Phần Việt Nam, có thể đã đem sang nhiều tin tức quan trọng về tình hình trong nước.[60]
Phương cách tổ chức phong trào tại nông thôn của Hồ làm ta liên tưởng đến phương pháp của Bành Bái tại Quảng Đông trong thời kỳ mặt trận thống nhất với Quốc Dân Đảng. Đến khi Hồ đặt chân đến Xiêm, những phương pháp này đã được đưa vào thực hành bởi những thành viên Thanh Niên như Hoàng Văn Hoan, người đã đến miền bắc Xiêm vào tháng 6 1928. Trọng tâm của phong trào là những trường "cấp tiến" mà các nhà hoạt động đã thành lập tại các vùng nông thôn. Trong những trường này các học viên trẻ được tiếp cận với những ý tưởng chính trị hiện đại và rèn luyện thân thể, ngoài ra họ còn tự sản xuất lương thực và nếu dư thừa thì dùng để trả lương cho giáo viên. Vào tháng 2 1930, khi Hồ báo cáo những hoạt động của mình cho QTCS, ông cho biết Thanh Niên đã thành lập được 3 trường đào tạo và đang xây dựng ngôi trường thứ tư.[61] Trong cùng bản báo cáo, ông đã giải thích rằng những người Việt cư ngụ tại Xiêm là những "nông dân tự do, thợ thủ công, tiểu thương, họ có thể được đưa vào những hội "ái hữu" với những tư tưởng yêu nước và phản đế."[62] Ông đề nghị những nhà hoạt động Việt Nam nên đổi tên tờ báo địa phương của họ từ "Đồng Thanh" sang "Thân Ái", với hàm ý hướng về một hình thức tổ chức rộng mở hơn.[63] Dường như không có giai cấp bần cố nông trong thành phần người Việt tại Xiêm để ông quan tâm. Vào cuối năm 1929, việc nhấn mạnh "tư tưởng yêu nước" bị cho là thành phần cách tân nguy hiểm. Nhưng có lẻ Hồ đã không được thông báo về việc thay đổi xu hướng trong phong trào cộng sản thế giới cho đến mùa hè 1929, khi hai đại biểu người Việt ở Xiêm trở về từ Hội Nghị Thanh Niên lần thứ nhất được tổ chức tại Hồng Kông vào tháng 5.
Những hồi ký có được thì thiếu những chi tiết về hoạt động của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1928 đến tháng 11 1929, khi ông rời Xiêm đi Hồng Kông. Võ Mai đã không báo cáo thêm những chuyến đi vượt Lào qua Xiêm sau tháng 12 1928. Hoàng Văn Hoan cho chúng ta biết rằng Hồ đang bận rộn với việc chuyển ngữ những luận thuyết cộng sản từ tiếng Hoa sang tiếng Việt dễ hiểu và họ thường làm việc chung trong công tác dịch thuật này. Nhưng ông viết những việc này đã xảy ra vào cuối của năm 1928. Tại Sakho, Hồ được cho là đã soạn thảo một bản trường ca về Trần Hưng Đạo, một anh hùng dân tộc của thế kỷ 13 mà người Việt địa phương tôn thờ như thần thánh. Hồi ký của Đặng Văn Cáp cho biết rằng Hồ lúc đó đã học được nghề thuốc Đông y để giúp chữa bệnh cho dân địa phương.[64] (Có lẽ ông đã tìm cách chữa chạy chứng lao phổi của mình, vì sau này ông có kể với một đồng nghiệp người Việt tại Hồng Kông là ông đã bị bệnh hơn một năm ở Thái Lan, và đã "không thể làm được bất cứ việc gì".)[65] Hồ đã báo cáo với QTCS là ông đã qua Lào một thời gian ngắn để gặp gỡ những Việt kiều nhưng đã hai lần từ bỏ việc vượt biên sang Việt Nam vì mật độ cảnh sát quá nhiều tại biên giới.[66] Theo Lê Mạnh Trinh, vào khoảng tháng 6 1929 ông đã sang Bangkok để thăm hỏi một số nhà "cựu cách mạng".[67]
Một số sử gia người Việt tin rằng Hồ đã nối lại liên lạc với thân phụ của ông trong những năm 1928 và 1929 qua sự môi giới của người vợ goá của Lương Ngọc Can, người này có nhà ở Phnom Penh và làm công tác liên lạc giữa cộng sản và những người Việt quốc gia.[68] Từ mùa xuân 1928 cho đến khi ông qua đời vào tháng 11 1929, Nguyễn Sinh Huy (tức Nguyễn Sinh Sắc) sống tại làng Hoà An gần Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc. Người Pháp tin rằng Huy đi lại như một thầy thuốc Đông y lưu động để giữ liên lạc với những cơ sở hoạt động ở miền Nam. Tuy nhiên đã không có bằng chứng về những tiếp xúc trực tiếp giữa hai cha con, mặc dù Huy thường xuyên viết thư cho vợ goá của Can vào mùa xuân 1928 với hy vọng là bà có tin tức gì đặc biệt cho ông.[69] Khi ông còn làm việc tại Xiêm, Hồ được cho rằng đã gửi hai người gốc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đang sống tại Xiêm sang công tác ở Cambodia.[70] Rất có thể là Hồ không những đã liên lạc với thân phụ mình qua ngõ Phnom Penh mà còn với những thành viên Thanh Niên đang thành lập một ngôi trường cấp tiến tại thị trấn Sa Đéc. Những người này bao gồm Châu Văn Liêm, Hà Huy Giáp và Phạm Văn Đồng, theo lời Trần Văn Diep, một học viên Quảng Châu người gốc Cần Thơ đang giảng dạy tại đó.[71] Đa số những người nhóm này trở thành thành viên của thành phần cộng sản trung thành với nhóm lãnh đạo Quảng Châu và Hồ Chí Minh, đó là An Nam Cộng Sản Đảng, vào mùa thu năm 1929.
Sự phát triển của Thanh Niên
Trong khi Hồ Chí Minh đang âm thầm hoạt động tại Xiêm và trong khi QTCS đang chỉnh đốn hướng đi tại Moscow, phong trào cách mạng ở miền Nam Trung Quốc và Việt Nam đang tự mình tiến triển. Trong khoảng cuối năm 1928 một nhóm khoảng 24 người Việt Nam đang giảng dạy và học tập tại Hoàng Phố - những người đã từng bị bắt giữ vào tháng 12 1927 và đã được thả tự do.[72] Cho đến giữa năm 1928 những Kỳ Bộ của Thanh Niên đã được thiết lập trên cả ba miền Việt Nam.[73] Vào tháng 2, Tổng Bộ Quảng Châu đề cử các thành viên sau cho Kỳ Bộ Trung Kỳ: Vương Thúc Oánh, Nguyễn Thiệu và Nguyễn Sĩ Sách. Vào tháng 6, lãnh đạo Quảng Châu bổ nhiệm Lê Văn Phát đứng đầu Kỳ Bộ Nam Kỳ, lúc này gồm có Nguyễn Kim Cương, Châu Văn Liêm và có thể cả Ngô Thiêm.[74] Phát là một thầy thuốc nam gốc Bến Tre vừa về từ Quảng Châu, nơi ông đã bị giam giữ sau khởi nghĩa tháng Chạp. Kỳ Bộ Bắc Kỳ được thành lập vào tháng 7 1928, bao gồm Dương Hạc Đính, Trịnh Đình Cửu và có thể cả Nguyễn Danh Đới,[75] dưới quyền lãnh đạo của Trần Văn Cung, khi ông này quay về từ Quảng Châu vào đầu năm 1929. Thông tin tìm thấy trong văn khố Pháp về những hoạt động của giới lãnh đạo Thanh Niên tại Quảng Châu trong thời kỳ này thì tương đối ít nên không thể biết chắc được ai là người đóng vai trò chủ đạo trong việc phân nhiệm các thành viên về các Kỳ Bộ tại Việt Nam.
Vào tháng 6 1928, nỗ lực cuối cùng nhằm thống nhất Cách Mạng Đảng với Thanh Niên bị thất bại. Sau đó Cách Mạng Đảng đã tổ chức đại hội ở Huế, tại đây đảng này đã đổi tên thành Tân Việt. Những lãnh đạo được bầu ra tại Đại Hội là Phan Đăng Lưu, Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) và Nguyễn Chí Diểu mà sau này đã trở thành những lãnh đạo của đảng cộng sản tại Trung Kỳ trong thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ vào cuối thập niên 30.[76] Võ Nguyên Giáp, một học sinh trường Quốc Học Huế, cũng có thể đã tham gia trong Đại Hội. Đảng Tân Việt, cũng như Thanh Niên và Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã bắt đầu tổ chức vận động phụ nữ trong thời gian này. Nguyễn Thị Minh Khai, một học sinh từ Vinh, đã được bầu làm lãnh đạo của phân hội phụ nữ. Sau này bà cho biết vào năm 1928, phân hội của bà có 50 thành viên trong đó có một tiểu tổ 20 người tại nhà máy diêm ở Vinh và một tiểu tổ khác với 15 người tại một xưởng gỗ.[77] Việc tổ chức công đoàn cũng được phát triển mạnh tại Đông Dương vào năm 1928.[78] Hà Huy Tập đã viết rằng một cuộc bãi công đã tổ chức thành công tại đồn điền mía Phú Mỹ ở Bà Rịa vào tháng 6 và tháng 7. Chính bản thân ông đã đi làm phu đồn điền vào tháng 9 1928. Ông nhớ lại cuộc đình công vào tháng 8 của công nhân hoả xa Biên Hoà và đình công khác tại nhà máy dầu Nhà Bè. Ông cho rằng những hoạt động này là do những người cộng sản (ông không nêu tên) tổ chức.[79]
Vào ngày 28 và 29 tháng 9 1928 Kỳ Bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên được cho là đã họp mặt gần Hà Nội để thảo luận phương hướng nhằm "vô sản hoá" đảng. Theo một nguồn tài liệu của Việt Nam, cuộc họp này, đôi khi được cho là một đại hội, đã được tổ chức tại nhà riêng của Ngô Gia Tự tại làng Liên Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.[80] Nó được biết như là "Hội Nghị Tái Tổ Chức", tài liệu cho biết. Kỳ Bộ đã nhận thấy thành viên của họ đa số là học sinh và giáo viên và thống nhất rằng trong tương lai nền tảng của phong trào sẽ phải là giai cấp lao động. Họ quyết định tăng cường công tác tuyên truyền trong hàng ngũ công nhân mỏ và các xí nghiệp; gửi thành viên đến làm việc trong các khu mỏ, nhà máy và đồn điền, và dùng "mọi phương tiện hợp pháp để tổ chức quần chúng một cách rộng rãi."[81] Hai thành viên của Thanh Niên là Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh được phân công tổ chức tuyên truyền trong hàng ngũ công nhân. Họ cũng có nhiệm vụ trông coi việc chuyển hoá thành phần học sinh tiểu tư sản và con em của giới trí thức đang chiếm đại đa số trong Thanh Niên sang thành phần vô sản. Những thành viên Thanh Niên nào không thay đổi theo đòi hỏi mới sẽ bị đào thải khỏi tổ chức. Thành phần này bao gồm những thành viên tư sản được "nuông chiều", những người không có phong thái cách mạng, không chịu được gian khổ và thiếu đạo đức. Vào tháng 3 1929 Kỳ Bộ Bắc Kỳ theo đuổi con đường tả khuynh bằng cách thành lập một cuộc họp mà họ gọi là tổ chức cộng sản đầu tiên tại Việt Nam. Những người tham dự cuộc họp tại số 5-D đường Hàm Long, Hà Nội gồm có Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh và Trần Văn Cung (Quốc Anh) từ Nghệ An, người này như ta đã biết, vào đầu năm 1929 đã từ Quảng Châu về lại Bắc Kỳ để nắm Kỳ Bộ.[82] Đây chính là nhóm người ở lại Quảng Châu sau khi Hồ Chí Minh đã đi khỏi nơi này trong thời kỳ khởi nghĩa 1927. Trần Văn Cung được cho là đã tham gia trong cuộc Khởi Nghĩa Quảng Châu.[83] Những hoạt động của họ từ tháng 9 năm 1928 đến cuối năm 1929 cho thấy họ đã mất tin tưởng vào giới lãnh đạo của Thanh Niên ở Quảng Châu. Câu hỏi đặt ra là họ đang theo đuổi tư tưởng nào trong giai đoạn này. Mặc dù cuộc họp vào tháng 9 1928 có thể là một phản ứng đối với Đại Hội 6 QTCS, nhưng có lẻ quá sớm để họ nhận thức thấu đáo cương lĩnh của Đại Hội, nhất là vẫn không có một sự nhất trí về việc áp dụng cương lĩnh như thế nào trong những nước thuộc địa.
Tin tức về những sự kiện trong năm 1928 ở Moscow - Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9 và Đại Hội 6 của ĐCS Trung Quốc và QTCS trong mùa hè - có thể đã lọt về đến châu Á vào mùa thu năm đó. Những báo cáo không chính thức của những người Việt tại Moscow và của Nguyễn Văn Tạo tại Paris có thể đã đánh động Thanh Niên rằng sẽ có những thay đổi sắp đến. Nhưng chắc hẳn những chỉ thị cụ thể cho Đông Dương của QTCS đã không đến được các nhà cách mạng Việt Nam trước mùa xuân mà vào mùa thu năm 1929. Lúc đó thì Luận Cương về Các Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa của Kuusinen chắc hẳn đã được in ra bằng tiếng Nga, và "Cương Lĩnh Chung" của Bukharin có thể đã được biết đến qua tờ Inprecor và những tờ báo cộng sản khác. Nhưng ta cần nên nhớ rằng, dù vậy bản thảo Luận Cương của Kuusinen mãi đến ngày 4 tháng 10 1928 mới được in trên Inprecor; bài phát biểu của "An" về Việt Nam đến 25 tháng 10 mới xuất hiện trên báo này. ĐCS Pháp đã không bắt đầu thực thi chính sách "Con Đường Mới" cho đến sau Đại Hội 6 của đảng này, được tổ chức vào tháng 4 1929. Trong một bài báo ngày 21 tháng 4 1929 trên tờ Nhân Đạo, Maurice Thorez đã viết rằng đảng này đang bước vào "một giai đoạn chấn chỉnh mang tính quyết định" và một cuộc đấu tranh quan trọng chống lại "chủ nghĩa cơ hội".
Sự phát triển của lực lượng cánh tả Trung Quốc
Từ những hồ sơ lưu trữ của QTCS về Trung Quốc ta có thể thấy trong suốt năm 1928 Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc muốn theo đuổi một chính sách vũ trang mạnh mẽ hơn của QTCS trong hiện tình cách mạng Trung Quốc. Ví dụ như một tuyên bố vào tháng 5 1928 của Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc đã phê phán Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9 vào tháng 2 năm ấy. Tuyên bố nhấn mạnh rằng "cao trào cách mạng" vẫn đang tiếp diễn và nghị quyết của QTCS đã "đề cập quá ít về sự thiếu sót của viễn cảnh cho sự ổn định kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị" ở Trung Quốc.[84] Cục Viễn Đông thuộc Ban Chấp Hành QTCS, được thành lập ở Thượng Hải vào năm 1926 để hướng dẫn những đảng cộng sản châu Á, đã thuyên giảm xuống còn một nhóm cốt cán ít ỏi trong thời kỳ này và đã không nắm lại vai trò chỉ đạo hoàn toàn cho đến mùa xuân 1929.[85] Đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy hay OMS) thuộc QTCS là A.E. Albrecht (Abramovich), lãnh hai trách nhiệm: phân bổ ngân sách và đại diện chính trị trong thời kỳ gián đoạn này. Vào thượng tuần tháng 6 1928, từ Thượng Hải Albrecht đã viết thư cho Moscow than phiền về "tính manh động" trong ĐCS Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển đến các vùng nông thôn. Ở miền nam các tỉnh Hồ Nam, Sơn Tây và phía bắc Quảng Đông, quân đội vẫn tiếp tục giao tranh. Nhưng nó đã xa rời quần chúng và hành xử như "một nhóm thổ phỉ". Albrecht quy trách nhiệm cho đồng nghiệp của mình, một đại diện QTCS tên Mitkevich (còn có tên là Olga), là đã gieo rắc tinh thần manh động trong ĐCS Trung Quốc.[86] Nhưng bản thân Mitkevich cũng đã phê phán những hành động thái quá của Xô Viết Hải-Lục-Phong: ví dụ như mệnh lệnh bắt tất cả nhà cửa phải được sơn đỏ, và "chủ trương tàn phá các huyện lỵ (là trung tâm quyền lực của giới địa chủ và quý tộc)".[87]
Mặc dù Albrecht báo cáo việc người Nhật can thiệp vào Tế Nam (Jinan - ND) đã dẫn đến việc "đẩy mạnh phong trào quần chúng tại thành thị", nhưng trọng tâm của ĐCS Trung Quốc đã hướng về vùng nông thôn. Các toán quân cộng sản do Chu Đức (Zhang De - ND) và Trần Nghị (Chen Yi - ND) chỉ huy đã kết hợp với lực lượng của Mao Trạch Đông tại vùng biên giới Hồ Nam - Giang Tây vào tháng 4 1928 để tạo thành một vùng cơ sở nông thôn. Sau thất bại của Xô Viết Hải-Lục-Phong vào tháng 3, một số người tham gia đã rút vào vùng núi non phía đông Quảng Đông, trong khi một số khác có thể đã quay về Quảng Châu và hoà nhập với quân đội Quốc Dân Đảng. Những người còn lại hoà chung với làn sóng tị nạn đang dồn lên trong năm 1927 hướng về những cộng đồng người Hoa ở Nam Dương.[88] Làn sóng của tầng lớp lao động Trung Quốc đổ về khu vực Đông Nam Á rõ ràng là đã thúc đẩy việc thành lập Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương và từ đấy đã củng cố ảnh hưởng của uỷ ban này đối với phong trào cộng sản Việt Nam. Bộ Ngoại Giao Pháp đã báo cáo rằng cho đến năm 1927 tại Sài Gòn, Chợ Lớn và Phnom Penh đã có một "con số đáng kể của người Hoa" trong thành phần cu-li và phu bến tàu. Tại Bắc Kỳ người Hoa có mặt rất đông ở "một số các vựa mỏ".[89]
Những người tị nạn trong đó bao gồm cả những người cộng sản lẩn trốn, đã được lôi cuốn vào cộng đồng lưu vong được tổ chức chặt chẽ ở nơi mà Quốc Dân Đảng đã có cơ sở vững vàng. Báo cáo của Pháp về vấn đề người nhập cì cho biết rằng "những người Trung Quốc tại Đông Dương đều nhận là có liên hệ với tổ chức dân tộc Quốc Dân Đảng... Họ đã bị bắt buộc tham gia, và họ không dám cưỡng lại quyền lực của các "Hội Đồng" vì chúng đều trực thuộc dưới quyền của một Tổng Đoàn thuộc Quốc Dân Đảng."[90] Ta không rõ những cơ cấu cộng sản vào năm 1928 đã ẩn mình ra sao trong lòng tổ chức Quốc Dân Đảng. Tại Quảng Châu, như ta đã thấy, một số thành viên cộng sản người Việt vẫn nằm trong cơ cấu của Quốc Dân Đảng cho đến cuối năm ấy để tiếp tục những lớp tập huấn bí mật của mình cũng như để mưu sinh. Tại những nước thuộc địa Đông Nam Á, họ cũng phải làm như thế đơn giản là để sống còn. Ví dụ như tại Singapore, thành phần cánh tả chịu ảnh hưởng của cộng sản (được biết đến như là phong trào Main School) đã kiểm soát 21 trong số 29 chi bộ Quốc Dân Đảng vào tháng 4 1928.[91] Nhưng Uỷ Ban Nam Dương có lẽ đã thiết lập một cơ chế mặt trận mới trong năm ấy nhằm giữ nguyên tổ chức, như tôi sẽ phân tích thêm ở dưới.
Trong khoảng giữa năm 1928 và 1929 không khí trí thức cánh tả tại Trung Quốc đang chịu ảnh hưởng từ nỗ lực chấn hưng khối Quốc Dân Đảng tả khuynh, không phụ thuộc vào QTCS. Vào tháng 5 1929 Hội Đồng Chí Tái Tổ Chức được thành lập. Cụm từ "tái tổ chức" hàm ý về tinh thần của phong trào tái tổ chức Quốc Dân Đảng trong năm 1924, được thực hiện dưới ảnh hưởng của Borodin. Nguyên nhân tiên khởi kích động việc thành lập tổ chức này chính là việc Nhật chiếm đóng Tế Nam trong tỉnh Sơn Đông trong cùng tháng ấy.[92] Nhưng theo quan điểm của So Waichor, thành phần Quốc Dân Đảng cánh tả không bằng lòng về việc Tưởng Giới Thạch đã lơ là những nguyên tắc cơ bản của họ: phản đế và cải cách điền địa .[93] Cái lý tưởng mà Hội Đồng Chí đại diện từ 1928 đến khi nó sụp đổ vào năm 1931 là để "nhắm vào sự đồng tình của "giai cấp bị bóc lột" ở Trung Quốc, bao gồm nhiều thành phần xã hội như giới trung thương và tiểu thương, giới nông dân - từ tiểu địa chủ đến lao công nông trại, giai cấp lao động, giai cấp tiểu tư sản, trí thức và thanh niên."[94]
Ảnh hưởng trí thức của nhà lãnh đạo Hội Đồng Chí là Trần Công Bác (Chen Kungpo - ND) đã vượt ra ngoài phạm vi Quốc Dân Đảng. Ông là một học giả được đào tạo tại Mỹ và một cựu đảng viên ĐCS Trung Quốc từng giữ nhiều chứ vụ quan trọng trong thời kỳ mặt trận thống nhất.[95] Tạp chí Cách Mạng Bình Luận (Ko Ming P'ing Lun - ND) do ông xuất bản từ đầu năm 1928 đến khi bị Tưởng Giới Thạch đóng cửa vào tháng 9 là một tờ báo có chiều hướng Marxist. Những người viết bài cho tạp chí đại diện cho phái cực tả của Quốc Dân Đảng và có cả những người "bạn đồng hành" cộng sản.[96] Một trong những tư tưởng do Trần Công Bác cổ xuý trong tạp chí và những bài viết khác là "Cuộc Cách Mạng Dân Tộc Trung Quốc có liên hệ chặt chẻ với cuộc cách mạng phản đế toàn cầu". Ông tin rằng Quốc Dân Đảng nên nhận lấy nhiệm vụ lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc của nhân dân thuộc địa Đông phương, từ đó thúc đẩy cách mạng thế giới.[97] Về vấn đề này ông khuyến khích việc thành lập một tổ chức "Quốc Tế Phương Đông" hoặc một "Tam Dân Quốc Tế" nhằm cân bằng thế lực với cả Hội Liên Hiệp Quốc Gia và Đệ Tam Quốc Tế ở Moscow. So Waichor đoan chắc rằng chủ thuyết phản đế của Trần Công Bác "đã gieo mầm tư tưởng về vấn đề này trong những người cánh Tả."
Việc thành lập một hội phản đế mới tại Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 "Liên Hiệp các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức" có thể là kết quả hoạt động của Hội Đồng Chí (còn được gọi là "Tái Tổ Chức") trong Quốc Dân Đảng.[99] Liên Minh này sẽ đóng vai trò chủ chốt trong trong phong trào cánh tả ở Nam Dương trong giai đoạn từ 1929 đến đầu 1930. Sự ra đời của nó có thể đã tạo điều kiện cho nỗ lực của Hội Đồng Chí trong việc thành lập các chi nhánh hải ngoại tại Hồng Kông, Nhật, Việt Nam và Singapore.[100] Nhưng Liên Hiệp này dường như chỉ để dùng làm một vỏ ngoài hợp pháp cho những hoạt động cộng sản. Việc này có vẻ như đã lỗi thời - giống như một sự tiếp tục của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng - ĐCS Trung Quốc - có lẽ đã liên hệ đến chủ trương của Willy Munzenberg trong Liên Hiệp Phản Đế ở Berlin. Tại Đại Hội 6 QTCS ông đã lên tiếng về sự cần thiết của việc giữ vững ảnh hưởng cộng sản trong hàng loạt những tổ chức phi cộng sản khác.[101] Cho đến tháng 4 1929 Phu nhân Tôn Dật Tiên, nằm trong phong trào "Đệ Tam Đảng", vẫn được mang chức vụ Chủ Tịch Danh Dự trong tờ báo của Hội Liên Hiệp.[102] Trong một lá thư viết vào tháng 3 1930, Cục Viễn Đông đã khen ngợi ĐCS Trung Quốc về sự "thành thạo trong việc sử dụng những khả năng hợp pháp và bán hợp pháp", trong đó bao gồm Liên Hiệp Phản Đế và "Liên Hiệp Tự Do".[103]
Một báo cáo của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương (cho Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc) viết vào ngày 19 tháng 7 1928 đã phản ánh tầm quan trọng của phong trào phản đế trong giai đoạn này. Nó cũng đề cập đến việc đòi hỏi phải có một cuộc "đấu tranh không khoan nhượng" trong các tổ chức hàng đầu của Uỷ Ban.[104] Bản báo cáo cũng tường thuật một hội nghị toàn thể mở rộng bắt đầu vào ngày 2 tháng 7 1928. Hội nghị này bao gồm những đại biểu từ Bonero, "Tiểu Tổ Thuỷ Thủ Đặc Biệt", những tổ công nhân cao su, Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và Liên Đoàn Phản Đế.[105] Uỷ Ban Quảng Đông đã không gửi đại biểu tham dự; và cũng không thấy nhắc đến những đại biểu của chi bộ Nam Kỳ - Cam Bốt. Đại Hội Toàn Thể tuyên bố rằng tổ chức đảng của vùng Quần Đảo Mã Lai (một cách gọi khác của người Nga cho vùng Nam Dương) phải được tái tổ chức; mọi thành phần "phá hoại, thoái hoá và do dự" sẽ bị đào thải. Chỉ có "những đồng chí cương quyết, trung thực và quên mình" sẽ được đề bạt; những người xuất thân thành phần công nông được đưa thẳng lên hàng ngũ lãnh đạo. Hội Nghị đã dành ngày 3 tháng 8 cho những khoá giảng về phản đế, và nó đã được nhấn mạnh một cách đặc biệt trong chương trình đại hội. Các học viên được chỉ thị "đến với nông dân" và tổ chức "một đội ngũ quần chúng rộng rãi" để "tự nổi dậy" tham gia phong trào chống Nhật. Nhưng những hoạt động trên không được nhân danh Uỷ Ban Nam Dương. Báo cáo nói rằng "hiện tại chúng tôi không có khả năng lãnh đạo phong trào quần chúng một cách công khai dưới danh nghĩa đảng cộng sản". Vì thế phong trào ngày 3 tháng 8 đã được lãnh đạo một cách bí mật, nhân danh những tổ chức quần chúng như Hiệp Hội Kháng Nhật, Hiệp Hội Hoa Kiều Cứu Quốc, Hiệp Hội Tẩy Chay Hàng Hoá Nhật, vân vân.[107]
Điều lý thú là thời điểm của Hội Nghị toàn thể mà trong đó sắc lệnh tái tổ chức Uỷ Ban Nam Dương được ban hành lại rất gần với thời điểm của "Hội Nghị Tái Tổ Chức" của Kỳ Uỷ Bắc Kỳ của Thanh Niên vào tháng 9. Liệu chi bộ Nam Kỳ-Cam Bốt của Uỷ Ban Nam Dương đã nhận chỉ thị về việc cần phải "tái tổ chức" sau hội nghị toàn thể tháng 7? Liệu có những liên hệ gì giữa những nhà hoạt động người Hoa tại Sài Gòn hoặc Bắc Kỳ và những thành viên người Việt trong Thanh Niên? Rất có khả năng những tổ chức cộng sản Nghiệp Đoàn Thuỷ Thủ, Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, Ban Bí Thư Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương, hoặc những phần tử cộng sản trong Liên Đoàn Phản Đế đã cung cấp cơ cấu tổ chức để liên lạc và truyền đạt những giúp đỡ về chính trị. Ta có thể đoán ít nhất là động lực thúc đẩy Thanh Niên và chú trọng việc tổ chức tầng lớp vô sản đã được chuyển tải từ ĐCS Trung Quốc, có lẽ là qua ngõ Uỷ Ban Nam Dương mà không phải trực tiếp từ Moscow hoặc từ Hồ Chí Minh đang ở Xiêm. Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên tại Quảng Đông hình như không liên quan đến việc này - theo như những sự kiện trong năm 1929 cho thấy.
Khi Lý Lập Tam (Li Li San - ND) từ Moscow quay về vào cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu 1928, ông đã nhanh chóng khuyến khích xu hướng thiên tả bên trong ĐCS Trung Quốc với phương pháp tạm thời đưa những người cộng sản Trung Quốc vào một mặt trận thống nhất hạ tầng với những thành phần cánh tả của Quốc Dân Đảng. Đây là một khía cạnh trong chính sách của Lý Lập Tam đã không được phản ánh trong tài liệu chính thức của ĐCS Trung Quốc. Nhưng tài liệu của QTCS về ĐCS Trung Quốc đã cung cấp những bằng chứng về khía cạnh đã không được công nhận này trong phong cách lãnh đạo của Lý Lập Tam. Khía cạnh này theo tôi đã có ảnh hưởng đến hướng đi của những sự kiện tại Việt Nam trong năm 1929 và đầu năm 1930. Khi Lý quay về lại Thượng Hải, ông chỉ là một thành viên dự khuyết của Bộ Chính Trị và Uỷ Ban Thường Trực.[108] Nhưng với tư cách là người đứng đầu Phòng Tổ Chức, ông đã sớm trở thành người lãnh đạo tối cao trong những khu vực thành thị. Rất có thể là Lý Lập Tam đã đưa ảnh hưởng của mình vào trong Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương. Là lãnh đạo của Tổng Liên Đoàn Lao Động tại Thượng Hải trong thời kỳ hoàng kim của nó vào năm 1925, và cũng là thành viên trong Ban Bí Thư Thường Trực của Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương, có thể ông đã là một nhân vật quen thuộc đối với những người hoạt động công đoàn đã nhập cư đến những bến cảng ở Đông Nam Á từ năm 1926 đến 1928.[109] Ông mang những quan điểm thiên tả của Uỷ Ban Chấp Hành của Phân Bộ Quảng Đông mà ông đã là thành viên sau khi trốn khỏi Thượng Hải vào cuối năm 1925.[110] Sau thất bại của Công Xã Quảng Châu ông được đề cử để đứng đầu Tỉnh Uỷ Quảng Đông; không rõ là ông đã giữ chức vụ này bao lâu.[111] Cảnh sát Singapore sau này đã lưu ý rằng đã có một "sự tăng cường mạnh mẽ trong việc tuyên truyền" từ Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đến Mã Lai trong năm 1928 và 1929. Họ cho là việc phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Mã Lai là do phong trào tuyên truyền này.[112] Việc Lý Lập Tam quay về Thượng Hải vào nửa cuối năm 1928 cho thấy đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tăng cường tuyên truyền trên.
Một trong những hành động đầu tiên của Lý Lập Tam khi quay về Thượng Hải là trục xuất Thái Hoà Sâm (Cai Hesen - ND) ra khỏi thành phần lãnh đạo, một hành động mà QTCS cho là để bác bỏ những kết quả của Đại Hội 6 ĐCS Trung Quốc. QTCS đã hy vọng việc bảo đảm được sự đoàn kết trong thành phần lãnh đạo ĐCS Trung Quốc bằng cách đưa những đại biểu từ nhiều tầng lớp khác nhau vào Bộ Chính Trị, một lá thư của Vladimir Kuchumov thuộc Cục Viễn Đông gửi vào tháng 12 1928 cho Stalin, Molotov, Bukharin và Pyatnitsky đã giải thích như thế. Nhưng việc Thái bị trục xuất được xem là một bước lùi lại thời kỳ cực tả trước Đại Hội 6. Lá thư của Kuchumov đã đề cập đến thông tư (không có số) của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc bàn về những vấn đề tổ chức trong đó đã lên án đường hướng ôn hoà của Chi Uỷ Thượng Hải, khác hẳn với đường hướng cực đoan của Tỉnh Uỷ Quảng Đông. Lá thư của Kuchumov do đó đã phê phán Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa - ND) và Lý Lập Tam đã không tổ chức được quần chúng và không phát huy khẩu hiệu "Đoàn kết với giai cấp Tiểu Tư Sản". Phương cách khắc phục những sai lầm chính trị này là gửi đến một nhóm đại diện cho Ban Chấp Hành QTCS để làm việc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Điểm cuối cùng trong lá thư của Kuchumov là đề xuất việc tái thiết lập Phân Bộ Viễn Đông để lãnh đạo các tổ chức tại Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên, Philippines và Đông Dương.[113]
Phân Bộ Viễn Đông mới đã bắt đầu hoạt động tại Thượng Hải vào hạ tuần tháng 3 1929.[114] Nó bao gồm một người Ba Lan tên là Ignaty Lyubinetski-Kylski, còn có tên là "Osten", và một người Đức thuộc cả hai cánh tả và hữu của ĐCS Đức trong những năm 20. Người này tên là Gerhard Eisler, anh của Ruth Fischer, được biết đến với tên "Roberts". Những người khác đóng cơ sở tại Thượng Hải là đại diện của Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Profintern - ND) là George Hardy và một người khác tên là G.M. Bespalov, phái viên của Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản là Willy hoặc "Young". Jakov Rudnik, người đứng đầu những hoạt động của Cục Thông Tin Quốc Tế đã quay lại Thượng Hải vào mùa xuân 1930 với bí danh Milaire Noulens cùng với một số người khác.[115] Osten/Rylski và Robers/Eisler là những báo cáo viên chính trị chủ chốt cho đến khi Pavel Mif xuất hiện vào tháng 9 1930, trong khi đó những thành viên khác trong Phân Bộ Viễn Đông có ít trách nhiệm hơn, ví dụ như là những công tác về công đoàn, hoặc trong trường hợp của Rudnik là lo về tài chánh và hậu cần cho Phân Bộ. Những người cộng sản biết được, theo lời Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao - ND), rằng Kylski và Eisler đã có "nhưng sai lầm hữu khuynh" trong quá khứ. (Trương đã nhầm lẫn tên của họ là Thalheimer và Brandler.) Vì lý do này, ông cho rằng, họ không được xem như những những người uỷ quyền đáng tin cậy dưới quan điểm của một QTCS đã được Stalin hoá.[116]
Mùa hè 1929 đã đem đến những tiến triển mới hứa hẹn một "cao trào cách mạng" xa vời mà những người Trung Quốc hằng trông đợi mà giờ đây sắp sửa xảy ra. Như ta đã thấy, Đại Hội Toàn Thể QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 đã quyết định "Phương Hướng Mới" và việc đấu tranh giai cấp là những chính sách chủ đạo trong phong trào cộng sản quốc tế. (Một lá thư của QTCS gửi cho ĐCS Trung Quốc vào mùa hè năm ấy thông báo cho ĐCS Trung Quốc biết rằng những người trung nông không còn được xem như là đồng minh trong cuộc đấu tranh chống giai cấp địa chủ.[117]) Cùng lúc ấy, phong trào chống đối vũ trang của một liên minh lỏng lẻo gồm những địa chủ và sứ quân chống lại Quốc Dân Đảng đang dâng cao ở Nam Kinh. Kuusinen đã phê bình ĐCS Trung Quốc trong một hội nghị của Ban Bí Thư Chính Trị thuộc Ban Chấp Hành QTCS vào tháng hai rằng "Rất nhiều đồng chí Trung Quốc chỉ chú trọng vào mục tiêu trước mắt,, làm như họ đang ngồi bên cửa sổ chờ đợi một phép màu cách mạng thình lình xuất hiện. Phép màu này phải xuất hiện ra sao thì không rõ ràng mấy.... Họ bàn về cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và tổ chức Quảng Tây và bảo rằng nhờ nó mà cao trào cách mạng đang đến gần."[118] Dù vậy, vì QTCS không ngừng nhấn mạnh sự cần thiết cảnh giác chống lại "chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh" và "chủ nghĩa thoả hiệp", ĐCS Trung Quốc dường như đã quyết định rằng việc nhen nhóm lại "chiến tranh quân phiệt" đã mở ra cho họ cơ hội để đẩy mạnh những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Stalin cũng đã đẩy mạnh mối căng thẳng trong nội bộ QTCS bằng cách liên tục đưa ra những cảnh báo về một cuộc chiến tranh của đế quốc chống lại nước Nga Xô Viết, có lẽ để kêu ủng hộ cho những chính sách kinh tế táo bạo của mình. Ông đã sử dụng mối mâu thuẩn đang căng thẳng tại tuyến đường sắt Trung Quốc Đông Phương (đoạn nối dài của tuyến đường sắt nổi tiếng Trans-Siberian, là nguyên nhân của chiến tranh Nga-Nhật và Trung-Nhật - ND) để đưa ra quan điểm rằng một trong những nhiệm vụ của cộng sản thế giới là bảo vệ Liên Bang Xô Viết.
Khi những người trong Hội Tái Tổ Chức tham gia vào việc điều phối cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền Nam Kinh vào giữa năm 1929, ĐCS Trung Quốc đã chủ tâm ủng hộ họ. Trong số những người quân phiệt đã thách thức giới lãnh đạo Quốc Dân Đảng gồm có Trương Phát Khuê (Zhang Fakui - ND) ở Hồ Bái, Lý Tôn Nhân (Li Zong Ren - ND) và Du Bình Bá (Yu Zuobo - ND) ở Quảng Tây.[119] Trần Công Bác chuyển đến Hồng Kông vào tháng 6 1929 để chỉ huy chiến dịch vũ trang, được gọi là "Phong Trào Vệ Đảng Cứu Quốc".[120] Có lúc dường như nó đã có cơ hội chấm dứt quyền lực của Tưởng Giới Thạch. Hai thành viên cộng sản, Đặng Tiểu Bình (Deng Xiao Ping - ND) và Trương Vân Dật (Zhang Yun Yi - ND) người gốc Hải Nam đã được điều từ Thượng Hải đến Quảng Tây để trà trộn vào "Phong Trào Cứu Quốc", Đặng đến vào khoảng giữa năm 1929 và Trương vào khoảng đầu năm 1928. Đặng kể lại với Edgar Snow (nhà báo Mỹ - ND) vào năm 1936 rằng ông đã đến Quảng Tây qua ngã Hải Phòng, Việt Nam vì ngã Quảng Châu quá mạo hiểm. Ông kể rằng đã liên lạc với những phiến quân người Việt, những người đã phát động cuộc "khởi nghĩa Công-Nông vào năm 1930".[121] Không chắc hẳn như lời của Uli Franz (nhà sử học Đức - ND) rằng Đặng đã tham khảo với Hồ Chí Minh tại Thượng Hải về con đường nào tốt nhất để đi Quảng Tây. Nhưng rõ ràng là Đặng đã dùng những cơ sở người Việt để giúp ông di chuyển từ Hải Phòng bằng tàu hoả để đến biên giới Quảng Tây, từ đó ông đi theo con đường của những thành viên Thanh Niên đến Long Châu rồi từ đó đi Nam Kinh.[122]
Sau Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10, Phân Bộ Viễn Đông tại Thượng Hải - bao gồm những nhân viên "hữu khuynh" cũ - đã đưa ra quan điểm bằng cách thông qua một nghị quyết biểu lộ sự ủng hộ tuyệt đối của họ đối với chính sách "Phương Hướng Mới". Tài liệu này được viết vào tháng 10 1929, trong đó tuyên bố rằng Phân Bộ Viễn Đông sẵn sàng chiến đấu chống lại "những đe doạ mang tính cơ hội và dao động trong ĐCS Trung Quốc". Bản nghị quyết cũng đã phê phán ĐCS Trung Quốc chỉ có "một lớp mỏng của thành phần công nhân và tiếp xúc với một số tổ chức quốc gia cách tân". Tỉnh Uỷ Quảng Tây đã thương lượng với Tướng Du Bình Bá về hoạt động trong đội quân của ông ta, và gửi điện đến những tổ chức địa phương kêu gọi một chiến dịch rộng lớn ủng hộ khối Trương Phát Khuê - Du Bình Bá, bản nghị quyết cho biết. Một số đảng viên đã từ chối thành lập những công đoàn đỏ trong những hãng xưởng đã có những công đoàn vàng hoặc trực thuộc chính phủ tồn tại.[123]
Nghị quyết này của Phân Bộ Viễn Đông đã tạo ra phản ứng đầy giận dữ từ Bộ Chính Trị Trung Quốc. Trong những cuộc họp với Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 12 1929, những người Trung Quốc, do Chu Ân Lai, Lý Lập Tam và Hướng Trung Phát đại diện, đã không thừa nhận việc bị cáo buộc là có những "sai lầm hữu khuynh". Tại cuộc họp ngày 10 tháng 12 Rylski đã phê bình ĐCS Trung Quốc về việc đã hợp tác với thành phần trung nông và những người "quốc gia cách tân" tại Quảng Tây.[124] Ông thừa nhận là khi những mâu thuẫn xảy ra tại tuyến đường sắt Đông Phương, "chúng tôi đã thảo luận về chiến tranh du kích với các đồng chí và đã đưa ra những đề xuất rất vững chắc mà các đồng chí cũng đã chấp nhận. Chúng tôi đã đề nghị các đồng chí nên tổ chức, mở rộng và kích hoạt những cuộc chiến tranh du kích..."[125] Nhưng với nỗ lực nhằm tránh liên hệ trách nhiệm vì những sai lầm của ĐCS Trung Quốc, ông đã bổ xung rằng đề nghị này đã đi kèm với những chỉ thị giáo dục quần chúng mà ĐCS Trung Quốc đã không chịu áp dụng.[126] Lý Lập Tam phản biện lại lời chỉ trích này tại cuộc họp thứ hai (13 tháng 12), ông nói rằng Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc luôn đấu tranh chống lại mối đe doạ hữu khuynh, rằng họ đã chiến đấu những khuynh hướng thiên hữu bằng những phương pháp như hợp pháp hoá phong trào, phát triển hoà bình và đánh giá nghiêm khắc tầng lớp tư sản. Ông cũng chỉ ra rằng Uỷ Ban Trung Ương cũng đã phê phán những người "Tái Tổ Chức" tại Quảng Tây: "Có thể có những đồng chí hoạt động trong quân đội đã không hiểu rõ tình hình tại Quảng Tây. Nhưng không nên liên hệ những sai lầm của họ với Uỷ Ban Trung Ương và Đặc Uỷ Quảng Tây."[127]
Cuối cùng sau một thuyết trình dài của Eisler vào ngày 17 tháng 12, cả hai phía đã đồng ý đệ trình những bất đồng của họ lên Moscow để thỉnh cầu quyết định tối hậu về chính sách. "Khi chưa có được nghị quyết về vấn đề này, chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục những hoạt động thường nhật như trước đây", Hướng Trung Phát kết luận. "Nếu ĐCS Trung Quốc phạm sai lầm, Phân Bộ Viễn Đông sẽ chấn chỉnh họ và ngược lại, nếu Phân Bộ sai phạm, chúng tôi sẽ phải đấu tranh phản đối họ. Ngoài việc gửi điện, chúng tôi đề nghị gửi một đồng chí Trung Quốc đến Moscow."[128] Kết cục này đã làm cho Phân Bộ Viễn Đông không có một quyền lực thật sự nào trong mắt của ĐCS Trung Quốc cho đến khi Moscow đưa ra quyết định cuối cùng. Dường như từ cuối tháng 12 1929, Lý Lập Tam và người của ông đã cho thấy họ càng trở nên độc lập trong việc giải thích những chính sách của QTCS. Dù thế, họ lại không muốn mất đi số tiền viện trợ từ QTCS mà trong năm 1929 đã lên đến hơn 200 nghìn đô-la cũng như số tiền 16.408 đô-la dành cho Đoàn Thanh Niên Cộng Sản.[129] Vào tháng 2 1930 Chu Ân Lai bắt đầu đi Moscow để hội ý. Ông đến Moscow vào tháng 4 sau khi đi qua Berlin.[130] Rylski cũng quay lại Moscow trong khoảng thời gian ấy.
Sự rạn nứt của Thanh Niên
Giai đoạn của việc Lý Lập Tam tìm cách nắm giữ quyền lực trong cơ cấu của ĐCS Trung Quốc xảy ra cùng lúc với sự rạn nứt đang lớn dần trong Thanh Niên Hội. Như đã nhắc đến ở trên, bắt đầu từ tháng 9 1928, chi bộ phía bắc của Thanh Niên đã bắt đầu một chiến dịch "vô sản hoá" chính mình. Vào tháng 3 1929 họ đã thành lập một nhóm cộng sản ở Hà Nội. Khi Phân Bộ Viễn Đông đang tự thiết lập ở Thượng Hải, tầng lớp lãnh đạo của Thanh Niên đã triệu tập một hội nghị toàn quốc ở Hồng Kông (họ đã phải rời Quảng Châu vào đầu năm 1929, khi Hồ Tùng Mậu và một nhóm học viên người Việt ở Hoàng Phố bị bắt). Khi đại hội khai mạc vào tháng 5, chiều hướng thiên tả đã được khẳng định rõ ràng. Đã không có những bất đồng lớn giữa các đại biểu về sự cần thiết để thành lập một đảng cộng sản theo khuôn khổ Bolshevik, dựa trên tinh thần của Đại Hội QTCS lần 6. Nhưng trong những cuộc họp tiền đại hội, đoàn đại biểu từ phía bắc đã tạo ra mối chia rẽ khi họ đòi hỏi phải thành lập đảng cộng sản ngay lập tức. Ba nhân vật bất đồng này là Trần Văn Cung, Nguyễn Tuấn và Ngô Gia Tự đã sớm rút khỏi đại hội trong khi những người lãnh đạo từ Trung Quốc là Lâm Đức Thụ và Lê Hồng Sơn đã không chịu thay đổi quan điểm của họ rằng Việt Nam chưa sẵn sàng bước khỏi giai đoạn chuẩn bị cho việc thành lập đảng.[131] Nhưng theo tài liệu của Sở Liêm Phóng thì Lê Hồng Sơn đã tham khảo ý kiến về cương lĩnh mới với ĐCS Trung Quốc tại Hồng Kông và vì thế ông có cơ sở để cho rằng mình đã đi đúng hướng.[132] Những đại biểu từ các phân bộ miền trung, miền nam và Xiêm của Thanh Niên lưu lại Hồng Kông cho đến cuối tháng 5 để hoàn thành bộ "tiểu cương lĩnh" khổng lồ bao gồm những hình thức kỷ luật trong đó có năm vi phạm dẫn đến án tử hình. Cương lĩnh đặc biệt thừa nhận những văn bản của Đại Hội QTCS lần 6 và tuyên bố chấm dứt mọi liên hệ với Quốc Dân Đảng Trung Quốc, giờ đã bị họ cho là đảng của "phong kiến, địa chủ và đế quốc".[133] Một Uỷ Ban Trù Bị được thành lập để bắt đầu việc thiết lập đảng cộng sản. Hồ Chí Minh bị đánh rơi khỏi hàng ngũ lãnh đạo vì ông đang ở quá xa; theo lời Lâm Đức Thụ thì đã có những tin đồn rằng ông đang bị ốm nặng tại Đức.[134]
Câu hỏi tại sao những người lãnh đạo Thanh Niên ở phía bắc lại có thái độ chống đối với Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên tại Trung Quốc có lẽ không có câu trả lời đơn giản. Tuổi trẻ cao ngạo có lẽ là một phần nguyên nhân, cộng với ước mong hợp lý là đem giới lãnh đạo cộng sản đến gần với những thành viên trong nước. Đến khi Đại Hội tiến hành ra vào tháng 5, nhóm phía bắc có thể đã có một vài phản đối chắc chắn đối với giới lãnh đạo tại Quảng Châu/Hồng Kông. Ví dụ rõ ràng nhất là sự hiện diện của Lâm Đức Thụ, ngay cả vào năm 1929, Thụ đã bị những nhà cách mạng, đặc biệt là Nguyễn Hải Thần nghi ngờ là mật thám của Pháp.[135] Thụ còn biết đến như là một người có lối sống suy đồi và chính ông đã báo cáo với Sở Liêm Phóng rằng mình đã "bị những đồng chí phê phán mạnh bạo trong suốt cả năm." Vì thế ông đã yêu cầu không nhận lãnh một chức vụ lãnh đạo nào, và đã trấn an Sở Liêm Phóng rằng việc này sẽ "làm cho công tác của tôi dễ dàng hơn."[136] (công tác của ông có lẽ liên quan đến việc tạo ra sự hiểu lầm giữa những nhóm cách mạng). Một nguyên nhân khác của sự xích mích trên là ưu thế của những người có gốc gác từ những tỉnh miền trung như Nghệ An và Hà Tĩnh trong hàng ngũ lãnh đạo tại Hồng Kông. Liên quan đến mối căng thẳng vùng miền này có thể là sự khác nhau của hai nhóm trong phương pháp đào tạo và tổ chức. Nhóm Trung Quốc bao gồm các thành viên đã qua huấn luyện quân sự, một số trong họ đã từng là giảng viên tại Hoàng Phố. Những người này gồm có Trương Văn Lềnh, Lê Quang Đạt, Lê Duy Điếm và Lê Hồng Sơn. Họ cũng có nguồn gốc từ nông thôn. Lê Hồng Sơn từng là tuyên truyền viên cho Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế trong tầng lớp nông dân tại Đảo Hải Nam; Hồ Tùng Mậu đã giúp tổ chức những hiệp hội tương ái tại những vùng thôn quê ở Xiêm. Trong khi đó, những thành viên Bắc Kỳ của Thanh Niên ngày càng tập trung vào việc tổ chức tại những khu vực thành thị. Hoạt động của họ tại bến cảng Hải Phòng và những khu mỏ Cẩm Phả, Uông Bí và Mạo Khê, nơi có mật độ người lao động gốc Hoa cao, có lẽ đã giúp họ liên lạc với những người tổ chức công đoàn thuộc Liên Đoàn Lao Động Nam Dương và Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc. Những căng thẳng này cũng có thể đã xuất hiện tại Nam Kỳ. Sự tranh đua giữa Tôn Đức Thắng, một lãnh tụ công nhân tại Sài Gòn, và Lê Văn Phát đã dẫn đến việc Phát bị Thanh Niên ám sát vào tháng 12 1928, có thể được bắt nguồn từ những xung đột thành thị và nông thôn. Chúng ta có thể thấy được những khác biệt này đã tạo thành mảnh đất màu mỡ để cho Sở Liêm Phóng gieo rắc những hạt giống kích động tranh chấp.
Thời điểm từ tháng 6 1929 đến tháng 2 1930 là thời điểm nguy kịch của những người cộng sản Việt Nam. Thành phần ly khai tại Bắc Kỳ đã thành lập một đảng cộng sản riêng vào tháng 6 gọi là Đông Dương Cộng Sản Đảng và đã nhanh chóng điều động phái viên đến những vùng khác trong nước. Vì họ nắm quyền tại chi bộ phía bắc của Thanh Niên nên những thành viên miền bắc dù muốn hay không cũng đã tự động gia nhập đảng mới. Họ cũng đã xâm nhập vào miền trung và miền nam. Trong cả hai vùng này hàng ngũ lãnh đạo của Thanh Niên đã bị một làn sóng bắt bớ tấn công vào cuối năm 1929. Vào tháng 7 toàn bộ chi uỷ của miền trung đã bị bắt, trong đó có Nguyễn Sĩ Sách vừa mới trở về từ hội nghị của Thanh Niên và Vương Thúc Oánh, Trần Văn Cung cũng bị bắt. Võ Mai trốn lên vùng thượng du Nghệ Tĩnh.[137] (Hồ Chí Minh và Trần Phú đều bị xử tử vắng mặt tại một phiên toà ở Vinh vào tháng 10 1929.) Cũng vào tháng 7 người Pháp bắt đầu bắt giữ những nhà hoạt động mà tên tuổi được tìm ra từ cuộc điều tra về cái chết của Lê Văn Phát, còn gọi là vụ án đường Barbier. Những người này gồm có Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng và Nguyễn Kim Cương.[138] Những nhà tổ chức khác bị buộc phải rút về vùng nông thôn như Đồng Tháp.[139] Cùng lúc đó, đảng Tân Việt (Cách Mạng Đảng cũ) đã bị tê liệt vì những người lãnh đạo tại miền trung và Sài Gòn đã bị bắt giữ. Việc họ cư ngụ chung với những lãnh đạo Thanh Niên đã dẫn đến việc khám phá ra những tài liệu của Đảng do Hà Huy Tập soạn thảo khi vụ án mạng đường Barbier được phanh phui (Hà Huy Tập và hai thành viên Tân Việt khác là Trần Ngọc Danh và Trần Phạm Ho đã trốn đi Thượng Hải sau khi cơ quan trung ương của Việt Tân bị khám phá vào tháng 12 1928[140]). Tại Vinh, Nguyễn Thị Minh Khai báo cáo rằng chỉ còn những nhóm công nhân và phụ nữ vẫn còn đứng vững.[141] Những vụ bắt bớ này chắc chắn đã tạo ra lợi thế cho Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) vì họ mặc nhiên đã trở thành một tổ chức với những người đứng đầu có kinh nghiệm nhất tại Việt Nam. Không bao lâu sau khi ĐDCSĐ hình thành, Ngô Gia Tự được phái đi Sài Gòn để thành lập cơ sở trong tầng lớp cu-li tại Chợ Lớn và bắt đầu tạo ra một Tổng Liên Đoàn Lao Động. Những người tổ chức công đoàn của Thanh Niên không gia nhập ĐDCSĐ không bao lâu sau cũng đã thành lập một Tổng Liên Đoàn Lao Động riêng cho mình.[142]
Trước mối đe doạ bị mất tất cả các thành viên, Uỷ Ban Trung Ương Thanh Niên tại Hồng Kông bắt buộc phải từ bỏ quan điểm của mình về việc thành lập đảng cộng sản. Đến cuối tháng 8 1929, ngay sau khi Hồ Tùng Mậu và khoảng 20 cựu học viên Hoàng Phố vừa được phóng thích, họ đã quyết định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng. Họ đã viết trong một văn thư dài đầy tính tự vệ cho các thành viên (có thể được viết vào trung tuần tháng 10, vì văn thư có đề cập đến một lá thư gửi cho ĐDCSĐ vào ngày 4 tháng 10): "Uỷ Ban Trù Bị đã phù hợp với tình hình trước đây, nhưng giờ đây Uỷ Ban này đã không còn đáp ứng được những đòi hỏi hiện tại."[143] Một phần của trở ngại này là đã có nhiều thành viên trong Uỷ Ban bị bắt giữ trên đường quay về Việt Nam sau kỳ Đại Hội vào tháng 5, bản văn thư giải thích. Thanh Niên Hội đã bị giải tán và giờ đây chỉ có vài nhóm còn lại tại Xiêm và Nam Kỳ. Một tiểu tổ của An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) đã được thành lập tại Hồng Kông với nhiệm vụ thành lập một đảng thực thụ, "như chúng tôi đã lưu ý, ĐDCSĐ không phải là một đảng thực sự", bức thư nói. Đảng mới do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Quang Đạt và Lê Duy Điếm lãnh đạo, tuyên bố rằng ANCSĐ hoàn toàn chấp thuận cương lĩnh của đảng đối phương. Họ than phiền rằng ĐDCSĐ đã bắt đầu tổ chức từ trên xuống trước khi thành lập các chi bộ tại các khu lao động hoặc trong lòng quần chúng. Một phê phán khác là ĐDCSĐ đang thành lập các nhóm của những người "Đỏ", những người này được kêu gọi hoạt động với quần chúng và đóng Đảng phí hàng tháng mà không thực sự phải trở thành đảng viên. Do đó, những người "Đỏ" bị bắt buộc phải hoàn toàn chấp hành mệnh lệnh và quyết định của đảng - điều này đi ngược lại với nguyên tắc dân chủ tập trung, lá thư nói. (Những người đứng đầu ANCSĐ căn cứ vào những hiểu biết của họ về phương pháp hoạt động của ĐDCSĐ dựa theo một bức thư đề ngày 4 tháng 10 1929 của ĐDCSĐ gửi cho ĐCS Trung Quốc, cũng như trên tờ báo Cờ Đỏ của ĐDCSĐ số ra ngày 26 tháng 9.)[145] Ngoài ra còn có một than phiền khác nữa là, căn cứ theo một thành viên ẩn danh của ĐDCSĐ, đảng này "đã dẫn dắt quần chúng phá hoại các đền chùa".[146]
Có lẽ sai lầm tệ hại nhất của ĐDCSĐ là việc đảng này đã hoạt động để "nhằm lật đổ Thanh Niên và Tân Việt, trong khi đó lại đề xướng việc hợp tác với Việt Nam Quốc Dân Đảng hòng thúc đẩy việc phát triển của đảng". Bản văn thư cho rằng, thực chất ĐDCSĐ đã giúp đỡ Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) bằng cách thay đổi cương lĩnh của mình và giới thiệu những người cộng sản vào VNQDĐ.[147] Việc đưa những người cộng sản vào VNQDĐ đã gợi lại sách lược của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1926-7 đối với Cách Mạng Đảng/Tân Việt. Có thể đây là một sự lập lại của liên minh hiển nhiên đã tồn tại trong giai đoạn 1928-9 giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng cánh Tả. Quan hệ thân thiện giữa ĐDCSĐ và VNQDĐ cũng là dấu hiệu cho thấy hiện tượng tị hiềm vùng miền giữa khu vực miền trung và miền bắc. Trong khi giới lãnh đạo của Thanh Niên đã khéo léo trà trộn và hợp nhất với Đảng Tân Việt là một tổ chức có gốc gác từ miền trung Việt Nam thì ĐDCSĐ lại muốn thành lập một mặt trận chung với một đảng phi cộng sản có nguồn gốc từ phía bắc. Lãnh đạo của ĐDCSĐ vào ngày 4 tháng 10 đã viết thư cho ANCSĐ rằng đảng của họ tin rằng "họ có thể hợp tác với VNQDĐ trong hoàn cảnh hiện tại... Nhưng sự hợp tác này chỉ xảy ra nếu Quốc Dân Đảng không phản đối những hoạt động tuyên truyền và tổ chức của ĐDCSĐ ngay bên trong đảng của họ (có nghĩa là ĐDCSĐ sẽ bí mật điều khiển nó).[148] Và rồi trong một lá thư của Uỷ Ban Trung Ương ĐDCSĐ gửi cho Ngô Gia Tự đề ngày 7 tháng 1 1930, tác giả bức thư lưu ý rằng để đối diện với VNQDĐ, ĐDCSĐ sẽ tiếp tục tìm các phương hướng trà trộn nhằm thành lập một Xô Viết, từ đó sẽ "kết hợp với quần chúng của ta để tạo ra một Xô Viết thực thụ."[149]
Con số thành viên của hai nhóm cộng sản đang tranh đua thì khác nhau, nhưng ĐDCSĐ tự nhận rằng đến 5 tháng 12 1929 họ đã kết nạp được 60 thành viên ở Nam Kỳ, và khoảng 40 hoặc 20 ở Trung Kỳ (báo cáo viên không nhớ được chính xác).[150] Hà Huy Giáp đã viết trong hồi ký của mình rằng có 800 thành viên Thanh Niên ở miền nam vào mùa thu 1929.[151] Nhưng ANCSĐ chỉ thu nhận khoảng 50 người từ nhóm này trong giữa mùa thu, theo lời của Dương Hạc Đính, một chỉ điểm của Sở Liêm Phóng. Ông là một học viên trước đây của Thanh Niên và cho đến tháng 5 1929 là thành viên của thành phần ly khai Bắc Kỳ. Nhưng ông lại đầu quân cho nhóm lãnh đạo Thanh Niên ở Trung Quốc sau đại hội và vào tháng 9 đã được gửi đi Sài Gòn để thành lập một uỷ ban lâm thời cho ANCSĐ. (Việc này xảy ra sau việc bắt giữ hầu hết các thành viên của uỷ ban trù bị vào tháng 7.) Cùng với Hoàng Tuyên (Trần Văn Minh), một cựu học viên Hoàng Phố từ Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Ba, Đỗ Lương và Nguyễn Văn Ngọc, ông đã thành lập một danh sách các thành viên Thanh Niên trong vùng Sài Gòn - Gia Định và một danh sách khác cho vùng Mỹ Tho và Cần Thơ để kết nạp họ vào đảng mới. Hai bản danh sách này tổng cộng được khoảng 50 người, Đính cho biết.[152]
Yếu tố đầu tiên từ bên ngoài thúc đẩy việc hợp nhất của hai đảng cộng sản đã đến từ một kiểm soát viên người Trung Quốc thuộc Phân Bộ Viễn Đông ở Thượng Hải. Ông đến Hồng Kông vào tháng 11 và đang trên đường đến Singapore. Như Hồ Tùng Mậu đã viết cho ĐDCSĐ vào ngày 14 tháng 11, một quyết định đã được đưa ra ở Thượng Hải để thành lập một ban bí thư cho Liên Hiệp Cộng Sản các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức. Nhiệm vụ của Liên Hiệp này là "để trực tiếp chỉ đạo tổ chức các nước Mã Lai Á, Java, Burma, Xiêm và An Nam nhằm thành lập các đảng cộng sản càng nhanh càng tốt." Phiên họp khai mạc của tổ chức này sẽ được bắt đầu trong vòng hai tháng, với sự tham dự của các đại biểu từ các nước. "Nhưng tốt hơn là chúng ta nên hoàn tất việc thống nhất trước khi gửi đại biểu đến," Hồ Tùng Mậu viết.[153] Ban bí thư của Liên Hiệp sẽ đặt tại Singapore và dường như là một hiện thân của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương. Dấu hiệu về tầm quan trọng của vai trò ĐCS Trung Quốc đối với phong trào cộng sản Việt Nam vào cuối năm 1929 có thể tìm được trong nhận định của Sở Liêm Phóng về một trong những thư từ trao đổi giữa hai thành phần trong tháng 11. Sở Liêm Phóng nhận định rằng ĐDCSĐ tại Sài Gòn đang gửi tài liệu tuyên truyền bằng tiếng Hoa cho thành viên của họ tại Bắc Kỳ, một dấu hiệu cho thấy phía Nam vẫn là trung tâm hoạt động của Uỷ Ban Nam Dương tại Việt Nam.[154] Những người Việt tại Hồng Kông đã đặt vấn đề về việc phải hoạt động trong quyền hạn của Singapore, theo lời kể của Dương Hạc Đính. Đại diện của Trung Quốc khuyên họ nên cho Phân Bộ Viễn Đông biết suy nghĩ của mình và đồng thời khuyến khích họ nên gửi đại biểu từ mỗi đảng đến Singapore sau này. Do đó Lê Quang Đạt đã được phái đến Thượng HảI để nói chuyện với "một số thành viên Trung Quốc tại Phân Bộ Viễn Đông".[155]
Điều quan trọng là vào thời điểm này những thành viên châu Âu của Phân Bộ Viễn Đông dường như đang cổ động cho vai trò của cộng sản Trung Quốc tại Đông Nam Á. Nhiệm vụ của kiểm soát viên người Trung Quốc đề cập ở trên có thể là kết quả từ yêu cầu của Liên Đoàn Phản Đế ở Berlin rằng Phân Bộ Viễn Đông nên tập hợp một đoàn đại biểu để đến Hội Nghị Thanh Niên Phản Đế đang dự định tổ chức tại Frankfurt trước khi Đại Hội Thế Giới lần 2 của Hội Liên Hiệp Phản Đế, dự định tổ chức vào tháng 7 1929. Phân Bộ Viễn Đông gửi thư cho Berlin vào tháng 5 1929 bảo rằng họ không có địa chỉ của những tổ chức thanh niên ở Triều Tiên, Nam Dương, Đông Dương hoặc Mã Lai Á. "Khả năng còn lại là làm việc thông qua các tổ chức của Trung Quốc ở các nước ấy," lá thư nói. Họ quyết định rằng "phải gửi một đồng chí đến những địa điểm trên để truyền đạt chỉ thị và đề xuất nhằm xây dựng một tổ chức phản đế trẻ bao gồm những thanh niên bản xứ và Trung Quốc." Nỗ lực của Phân Bộ Viễn Đông rõ ràng là đã quá trễ để gửi các đại biểu đến Berlin, nhưng theo lời giải thích của họ, phái viên của họ sẽ giúp họ "có khả năng tìm hiểu trực tiếp những điều kiện tại những nơi này và để bắt đầu các bước thành lập những tổ chức dân tộc".[156]
Vào tháng 1 1930 Rylski báo cáo rằng Phân Bộ Viễn Đông đang thiếu hụt thành viên để thực hiện những chuyến công tác theo yêu cầu trong khu vực. Sự tiện lợi của những người Trung Quốc bị giới hạn vì họ thường bị từ chối nhập cảnh vào các nước Đông Nam Á hoặc bị bắt giữ khi vừa đến đích.[157] Dù vậy dường như đã không còn khả năng nào khác ngoại trừ việc trông đợi vào những thành viên Trung Quốc này. Tại Moscow, QTCS cũng đã đi đến kết luận như trên. Phân Bộ Trung Á vừa được tái lập, có trách nhiệm tại Burma, Ấn Độ, Nam Dương và Đông Dương, đã tổ chức một cuộc họp vào ngày 12 tháng 11 để thảo luận về việc tái thiết Đảng Cộng Sản Đông Dương. Vì những thành viên Nam Dương đã bị phân tán bởi nhà cầm quyền Hà Lan sau cuộc khởi nghĩa 1926, một đề nghị được đưa ra là tận dụng "tổ chức cộng sản người Hoa đang tồn tại ở Singapore, các tiểu bang Mã Lai và Nam Dương có quan hệ với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc bất chấp sự yếu kém về số lượng và tư tưởng", bản nghị định viết, "tổ chức này có liên hệ với những công nhân người Hoa và địa phương và đang lãnh đạo một số nghiệp đoàn trực thuộc Hội Đồng Nghiệp Đoàn của Quần Đảo Mã Lai... Tạm thời tổ chức này có thể được dùng làm cơ sở để phát triển hoạt động tại Nam Dương."[158] QTCS dường như đã không hiểu rõ truyền thống của người Trung Quốc về khái niệm "Nam Hải", một khu vực đang chịu ảnh hưởng thống trị của Trung Quốc. Những thành viên châu Âu tại Phân Bộ Viễn Đông cho rằng Singapore là trung điểm liên lạc giữa các khu vực đang chịu sự điều phối của Phân Bộ Trung Á thuộc QTCS bao gồm từ Ấn Độ đến Nam Dương, và nếu cần thiết, cả Đông Dương nữa. Kuusinen xem Ấn Độ và Nam Dương là những mục tiêu chính cho hoạt động của QTCS trong khu vực, như ta đã thấy; hai thuộc địa này sẽ là điểm đến chính thức của hai kiểm soát viên người Pháp của QTCS, được gửi đến Đông Nam Á trong năm 1930 và 1931.
Người đầu tiên là một đại diện có tên là "Thibault", vào tháng 8 1929 ông đang ở Bỉ để làm giấy tờ giả. Trong khi đang đợi tin tức và tiền từ Moscow, ông đã báo cáo rằng ông đang thu thập tài liệu về Nam Dương, khu vực Ấn thuộc Hà Lan và quần đảo Philippines. Ông yêu cầu gửi gấp những quyết định mới nhất về công tác của ông, kể cả tài liệu từ Liên Đoàn Phản Đế.[159] Tập hợp các nguồn dữ liệu lại với nhau, ta có thể đoán được rằng nhân vật này là Jean Crémet, một thành viên cộng sản người Pháp mà từ lâu nay bị cho là đã mất tích tại Trung Quốc vào đầu năm 1930 (Vào những năm 1960, ông tái xuất hiện ở Bỉ).[160] Joseph Ducroux, được Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế phái đến châu Á vào năm 1931 có nhắc đến trong hồi ký của mình rằng Cục Thông Tin Quốc Tế đã yêu cầu ông tìm Crémet ở Thượng Hải và Hồng Kông vì QTCS đã không nhận được tin của ông đã hơn một năm.[161] Ducroux nhớ lại là Crémet đã di chuyển bằng một hộ chiếu Bỉ dưới tên là Walloon. Ducroux từng làm việc cho Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế tại Moscow từ 1928 đến 1930 như là một chuyên gia về Ấn Độ và trong mùa đông 1929-30 được phân công chuyển những "trợ giúp về chính trị, vật chất và tinh thần" đến cho ĐCS Ấn. Cả hai đại diện người Pháp này đều thất bại trong nhiệm vụ của họ:Thibault đã không qua khỏi Bắc Kỳ trước khi biến mất vào tháng 2 1930, và Ducroux, sau khi đi qua Việt Nam, đã bị bắt tại Singapore vào năm 1930 trước khi đến được Ấn Độ. Việc Thibault/Crémet mất tích dường như đã tạo ra những bối rối trong quá trình thống nhất của hai tổ chức cộng sản Việt Nam, như sẽ được phân tích ở chương kế tiếp.
CHƯƠNG 5: CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930-1)
Việc quay lại của những học viên Quốc Tế Cộng Sản
Vào cuối năm 1929 phong trào cộng sản Việt Nam bao gồm hai đảng đối lập đang tranh giành thành viên. Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) đã tiến xa hơn khi thông báo rằng nếu Hồ Chí Minh quay lại, ông chỉ được đối xử như một đảng viên bình thường.[1] Những cựu lãnh đạo của Thanh Niên tại Hồng Kông đang đấu tranh để thống nhất hai nhóm cộng sản với điều kiện việc này không có nghĩa là một thất bại hoàn toàn đối với An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ). Họ đã sắp sửa gửi Lê Duy Điếm đi Moscow để tìm Hồ Chí Minh khi người đại diện môi giới là Cao Hoài Nghĩa thố lộ rằng ông đã gặp Hồ tại Xiêm. Ông chỉ bị thuyết phục tiết lộ nơi ẩn náu của Hồ khi nhận ra rằng sự chia rẽ trong hàng ngũ Thanh Niên đã trở nên quá trầm trọng.[2] Cuối cùng thì Trương Văn Lềnh, một trong những thành viên kiên trung còn lại của Thanh Niên, đã đi tìm Hồ vào tháng 10 để thuyết phục ông quay lại miền nam Trung Quốc.[3]
Cùng lúc đó tại Moscow QTCS đang bắt đầu ra quyết định đã quá chậm trễ về phong trào cộng sản taị Ấn Độ, Nam Dương và Đông Dương. Trần Phú và Ngô Đức Trì vừa hoàn tất chương trình học tập tại Đại Học Stalin (Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông - ND), đang chuẩn bị qua Pháp để về Việt Nam. Một chương trình ngắn gọn về "Chỉ thị về những hoạt động tại Đông Dương" được soạn thảo tại Moscow vào ngày 27 tháng 10 1929,[4] đây là nghị quyết về việc thành lập một Đảng Cộng Sản Đông Dương.[5] Hôm sau Trần Phú tham gia một ngày thảo luận do Kuusinen chỉ đạo về cương lĩnh tương lai của ĐCS Ấn.[6] Đây chắc chắn là cách để giúp ông chuẩn bị đối phó với những lý thuyết và thực hành đầy gai góc mà ông sẽ phải gặp tại Việt Nam. Cẩn trọng là tinh thần chủ đạo trong các chỉ thị về Đông Dương. "Phương hướng chung" là thành lập những tổ chức cộng sản rồi tiến tới hợp nhất chúng lại thành một đảng. Hai người Việt Nam vừa rời Đại Học Stalin sẽ thu thập tin tức về phong trào nông dân và những cuộc bãi công xảy ra trong năm trước; họ sẽ thiết lập các mối liên lạc với những phần tử vô sản và bần nông trong những đảng phái quốc gia và "kích động sự khác biệt" trong lòng các đảng phái này nhằm lôi kéo các thành viên vô sản tham gia các nhóm cộng sản. Nhiệm vụ khác nữa là thành lập các nghiệp đoàn lao động mới hoặc cũ, các hội tương tế (họ được khuyến khích tận dụng truyền thống này của người Việt và người Hoa để xây dựng các tổ chức trên). Điểm 15 của bản chỉ thị là lời cảnh báo chống lại sự nhầm lẫn giữa "những phần tử của chúng ta và Đảng Độc Lập của cựu thành viên cộng sản Nguyễn Thế Truyền". Mặt khác, hai học viên từ Moscow này sẽ phải phát triển quan hệ với những tổ chức cộng sản Trung Quốc đang có mặt tại Đông Dương và tận dụng những kinh nghiệm của họ. Điểm 17 yêu cầu thu tập dữ liệu về chính trị và kinh tế để chuẩn bị cho bộ "Luận Cương" về Đông Dương.
Trần Phú và Ngô Đức Trì trên giả thiết là sẽ quay về Việt Nam với vai trò như nhau. Một bổ xung trong những chỉ thị cho họ về "Những vấn đề kỹ thuật" xác định rằng "hai đồng chí Việt Nam rời khỏi Đại Học phải được xem như là những phần tử tiên phong cho hoạt động của chúng ta tại Đông Dương"[7] Nhưng Trần Phú, một người đã từng là lãnh tụ của nhóm người Việt tại Đại Học Stalin, thì được xem là người nổi bật hơn, có lẽ vì ông không có tì vết gì vì đã không dính líu đến Nguyễn Thế Truyền (không như Ngô Đức Trì, đã biết Nguyễn Thế Truyền trong thời gian ở Paris). Trong khi cả hai đang chuẩn bị cho cuộc hành trình, họ được giới thiệu đến nhân vật có bí danh "Thibault", đại diện của QTCS đang sắp đi châu Á qua ngỏ Siberia. Thibault/Crémet đã sắp xếp một cuộc gặp riêng với Trần Phú tại Hồng Kông trong khoảng giữa ngày 1 và 15 tháng 1 1930, hoặc nếu như cuộc gặp này không thành, họ sẽ gặp nhau tại Hải Phòng trong hai tuần lễ đầu của tháng 2.[8]
Ngoài những nghị quyết và chỉ thị mà Thibault có nhiệm vụ cung cấp cho họ, QTCS còn trang bị cho hai người một bộ hướng dẫn chi tiết hơn. Nó bao gồm một tập tài liệu dài 48 trang có tựa đề Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương, được soạn thảo vào tháng 10 và 11. Trên thực tế đây là một văn bản phê bình những nghị quyết của Đại Hội Tháng 5 1929 của Thanh Niên. Khi Trần Phú và Ngô Đức Trì đến Leningrad vào ngày 11 tháng 11 1929, họ được báo rằng họ sẽ nhận tiền ở Berlin và Paris; nghị quyết và thư hướng dẫn thành lập đảng cộng sản cũng sẽ được gửi cho họ từ châu Âu. Sau khi đi bằng đường thuỷ đến Hamburg, họ đến Berlin theo đường tàu hoả, ở đó họ đã nhận được một "cuốn tiểu thuyết đóng bìa đẹp đẽ". Họ được lệnh không được bóc trang bìa ra trước khi đến Sài Gòn, ở đó họ sẽ tách những trang tài liệu do QTCS giấu kín bên trong.[9]
Chỉ thị Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương, một tài liệu đặc trưng của QTCS lúc ấy, trong đó đã cố gắng phối hợp những yếu tố trong bản Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin với những nghị quyết cấp tiến hơn từ Đại Hội 6 QTCS và Đại Hội Toàn Thể 10 của Ban Chấp Hành QTCS.[10] Phong trào cách mạng Đông Dương vẫn là "một cuộc đấu tranh với những tàn dư của phong kiến và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp vì nền độc lập dân tộc."[11] Nhưng giờ đây đảng cộng sản phải là "một thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp" chứ không phải là một kết quả từ những nhóm đào tạo chính trị.[12] Cương lĩnh của Thanh Niên bị phê phán vì đã vạch ra tiến trình của từng chặng đường cách mạng để dẫn đến đấu tranh vũ trang. Bản chỉ thị nói rằng "không thể nào xây dựng trình tự hoặc thời gian cho những giai đoạn phát triển cách mạng". Phải dùng sự "Phân tích vững chắc cho phong trào trong mỗi giai đoạn" để hướng dẫn hành động. Đánh giá quá cao tình hình có thể dẫn đến "chủ nghĩa mạo hiểm và chủ nghĩa manh động".[13] Sự thăng hoa của phong trào Đông Dương đã xảy ra trong thời gian khi sự đột phá của phong trào cách mạng thế giới đang bắt đầu - việc này bắt buộc những người cộng sản Đông Dương không những phải tự hướng mình đến sự phát triển từng bước của phong trào mà còn "hướng đến khả năng và sự chắc chắn của những cuộc đấu tranh trong phạm vi rộng và những sự kiện đang diễn biến nhanh."[14]
"Sai lầm chủ yếu của những quyết định của Thanh Niên là chúng đã không chứa đựng tính chính xác cần thiết về tầm quan trọng của các giai cấp và vai trò của chúng."[15] QTCS nhận định. Giai cấp tiểu tư sản không còn được xem là thành phần của "lực lượng tiên tiến" của cuộc cách mạng như cương lĩnh của Thanh Niên đã khẳng định. Họ có thể được sử dụng trong quá trình đấu tranh phản đế và cách mạng ruộng đất, nhưng chỉ dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Lực lượng thực sự thúc đẩy cho quá trình cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân; thành phần cách mạng chủ yếu của nông dân là tầng lớp bần nông - những nông dân không có đất sở hữu một ít ruộng đất.[16] Những gian hệ với những tổ chức hợp pháp và đảng phái khác giờ đây được định nghĩa là chỉ mang tính lợi dụng. Đảng phải "nới rộng, sử dụng và dẫn dắt cuộc đấu tranh phản đế của giai tầng tiểu tư sản, kể cả sinh viên.[17] Văn bản cũng khẳng định "Việc thành lập những tổ chức cộng sản bất hợp pháp nhưng vững mạnh, những tổ chức đã nhuần nhuyễn trong việc sử dụng những vũ khí đấu tranh đa dạng để đưa ra những ảnh hưởng hợp pháp hoặc bán hợp pháp - việc này phải là cơ sở của hoạt động đảng trong hoàn cảnh hiện thời của Đông Dương."[18] Hoạt động trong những vùng nông thôn cũng không được lơ là. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của đảng là phát triển phong trào nông dân chống lại địa chủ: "đảng cộng sản phải phát động, chuẩn bị và lãnh đạo cuộc đấu tranh của nông dân chống lại chế độ tá điền, chống lại việc bóc lột ruộng đất, thuế má, lĩnh canh, vân vân. Chúng ta phải nhắm vào việc phát triển từ những cá nhân bộc phát thành một phong trào nông dân rộng khắp chống lại địa chủ và đế quốc."[19] Nhưng "trọng tâm của đảng và hoạt động quần chúng vẫn phải nhắm vào các xí nghiệp, mỏ than, hoả xa, đồn điền, vân vân."[20] Những chỉ thị trên đã gây áp lực rất lớn đến những nhà hoạt động Việt Nam để khởi động một cuộc đấu tranh bạo lực nhưng lại khẳng định rõ ràng rằng những sai lầm về việc phân tích hiện tình cách mạng tại địa phương sẽ là lỗi của họ.
Mãi cho đến ngày 8 tháng 2 1930 Trần Phú và Ngô Đức Trì mới đến được Sài Gòn với những chỉ thị của họ. Họ bị cầm chân tại Paris vì những khó khăn trong việc thu thập hộ chiếu giả. Mặc dù QTCS thường được cho là có một cơ sở làm hộ chiếu giả tại Berlin, nhưng hình như nó vẫn chưa bước vào hoạt động trong năm 1929 hoặc 1930. Đối với hai người Việt Nam hồi hương và hai người Pháp được QTCS gửi đến Đông Nam Á trong thời gian 1929-31, việc tìm được những giấy căn cước giả là một trở ngại tương đối lớn. Trần Phú và Ngô Đức Trì đã nghe theo lời khuyên của người bạn học cũ tại Moscow là Bùi Lam và đã di chuyển một cách bí mật. Mỗi người đã trả 1.500 franc cho một thuỷ thủ Trung Quốc để trốn lên chiếc tàu Porthos cho cuộc hành trình đến Sài Gòn. Việc khởi hành chậm trễ của họ có nghĩa là Trần Phú đã không đến được Hồng Kông vào khoảng giữa tháng 2. Vì thế ông đã bị trễ cả hai cuộc hẹn với Thibault, chưa kể cả việc tham dự hội nghị thống nhất hai đảng.[21]
Thông tin về phương pháp và thời gian của việc chuyển giao những chỉ thị của QTCS đến Việt Nam và Hồng Kông vẫn còn là vấn đề nhạy cảm đối với những người cộng sản Việt Nam hiện nay vì họ vẫn khẳng định rằng Hồ Chí Minh chính là người đã thống nhất đảng. Ngày tháng đề trong phiên bản tiếng Nga của tài liệu dài 48 trang này đề ngày 23 tháng 11 1929 (việc Trần Phú và Ngô Đức Trì có nhận được phiên bản hoàn tất của những chỉ thị này hay không thì không rõ). Tài liệu này hình như đã được biết đến như là "những chỉ thị tháng Chạp" về việc thống nhất đảng.[22] Những giải thích hiện tại cho rằng đây chính là nguồn tài liệu của lãnh đạo QTCS về vấn đề thống nhất đảng.[23] Nhưng từ năm 1970 phiên bản tiếng Việt của tài liệu đã được trích dẫn để làm cơ sở cho giả thiết rằng Hồ chính là người thống nhất đảng lại đề ngày 27 tháng 10 1929. (Phiên bản này của tài liệu không thể tìm được trong văn khố của QTCS.) Với đầu đề "Về Vấn Đề Lập Đảng Cộng Sản Đông Dương", tài liệu này nhấn mạnh vai trò của "đại diện QTCS" trong việc thành lập một đảng cộng sản.[24] Dù vậy, dựa trên cơ sở của những phê bình trong giai đoạn 1930-31 về vai trò của ông trong việc hợp nhất đảng, cũng như dựa trên những khai báo của Ngô Đức Trì sau này, dường như Hồ đã không hề được đọc những "chỉ thị tháng Chạp" hoặc những tài liệu được in trong Văn Kiện Đảng khi ông hợp nhất hai đảng cộng sản vào đầu năm 1930.
Quá trình hợp nhất
Hồ Chí Minh đã đến Hồng Kông trước Trần Phú gần hai tháng.[25] Mặc dù ông đã báo cáo với QTCS rằng ông đến Trung Quốc vào ngày 23 tháng 12,[26] một chỉ điểm của Sở Liêm Phóng cho rằng đã phát hiện "Lý Thụy" trên chuyến tàu hoả đi Cửu Long (Kowloon - ND) trước ngày 15 tháng 12.[27] Tại Hồng Kông Hồ nhận ra rằng phong trào cộng sản Việt Nam đang nhận chỉ thị từ một đại diện Trung Quốc của Phân Bộ Viễn Đông. Ngoài ra, Thibault, được giao nhiệm vụ hướng dẫn phong trào cộng sản Việt Nam, đã đến Hồng Kông sau Hồ không bao lâu. Dường như ông chính là vị đại diện vô danh của QTCS "có nhiệm vụ kiểm tra tất cả các tổ chức cộng sản trong vùng Viễn Đông", người được cho là đã xuất hiện tại Hồng Kông vào hạ tuần tháng 12 1929. Căn cứ theo báo cáo của Sở Liêm Phóng, kiểm soát viên này đã lập lại những thông tin từ người đồng nghiệp Trung Quốc, rằng hướng hoạt động của những người cộng sản Việt Nam tạm thời đang nằm trong tay của ĐCS Trung Quốc.[28] Phân Bộ Viễn Đông đã báo cáo vào ngày 3 tháng 3 1930 rằng "Jaques", "nhân vật người Pháp" đã đi Hồng Kông vào cuối tháng 12; sau khi liên lạc được ở đó và có lẽ đã đi lại một vài nơi, ông sẽ phải quay lại Thượng Hải vào cuối tháng 2. "Nhưng vì báo cáo từ Hồng Kông chỉ đã nhận được vào cuối tháng 1, trong đó ông viết rằng ông dự định đi Đông Dương, chúng tôi đã không nhận được thêm tin tức gì từ ông ta," họ đã báo cáo.[29] Trong những thư từ trước đó, Phân Bộ Viễn Đông đã ám chỉ ông là "đồng chí phụ trách Nam Dương".[30] Điều kỳ lạ là đại diện người Pháp này dường như đã không hề gặp Hồ tại Hồng Kông.
Tại Hồng Kông Hồ nhanh chóng chấm dứt tình trạng mà ông cho là "trò tranh chấp trẻ con", mặc dù giờ đây ông cũng đã trở thành một phát ngôn viên cho QTCS trong số những người tự cho là có quyền điều khiển phong trào cách mạng Việt Nam. Báo cáo của Dương Hạc Đính với Sở Liêm Phóng vào năm 1930 cho thấy rằng Hồ đã không chấp nhận việc giải tán Thanh Niên.[31] Hội này vẫn nên được giữ lại sau khi đảng cộng sản được thành lập, "ít nhất là trong thời gian đầu". Sự phản đối này nhấn mạnh quan điểm của Hồ về Thanh Niên như là một mặt trận chính trị hữu ích và có thể là nguyên nhân vì sao các thành viên Thanh Niên vẫn tiếp tục phát hành tờ báo Thanh Niên của mình cho đến tháng 5 1930.[32], bên cạnh tờ báo mang tên "Đỏ"của An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) ra đời vào ngày 1 tháng 9 1929.[33] Báo cáo của Đính đã củng cố giả thiết rằng Hồ đã quá lạc hậu đối với tình hình chính trị đang phát tiển nhanh chóng. "Chúng tôi đã báo cáo với Hồ mọi chuyện đã xảy ra trong và ngoài nước", ông cho biết. Hai ngày sau khi đến nơi, Hồ đã viết thư cho lãnh đạo của Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) để giải thích nhiệm vụ của ông từ QTCS là nhằm thành lập một đảng cộng sản cho Việt Nam. Từ cơ sở này, Hồ đã đưa ra quyền hạn của mình từ chỉ thị mà ông có được trước khi đi Xiêm. Dường như ông đã linh tính rằng ông phải hành động gấp mà không phải chờ đợi cập nhật từ những chỉ thị mới. Ông yêu cầu Đông Dương Cộng Sản Đảng phải gửi hai đại biểu đến gặp ông tại Hồng Kông. (Đến cuối tháng 12 đã có hai đại diện của ANCSĐ có mặt tại Hồng Kông, đó là Nguyễn Thiệu, bí danh là Nghĩa đang lẫn trốn cảnh sát Pháp, và Châu Văn Liêm, người được chi bộ Sài Gòn gửi đến để tham dự hội nghị sắp tới ở Singapore.[34]) Hồ cũng đã viết thư cho Phân Bộ Viễn Đông để thông báo sự có mặt của ông tại Hồng Kông và đệ trình cho họ những đề xuất của mình. Theo lời Dương Hạc Đính, Hồ đã yêu cầu cung cấp lương tháng cho ông khoảng 240 - 300 đồng Trung Quốc, được trả qua tài khoản của Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc.[35] Hình như ông đã ra vẻ biểu dương quyền lực trước những đồng chí của mình. Vì cuối tháng 2 1930 ông đã viết thư cho đại diện QTCS để tìm hiểu rõ ràng hơn nhiệm vụ của mình: "Hiện nay tôi không biết được chính xác vị thế của mình là gì... tôi là đảng viên của ĐCS Pháp hay ĐCS Việt Nam?" Ông còn hỏi: "Nhiệm vụ mà QTCS đã giao cho tôi đã bị huỷ bỏ rồi chăng? Nếu không thì tôi có phải là nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông hay không?" Ông yêu cầu Ban Chấp Hành QTCS đưa ra quyết định về việc này.[36]
Quá trình được biết như là "Hội Nghị Hợp Nhất" đã tiến hành trong khoảng thời gian từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 1930. Trong bản báo cáo cho QTCS (bằng tiếng Anh) đề ngày 18 tháng 2 1930, Hồ đã tường thuật hoạt động của mình với giọng văn súc tích quen thuộc: "Tôi đã kêu gọi đại diện của hai thành phần (Dongzuong(sic) và Annam). Chúng tôi đã gặp vào ngày 6 tháng 1. Là đại diện của QTCS với đầy đủ quyền hạn để quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào Cách Mạng tại Đông Dương, tôi đã chỉ ra việc họ đã phạm sai lầm ở đâu và họ cần phải làm gì. Họ đã đồng ý thống nhất thành một đảng. Chúng tôi đã cùng nhau chỉnh sửa cương lĩnh và chiến lược theo đúng hướng của QTCS."[37] Ông lưu ý rằng sẽ thành lập một Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương bao gồm 7 uỷ viên chính thức và 7 uỷ viên dự bị. Những đại biểu đã về lại Việt Nam vào ngày 8 tháng 2, ông cho biết.[38] Hồ cũng gửi cho Phân Bộ Viễn Đông bản dịch tiếng Anh của "Lời kêu gọi công, nông, binh, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức và các Đồng chí", tuyên bố việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Bản kêu gọi dự định sẽ được phân phát vào khoảng ngày 20 tháng 3, vào lúc Uỷ Ban Trung Ương sẽ được thành lập.[39]
Trong vấn đề vị thế của Việt Nam trong hệ thống giai tầng cộng sản, dường như Hồ đã có một thoả hiệp ngoại giao. Ông giải thích rằng: "Bộ phận Singapore đã viết thư cho chúng tôi rằng ANCSĐ sẽ nằm dưới sự chỉ đạo của Singapore. Nhưng căn cứ theo hiện trạng địa lý (Nga - Trung Quốc - An Nam) cũng như hiện trạng chính trị (Đảng vững mạnh hơn, công nghiệp tiến triển tại Bắc Kỳ hơn là ở Nam Kỳ) - Tôi đề nghị rằng ANCSĐ nên được chỉ đạo từ Thượng Hải qua ngỏ Hồng Kông. Dù thế, ANCSĐ vẫn nên giữ liên lạc chặt chẻ với Singapore. Vì lý do trên, tôi yêu cầu ĐCS Trung Quốc gửi một lá thư giới thiệu để chúng tôi có thể điều một đồng chí An Nam đến làm việc với Singapore."[40] Hồ vì thế đã gửi tín hiệu rằng ông sẵn sàng hợp tác với liên hiệp mới đang được thành lập tại Singapore, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ liên hệ trực tiếp với QTCS thông qua Phân Bộ Viễn Đông. Việc ông muốn hoạt động qua ngỏ Thượng Hải không nên hiểu là thân Trung Quốc mà chính là một phản ứng không chịu thần phục ĐCS Trung Quốc. Đảng mới được đặt tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong khi đó Hồ thường gọi nó là Đảng Cộng Sản An Nam (Annam Communist Party - ND) khi ông viết bằng tiếng Anh.
Tài liệu chính thức của Hà Nội về hội nghị này được lấy ra từ tường thuật của Nguyễn Thiệu, một đại biểu của ANCSĐ.[41] Hai đại biểu của thành phần ĐDCSĐ là Nguyễn Đức Cảnh và Trịnh Đình Cửu, cả hai đều xuất thân từ tổ chức ĐDCSĐ nguyên thuỷ. Một lá thư của ĐDCSĐ gửi cho các thành viên ngày 7 tháng 1 cho thấy rằng hai đại biểu được QTCS triệu tập sẽ đi Hồng Kông trong khoảng 17 hoặc 18 tháng 1.[42] Do đó có thể Hồ Chí Minh đã dùng ngày tháng âm lịch khi viết báo cáo cho QTCS rằng hội nghị được bắt đầu vào ngày 6 tháng 1 - tức là ngày 4 tháng 2 dương lịch.[43] Một khả năng nữa là hội nghị đã diễn ra trong hai hoặc ba giai đoạn với phiên họp tiền hội nghị được tổ chức vào ngày 6 tháng 1, theo sau là cuộc hội ý giữa Phân Bộ Viễn Đông và các thành viên của ĐDCSĐ từ Bắc Kỳ, và một phiên họp cuối cùng từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2. Để làm cho bức tranh vốn đã khó hiểu càng thêm phức tạp, theo tài liệu của Trung Quốc về Hội Nghị Hợp Nhất thì Hồ Chí Minh đã không có mặt khi hội nghị khai mạc vì nó quá "rộng lớn" [hàm ý là quá công khai], nhưng nó đã được diễn ra dưới sự "chỉ đạo trực tiếp" của Hồ.[44] Thật khó mà biết được lời tường thuật này đang nói về cuộc họp nào. Dù sao, những tài liệu khác về hội nghị đều cho thấy đây là một cuộc họp đầy thân mật.
Ngày tháng chính xác của Hội Nghị Hợp Nhất đã không quá là quan trọng nếu như nó không là dấu hiệu của những tranh chấp vẫn đang tiếp diễn trong hàng ngũ lãnh đạo đảng. Điều này được tìm thấy trong văn khố của Pháp và thậm chí trong bài viết thứ hai của Nguyễn Thiệu về sự kiện thành lập đảng.[45] Và vì thế việc lẫn lộn ngày tháng đã củng cố cho ấn tượng rằng vẫn còn những xung đột trong giới lãnh đạo của ĐCS Việt Nam sau ngày 8 tháng 2 1930. Cuối cùng Hội Nghị cũng đã tạo ra được khuôn khổ để thống nhất các thành phần Việt Nam đang đối chọi nhau, nhưng không thực sự có nghĩa là nó đã hoàn thành quá trình này. Cương lĩnh vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo cho đảng mới cũng không khác biệt với cương lĩnh 8 điều về các nước thuộc địa mà Bukharin đã đưa ra tại Đại Hội 6 QTCS. Rõ ràng là Hồ vẫn chưa từ bỏ chiến lược mặt trận thống nhất vì ông đã không lên án toàn bộ giai cấp tư sản. Cương lĩnh của ông kêu gọi "lật đổ thực dân Pháp, chế độ phong kiến và những thành phần tư sản phản cách mạng"; một nền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam; một chính quyền công-nông-binh; tịch thu toàn bộ ngân hàng và những phương tiện sản xuất khỏi bàn tay của bọn đế quốc; quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và ruộng đất tư hữu của đế quốc và tư sản phản cách mạng để chia cho nông dân nghèo; một chế độ làm việc ngày tám tiếng; huỷ bỏ nợ quốc gia, sưu thuế cá nhân và miễn thuế cho dân nghèo; tôn trọng quyền tự do dân sự; mở mang giáo dục xã hội; thực hiện nam nữ bình đẳng.[46] Chính sách trưng thu ruộng đất có vẻ đã giống hệt chính sách do Uỷ Ban Điền Địa Trung Ương của Quốc Dân Đảng Trung Quốc đưa ra tại những cuộc họp ngày 19 tháng 4 và 6 tháng 5 1927.[47] Vì thế bản cương lĩnh nói chung đã không thể được chấp nhận đối với QTCS thời kỳ sau Hội Nghị Toàn Thể lần thứ 10 và đã có rất ít điểm tương đồng so với chỉ thị do Moscow soạn thảo vào mùa thu trước. Nó sẽ được thay thế bởi một chính cương mới và một bộ luận cương dài tại đại hội toàn thể lần thứ nhất của đảng vào tháng 10 1930. Sự kiện này đáng dấu một giai đoạn thực sự trung thành của đảng đối với đường lối hiện tại của QTCS được thay đổi từ giữa mùa hè 1928 đến giữa năm 1929.
Bất chấp quyền lực rõ ràng của Hồ, thành phần ĐDCSĐ dường như đã đóng vai trò chủ đạo trong ĐCS Việt Nam trong những tháng đầu sau khi hợp nhất.[48] Ngô gia Tự vẫn giữ vai trò then chốt trong cơ cấu của Đảng tại Sài Gòn. Ông giữ chức vụ đứng đầu Chấp Uỷ của Uỷ Ban Lâm Thời ở phía nam cho đến khi ông bị bắt vào cuối tháng 5 1930. Hai thành viên ĐDCSĐ tại hội nghị hợp nhất được giao nhiệm vụ hoạt động tại miền Bắc và Trung Việt Nam.[49] Một xu hướng liên hiệp dường như đã tồn tại trong tổ chức đảng trong nửa đầu năm 1930: Nguyễn Văn Lợi, người được các thành viên còn lại của đảng Tân Việt bầu vào Chấp Uỷ Uỷ Ban Lâm Thời phía nam, sau này đã khai với Sở Liêm Phóng rằng "Trung Ương Thường Vụ", họp mặt thường xuyên tại miền nam và miền trung, đã được trao quyền để thực hiện những quyết định tại Nam Kỳ.[50] Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương thành lập vào đầu tháng 3 bao gồm năm thành viên của ĐDCSĐ, trong khi đó chỉ có một thành viên của ANCSĐ và một từ đảng Tân Việt cũ. Nhưng những uỷ viên chính thức của Uỷ Ban Trung Ương đã không thể gặp nhau. Những thành viên của Trung Ương Thường Vụ đóng tại phía bắc gồm toàn những đảng viên của ĐDCSĐ: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan.[51] Một số đảng viên của đảng mới có thể đã nghi ngờ việc cần thiết phải hợp nhất. Ví dụ như Nguyễn Đức Cảnh, được cho là đã từ chối chức vụ trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương vì ông muốn tiếp tục hoạt động trong Ban Chấp Hành của Tổng Liên Đoàn Lao Động Bắc Kỳ, cơ quan này có thể là một chi nhánh của Liên Hiệp các Công Đoàn Lao Động Nam Dương.[52] Nhìn chung, ta có ấn tượng rằng những cơ cấu uỷ ban khác nhau đã được dùng trong quá trình tranh giành quyền lực.
Cuộc khởi nghĩa đầu năm
Những biến động đầu tiên của cuộc khởi nghĩa vào năm 1930 đã ở trong giai đoạn chuẩn bị cuối cùng vào thời gian ĐCS Việt Nam thành lập. Không có dấu hiệu là QTCS đã biết trước những biến động này, nhưng ĐCS Trung Quốc và những người Việt dường như đang hoạt động với một lịch trình chung. Cuộc bãi công tại đồn điền cao su Phú Riềng phía tây Nam Kỳ từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 trên thực tế có thể đã là một phần của cuộc "Tổng tấn công Tết" 1930. Một trong những người tổ chức là Trần Tử Bình, thành viên của ĐDCSĐ đã nói đến trong cuốn hồi ký "Đất Đỏ" của mình rằng cuộc đình công thực ra đã xảy ra vào ngày 30 tháng 1 tức là mồng một tết Nguyên Đán, khi 5.000 công nhân tập trung tại dinh thự của viên quản lý đồn điền để xem múa lân và đưa ra yêu sách đòi hỏi điều kiện làm việc tốt hơn.[53] Dường như cuộc đình công này hoàn toàn do ĐDCSĐ phát động với sự chỉ đạo của Ngô Gia Tự từ Sài Gòn và những nhà hoạt động khác từ Bắc Kỳ, nơi lực lượng lao động đã được tổ chửc.
Vào ngày 2 tháng 2 Xô Viết Long Châu (Loung Zhou - ND) và Quân Đội Hồng Quân số 8 của Trung Quốc đã được thành lập tại tỉnh Quảng Tây, phía bắc biên giới Việt Nam. Căn cứ theo tài liệu chính thức của ĐCS Trung Quốc, phong trào Xô Viết bao trùm tám quận chung quanh Bình Hương (Ping Xiang - ND) và Long Châu và đã đứng vững trong khoảng sáu tháng. Nó được cho là đã xuất phát từ cuộc nổi dậy của binh lính Quốc Dân Đảng tại Nam Ninh (Nan Ning - ND) và đã đi theo tổ chức của Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping - ND) đang có cơ sở cách mạng tại Bách Sắc (Bose hoặc Pai-se - ND) vào tháng 12. Cuộc khởi nghĩa Long Châu do một người cộng sản là Yu Zouyu, là sĩ quan trong lực lượng của sứ quân Lý Minh Thụy (Li Mingrui - ND) đóng tại Nam Ninh.
Không có bằng chứng trực tiếp về vai trò của Việt Nam trong việc thành lập Xô Viết, nhưng sẽ không có gì ngạc nhiên nếu những người cộng sản Việt Nam đang định cư tại Quảng Tây tham gia phong trào. Đây là một khu vực mà người Pháp cho là nằm trong vùng ảnh hưởng của họ, và trên thực tế việc đem máy bay thả bom đã giúp nhanh chóng phá huỷ phong trào xô viết này. Có một số thành viên cộng sản người Việt sống tại Long Châu, trong đó có hai nhân viên lái xe của vị tỉnh trưởng, Lê Quang Đạt đã khai với người Pháp sau này.[55] Lê Hồng Sơn được cho là đã nhận được sự ủng hộ của vị tỉnh trưởng này là Yu Zuobo, anh em họ hàng với Yu Zouyu và là một trong những sứ quân mà ĐCS Trung Quốc đang hợp tác vào năm 1929.[56] Hồ Chí Minh đã viết trong báo cáo ngày 18 tháng 2 1930 rằng năm "đồng chí" người Việt đang hoạt động tại Quảng Tây vừa mới bị bắt.[57] Trong cùng bản báo cáo ông nói rằng "phân bộ phản đế" của đảng cộng sản vừa thành lập phải "làm việc hết mình để mở rộng ảnh hưởng của Xô Viết Quảng Tây".[58] Ấn bản cuối cùng của tờ Thanh Niên vào tháng 5 đã nhận định rằng "chúng ta phải phản đối việc đế quốc Pháp đưa quân đến biên giới Việt-Trung nhằm lật đổ chính quyền Xô Viết Long Châu".[59] Bất chấp những dị biệt về nhận thức chính trị và thành phần người Việt tham gia thành lập xô viết, ĐCS Việt Nam đã hậu thuẫn phong trào này.
Cuộc khởi nghĩa bất thành tại Yên Bái được chuẩn bị từ tháng 9 1929 đến tháng 1 1930, mặc dù là do Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tổ chức, nhưng có thể đã có liên hệ với những nổi dậy trong dịp đầu năm. Được dự định là một cuộc "tổng tấn công" đánh chiếm các thị trấn lớn và các cơ sở quân sự của Pháp,[60] cuộc khởi nghĩa đã có thể là một cách đánh lạc hướng quân Pháp từ Long Châu. Như ta đã thấy, thành phần ĐDCSĐ đã tuyên bố chủ tâm hợp tác với VNQDĐ từ ngày 7 tháng 1 1930. Trong lá thư ngày 18 tháng 2 Hồ Chí Minh cũng đã báo với Phân Bộ Viễn Đông rằng "cánh tả" của VNQDĐ "đang có quan hệ mật thiết với chúng tôi;" cũng cùng lúc đó ông lưu ý rằng thành phần thiên hữu của đảng này đang mang khuynh hướng manh động.[61] Một yếu tố chủ chốt trong cuộc nổi dậy đã không được đưa ra kịp thời đó là việc tổ chức một cuộc tấn công từ Vân Nam xuống vùng thung lũng sông Hồng. (Vào năm 1930 lãnh sự quán Pháp tại Vân Nam đã báo với người Anh rằng trong số những thành viên của VNQDĐ trong tỉnh đã có "một số lớn thành phần cộng sản mà giờ đây đang ở tại học viện quân sự Trung Quốc"[62]) Một tổ chức tại Ma Cao có tên là "Hội Đồng Chấp Hành của Hiệp Hội Binh Lính và Thuỷ Thủ Cách Mạng" đã nhanh chóng xuất bản một tập tài liệu ủng hộ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Tại Hồng Kông người Pháp đã tịch thu những truyền đơn (đề ngày 17 tháng 2 1930) kêu gọi thuỷ thủ của chiến hạm Waldeck Rousseau ủng hộ "cuộc khởi nghĩa cách mạng của người Việt Nam". Người Việt đã "anh dũng đứng lên tại Hà Nội, Yên Bái và Hồng Hoa[sic], vân vân..., khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam cần được giới lao động Pháp hậu thuẫn và giúp đỡ".[63] Người Pháp cho rằng tài liệu này có liên quan đến tổ chức Thanh Niên, nhưng cũng có thể là do thành phần ĐDCSĐ hoặc VNQDĐ viết ra. Khởi nghĩa Yên Bái sau này đã bị những người cộng sản Việt Nam phê phán, nhưng nó vẫn được xem như là một cuộc đứng lên đầy anh dũng và đã châm ngòi cách mạng trong năm 1930. Người Pháp đáp trả lại cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ này bằng cách phá huỷ toàn bộ những ngôi làng đã ủng hộ những quân nổi dậy. Việc đàn áp này có thể đã làm suy yếu việc phát triển hoạt động của cộng sản trong vùng nông thôn Bắc Kỳ vào cuối năm 1930.
Những nhiệm vụ mới
Ngày 13 tháng 2 Hồ Chí Minh rời Hồng Kông đi Thượng Hải, ở đây ông đã viết một báo cáo tiếng Anh bằng tay về những gì ông đã làm từ khi đến Xiêm năm 1928. Bản báo cáo cho thấy ông đang bận tâm về những quan hệ với ĐCS Trung Quốc. Ông không những nói về quan hệ với bộ phận Singapore mà còn đề cập đến việc ông yêu cầu ĐCS Trung Quốc một bức thư gửi cho "một số đồng chí lãnh đạo (Trung Quốc) ở Xiêm để những thành viên An Nam tại nước này có thể làm việc với các thành viên của Ch.[sic]" Ông còn nói rằng ông đã yêu cầu ĐCS Trung Quốc "gửi vài đồng chí chỉ huy" đến Sài Gòn, nơi mà ông bảo rằng đã có khoảng 200 thành viên Trung Quốc nhưng họ lại thiếu một người có khả năng lãnh đạo. Ông đề nghị rằng nên thành lập một hội đồng bao gồm một hay vài đại diện của mỗi bên để điều phối hoạt động liên quan đến những quyền lợi của quần chúng Trung Quốc và An Nam.[64] Vào lúc đó, ông đang dự định đi Vladivostok để gặp người liên lạc không rõ danh tính. Báo cáo của ông (đề ngày 18 tháng 1) cho thấy rằng ông đã chưa gặp Trần Phú. Ông viết rằng ông đã không nhận được tin tức từ người Pháp và "hai đồng chí An Nam" vào thời điểm trên. Tôi đã không tìm ra được bằng chứng rằng ông đã thực sự đi Vladivostok sau khi viết bản báo cáo này.
Vladivostok đã trở thành địa điểm cho trường đào tạo ngắn ngày được thành lập cho những đảng viên ĐCS Trung Quốc cập nhật kiến thức và phương pháp hoạt động cộng sản. Vào tháng 5 1929 Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đã đề nghị thành lập những cơ sở đào tạo này vì họ không có đủ thành viên hoặc công nhân để đào tạo tại Moscow như QTCS mong muốn. Trung Quốc xem đây là nơi để phát triển những "thành phần trí thức và nông dân đã có kinh nghiệm quân sự trong những lực lượng hồng quân đã tan rã sau thất bại của xô viết Hải-Lục-Phong.[65] Một vài người Việt biết nói tiếng Hoa như Lê Quang Đạt, Hồ Tùng Mậu và vợ của ông là Lý Phương Thuận được cho là đã đến đây năm 1930 để tham dự một khoá đào tạo tuyên truyền dài ba tháng.[66] Năm 1930 Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương cũng có một văn phòng bí thư thường trực tại đây.[67] Nhưng Hồ Chí Minh chắc hẳn đã được miễn tham dự khoá đào tạo và đã bị ngăn cản không cho đi Vladivostok vì Phân Bộ Viễn Đông đang cần ông làm việc tại Thượng Hải. Họ báo cáo vào ngày 3 tháng 3 rằng Hồ đã xuất hiện "trong vài ngày trước đây". Họ giải thích "Chúng tôi gửi kèm theo bản báo cáo của ông ấy trong đó đề cập mọi việc mà ông ấy đã báo cáo bằng miệng với chúng tôi. Chúng tôi quyết định sử dụng ông ấy trong vài nhiệm vụ liên quan đến công tác tổ chức và tiếp tục hoạt động trong nước." Lý do mà ông được giao phó nhiệm vụ đặc biệt này có thể là vì việc mất tích của Thibault. Hơn nữa, cả Kylski, người đã khởi hành đi Moscow, và Eisler đều không nói được tiếng Trung Quốc. Do đó Hồ có thể làm công việc của một người thông dịch trung gian đang rất cần và cũng là nguồn thông tin về chính trị của Trung Quốc. Phân Bộ Viễn Đông đã không nhắc đến trong bức thư rằng Hồ đã được đề bạt vào chức vụ đứng đầu Phân Bộ Miền Nam (không biết chắc rằng ông đã thực sự mang chức vụ này hay không), hoặc ông đã được phái sang tham dự hội nghị ĐCS Mã Lai được tổ chức vào trung tuần tháng 4 tại Singapore. Họ ghi chú rằng một thành viên người Trung Quốc sẽ tham dự hội nghị này với "những chỉ thị từ chúng tôi".[68] Chỉ cho đến tháng 5 họ mới tiết lộ rằng họ đã gửi Hồ đi Singapore để tham dự hội nghị ĐCS Mã Lai.
Hồ quay lại Hồng Kông vào giữa tháng 3, rốt cuộc ông đã tiếp xúc với trước tiên là Trần Phú rồi Ngô Đức Trì. Sau một thời gian ngắn đặt chân đến Sài Gòn, Trần Phú đã đi trước đến Hồng Kông để gặp Thibault. Trì đợi ở Sài Gòn trong ba tuần lễ mà vẫn không thấy tin tức nên đã quyết định đáp tàu đi Hồng Kông để tìm Trần Phú. Nhưng trước khi khởi hành ông đã gặp Bùi Lâm, một bạn học tại Moscow vừa về từ Paris vào ngày 9 tháng 3. Bùi Lâm mang theo một tập hướng dẫn có tên Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương đã được dịch sang tiếng Pháp tại Paris (Trì không giải thích rằng đây có phải là phiên bản của lá thư mà ông mang từ Berlin hay không, hoặc là bản bổ xung hay là một bộ hướng dẫn hoàn tất hơn). Vào đầu tháng 3 Trì đáp tàu thuỷ đi Hồng Kông và cuối cùng đã tìm ra Trần Phú tại hội YMCA (Young Men's Christian Association, một hội từ thiện Thiên Chúa Giáo thành lập năm 1844 tại Anh - ND). Trần Phú đã trễ cuộc hẹn với Thibault và đã không thể đi Hải Phòng vì người Pháp đang tăng cường bố ráp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Ông vẫn chưa gặp Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ quay lại Thượng Hải vào tháng 3. Ông kể với Trì về cuộc gặp gỡ giữa ông với Hồ và những tin tức về việc thống nhất đảng cộng sản vào tháng 1. "Chúng tôi chẳng có gì để làm ngoại trừ phải quay về và bắt đầu hoạt động vì Hồ đã nắm trách nhiệm liên lạc với QTCS," Trì đã khai với người Pháp.[69]
Sau này Hồ đã gặp Trì và giải thích: "Vào cuối năm 1927 tôi đã nhận được lệnh từ QTCS để tuyên truyền về việc thành lập một đảng cộng sản tại Đông Dương. Tôi đã bị bệnh ở Xiêm hơn một năm và đã không thực hiện được điều gì." Rồi Hồ đã tường thuật việc hợp nhất đảng và nói rằng Phân Bộ Viễn Đông đã phê chuẩn. "Sau khi hợp nhất", ông kết luận, "toàn bộ những đảng viên cộng sản Trung Quốc sẽ tham gia ĐCS Đông Dương."[70] Vào thời điểm này, Hồ đã có đủ quyền hành để ra lệnh cho Ngô Đức Trì quay lại Sài Gòn và Trần Phú được điều đi Hà Nội. Lời khai báo của Trì đã không cho thấy được điều gì hơn về những chỉ thị hoặc kế hoạch của Hồ.
Về lại đến Sài Gòn vào đầu tháng 4 1930,[71] Ngô Đức Trì được đưa đi gặp Ngô Gia Tự. Tự phân công ông vào công tác tuyên truyền nhưng đã không giao cho ông một công việc cụ thể nào. Tự cho biết rằng hiện giờ "chúng tôi vẫn còn quá bận rộn với một số công việc chưa hoàn tất". Sau đó Trì được đưa đến Chợ Lớn và ở trong một ngôi nhà được dùng làm văn phòng của chi bộ cộng sản nhà máy điện Chợ Lớn. Ông đã không được mời tham gia các cuộc họp chi bộ, và cũng chẳng được giao cho nhiệm vụ gì ngoài việc chuyển ngữ bản "Nghị Quyết" mà ông mang theo từ Berlin và lá thư do Bùi Lâm mang về. Cho đến cuối tháng 4, Trì được bảo rằng ông sẽ phải soạn thảo tài liệu tuyên truyền cho một cuộc đình công ở các thị trấn và thôn quê. Nhưng chỉ sau cuộc đình công 1 tháng 5 (May Day, ngày Quốc Tế Lao Động - ND) tại nhà máy điện và một lần di chuyển cơ sở, ông mới được giao phụ trách tờ báo Cờ Đỏ. Chỉ sau khi Ngô Gia Tự bị bắt vào cuối tháng 5 Ngô Đức Trì mới được mời tham gia vào Xứ Uỷ Nam Kỳ và sau đó là Uỷ Ban Trung Ương.
Vai trò quan trọng mà Ngô Gia Tự được giao phó đã được nhấn mạnh trong lời tường thuật của Nguyễn Nghĩa (Nguyễn Thiệu) từ phần hai của hồi ký của ông về quá trình hợp nhất. Hồi ký của Nghĩa giải thích rằng hai tổ chức cộng sản ở phía nam đã chọn ra hai công nhân để làm việc trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương là Sáu (Hoàng Quốc Việt) và Lộ (Phạm Hữu Lầu).[72] Nhưng ông lại kể rằng Ngô Gia Tự, người được chọn đứng đầu Xứ Uỷ Nam Kỳ là người nắm quyền quyết định mọi việc. Chính Ngô Gia Tự là người đã giao nhiệm vụ hoạt động tại cách tỉnh cho Nghĩa và Châu Văn Liêm, hai đại diện từ Hội Nghị Hợp Nhất do Hồ Chí Minh gửi đến để đảm trách việc thành lập đảng tại miền nam, dưới danh nghĩa của QTCS.[73] Vì thế, cũng như tại Trung Quốc, trên thực tế quyền hạn của QTCS dường như đã yếu hơn so với giả thuyết của những quan chức QTCS tại Moscow.
Hồi ký của Nguyễn Nghĩa cũng chỉ ra những khó khăn trong việc hoà nhập những đảng viên Trung Quốc vào đảng cộng sản Việt Nam. Nghĩa chỉ ra rằng tổ chức người Hoa tại Nam Kỳ lớn hơn cả những thành phần cộng sản người Việt ở đây, bao gồm nhiều nhà hoạt động đầy kinh nghiệm đã trốn khỏi Quảng Đông sau Công Xã Quảng Châu. Họ không phấn khởi mấy về việc chỉ định thành viên tham gia vào Uỷ Ban Trung Ương của ĐCS Việt Nam vì một số lý do:họ cho rằng những người Trung Quốc không có giấy tờ hợp pháp, không quen thuộc với hiện tình chính trị, hoặc không biết nói tiếng Việt. Họ chỉ muốn đưa người vào Xứ Uỷ Nam Kỳ.[74] Cuối cùng, theo một tài liệu của Hà Nội thì đã có hai thành viên Trung Quốc được lựa chọn để đưa vào Uỷ Ban Trung Ương: Lưu Lập Dao (A Lầu) và A Duyên (Duy).[75]
Không có gì ngạc nhiên khi người Trung Quốc đã chần chừ trong việc tham gia vào đảng mới vì đảng này không phải là chi nhánh của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Theo báo cáo của Ngô Đức Trì với người Pháp thì căng thẳng về hướng phụ thuộc của đảng mới vẫn tiếp tục cho đến mùa xuân. Ông biết được từ Ngô Gia Tự rằng một đại diện Trung Quốc từ Phân Bộ Viễn Đông đã quá cảnh Sài Gòn trên đường từ Thượng Hải đi Singapore. Đại diện này đã cho thấy ông không hài lòng về liên hệ trực tiếp của ĐCS Việt Nam với Phân Bộ Viễn Đông, và đã nhận định rằng những người cộng sản Đông Dương phải trực thuộc "Ban Bí Thư của Liên Đoàn Cộng Sản Nam Dương" (hàm ý là Liên Đoàn tại Singapore). Sở Liêm Phóng cho rằng vào tháng 4 đã có một cuộc họp tại Sài Gòn với "một kiểm soát viên Trung Quốc từ Phân Bộ Viễn Đông" đến từ Xiêm và đã không biết được rằng "Phân Bộ Viễn Đông đã thông qua tư cách độc lập của ĐCS Việt Nam". Ông đã triệu tập một cuộc họp vào ngày 19 tháng 4 nhằm liên kết những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam .[76] ĐCS Trung Quốc vì vậy đã không hài lòng về việc mất đi quyền lực đối với một đảng cộng sản tại vùng Đông Nam châu Á.
Cao trào cách mạng tại Trung Quốc và Nam Dương
Trong khi những người cộng sản Việt Nam đang thành lập cơ chế mới, Lý Lập Tam cũng đang thúc đẩy ĐCS Trung Quốc tiến đến đỉnh điểm của một làn sóng cách mạng mới. Ngày 26 thán 2 1930 ông đưa ra Thông Tư số 70, được cho là "phương thức đầu tiên và rõ ràng, minh bạch nhất của "Đường Lối Lý Lập Tam" trong tương lai"[77] Thông tư này cho rằng trong khi "làn sóng cách mạng mới đang tiến triển" và khi "cuộc chiến tranh sứ quân" đang tiếp tục lan rộng, mục tiêu cơ bản của việc phát triển một "cao trào cách mạng" đang được hình thành. Lý cho rằng "cuộc đấu tranh quần chúng trên toàn quốc" đang phát triển đều khắp và công tác tổ chức đảng tại thành thị đang hồi phục sau giai đoạn thoái trào 1927. Chiến lược của ông là "tập trung và tấn công" để giành chiến thắng ban đầu tại một hay nhiều tỉnh. Việc này có thể đạt được bằng cách tổ chức "một cuộc tổng đình công trong toàn nghành nghề", hậu thuẫn và thâm nhập cuộc đấu tranh ruộng đất của nông dân, và phát động binh biến trong hàng ngũ quân đội của các lãnh chúa. Lý cũng đã kèm theo một cảnh báo chống lại những kẻ "cánh hữu và xét lại", những người này, ông cảnh cáo, sẽ phê phán "chủ trương của đảng là manh động".[78]
Đầu tháng 3 Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc tổ chức hội nghị tại Thượng Hải để tránh những mật thám Nam Kinh và những người "Tái Tổ Chức" ở Hồng Kông.[79] Trong khoảng thời gian ấy, một "uỷ ban hành động" tại Thượng Hải do phụ tá của Lý Lập Tam là Lý Duy Hán (Li Wei Han - ND) thành lập để tìm cách vô hiệu hoá sự ngoan cố của bộ phận Giang Tô (Jiang Su - ND).[80] Vào ngày 15 tháng 3 Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương cũng đã tổ chức cuộc họp, chắc hẳn là ở Thượng Hải, cũng như cuộc họp của Liên Hiệp các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức cũng xảy ra tại Thượng Hải vào cùng thời gian và rất nhiều những đại biểu đã tham dự cả hai cuộc họp. Tại hội nghị này một nghị quyết ủng hộ Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành Trung Ương QTCS lần thứ 10 được thông qua. Nghị quyết này nhấn mạnh lòng trung thành của ĐCS Trung Quốc đối với đường lối của QTCS và cũng phần nào là một phản hồi những phê bình từ Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 10 1929. Nghị quyết viết: "Uỷ Ban Trung Ương nhận định rằng đường lối và nghị quyết của Hội Nghị Toàn Thể [QTCS lần thứ 10] đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của cấp lãnh đạo Cách Mạng tại Trung Quốc và Nam Dương, và đặc biệt là hiện tình của cuộc đấu tranh với chủ trương khuynh tả, xét lại, thoả hiệp và cơ hội... "[81] Nghị quyết của chi bộ Nam Dương đã phản đối phê bình của Trần Độc Tú và những người "cho rằng cuộc đấu tranh hiện tại của quần chúng Trung Quốc là "đối lập với cao trào cách mạng"".[82] Tài liệu khẳng định: "Việc chuyển hoá từ một cuộc tổng bãi công của công nhân tại Nam Dương sang thành một cuộc tấn công chính trị là một vấn đề cấp bách cho phong trào công nhân hiện nay".[83] Cuộc họp này có thể là cơ hội để những người ủng hộ Lý Lập Tam truyền bá chính sách mới của ông.
Một báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy rằng một ngày sau khi nghị quyết trên được thông qua, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản đã tổ chức một cuộc họp tại Thượng Hải.[84] Báo cáo này cho thấy sự can thiệp ngày càng nhiều của ĐCS Trung Quốc vào công việc của những đảng châu Á khác. Tại cuộc họp này thành viên người Đài Loan là Lee Nan Mow thông báo rằng: theo chỉ thị từ Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc, Đoàn Thanh Niên đã được giao nhiệm vụ hỗ trợ phong trào cách mạng tại vùng đảo Đông Ấn, Đông Dương và Triều Tiên "bằng mọi phương tiện có thể". Những thành viên người Ấn và Triều Tiên cho biết rằng mặc dù phong trào cách mạng của họ đang tiến triển gần đây, nhưng sẽ vô cùng khó khăn để tiếp tục nếu không có sự hỗ trợ của "đảng anh em Trung Quốc vĩ đại". Cuộc họp đồng ý gửi yêu cầu lên Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đề nghị gửi những tuyên truyền viên Trung Quốc trẻ tuổi và những đảng viên cách mạng đến các nước đang gặp khó khăn, những người này sẽ được chu cấp vũ khí, tài chính và tài liệu tuyên truyền. Điểm hẹn của những người Đông Dương sẽ là Quảng Châu. Vào lúc bế mạc, vị chủ tịch thông báo rằng "văn phòng địa phương của Quốc Dân Đảng đã hứa giúp đỡ phong trào cách mạng tại vùng đảo Đông Ấn, Đông Dương và Triều Tiên và không phụ thuộc vào chính sách của Chính Phủ Trung Ương." Đây có lẽ là dấu hiệu về việc thành phần cánh tả của Quốc Dân Đảng vẫn ít nhiều hợp tác với ĐCS Trung Quốc trong giai đoạn mùa xuân năm 1930.
Mặc dù những thảo luận từ tài liệu của Sở Liêm Phóng đã không liên hệ trực tiếp đến Ban Bí Thư của Liên Đoàn Cộng Sản của Các Dân Tộc bị Áp Bức Đông Nam Á nhưng báo cáo của họ đã đưa ra những trích dẫn rằng cuộc họp của Đoàn Thanh Niên Cộng sản đã xác nhận sự hiện hữu của ban bí thư trên. Hội nghị này cũng có thể là một cuộc họp của Liên Đoàn Phản Đế thuộc Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, được thành lập như là vỏ bọc cho những hoạt động "hợp pháp và bán hợp pháp" của họ. Phân Bộ Viễn Đông đã chú thích trong bức thư vào tháng 5 1930 rằng bắt đầu từ năm 1930 đã có đến ba Liên Đoàn Phản Đế khác nhau tại Trung Quốc - "Liên Đoàn mạnh nhất và phổ biến nhất" là của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, bức thư nhận định. (Họ nhận xét rằng một trong ba tổ chức này, Liên Đoàn "Viễn Đông" - do ĐCS Trung Quốc thành lập - đã được thu nhỏ vì nó chẳng qua chỉ là "một dụng cụ".) Phân Bộ Viễn Đông muốn khuyến khích ĐCS Trung Quốc làm việc với tổ chức mà họ gọi là "Liên Đoàn Phản Đế Trung Quốc" đóng tại Thiên Tân (Tian Jin - ND).[85] Phía sau sự nhận định ôn hoà dường như ẩn giấu một diễn biến đầy kịch tính, nhưng qua những tài liệu của người Pháp ta có thể tìm được vài dấu vết của những gì đã xảy ra.
Ấn bản cuối cùng của tờ báo Thanh Niên phát hành tháng 5 1930 tường thuật rằng đã có một Liên Đoàn Phản Đế mới của phương Đông đang bắt đầu "lên án những dối trá và thủ đoạn của Quốc Dân Đảng Trung Quốc". Hội nghị đầu tiên của Liên Đoàn vào tháng 4 1930 có những đại diện từ Ấn Độ, Triều Tiên, Java, Đài Loan, Đông Dương, Trung Quốc và những quốc gia phương đông khác tham dự. Bản tường thuật đề cập đến việc ra đời vào năm 1928 của Liên Hiệp các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức như là "một sự ngụy biện nhằm tách rời các phong trào cách mạng châu Á khỏi QTCS".[86] Có thể là Hồ Chí Minh đã tham dự hội nghị tháng 4 này. Trong giai đoạn này, những học giả Nga tin rằng Phân Bộ Viễn Đông đang gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin về những gì đang xảy ra trong nội bộ của ĐCS Trung Quốc; cũng cùng lúc ấy, họ cho rằng sự e ngại bị qui chụp cho những sai lầm thiên hữu đã làm cho cách nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông "cực kỳ cẩn trọng" trong việc báo cáo hoặc phê bình những biểu hiện mà họ cho là thiên tả trong chính sách của ĐCS Trung Quốc.[87] Đây có thể là nguyên nhân vì sao các nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông đã không nỗ lực mấy trong việc kêu gọi ĐCS Trung Quốc chấm dứt hoặc cắt đứt liên hệ của mình khỏi một trong những Liên Đoàn Phản Đế trên, tức là Liên Đoàn được thành lập vào khoảng tháng 7 - 8 1928. Như chúng ta đã thấy, nguồn gốc của tổ chức này dường như là một hình thức hợp tác giữa phong trào Quốc Dân Đảng cánh Tả và ĐCS Trung Quốc.
Những báo cáo của Sở Liêm Phóng từ mùa xuân 1930 thì bị lẫn lộn và đôi khi mâu thuẫn nhau. Một mặt, vào tháng 3 một mật thám của họ tại Hồng Kông là Neron đã báo cáo rằng Nguyễn Ái Quốc đã mất khá nhiều ảnh hưởng đối với QTCS sau khi Stalin củng cố quyền lực.[88] Nhưng vào tháng 9 1930 Sở Liêm Phóng lại đưa ra một nhận định mới. Đến lúc đó họ đã đi đến kết luận Hồ/Quốc chính là người đại diện của QTCS đã xuất hiện vào tháng 12 1929 với đủ quyền hành để "kiểm tra... những tổ chức cộng sản tại khu vực Viễn Đông".[89] Sự thay đổi quan điểm về vai trò của Hồ có thể đã phản ánh từ quyết định của Phân Bộ Viễn Đông nhằm tham gia tích cực hơn trong việc đối chọi lại ảnh hưởng của Lý Lập Tam. Trên thực tế, dường như Hồ Chí Minh đã đảm trách thêm những nhiệm vụ mà lúc đầu được giao cho Thibault, kiểm soát viên của QTCS (người đã được đề cập ở trên và được Phân Bộ Viễn Đông gọi là "người đồng chí đến hỗ trợ Nam Dương"), khi người này đã không quay về lại Thượng Hải từ chuyến đi đến Đông Dương. Theo tài liệu của Nga, quyền lực của Hồ dường như đã bị Phân Bộ Viễn Đông ở Thượng Hải phân tán trong khoảng tháng 3 và 4 1930 và có lẽ đã không được nhiều như quyền hạn mà Thibault được giao phó.
Đến tháng 4 1930 quan hệ giữa Phân Bộ Viễn Đông và Lý Lập Tam đã đến hồi căng thẳng nhất. Ngày 17 tháng 4 Lý viết thư cho Chu Ân Lai và Cù Thu Bạch (Qu Qiubai - ND) (đang ở Moscow) đề nghị QTCS tái tổ chức Phân Bộ Viễn Đông. Ông cho rằng những sai lầm của Phân Bộ Viễn Đông là "nguy hiểm, mang đặc điểm hữu khuynh" và họ đang trong tình trạng "không có tư cách lãnh đạo chính trị".[90] Rõ ràng là Lý đã tin rằng ông sẽ được hậu thuẫn từ Stalin hoặc Mif trong mối bất hoà này. Trong khi Moscow chần chừ không đưa ra dấu hiệu rõ ràng về thái độ của mình đối với Phân Bộ Viễn Đông, Lý đã tiến hành những kế hoạch cho cuộc tổng khởi nghĩa. Chính trong hoàn cảnh này Phân Bộ Viễn Đông đã quyết định sử dụng Hồ Chí Minh như là một phái viên bí mật tại Xiêm và Mã Lai để giúp đỡ những người cộng sản địa phương thành lập những đảng mới. Sự vội vã thành lập những tổ chức để thay thế những chi nhánh trực thuộc Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương có thể phần nào là do mong muốn của Phân Bộ Viễn Đông nhằm giới hạn ảnh hưởng của Lý Lập Tam và Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc.[91] Chỉ sau khi mọi việc đã xong thì Eisler và Bespalov mới thông báo cho Ban Bí Thư Cục Đông Phương trong một lá thư đề ngày 18 tháng 5 1930 rằng họ đã gửi Hồ đi Singapore để tham dự Đại Hội ĐCS Mã Lai, và cũng giao cho ông nhiệm vụ tuyển chọn đại diện Mã Lai gửi đi tham dự Đại Hội Công Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 sắp đến tại Moscow. Họ cũng báo cáo trong cùng bức thư rằng họ vẫn chưa tìm ra phái viên người Pháp vừa đi Đông Dương, mặc dù họ những người cộng sản Việt Nam đang đi tìm dấu tích của ông.[92] Bức thư không hề đề cập đến vai trò của Hồ tại Xiêm.
Khó mà xác định được chính xác ngày tháng đi lại của Hồ. Cho đến nay Hoàng Văn Hoan vẫn là nguồn tài liệu chủ yếu về giai đoạn này trong sự nghiệp của Hồ, Hoan cho rằng Hồ đến Bangkok vào khoảng cuối tháng 2 1930. Theo lời Hoan thì sau khi thảo luận với những đồng chí Trung Quốc tại Bangkok, ông đến Udon để giải thích về chính sách của QTCS cho những Việt kiều tại đây. Với sự ra đời của ĐCS Xiêm, những người cộng sản Việt Nam được cho là sẽ gia nhập đảng này thay vì tham gia vào ĐCS Việt Nam. Nguyên tắc này cũng được áp dụng với những Hoa kiều tại Xiêm. Hoan nói rằng sau cuộc họp tại Udon, Hồ quay về lại Bangkok để giám sát việc thành lập ĐCS Xiêm vào ngày 20 tháng 4.[93]
Nhưng một báo cáo của ĐCS Xiêm gửi đến Moscow vào năm 1935 lại đưa ra một trình tự khác hẳn.[94] Tài liệu này nói rằng vào tháng 6 1930 Ban Bí Thư Cục Đông Phương đã gửi một đại diện đến Xiêm để thuyết phục Đảng Uỷ Xiêm (bao gồm toàn thành viên người Trung Quốc) cùng với những người Việt tại vùng đông bắc nước này thành lập một ĐCS. Nhà cầm quyền Anh đã giữ được một giấy thông hành có hình của Hồ, mang tên Sung Man Sho khi họ bắt giữ ông vào tháng 5 1931. Thông hành này có giá trị 6 tháng, do Tổng Lãnh Sự Trung Hoa Dân Quốc tại Eo Biển Malacca cấp ngày 28 tháng 4 1930. Thông hành viết rằng ông là công dân của Trung Hoa Dân Quốc đi làm việc tại Xiêm.[95] Điều này cho thấy Hồ đã đi Bangkok vào cuối tháng 5, sau khi tham dự Đại Hội Đại Biểu lần 3 của Uỷ Ban Lâm Thời Mã Lai tại Singapore. Nhưng mãi cho đến tháng 9 1930, khi Hồ quay lại Hồng Kông thì quá trình hợp nhất của ĐCS Xiêm mới hoàn thành với hai đảng viên người Việt nằm trong Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Xiêm. Vì thế Hồ Chí Minh có thể đã đến Xiêm vào tháng 4 1930, như Hoàng Văn Hoan đã nói, nhưng nếu như thế thì chuyến đi của ông đã không trùng hợp với thời điểm hợp nhất của ĐCS Xiêm.
Đại Hội Đại Biểu lần 3 của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương được tổ chức cùng dịp kỷ niệm ngày 1 tháng 5 ở Singapore. Nhưng theo một bức thư gửi cho "English Komparty" tại London lại viết rằng tại buổi họp ngày 29 tháng 4 nhằm chuẩn bị cho ngày Lao Động Quốc Tế, cả 11 đại biểu tham dự đều bị bắt, trong đó có cả bí thư đảng, bí thư Liên Đoàn Lao Động và một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương. Bức thư này nói rằng vào ngày 21 tháng 5 "Hội Nghị được triệu tập", và ĐCS Mã Lai được thành lập vào ngày 24 tháng 5.[96] Cuộc họp có 11 đại biểu tham dự không kể những thành viên của Uỷ Ban Trung Ương và đại diện của Phân Bộ Viễn Đông. Bản tường trình hội nghị mà có lẽ là do Hồ Chí Minh soạn thảo]97] cho thấy rằng Phân Bộ Viễn Đông hiện đang kiềm chế ảnh hưởng của Lý Lập Tam và Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc tại Nam Dương. Bản báo cáo này lên án Uỷ Ban Nam Dương về sai lầm manh động và thái độ vô trách nhiệm đối với những kế hoạch nổi dậy.
Sau khi liệt kê "Mười Yêu Cầu Lớn cho Cách Mạng Mã Lai", bản báo cáo đưa ra một danh sách dài về "Những Sai Lầm và Bài Học về những Công Tác đã qua". Sai lầm trước tiên là "thực hiện một cuộc cách mạng Trung Quốc tại Mã Lai": "Công tác đã được thực hiện theo cùng đường lối của ĐCS Trung Quốc, xa rời cuộc sống thực tế tại Mã Lai, và đã bỏ qua những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Mã Lai". Đảng cũng đã lơ là trong công tác đối với nông dân và binh lính. Báo cáo tiếp tục: "Việc phát triển tổ chức đã không những hướng về nhân dân Trung Quốc mà còn hướng về chỉ một thành phần của nhân dân Trung Quốc (những người gốc Quảng Châu, Quảng Đông)..." Dưới tiêu đề "Sai lầm manh động", bản báo cáo đã dẫn ra một loạt sai lầm trong đó có "ra lệnh và ép buộc đình công"; "bất chấp cuộc nổi dậy và khủng bố cá nhân (ĐCS Mã Lai đã tham dự vào việc cưỡng ép những công nhân đình công xem việc nổi dậy là một trò đùa - một lỗi lầm không thể bỏ qua)"; "Đào thải các xí nghiệp và tịch thâu tài sản của các chủ xí nghiệp"; và "đưa ra khẩu hiệu "nắm lấy quyền lực và thành lập công xã"". Tác giả đã mở rộng điểm cuối cùng: "Trong khi ĐCS Mã Lai vẫn đang trong thời kỳ đầu thành lập, thiếu quần chúng chung quanh đảng, nếu chúng ta đưa ra khẩu hiệu: chiếm lấy quyền lực và thành lập Xô Viết thì việc này sẽ làm ta lơ là thực lực của địch, đánh giá quá cao thực lực của mình và bỏ rơi công tác chung của Đảng là chiếm lấy quần chúng, tổ chức quần chúng và cuối cùng là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang."[98] Điểm cuối cùng đã chỉ ra "mối liên hệ giữa ĐCS Mã Lai và các đảng anh em". Điều này chỉ ra thực tế là ĐCS Trung Quốc không có độc quyền chỉ dẫn ĐCS Mã Lai: "ĐCS Mã Lai, bên cạnh việc chịu sự điều phối của QTCS, hy vọng rằng các ĐCS Trung Quốc, Anh, Hà Lan và Pháp thường xuyên giúp đỡ và hướng dẫn kinh nghiệm."[99] Tờ báo Police Journal (Tạp Chí Cảnh Sát - ND) của Eo Biển Malacca sau này đã viết rằng tài liệu tuyên truyền và hướng dẫn từ "Trung Ương" tại Thượng Hải đã giảm thiểu vào giữa năm 1930, sau Đại Hội Đại Biểu lần 3.[100]
Làn sóng cách mạng tại Việt Nam
Báo cáo của Phân Bộ Viễn Đông ngày 25 tháng 6 cho biết họ vừa được tin Hồ Chí Minh sẽ đến Thượng Hải vào những ngày tới (họ nhẹ lòng vì ông đã không bị bắt tại cuộc ruồng bố tại Singapore vào cuối tháng 4 khi họ nghe tin này qua báo chí Singapore).[101] Chắc hẳn ông đã quay lại Hồng Kông vào trung tuần tháng 6. Và ông cũng đã mất đi cơ hội chứng kiến làn sóng đấu tranh đầu tiên của ĐCS Việt Nam trong năm 1930: hàng loạt những cuộc đình công và biểu tình trong cả ba miền Việt Nam bắt đầu từ tháng 4 và đã dẫn đến hậu quả là rất nhiều người bị bắt giữ vào đầu tháng 5. Như chúng ta cũng đã thấy tại Nam Kỳ, những hành động này, ít nhất là tại các khu thành thị, đa phần được tổ chức bởi thành phần ĐDCSĐ còn lại trước Đại Hội Hợp Nhất. Cả Ngô Gia Tự và Dương Hạc Đính đều bị bắt tại Sài Gòn vào cuối tháng 5. Trước ngày Quốc Tế Lao Động 1 tháng 5 Hoàng Quốc Việt đã bị bắt tại Hải Phòng khi ông đến đây để hội ý với Trần Phú. Nhiều nòng cốt của phong trào lao động phía bắc cũng đã vào tù cùng ông sau ngày 1 tháng 5.[102]
Tổn thất của phong trào tại thành thị đã làm cho những người cộng sản Việt Nam tái chú tâm vào phong trào tại vùng nông thôn. Điều mỉa mai là ngay sau khi Hồ đưa ra hành loạt chỉ trích đối với ĐCS Mã Lai, một nhóm người trong Uỷ Ban Chấp Hành Lâm Thời Trung Ương tại Hà Nội đã quyết định tiến hành nổi dậy tại Nghệ An và Hà Tĩnh, hai tỉnh thường được gọi chung là "Nghệ Tĩnh". Tại một cuộc họp tại Hài Nội (theo tài liệu là vào tháng 6), Trần Phú, Nguyễn Thế Rục, Trần Văn Lân, Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Phong Sắc (ba người cuối cùng từ thành phần ĐDCSĐ nguyên thuỷ) đã đi đến quyết định trên.[103] Nguyễn Phong Sắc, một cựu giáo viên của trường Thanh Long ở Hà Nội là một thành viên cốt cán được giao nhiệm vụ lãnh đạo Xứ Uỷ Trung Kỳ. (Đồng đội của ông từ đảng Tân Việt cũ là Lê Mão đã ở lại Nghệ An khi cuộc họp xảy ra.) Những người tham dự đã cử Nguyễn Đức Cảnh ở Hải Phòng làm việc với Nguyễn Phong Sắc để phát động phong trào Nghệ Tĩnh. Vì thế những thành viên chủ chốt hướng dẫn phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là những người miền bắc tương đối có học thức từng ở trong tầng phần lãnh đạo của ĐDCSĐ. Trong những nằm 1950 và 1960, chính quyền Việt Nam đã ca ngợi vai trò của Lê Viết Thuật, một công nhân người Bến Thuỷ đã trở thành người đứng đầu của Xứ Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4 1931.[104] Nhưng đến năm 1957 nhà sử học của Hà Nội là Trần Huy Liệu đã cho rằng Nguyễn Đức Cảnh chính là người trực tiếp lãnh đạo Xô Viết Nghệ Tĩnh.[105] Trần Phú, một người thấm nhuần quan điểm cấp tiến của QTCS về "Giai Đoạn Thứ 3", có thể đã được những đồng chí của mình vốn có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong nước thuyết phục rằng thời điểm hành động đã chín muồi. Nhưng cũng phải công nhận rằng chúng ta hiểu biết rất ít về quyền hạn cũng như vị trí thực sự của ông trong đảng vào giai đoạn này. Cuộc họp đã đưa ra lời kêu gọi các tầng lớp công nông binh ở Nghệ An tiếp tục cuộc kháng chiến và chuẩn bị đối phó với sự đàn áp của đế quốc - một do dự nhỏ nhất cũng tương đương với việc tiếp tay cho đế quốc tiêu diệt mình, lời hiệu triệu viết.[106]
Hồ Chí Minh dường như lúc này đã đạt được quyền hạn cao nhất của mình trong QTCS, ông đã quay về lại Hồng Kông để đối phó với tình hình hiện đã vượt khỏi tầm ảnh hưởng của mình. Mặc dù Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học - ND) đoán rằng Hồ có thể đã "đóng vai trò quan yếu trong việc khởi xướng và chỉ đạo phong trào công xã này", cơ sở cho quan điểm này là việc quy nhận đầy nghi ngờ trong việc Hồ là tác giả của tài liệu về kháng chiến nông dân đã được thảo luận trong phần Giới Thiệu của cuốn sách này.[107] Những thư từ và báo cáo của Hồ trong thời kỳ 1930-1 có chứa một chỉ thị về công tác hoạt động quân sự. Nhưng nội dung và văn phong của tài liệu viết năm 1928 về hoạt động vũ trang trong tầng lớp nông dân thì rất khác biệt so với tài liệu của Hồ viết năm 1930. Tài liệu 1930 là một bài viết tay dài 6 trang dường như đã lùi thời điểm Hồ quay lại Hồng Kông và Thượng Hải vào tháng 6 vì nó đã đề cập đến một cuộc biểu tình tại Chợ Lớn, sự kiện này có thể đã xảy ra trong hoặc sau mùa xuân 1930.[108] Với tựa đề đơn giản là "Quân Sự", tài liệu này (phiên bản tiếng Anh) là một cố gắng để quân bình hiện tượng quá trú trọng đến những vấn đề quân sự và việc lơ là chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp đến.[109] Ông khẳng định rõ rằng: "Công tác quân sự của đảng bao gồm: huấn luyện quân sự cho đảng viên; phát động tuyên truyền trong hàng ngũ quân đội; thành lập lực lượng công nông tự vệ." Ông lưu tâm phần lớn vào công tác "phát động tuyên truyền trong quân đội". Những người lính bản xứ là những người bị bắt lính từ làng quê và không nên xem họ là "lũ chó săn" của đế quốc, ông nói. Tại một cuộc biểu tình tại Chợ Lớn, ông đã chỉ ra rằng những người nông dân mắc phải sai lầm là đã lăng mạ binh lính thay vì nên " tuyên truyền cho họ". Trong công tác phát động tuyên truyền, ông nói "đảng phải nên tuyên truyền cương lĩnh "Cách mạng tư sản dân tộc" với những binh lính, và tận dụng lòng yêu nước để hướng họ đi theo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nông dân cũng như nhìn nhận vai trò lãnh đạo của đảng."
Đến tháng 6, Eisler đang bị cô lập tại Thượng Hải đã thất bại trong việc dung hoà những chính sách của Lý Lập Tam mặc dù trên thực tế những cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 đã dẫn đến một số lớn đảng viên bị bắt.[110] Hồ Chí Minh có thể đã lâm vào hoàn cảnh tương tự đối với đảng của mình vì ông không quyền biểu quyết trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương. Dù thế, là một người Bolshevik chân chính, ông đã phải chấp hành quyết định của đảng là phát triển phong trào công nông Nghệ An. Một bức thư đề ngày 9 tháng 6 gửi đến những người Việt đang chiến đấu trong lực lượng Hồng Quân Trung Quốc, yêu cầu họ quay về "Mặt trận An Nam", có thể là đã do ông viết. "Công việc của cách mạng Việt Nam giờ đây là công việc của chúng ta", lá thư viết, "công việc tại Trung Quốc không phải là nhiệm vụ của chúng tạ"[111] Nhưng trong cùng lúc ấy Lý Lập Tam đang hối thúc QTCS gửi những thành viên ngoại quốc từ "Anh, Pháp, Nhật, Ấn và Đông Dương" đến để thực hiện công tác tuyên truyền tại Trung Quốc cùng với những thuỷ thủ ngoại quốc đang đóng tại đây. Ông nhấn mạnh rằng họ phải làm việc dưới sự chỉ đạo của ĐCS Trung Quốc.[112] Vì thế đến tháng 6 một số đảng viên người Việt đã được bổ sung vào công việc tuyên truyền quân sự tại Thượng Hải. Người tổ chức của ĐDCSĐ từ Bắc Kỳ là Đỗ Ngọc Du, bí danh Phiếm Chu, nói rằng Hồ đã ra lệnh cho ông đến làm việc tại Thượng Hải vào cuối tháng 3, sau khi ông trốn khỏi Hà Nội. Sau này ông đã khai với Sở Liêm Phóng rằng ông bắt đầu biên tập các bài viết nhắm vào quân đội Pháp sau ngày 14 tháng 6 1930. Một người Việt khác là Lưu Quốc Long có nhiệm vụ in ấn và phát hành những bản tin và bài viết. Tờ báo tiếng Pháp mang tên Quân Đội (L'Armée - ND) bắt đầu xuất bản một tháng hai kỳ.[113] Một tờ báo tiếng Việt tên Giác Ngộ do Lê Quảng Đạt (còn có tên Hoàng Cao), vợ của ông là Lý Phương Đức và Nguyễn Lương Bằng đảm trách. Lê Quảng Đạt có nhiệm vụ liên lạc giữa Phân Bộ Viễn Đông và Hồng Kông cũng như thu xếp đi lại cho những người Việt Nam đến Moscow và trở về.[114]
Báo cáo của người Pháp cho biết thời gian từ ngày 1 tháng 5 đến 30 tháng 8 1930 là giai đoạn biểu tình bất bạo động tại Việt Nam.[115] Trên thực tế đã có hai quá trình đang tiến hành vào tháng 6 1930: một là việc thành lập cơ chế đảng dẫn đến việc lựa chọn đại biểu tham dự đại hội toàn thể sắp tổ chức vào mùa thu; thứ hai, như đã nói ở trên, là việc chuẩn bị cho làn sóng hành động trực tiếp lần hai tập trung vào phía bắc Trung Kỳ. Thật khó mà biết được hai quá trình này được điều phối chặt chẽ như thế nào. Về công tác tổ chức đảng, lời khai của Ngô Đức Trì đã dựng lên một bức tranh (thiếu hai miền còn lại của Việt Nam) về quá trình tái tổ chức đang diễn ra tại miền nam sau khi Ngô Gia Tự bị bắt. Căn cứ trên lời khai của Trì, vai trò lãnh đạo của Ngô Gia Tự đã không làm vừa lòng những đảng viên địa phương. "Kể từ khi ĐDCSĐ và Ban Chấp Hành Lâm Thời thành lập mọi công tác đều do các thành viên của uỷ ban này quyết định mà không thông qua các thành viên của các chi bộ," ông giải thích. Ông bổ sung rằng: "Không hề có báo cáo về công việc của các chi bộ và điều này đã gây ra vài bất mãn." Những cuộc biểu tình vào tháng 5 và đầu tháng 6 tại Sa Đéc, Vĩnh Long, Đức Hoà và Chợ Lớn thuộc Gia Định đã dẫn đến nhiều thành viên bị bắt giữ và cái chết của Châu Văn Liêm - sự kiện này cũng có thể đã làm cho đảng bộ phía nam tái thẩm định chiến lược của mình.[116] Vào khoảng ngày 18 tháng 6 1930 một cuộc họp của Ban Chấp Hành Lâm Thời Nam Kỳ được tiến hành với đại biểu từ các địa phương được mời đến để cho biết ý kiến. Ngô Đức Trì đã cùng Ung Văn Khiêm (Huân) và Nguyễn Văn Sơn (Dũng) gia nhập Uỷ Ban trước khi hội nghị khai mạc[117] Sau đó ông cũng tham gia vào Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương. Trì khai trong suốt mùa hè "một số đồng chí đã muốn phát động các cuộc nổi dậy và thực hiện hoạt động khủng bố." Ban Chấp Hành Lâm Thời đã phải triệu tập các chi uỷ lâm thời để yêu cầu họ huỷ bỏ những kế hoạc trên. Ban Chấp Hành đã chỉ thị các tỉnh uỷ phải giải thích cho quần chúng biết rằng chủ trương ám sát mâu thuẫn với nguyên tắc chủ đạo của chủ nghĩa cộng sản.[118] Có lẽ trong thú nhận này, Ngô Đức Trì đã tìm cách nhận lấy trách nhiệm về mình cho những bạo lực trong những năm 1930-1, nhưng một báo cáo năm 1931 mà ông gửi đến Moscow cho thấy rằng ông đã đánh giá thấp những kết quả hoạt động của đảng (xem chú thích 149).
Tại miền Bắc và Trung Việt Nam, dường như đảng đã có một phương hướng khác. Trên nguyên tắc Trần Phú đã nắm giữ nhiều quyền hạn trong cơ cấu đảng khi ông tham gia Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương vào mùa hè, sau khi Nguyễn Hội bị bắt. Khi Trịnh Đình Cửu rời bỏ chức vụ trong Uỷ Ban Thường Vụ để gia nhập Xứ Uỷ Bắc Kỳ, Trần Phú cũng đã đảm đương chức vụ cũ của Cửu.[119] Nhưng trên thực tế, đảng uỷ phía bắc đã hoạt động tương đối độc lập, theo những báo cáo sau này của QTCS. Ví dụ như trong một lá thư không đề ngày được viết sau ngày 4 tháng 4 1931, Phân Bộ Viễn Đông đã chỉ thị rằng "vấn đề chủ trương phân lập cần phải được xoá sạch."[120] (Những chủ trương này dường như đã xuất hiện vào mùa thu trước, như sẽ thảo luận dưới đây.) Sau khi Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương được đổi thành một tổ chức của các đảng cộng sản của các nước, Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đã không giữ vai trò trực tiếp chính thức tại Đông Nam Á. Cho đến nay ta hoàn toàn không thể biết được chương trình hành động của Lý Lập Tam về "cao trào cách mạng" cho Trung Quốc đã có ảnh hưởng như thế nào đế những sự kiện xảy ra tại Việt Nam. Nhưng có dấu hiệu cho thấy rằng đã có sự tương quan nào đấy giữa những thời điểm chuẩn bị và hành động trên cả hai quốc gia.
Tại Trung Quốc việc chuẩn bị của Lý cho những khởi nghĩa vũ trang trong tháng 8 và 9 1930 đã được tiến hành từ hàng loạt các hội nghị được tổ chức từ đầu tháng 6 đến ngày 6 tháng 8. Vào ngày 11 tháng 6 Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc đã thông qua một nghị quyết kêu gọi Liên Bang Xô Viết và "quần chúng lao động thế giới" ủng hộ cuộc cách mạng Trung Quốc. Họ tuyên bố rất rõ rằng cách mạng Trung Quốc đã trở thành trọng tâm của cách mạng thế giới.[121] Đạo Quân số 3 của ĐCS đã thực hiện thành công một cuộc tấn công chớp nhoáng tại Trường Sa (Chang Sha - ND) vào ngày 28 tháng 7. Vào ngày 6 tháng 8 "Uỷ Ban Hành Động Trung Ương" của Lý Lập Tam kêu gọi tổ chức cách mạng và nổi dậy ngay lập tức tại Vũ Hán (Wu Han - ND), Bắc Kinh, Thiên Tân (Tian Jin - ND), Cáp Nhĩ Tân (Harbin - ND) và các thành phố khác (Phân Bộ Viễn Đông đã trả lời bằng một bức điện tín yêu cầu "triệu tập ngay lập tức" Lý Lập Tam về Moscow).[122] Một cuộc tấn công thứ hai vào Trường Sa được tiến hành giữa ngày 24 tháng 8 và 12 tháng 9. Trong thời gian này Moscow đã giữ một thái độ không dứt khoát đối với những hành động của Lý, để mặc Phân Bộ Viễn Đông tiếp tục những nỗ lực của mình nhằm kiềm chế đường hướng phiêu lưu của Lý. Một trong những đại diện mới của Phân Bộ Viễn Đông là vị đại biểu của Công Đoàn Quốc Tế Đỏ S.Stoyar, còn biết đến dưới những bí danh "Jack" hoặ "Leon", đã viết cho lãnh đạo Công Đoàn là Lozovsky vào ngày 5 tháng 8 yêu cầu hậu thuẫn Eisler. Ông than phiền rằng Lý Lập Tam đang huy động tất cả các thành viên nòng cốt chống lại QTCS.[123] Điều lý thú là cao trào cách mạng mà Lý đang phát động đã xảy ra cùng lúc với cuộc nội chiến toàn cục bên trong Quốc Dân Đảng Trung Quốc diễn ra từ ngày 5 tháng 4 đến đầu tháng 11.[124] Trần Công Bác và những người "Tái Tổ Chức" với căn cứ mới tại Bắc Kinh đã đóng vai trò chính yếu trong cuộc xung đột này. Rấ có thể là Lý Lập Tam đang trông chờ vào chiến thắng tất yếu của họ.
Tại Việt Nam, theo sau cuộc họp tháng 6 của Ban Chấp Hành Lâm Thời tại Hà Nội, các tỉnh uỷ Nghệ An và Hà Tĩnh đã được thành lập vào tháng 7. Tại Nghệ An chi bộ đảng được thành lập đến cấp xã.[125] Làn sóng hoạt động thứ hai tại Nghệ Tĩnh đã dẫn đến sự tan rã của chính quyền địa phương và dựng nên Xô Viết đã bắt đầu vào ngày 29 tháng 8 và đạt đến đỉnh cao vào ngày 11 - 12 tháng 9 (vào ngày 12 tháng 9 nông dân các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn và Tân An cũng đã biểu thình.[126]) Ở một số nơi, huyện đường bị đốt trụi và quan nha đã giao nộp ấn triện cho dân làng; những hương chức xã hoặc là theo quân khởi nghĩa hoặc bị giết.[127] Quân Pháp đã ném bom vào đoàn biểu tình đang đổ về Vinh vào ngày 12 tháng 9 làm chết trên 120 người. Trần Huy Liệu giải thích rằng ngày hôm ấy đã có phối hợp các cuộc biểu tình trên khắp vài huyện. Những sự kiện này được nhắc đến tuần tự trong các báo cáo của Pháp cũng như của Trần Huy Liệu.[128] Điều đáng lưu ý là ngày 12 tháng 9 sau này đã được kỷ niệm như là ngày thành lập phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và cũng được ĐCS Trung Quốc tưởng nhớ như là ngày kỷ niệm của cuộc Khởi Nghĩa Trung Thu 1927.[129]
Không còn nghi ngờ gì về việc những nông dân địa phương, bị đè nặng bởi quá nhiều loại sưu thuế, đã rất hăng hái đấu tranh chống lại người Pháp và quan lại địa phương. Nhưng luận điểm cho rằng hành động của họ đã phát sinh hoặc bị lôi kéo bởi một số kẻ kích động thì khó mà chấp nhận được, căn cứ theo quan điểm kế hoạch do ĐCS Việt Nam thực hiện cũng như hướng dẫn kích động mà những người cộng sản đã nhận được từ Moscow. James Scott (giáo sư khoa học chính trị Yale - ND) cho rằng "trong khi đảng có thể đã giúp kết nối những cuộc biểu tình ban đầu, nhưng họ đã không cần phải chỉ ra những đối tượng làm nông dân căm phẫn."[130] Nhưng chính những chiến lược mà ông đề cập đến đã dấy lên từ "những đau khổ tột cùng của những nông dân miền quê" - những đòi hỏi chấm dứt sưu thuế (hoặc hoãn trả thuế) và "chính sách thâu tô của những địa chủ các vựa lúa" - là những điều mà những nhà tổ chức phong trào nông dân đã thụ huấn từ Học Viện Nông Dân Bành Bái từ những năm 1920. Những hoạt động tháng 9 tại Nghệ Tĩnh, thường là đốt huyện đường và tiêu huỷ sổ sách về điền địa và sưu thuế, đã được tiếp thu từ những phương pháp được sử dụng trong phong trào xô viết Hải-Lục-Phong.[131] Ta có thể kết luận rằng thay vì đi theo phong trào nông dân, những người cộng sản đã tạo ra những phương pháp tổ chức phù hợp với tình hình địa phương, ít nhất là trong một thời gian ngắn.[132] Ta cũng có thể kết luận rằng những hành động của Lý Lập Tam ở Trung Quốc đã phần nào tác động đến các sự kiện tại Nghệ Tĩnh. Khởi nghĩa Nghệ Tĩnh cũng có thể đã xảy ra dưới một tình trạng không có sự liên quan của QTCS hoặc đã đi ngoài mong muốn của ĐCS Trung Quốc nhằm thúc đẩy bước tiến của cách mạng Trung Quốc và thế giới. Dù thế, nó đã không thể xảy tra với tình trạng như thế nếu không có sự lãnh đạo của những người cộng sản. Nó đã không thể xảy ra vào thời điểm ấy nếu không có một chương trình hành động nào đấy.
Hội Nghị Trung Ương tháng 10 và việc Trần Phú củng cố quyền lực
Đảng Cộng Sản vừa thành lập của Việt Nam đã không thể hợp nhất hàng ngũ lãnh đạo trên toàn quốc mãi cho đến hội nghị Uỷ Ban Trung Ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông vào tháng 10 1930. Trong thời gian giữa chuyến đi Thượng Hải vào tháng 6 đến hội nghị tháng 10, Hồ Chí Minh dường như đã định vị công việc của mình như là một trung gian giữa các đảng Mã Lai, Xiêm và Việt Nam. Trong giai đoạn từ 23 tháng 7 đến 2 tháng 9, ông nói rằng đã gửi cho Phân Bộ Viễn Đông sáu bức thư. Trong số này, chỉ có bức thư ngày 2 tháng 9 là nằm trong văn khố của QTCS. Trong thư ông đã giải thích rằng vào ngày 13 tháng 8 ông đã bị một cơn lao phổi, một thứ bệnh mà ông tường thuật là "đau phổi và nôn ra máu, vô cùng yếu đuối và mệt mỏi".[133] Ông cũng liệt kê những chi tiết hoạch định sẽ được đưa ra trong cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương sắp đến: "(a) Tự phê bình những việc đã qua; (b) dự định tiếp tục hoạt động cho đến khi hội nghị; (c) chuẩn bị cho hội nghị; và (d) chuẩn bị gửi học viên." Rõ ràng là ông đã không nhận thấy trước rằng hội nghị tháng 10 sẽ liên quan đến sự chuyển hướng quan trọng của đảng. Trong cùng bức thư ông có nhắc đến việc mình vừa hoàn thành công việc "bình dân hoá" một cuốn sách mang tên Nhật Ký Chìm Tàu. Ông nói mình phải bỏ ra 8 ngày để viết và gần một tháng để in được 20 ấn bản.[134] Đây là một chuyện ngụ ngôn về ba thuỷ thủ, một người Pháp, một người Phi và một người Việt bị đắm thuyền và được một chiếc tàu Xô Viết cứu sống. Họ được đưa đến Moscow và được chăm lo sức khoẻ, được đào tạo tại một học viện cộng sản và đối xử đàng hoàng, không như trước đây khi họ còn là lao công của Pháp. Người thuỷ thủ Việt Nam ấn tượng với "sức hút mạnh mẽ kỳ lạ" của học thuyết về chủ nghĩa thực dân của Lenin "về những người đã bị tước đoạt tổ quốc".[135] Việc Hồ bỏ cả tháng để soạn thảo cuốn sách này có lẽ ngoài lòng tự hào của một nhà văn, ông đang muốn bày tỏ lòng trung thành của mình đối với Moscow vào thời điểm mà ĐCS Trung Quốc đang đi theo con đường mà người Nga cho là chống đối lại QTCS.
Dù sao Hồ vẫn giữ được mối quan hệ có lẽ là tốt đẹp với ĐCS Trung Quốc. Ông đã báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9 rằng ông đã thỉnh ý kiến của Phân Bộ Miền Nam Trung Quốc về việc ĐCS Việt Nam nên lựa chọn chiến lược nào để đối phó với "cuộc khủng bố Trắng", một biện pháp đàn áp mà người Pháp đang sử dụng chống lại nông dân Nghệ An. Ông đã báo cáo rằng vào ngày 19 tháng 9, ba thành viên của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Việt Nam đã đến Hồng Kông tham dự hội nghị Uỷ Ban Trung Ương và đã trình một báo cáo về những sự kiện tại Việt Nam. Vì thời gian để hội ý với Phân Bộ Viễn Đông kéo dài quá lâu (một bức thư "nhanh" từ Thượng Hải đến Hồng Kông lúc ấy phải mất 15 ngày mới đến)[136], các thành viên Uỷ Ban Trung Ương và Hồ đã thảo luận với những người Trung Quốc để quyết định những bước tới của ĐCS Việt Nam. Bản tường thuật mang tính ngoại giao của Hồ về cuộc thảo luận này nói rằng Trung Quốc đồng ý với quyết định của ĐCS Việt Nam về việc quyên góp tiền bạc cho các nạn nhân và tổ chức một phong trào phản đối trên toàn quốc. Cả nhóm cũng đã quyết định bắt đầu thổ chức lực lượng "nông dân tự vệ", củng cố hoạt động của đảng trong hàng ngũ công nhân và tuyên truyền đối với binh lính.[137]
Ngô Đức Trì đã đưa ra nhiều chi tiết hơn về việc gặp gỡ hai thành viên Trung Quốc từ Phân Bộ Miền Nam mà ông nói là bao gồm Hồ, Hồ Tùng Mậu, Trương Văn Lềnh, người bạn trong Uỷ Ban Trung Ương của ông là "Sáu" (Nguyễn Trọng Nhã, còn có tên là Nguyễn Trọng Nhât, một cựu sinh viên từ Hà Tĩnh[138]) và ông. (Những thành viên khác của Uỷ Ban Trung Ương đã chưa đến hội nghị.) Những người Trung Quốc cho rằng những cuộc biểu tình đánh dấu bước khởi đầu của "phong trào nổi dậy" là một điều tốt. Nhưng Hồ Tùng Mậu đã trả lời rằng việc nổi dậy đang đem đến "nhiều thất bại hơn thành công", mặc dù không có tổn thất gì khi tiếp tục những cuộc biểu tình. Hồ tin rằng không thể nào tổ chức được một cuộc tổng khởi nghĩa, nhưng ở các làng xã nông dân có thể dựng lên công xã và thực hiện chính sách phân chia ruộng đất. Ngô Đức Trì cho rằng ông là người phản đối quyết liệt nhất chủ trương nổi dậy tại Nghệ Tĩnh. "Phong trào cách mạng chỉ vừa mới thành hình... chủ trương nổi dậy là sai lầm; nó sẽ không mang lại giá trị gì cho phong trào cách mạng ngoại trừ bom đạn và thất bại. ĐCS Trung Quốc kêu gọi khởi nghĩa, nhưng... những gì có thể ở Trung Quốc không hẳn luôn có thể tại Đông Dương. Việc thành lập xô viết và phân chia ruộng đất mà không có hậu thuẫn của một cuộc nổi dậy thì không thể nào thực hiện được," Trì khai là đã phát biểu như thế. Trong số những người Việt, chỉ có "Sáu" là hoàn toàn đồng ý với những người Trung Quốc.[139]
Đại biểu người Hoa của Uỷ Ban Trung Ương từ Sài Gòn là A Lầu đã không tham gia vào cuộc thảo luận. Nhưng có thể ông đã đóng góp trong phần báo cáo của đảng về Nam Kỳ - Cam Bốt mà Hồ đã gửi cho Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9. Vào thời điểm này ĐCS Trung Quốc ở miền nam có vẽ đã chính thức hợp nhất với người Việt. (Nhưng trong năm 1931 một báo cáo từ Sài Gòn lại một lần nữa đề cập rằng chi bộ Nam Kỳ - Cam Bốt là một thành phần hoàn toàn riêng biệt với ĐDCSĐ.)[140] Tại Campuchia, đảng đã có 120 thành viên người Trung Quốc và 4 người Việt, với 300 thành viên Trung Quốc trong các nghiệp đoàn lao động. Tại Nam Kỳ đảng cho thấy sự lớn mạnh với 70 thành viên Trung Quốc và 400 người Việt, tăng 350 người Việt kể từ tháng 2 1930. Có 500 thành viên trong các nghiệp đoàn lao động (tính chung mọi chủng tộc) và 13.500 thành viên trong các nông hội.[141]
Hai thành viên còn lại của Uỷ Ban Trung Ương là Trần Phú và Lê Mão đã đến Hồng Kông vào ngày 2 tháng 10, trước khi những thành viên miền nam không thể chờ đợi được nữa và định quay trở về. (Một thành viên thứ ba là cựu đảng viên cuả ĐDCSĐ là Trần Văn Lan bị trễ hẹn và đã phải đợi tại một khách sạn trong suốt cả tháng 10. Không biết là có phải ông đã nhận được địa chỉ không chính xác hay không.) Nguyễn Phong Sắc, một thành viên vắng mặt khác thì đang quá bận bịu với phong trào Nghệ Tĩnh đã không tham dự. Ngô Đức Trì bị đau ruột thừa ngay trước ngày hội nghị và do đó phải nằm tại bệnh viện trong suốt hai tuần. Mặc dù ít nhất một học giả Việt Nam đã cố gắng chứng minh rằng Hồ cũng đã vắng mặt trong hội nghị tháng 10 nhưng tài liệu của QTCS đã cho thấy không phải vậy.[142] Vào ngày 28 tháng 10 Hồ đã viết một trong những báo cáo ít tin tức nhất về quá trình này. Bên cạnh việc thống kê những số lượng đảng viên trong những tổ chức khác nhau (giờ đã lên đến 1.740 đảng viên, trong đó có 190 người Trung Quốc), ông đã liệt kê những hạng mục và nghị quyết đã được thảo luận, chú thích rằng những tài liệu này chưa được chuyển ngữ. Báo cáo về chi tiêu của ông cho thấy tổng số chi phí cho việc đi lại, ăn ở trong thời gian hội nghị chiếm hết 440 đô-la Hồng Kông. Cuối cùng ông hỏi: "Xin hãy gọi điện cho chúng tôi ngay bởi vì chúng tôi phải quay về lập tức sau khi gặp ông."[143] Điều này cho thấy ông thực sự đã đi cùng Trần Phú đến Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông sau đại hội.
Đối với những ai tìm cách chứng minh Hồ Chí Minh luôn là ngọn đèn dẫn đường của ĐCS Việt Nam thì việc ông vắng mặt tại Hồng Kông trong lúc ấy khá là tiện lợi. Bởi vì tại hội nghị tháng 10 này ông đã bị mất quyền hành của một người chuyển giao chính sách của QTCS đến Việt Nam. Chính cương cho ĐCS Việt Nam vào tháng 2 1930 do ông soạn thảo đã bị thay thế bằng một Luận Cương Chính Trị mới và các nghị quyết hợp với đường hướng hiện tại của QTCS. Như ta đã thấy, việc này đòi hỏi đảng phải phát triển thành một tổ chức giai cấp. Hai nhiệm vụ của đảng là cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến giờ đây đã trở thành việc giải phóng giai cấp công nhân tại thành thị lẫn nông thôn. Cho đến năm 1931 tư tưởng này đã gây nên việc thanh trừng nhiều người trung lưu yêu nước trong đảng, tách rời họ ra khỏi phong trào cách mạng. Trong cùng lúc ấy, hội nghị đã phê bình cuộc khởi nghĩa tháng 9 tại Nghệ An. Một thông tư được gọi là Văn Kiện Đảng viết vào tháng 10 đã phê phán "Xứ Uỷ Trung Kỳ". Thông tư nói rằng: "Vào thời điểm hiện tại với hiện tình đất nước, mức độ chuẩn bị của tầng lớp vô sản và quần chúng bị bóc lột tại thành thị và nông thôn, mức độ chuẩn bị của đảng và sức mạnh của địch, những cuộc khởi nghĩa riêng rẽ tại một vài nơi là manh động và sai lầm."[144] Vào cuối hội nghị, những đại biểu đã quyết định thành lập Uỷ Ban Trung Ương tại Sài Gòn. Trần Phú được bầu làm bí thư Uỷ Ban Trung Ương, với Ngô Đức Trì và Nguyễn Trọng Nhã là uỷ viên trong Uỷ Ban Thường Vụ. Nguyễn Phong Sắc và Trần Văn Lan vẫn giữ chức uỷ viên Uỷ Ban Trung Ương. Thành viên người Trung Quốc là A Lầu đã quyết định ở lại Hồng Kông để làm việc với ĐCS Trung Quốc vì ông từng là học viên của Hoàng Phố.[145]
Theo lời của Ngô Đức Trì thì sau hội nghị, Hồ và Trần Phú cùng đi Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông. Khi Trần Phú quay lại Hồng Kông vào ngày 20 tháng 11, ông đã đem theo một bức thư ngắn của Hồ, Ngô Đức Trì nói. Bức thư nhìn nhận rằng quá trình hợp nhất đảng đã được thực hiện vội vàng và đã có những thiếu sót về phương hướng vì đã thiếu thông tin từ trong nước. Hồ cũng đã đồng ý việc đổi tên đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương.[146] Một thông tư đề ngày 9 tháng 12 cho các đảng uỷ công bố việc Hồ nhìn nhận những sai lầm của mình. Thông tư đã lưu ý rằng đã không có một xứ uỷ nào thực hiện chỉ thị của QTCS được gửi cho họ vào tháng 2 và tháng 3 193; trên thực tế, những chỉ thị này đã được "tiếp thu một cách lạnh nhạt". Các đảng viên đã không biết được rằng "người đồng chí kêu gọi Hội Nghị Hợp Nhất đã được QTCS gửi về nước hoạt động mà không có một hướng dẫn cụ thể nào... ông đã tự mình khởi xướng và đã mắc phải hàng loạt sai lầm... Đồng chí này đã nhìn nhận sai lầm của mình và đã đồng ý sửa chữa."[147] Thông tư này cũng đã chỉ ra việc cần phải xem tất cả địa chủ là một "giai cấp". Đối nghịch lại với chính cương tháng 2 của Hội Nghị Hợp Nhất, bản thông tư khẳng định rằng tất cả các địa chủ là kẻ thù của nông dân và quyền lợi của họ "liên quan mật thiết với quyền lợi của đế quốc".[148]
Đến cuối tháng 1 1931, mặc dù những làn sóng biểu tình mới đang xảy ra tại Hà Tĩnh và Quảng Ngãi, Ngô Đức Trì đã viết cho Moscow rằng "cuộc khủng bố đẫm máu đang ảnh hưởng đến tinh thần quần chúng và làm cho hoạt động của chúng tôi thêm khó khăn". Đến tháng 10 1930, ông ghi chú, trong số 90 đảng viên tại Hải Phòng đã có 17 người bị bắt, 10 người khác đã bỏ trốn, và 45 người đã bỏ đảng vì sợ bị đàn áp. Đến tháng 12 1930, số lượng đảng viên đã tăng lên 93 đảng viên nhờ những thành viên mới được kết nạp, nhưng số lượng thành viên công đoàn đã giảm từ 99 vào tháng 10 xuống còn 67 vào trong tháng 12.[149] Trong khu vực mỏ than Hồng Gai, Cẩm Phả và Hà Tu, nơi có hàng nghìn công nhân mỏ, ông viết: "Chúng tôi chỉ có 29 đồng chí".[150] Đảng đã không thể thâm nhập vào các đồn điền kể từ sau cuộc nổi dậy ở Phú Riềng, và tại khu vực nông thôn, nơi việc đàn áp đặc biệt dữ dội, các nông hội "đã bị phá huỷ".[151] Trong phần tái bút ông nói thêm rằng Uỷ Ban Trung Ương đã bắt đầu thiết lập liên lạc với Thượng Hải nhưng hiện tại hệ thống này làm việc rất tồi tệ. (Có thể là việc Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị cảnh sát Anh tại Hồng Kông khám phá vào tháng 12 1930 đã làm gián đoạn hệ thống liên lạc vốn đã chậm giữa Hồng Kông và Thượng Hải. Theo báo cáo của người Anh vào năm 1932, phân bộ "đang sống trong tình trạng hấp hối, như một cơ quan chuyển giao và thông dịch tin tức của Phân Bộ Viễn Đông, với một nhân viên là Nguen[sic] Ai Quac, một người Cộng Sản An Nam."[152]
Tình trạng thảm hại này dường như đã ảnh hưởng đến quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ. Vào ngày 12 tháng 2 ông đã chuyển một bức thư (mà ông đã dịch sang tiếng Anh) của Uỷ Ban Trung Ương Việt Nam đến Phân Bộ Viễn Đông. Lá thư mở đầu: "Quan điểm của QTCS về bản thảo nghị quyết của chúng tôi là gì? Có thư từ gì cho chúng tôi không? Nếu không thì đặt văn phòng tại Hồng Kông để làm gì. Ít nhất QTCS cũng nên gửi thư cho chúng tôi.[...] Nếu các đồng chí không thể giúp chúng tôi liên lạc với QTCS và Cục Đông Phương thì các đồng chí làm gì ở đây?"[153] Những chỉ thị và hậu thuẫn mà Đảng Cộng Sản Đông Dương mới đang mong muốn đã mất quá nhiều thời gian để đến Việt Nam. Không hẳn là lỗi của Hồ khi Phân Bộ Viễn Đông chậm trả lời những yêu sách của họ. Trong một bức thư gửi cho Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 2, Hồ đã nhấn mạnh vai trò tế nhị của tầng lớp lãnh đạo trong Uỷ Ban Trung Ương và tầm quan trọng của việc củng cố quyền lực của họ. Lý do mà "những giám đốc mới trong công ty Đông Dương" đang vô cùng nôn nóng trông chờ những bức thư mà các ông đã hứa, ông nói, là vì "họ vừa đặt chân đến trong nước và họ vẫn chưa có được những ảnh hưởng cần thiết đối với những người dưới quyền đã ở trong công ty lâu hơn."[154] Nhưng Phân Bộ Viễn Đông chỉ giỏi trong việc đưa ra những chỉ thị chung và phê bình những báo cáo nhận được hơn là giải quyết những khó khăn (trong mùa đông năm 1931 họ cũng đã hoàn toàn bận rộn trong việc khống chế ảnh hưởng của Lý Lập Tam). Họ đã viết cho Hồ vào ngày 12 tháng 1 hứa hẹn là sẽ sớm có "một tài liệu đầy đủ và chi tiết hơn" kèm theo các chỉ thị, nhưng nó đã không thành hình mãi cho đến cuối tháng 3.[155] Bức thư ngày 12 tháng 1 của Phân Bộ Viễn Đông cũng đã phê bình công việc báo cáo của Hồ và bỏ qua thực tế là có thể ông đã phải thay đổi địa chỉ và hình thức thông tin sau khi Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị khám phá. "Chúng tôi thấy liên lạc của đồng chí với những nơi khác dường như không đầy đủ và không chấp nhận được. ... Hơn nữa thông tin về cuộc Khủng Bố Trắng thì quá "khô khan" (chỉ đề cập là bao nhiêu người bị bắt); điều quan trọng là cần phải biết họ bị bắt khi đang làm gì, vì sao họ bị bắt, vân vân."[156] Cũng trong cùng bức thư này, Phân Bộ Viễn Đông đòi hỏi cần có thêm những cuộc biểu tình: ngày 25 tháng 2 là "Ngày Thất Nghiệp", được đánh dấu bởi "sự vận động quần chúng rộng rãi nhất có thể được trong các công xưởng và nhà máy".
Dường như Hồ đã báo với Phân Bộ Viễn Đông về dự định cưới vợ của mình trong khoảng mùa đông. Phân Bộ Viễn Đông nhắc nhở ông trong bức thư ngày 12 tháng 1 rằng ông phải báo cho họ biết trước hai tháng ngày cưới của ông. Vì bức thư này đã không dùng mật mã dưới dạng công ty thương mãi, ta có thể cho rằng họ thực sự đang nói về việc Hồ lấy vợ. Trong tháng 2 ông có đề cập đến việc vợ mình đang bận rộn chuẩn bị Tết và dự định mở tiệc đón khách từ Sài Gòn và Bắc Kỳ, do đó có thể là ông đã tảng lờ yêu cầu của Phân Bộ Viễn Đông hoặc là thư của họ đến quá trễ.[157] Từ tài liệu QTCS khác trong giai đoạn 1934 và 1935, chúng ta biết được rằng vợ của ông rõ ràng là Nguyễn Thị Minh Khai, cựu thành viên đảng Tân Việt ở Vinh được giao nhiệm vụ làm việc tại Hồng Kông sau khi đảng hợp nhất.[158] Sau này bà được giao nhiệm vụ làm việc với ĐCS Trung Quốc. Việc Hồ và bà có còn giữ quan hệ vợ chồng sau khi hai người bị bắt vào tháng 4 và tháng 6 1931 thì không rõ. (Nguồn hồ sơ của người Pháp về Nguyễn Thị Minh Khai làm ta tin rằng bà đã có nhiều quan hệ với những đồng chí nam giới trong khoảng 1930 đến 1940. Ví dụ như vào năm 1932, Sở Liêm Phóng tin rằng bà là tình nhân của Trần Ngọc Danh, em trai Trần Phú. Vào năm 1933 họ đã giữ được một bức thư của bà viết từ Hồng Kông, dường như để từ chối việc cầu hôn của một người nào đó, trong đó bà tuyên bố "Tôi không còn ám ảnh chuyện hôn nhân hoặc làm mẹ... Người chồng duy nhất của tôi là cuộc Cách Mạng Cộng Sản."[159] Nhưng cho đến cuối năm 1934, khi bà đến Moscow, bà lại viết rằng bà đã có chồng là "Lin", bí danh của Hồ lúc ấy.[160] Ở Việt Nam, tiểu sử về bà viết rằng bà đã lấy Lê Hồng Phong tại Moscow vào năm 1935, nhưng hiện tại không có một bằng chứng gì về cuộc hôn nhân này.[161])
Hội nghị tháng 3 và sự chấm dứt của "cao trào cách mạng"
Đến ngày 12 tháng 3 1931, khi Hội Nghị Toàn Thể lần 2 bắt đầu tại Sài Gòn, quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ Chí Minh đã suy giảm đến mức ông đã phải nhanh chóng yêu cầu được từ bỏ nhiệm vụ của mình tại Hồng Kông. Một trong những đề mục trong chương trình nghị sự của Hội Nghị tháng 3 là "vấn đề Hồ Chí Minh". Theo Ngô Đức Trì thì những người cầm đầu tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ đã than phiền rằng Hồ liên tục yêu cầu họ phải tường trình cho Phân Bộ Viễn Đông tại Thượng Hải những báo cáo mà Thường Vụ Uỷ Ban Trung Ương có trách nhiệm soạn thảo. Hội nghị đã quyết định viết thư yêu cầu Hồ nên chấm dứt việc đòi hỏi những báo cáo này; khi cần thiết, Uỷ Ban Trung Ương sẽ gửi báo cáo cho Phân Bộ Viễn Đông qua ngõ Hồng Kông, và sẽ yêu cầu Hồ chỉ đơn giản là chuyển giúp cho họ. [162] Vào tháng 4, Trần Phú đã viết thư thông báo cho Phân Bộ Viễn Đông rằng họ không nên tiếp tục dùng Hồ làm người trung gian vì "ông ta quá vắn tắt và đôi khi chỉ thị cho chúng tôi những ý kiến cá nhân của mình mà không thông qua các đồng chí."[163]
Hồ phản hồi những phê bình trên trong một bức thư gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ngày 23 tháng 4 nói rằng ông thấy vô ích khi chỉ đóng vai trò của một trạm đưa thư đơn thuần. Ông giải thích: "Tôi biết hoàn cảnh khó khăn và Uỷ Ban Trung Ương có rất nhiều việc phải làm. Nhưng "họ" cần phải hiểu rõ tình thế của chúng ta, và đó là lý do tại sao chúng tôi đã yêu cầu các văn bản báo cáo từ các đảng uỷ địa phương."[164] Vào cuối tháng 3 Phân Bộ Viễn Đông tìm cách thuyết phục ông ở lại Hồng Kông với lý do là việc giữ liên lạc với Thượng Hải sẽ không dễ dàng hơn cho ông. Họ đã trấn an ông rằng, "Bản thân đồng chí vô cùng quí giá và trên hết là sự cần thiết mà chúng ta đã thảo luận vào tháng 11 trước. Chúng tôi đã xác định nhiệm vụ của đồng chí như sau: (1) giữ vững các liên lạc mật thiết nhất có thể được với những đảng uỷ trong nước; (2) báo cáo với chúng tôi mọi việc tại nơi sinh hoạt của đồng chí; (3) chuẩn bị và giáo dục đảng trong những cuộc đấu tranh tương lai"[165]
Kiểm soát viên QTCS là Joseph Ducroux đã gặp Hồ vào tháng 3 và tháng 4 khi trên các chuyến đi và rời khỏi Việt Nam, nơi ông đã tổ chức một số cuộc họp với Trần Phú và Ngô Đức Trì. Ông đã không hé lộ nhiều về mối căng thẳng giữa Hồ và Uỷ Ban Trung Ương trong một bức thư viết sau khi gặp Hồ vào tháng 4. Nhưng ông đã lưu ý rằng Hồ cảm thấy bị cô lập và đề nghị Phân Bộ Viễn Đông nên củng cố sự chỉ đạo của mình và "sự hậu thuẫn vững chắc" mà họ đã dành cho Hồ và "những người bạn trong nước" của ông.[166] Ducroux cũng đã báo cáo rằng giới lãnh đạo trung ương của Đảng Cộng Sản Đông Dương "cuối cùng đã được mọi người công nhận và có thực quyền, mặc dù có một vài chủ trương liên bang nhỏ". Dù thế những chủ trương này lại rất mạnh ở miền bắc đến độ tại hội nghị, Uỷ Ban Trung Ương đã quyết định thay thế bộ phần lãnh đạo ở đấy. Cả lời khai của Ngô Đức Trì lẫn thư từ liên lạc giữa Ducroux và Trần Phú đã cho thấy một thành viên của Xứ Uỷ Bắc Kỳ trong khi được giao nhiệm vụ chuyển ngữ bức thư của QTCS "Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương" đã thêm vào một lời mở đầu rằng Đệ Tam Quốc Tế đã không hiểu được tình hình tại Đông Dương. Nhân vật phản kháng này, được nhận diện là "Ky", đã giữ được ảnh hưởng của mình trong hàng ngũ lãnh đạo phía bắc, ngay cả khi đã bị đưa ra khỏi chức vụ của mình và đã tìm cách thành lập một thành phần đối lập.[167] Một bức thư của Phân Bộ Viễn Đông được viết sau hội nghị tháng 3 đã lặp lại rằng ĐCS Đông Dương phải chống lại những "phần tử tại các tỉnh phía bắc" đã cho rằng QTCS không thấu hiểu được hiện tình của Đông Dương. "Những lập luận này đã được dùng trước đây bởi Lý Lập Tam, người đã không thực hiện những chỉ thị của QTCS và đã dẫn đến những thiệt hại to lớn của tổ chức tại đây."[168]
Hồ Chí Minh đã đứng ở vị trí nào trong mối mâu thuẫn về đường lối của QTCS là một vấn đề phức tạp. Chúng ta có thể giả định từ mối quan hệ tốt đẹp của ông với Phân Bộ Viễn Đông, báo cáo của ông từ Mã Lai vào năm 1930 cũng như từ bức thư của ông trong tháng 4 1931 rằng ông đã không mong muốn dính líu đến việc phản đối lại Moscow. Nhưng vị thế của ông đã có thể bị suy yếu từ việc Mif đang cố gắng nắm lấy Phân Bộ Viễn Đông vào mùa thu 1930. Theo quan điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính sách giai cấp rõ rệt trong nội bộ đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mất đoàn kết trong đảng. Trong bức thư ngày 17 tháng 4 1931 ông đã buộc Hồ chịu trách nhiệm về những tàn dư của "những tổ chức cách mạng cũ" bên trong đảng Việt Nam. Ông cho rằng "những tháng qua cho thấy rằng tất cả những thành phần tư tưởng thuộc những nhóm cách mạng cũ đã kết hợp thành một thành phần chống lại phương hướng mới về chính sách thống nhất tư tưởng và hành động của đảng." Hội nghị hợp nhất vào tháng 2 1930 đã bị thấm nhuần tư tưởng của những tổ chức cách mạng cũ, ông nói. Tư tưởng này bao gồm việc thừa nhận những địa chủ bậc tiểu và trung cũng như thành phần tư sản quốc gia là một bộ phận của cách mạng. Ông giải thích: "Kết quả của "hội nghị hợp nhất" này đã chứa đựng rất rõ dấu vết của giai đoạn hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc, đặc biệt là chính sách hữu khuynh của ĐCS Trung Quốc từ 1925 đến 1927".[169]
Việc thúc đẩy chủ trương giai cấp của Trần Phú với uy thế của Stalin có thể đã mang lại một hậu quả ngoài ý muốn. Nỗ lực áp đặt một "đường hướng giai cấp" của ông tại Hội Nghị tháng 3 1931 có thể đã dẫn đến một giai đoạn mới của chủ nghĩa cực đoan tại Trung Kỳ vào mùa xuân 1931. Những quyết định được đưa ra trong phiên hội nghị tháng 3 kéo dài 2 tuần thường được cho là đã phê bình nghiêm khắc những "khuynh hướng thiên tả" trong nội bộ đảng của những người như Ngô Vĩnh Long.[170] Có lẽ chính xác hơn thì đây là sự thay thế một chủ trương cực đoan bằng một chủ trương cực đoan khác. Trong khi hội nghị đã không lên án khủng bố cá nhân và cách sử dụng bạo lực đầy hấp tấp, nó đã kêu gọi củng cố tính chất giai cấp của ĐCS Đông Dương. Bản nghị quyết viết: "Một trong những nguy hiểm lớn nhất là việc các đảng viên vẫn chưa hiểu rõ về vị trí của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng và những nhiệm vụ của đảng."[171] Những nhiệm vụ tổ chức đầu tiên phải được thực hiện là: giải pháp cho cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ lãnh đạo tại Bắc Kỳ và đẩy mạnh vị thế của Uỷ Ban Trung Ương tại miền trung và miền nam. Cần thiết phải từng bước một thay thế các đại diện của thành phần trí thức và bảo thủ trong những bộ phận lãnh đạo bằng tầng lớp công nhân hoặc bần nông.[172] Đảng được giao nhiệm vụ điều tra những hội nông dân và loại bỏ những thành phần không dính líu đến giai cấp nông dân; đưa những đại biểu bần nông và người lao động thành thị nghèo khó nhất vào hàng ngũ lãnh đạo. Cuộc đấu tranh giai cấp tại nông thôn cần được mở rộng và ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia cần được loại bỏ.[173] Tổ chức phụ nữ không còn chỉ chú trọng vào "phụ nữ nói chung" mà cần được thực hiện chỉ trong tầng lớp phụ nữ lao động. Hội Phụ Nữ Giải Phóng phải bị giải tán tức thì.[174]
Một hệ quả của nghị quyết về giai cấp dường như là sự thanh trừng của Đảng Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4. Một lần nữa, đã có một sự nhầm lẫn về nguyên do của việc thanh trừng này. Nguyễn Duy Trinh đã miêu tả nó như là việc loại bỏ những thành viên "đã mắc những sai lầm thiên tả nghiêm trọng".[175] Nhưng Trần Huy Liệu lại nhắc đến một thông tư đề ngày 29 tháng 4 1931 từ Xứ Uỷ Trung Kỳ trong đó kêu gọi bài xích những thành phần trí thức, phú nông, địa chủ và thân hào.[176] Thuật ngữ này nhắc lại khẩu hiệu nổi tiếng trong thời điểm mạnh mẽ nhất của phong trào Nghệ Tĩnh: "Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ". Trần Huy Liệu viết rằng khẩu hiệu mang tính chia rẽ như thế đã giúp cho người Pháp lôi kéo được một phần khá lớn trong dân chúng vào thời điểm mà sự đàn áp của Pháp đang lên cao. Khi Thông Tư ngày 29 tháng 4 được ban hành, Lê Viết Thuật đã được tín nhiệm để nắm quyền lãnh đạo Xứ Uỷ Trung Kỳ, theo lời Nguyễn Duy Trinh. Cả Nguyễn Đức Cảnh và Lê Mão đều bị bắt giữ vào ngày 9 tháng 4; Lê Viết Thuật có lẽ cũng nằm chung số phận vào ngày 1 tháng 5, trong khi Nguyễn Phong Sắc bị người Pháp bắt vào ngày 3 tháng 5 1931.[177]
Việc loại bỏ giai cấp tư sản có lẽ đã được toan tính như là một cuộc thanh trừng bất bạo động. Nhưng nó đã chuyển thành một quá trình tìm vật tế thần khi người Pháp đưa thêm quân vào Vinh và nạn đói lan rộng. Tài liệu của toà án Pháp cho thấy tại Hà Tĩnh, bắt đầu từ tháng 11 1930 và trong suốt nửa đầu 1931, những người bị tình nghi là gián điệp và dân làng bị tố cáo ngăn cản phong trào xô viết đã bị ám sát bằng nhiều biện pháp.[178] Một người phản đối đảng đã bị trói và thả trôi sông cùng với vợ và con; một kẻ trộm lúa và khoai đã bị chôn sống; một người bị tình nghi là chỉ điểm đã bị đánh chết. Ta không biết rõ rằng những việc này có nằm trong chủ trương thanh trừng mà Trần Huy Liệu nhắc đến hay không. Trong hoàn cảnh nguy hiểm ngày càng tăng đối với những đảng viên, một "kẻ thù giai cấp" bị loại bỏ khỏi chức vụ lãnh đạo trong đảng sẽ tự động biến thành kẻ bị tình nghi phản bội.
Theo tài liệu trong Văn Kiện Đảng, một chỉ thị do Uỷ Ban Trung Ương ban hành vào ngày 20 tháng 5 1931 đến Xứ Uỷ Trung Kỳ kêu gọi chấm dứt việc thanh trừng. Tài liệu này nói rằng "Xứ Uỷ Trung Kỳ, cụ thể là bí thư xứ uỷ, đã đưa ra một chỉ thị loại bỏ khỏi đảng những trí thức, phú nông, địa chủ và thân hào; chỉ thị này không có cơ sở, thiếu giải thích cặn kẻ, độc đoán và cẩu thả."[179] Xứ Uỷ Trung Kỳ được chỉ đạo phải tự kiểm điểm với thái độ nghiêm khắc nhất và sửa chữa những sai lầm của mình. Điều kỳ lạ là trong bài viết của Trần Huy Liệu năm 1957 đã không thấy nhắc đến chỉ thị này. Như ta đã thấy, Nguyễn Duy Trinh, tự nhận rằng đã trực tiếp chứng kiến những sự kiện này và đã tham dự cuộc họp của Xứ Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4 đã đặt thời điểm sửa chữa những sai lầm tả khuynh vào khoảng tháng 4, khi trong thực tế thời kỳ bạo lực hơn nữa của phong trào xô viết chỉ mới bắt đầu. Dường như đã có một khả năng khác là những hành động mà trong thời gian 1935-6 được cho là "sai lầm thiên tả" trên thực tế đã không được sửa đổi trong năm 1931. Giai đoạn cực đoan này có thể chỉ đơn giản đã lắng dần khi cơ cấu đảng bị phân tán.
Như ta đã biết được từ những bức thư cuối cùng của Trần Phú và Hồ Chí Minh gửi đến Phân Bộ Viễn Đông (trước khi họ bị bắt), vào tháng 4 1931 và đầu tháng 5 1931 toàn bộ cơ cấu bên trên cấp tỉnh của ĐCS Đông Dương đã bị phá huỷ vì những bắt bớ của Pháp. Ngô Đức Trì bị bắt vào ngày 1 tháng 4, cùng với toàn bộ Xứ Uỷ Nam Kỳ. Vào ngày 15 tháng 4 cơ quan của Uỷ Ban Trung Ương tại Sài Gòn bị khám phá, dẫn đến việc mất mát tất cả thư từ và 1.500 đô-la do Ducroux đưa sang để trang trải chi phí trong 3 tháng. Trần Phú thoát được nhờ đang đi vệ sinh khi cuộc ruồng bố xảy ra.[180] Ông đã viết vào ngày 28 tháng 4: "Mỗi ngày đều có bắt bớ." Các tỉnh Thái Bình và Nam Định bị tấn công dữ dội làm liên lạc viên của họ bị bắt giữ và đã khai báo. Cơ sở in ấn mới của Uỷ Ban Trung Ương bị khám phá và thêm vài đảng viên bị bắt.[181] Hồ đã báo cáo việc Trần Phú bị bắt vào ngày 19 hoặc 20 tháng 4. Sau đó Hồ viết rằng chỉ còn sót lại một công nhân trẻ trong ban bí thư. Tại Hồng Kông một trong những "đồng chí có nhiệm vụ thông tin" là Nguyễn Thị Minh Khai đã bị bắt vào ngày 29 tháng 4.
Vì những bắt bớ rộng rãi ở trên, việc soạn thảo của chỉ thị ngày 20 tháng 5 1931 cho Xứ Uỷ Trung Kỳ đã gặp khó khăn. Có phải Uỷ Ban Trung Ương đã ban hành một tài liệu như thế vào lúc ấy? Có phải chính Hồ Chí Minh đã soạn thảo và gửi đến miền trung Việt Nam dưới danh nghĩa của một Uỷ Ban Trung Ương đã không còn tồn tại? Có phải Hồ Chí Minh vẫn sẵn sàng khởi xướng việc này trong khi QTCS đã hoàn toàn ủng hộ những chính sách do Trần Phú đưa ra? Nó có được thực sự chấp nhận và thi hành tại Trung Kỳ? Bằng chứng duy nhất từ văn khố của Pháp về vấn đề này là một thông tư dang dở do cảnh sát Hồng Kông tịch thu được từ máy đánh chữ của Hồ Chí Minh khi ông bị bắt vào ngày 6 tháng 6. Chủ đề của tài liệu này là đường lối đúng đắng để chống lại cuộc khủng bố của Pháp. Người Pháp cho tài liệu này là "không đáng quan tâm" nhưng tin rằng nó cho thấy quyền lực của Hồ trong đảng.[182]
Theo bức thư từ Đức mà Phân Bộ Viễn Đông đã gửi đến Moscow vào ngày 10 tháng 6, dường như họ đã quyết định đưa ra lời kêu gọi "đến toàn thể các thành viên trong đảng" trên danh nghĩa của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Lời kêu gọi này có mục đích "khẳng định rằng đảng đang lập lại trật tự và bắt tay vào việc".[183] Người viết, có thể là Rylski, đã không đưa ra những chi tiết liên quan đến tài liệu này. Nhưng trong bức thư ngày 12 tháng 5 rõ ràng là gửi cho Hồ, viết bằng tiếng Anh không nguyên thuỷ, người viết đã giao cho ông nhiệm vụ viết lời kêu gọi đến đảng: "Chúng tôi cho rằng cần có một bức thư do đồng chí viết, một bức thư ngỏ cho tất cả các thành viên. Trong thư đồng chí nên nói về những nhiệm vụ của đảng đối với hoạt động quần chúng, việc tổ chức những cuộc đấu tranh kinh tế của công nhân tại các đồn điền, nhà máy, những công nhân nông nghiệp, việc tổ chức các nghiệp đoàn lao động, Liên Đoàn Phản Đế, Uỷ Ban Nông Dân, Uỷ Ban Binh Lính, vân vân. Đồng chí nên nói về sự cần thiết phải lãnh đạo và tổ chức những hoạt động tự phát của nông dân của các thành viên, vân vân. Đồng chí nên cảnh báo đảng về hiểm hoạ của xu hướng manh động và nhất là cho thấy khả năng của hiểm hoạ hữu khuynh đang dâng cao là một phản ứng đối với cuộc khủng bố trắng."[184] Căn cứ trên ngày tháng của hướng dẫn này, có khả năng là Hồ đã viết thư dưới danh nghĩa của Uỷ Ban Trung Ương vào ngày 20 tháng 5. Cũng có thể là ông đã nhận ra rằng thông điệp mà Phân Bộ Viễn Đông yêu cầu ông chuyển giao đã không còn hợp với thực tại. Có thể ông đã tự tay giải quyết công việc và đã soạn thảo bản chỉ thị đã được tìm thấy trong Văn Kiện Đảng.
Chúng ta biết được suy nghĩ của Hồ trong tháng 4 từ những bức thư của ông. Vào ngày 28 tháng 4 ông than phiền với Phân Bộ Viễn Đông về trình độ học vấn của những đảng viên mới. Những học viên được lựa chọn để đào tạo tại Moscow lẫn những đảng viên công nhân và nông dân đều thất học, ông viết. "Điều này có nghĩa là mặc dù họ dũng cảm và hi sinh, họ vẫn làm việc rất tồi, tư tưởng và trình độ chính trị của họ rất thấp." Ông bổ xung: "Hệ quả của việc thiếu trình độ hoàn toàn này là công việc của các đồng chí gốc công nhân và nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào những thành viên trí thức." Trong cùng lúc ấy ông lưu ý rằng phần đông những trí thức Việt Nam được gửi đi Moscow từ Pháp thì "không dùng được". Họ bao gồm những con em được nuông chiều của thành phần tư sản, ông than phiền.[185] Ông cũng lo lắng về chiến lược đang được sử dụng để chống lại sự đàn áp của người Pháp. Trong khoảng ngày 12 đến 20 tháng 4 ông ghi chú rằng đã có 65 nông dân đã bị giết trong những cuộc biểu tình. Quân đế quốc đã quyết định ngăn chận phong trào bằng "thảm sát", ông nói. "Chúng ta nên đưa ra chương trình đấu tranh cụ thể gì cho các đồng chí của mình? Nếu chúng ta để họ tiếp tục con đường này thì sẽ dẫn đến hiểm hoạ manh động."[186] Điều mỉa mai là trong cùng bức thư ấy, ông đã đề cập đến việc hãng tin Reuters vào ngày 25 tháng 4 đã đưa ra bản tin về việc ĐCS Đông Dương đã được QTCS thừa nhận như là một "bộ phận độc lập". Nếu bản tin này là đúng, ông viết, "thì đây sẽ là một khích lệ tinh thần rất lớn cho đảng và quần chúng."[187]
Uy tín của Hồ tại Việt Nam có thể vẫn còn tương đối lớn để ảnh hưởng đến hướng đi của ĐCS Đông Dương trong giai đoạn này nếu ông đã không bị bắt vào đầu tháng 6. Nhưng tài liệu của Trần Huy Liệu viết vào năm 1960 về giai đoạn mùa xuân 1931 đã không đưa ra ấn tượng rằng Hồ thật sự có ảnh hưởng đến những tiến trình của các sự kiện: "Phong trào Xô Viết ở Nghệ An và Hà Tĩnh, không những đã không lụi tắt mà còn tăng thêm cường độ và bạo lực trong những tháng cuối. Máu đổ ngày càng nhiều. Khi chuyển đổi từ giai đoạn yêu sách kinh tế và chính trị đến đấu tranh chống lại khủng bố trắng, những cuộc biểu tình ngày càng trở thành đấu tranh vũ trang."[188] Ta nghi ngờ rằng xét đoán của Liệu trong nhiều năm sau về những sự kiện trên là không thể có được trong thời kỳ 1931. "Cương lĩnh hành động năm 1930 đã phạm sai lầm về việc kêu gọi lật đổ tầng lớp tư sản dân tộc cùng với chính quyền thực dân Pháp và giai cấp phong kiến...Lẽ ra họ nên được lôi kéo vào hàng ngũ cách mạng dân chủ tư sản và không nên bị tách rời một cách có hệ thống," ông viết. "Tại nông thôn, những cuộc đấu tranh chống lại thành phần phú nông, trung nông và hương lý và thân hào là những sai lầm nghiêm trọng đã làm mất đi uy tín của cả phong trào và tạo điều kiện cho địch tuyên truyền."[189]
Một báo cáo viên vô danh tại Sài Gòn trong năm 1931 khi viết về tình hình của Đông Dương đã không đưa ra một dấu hiệu nào về việc ĐCS Đông Dương đang chỉnh sửa đường lối. (Người viết nhân danh là một thành viên trong tổ đảng 4 người ở một kho hàng có đến 200 công nhân. Bản báo cáo được QTCS đóng dấu ngày nhận vào tháng 6 1931.) Vào lúc bản báo cáo được viết trong nước đã có 2.400 đảng viên, trong đó có 600 người tại Nam Kỳ (không kể 200 thành viên người Hoa của nhóm Nam Kỳ - Cam Bốt). Khi nhận định về "khuynh hướng cơ hội", ông viết rằng những thành phần cách mạng dân tộc đã gia nhập đảng sau hội nghị hợp nhất và những người bị loại bỏ trong cuộc đấu tranh giai cấp đang "tìm cách tổ chức một cơ sở của Đảng Độc Lập tại Nam Kỳ", (tức là đảng của Nguyễn Thế Truyền). Còn có một tổ chức vô chính phủ vừa được thành lập cũng như một nhóm Trotskyist đang hoạt động trong thành phần trí thức, và một "Liên Đoàn Cộng Sản" mới được thành lập của những đảng viên đã bị khai trừ. ĐCS Đông Dương đang đấu tranh chống lại tất cả những xu hướng này ngoại từ nhóm chủ trương vô chính phủ vì họ đã không còn hoạt động. Ông viết rằng 30 thành viên còn lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở phía nam đang sẵn sàng gia nhập ĐCS Đông Dương. Nhưng họ đã quyết định tổ chức một "đêm hành động lớn" làm rung chuyển chính quyền đế quốc trước khi gia nhập đảng. Những người cầm đầu đã bị bắt trước khi những kế hoạch được thực hiện, ông nói.{190] Như ta thấy được trong bản báo cáo này, sự tan rã của phong trào cách mạng đang ở phía trước. Việc Hồ Chí Minh trở lại vai trò lãnh đạo vẫn còn cần nhiều năm nữa trong tương lai.
CHƯƠNG 6
CHẾT Ở HỒNG KÔNG, CHÔN TẠI MOSCOW? (1931-8)
Tù nhân
Vào ngày 8 tháng 6 1931, Toàn Quyền René Robin tại Hà Nội đã đánh điện cho Bộ Trưởng Thuộc Địa để thông báo về việc bắt giữ Hồ Chí Minh hai ngày trước đó.[1] Việc tìm được Hồ là nhờ đã khám phá được cuốn sổ địa chỉ của Joseph Ducroux tại Singapore khi đại diện người Pháp này bị bắt trong lúc đang trao đổi tài liệu với những người cộng sản địa phương. Bức điện của Robin thông báo rằng việc bắt được Hồ là nhờ "sự phối hợp giữa Sở Liêm Phóng với cảnh sát Anh tại Hồng Kông và Singapore cũng như cảnh sát tô giới Pháp tại Thượng Hải." Những kết hợp này đã giúp Pháp bắt Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Huy Bon, người trở về từ Moscow, công nhân Phan Đức Mau, từng tham gia Đại Hội Công Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 tại Moscow, và hầu hết những thành viên cộng sản người Việt đang hoạt động tại Thượng Hải. (Nguyễn Thị Minh Khai, bị bắt tại Hồng Kông vào ngày 29 tháng 4, đã bị dẫn độ về một nhà tù tại Quảng Châu vì họ ngỡ rằng bà là người Trung Quốc. Ở đấy bà gặp Trương Văn Lềnh và ba người Việt Nam khác đã bị bắt từ đầu năm 1931.) Vợ của Hồ Tùng Mậu là Lý Ung Thuân cũng bị bắt chung với Hồ. Tổn thất nặng nề nhất đối với những hoạt động của QTCS xảy ra vào ngày 10 tháng 6, khi đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy hay OMS - ND) là Hilaire Noulens và vợ của ông bị theo dõi qua một địa chỉ tìm được từ cuốn sổ của Ducroux. Mặc dù trong nhiều năm trước người ta nghĩ họ là hai công dân Thụy Sĩ tên Paul và Gertrude Ruegg, nhưng giờ họ được nhận diện là hai vợ chồng người Nga tên Jakov Rudnik và Tatiana Moiseenko-Velikhaya.[2]
Bức điện của Robin chứa đầy nội dung tự ca ngợi. Việc bắt giữ "toàn bộ giới lãnh đạo cộng sản tại Việt Nam", trong đó có 9 người về từ Moscow và đa số những nhà hoạt động người Việt tại Trung Quốc, là "thành quả của sự điều tra khéo léo do những ban ngành đầy khả năng thực hiện", ông viết; "làm cho chúng ta chiếm ưu thế hoàn toàn đối với tình hình chính trị." Nhưng ông cũng không mong đợi việc dẫn độ Hồ Chí Minh về Đông Dương. Lãnh sự Pháp tại Hồng Kông đã cảnh báo với ông rằng những người Việt bị bắt giữ tại Hồng Kông rất có thể sẽ được trả tự do. Robin đề nghị giải pháp tốt nhất có thể là thuyết phục người Anh giam giữ Hồ tại những vùng "thuộc địa xa xôi" như là một hành động trao đổi đối với những người cộng sản người Ấn hoặc Miến Điện đã bị bắt trong khu vực của Pháp.[3] Đến cuối tháng 6 viên thám tử của Sở Liêm Phóng là Neron đang tìm cách chuyển giao số tiền thưởng cho những vụ bắt giữ trên (15 nghìn đô-la cho Hồ và 10 nghìn đô-la cho Hồ Tùng Mậu và mỗi nhà cách mạng bị bắt tại Thượng Hải)[4]. Nhưng phương pháp xét xử của Anh đã đi ngược lại với ý muốn của người Pháp.
Số phận của Hồ Chí Minh nằm trên hoàn cảnh của trát lệnh trục xuất được đưa ra tại Hồng Kông. Neron tin rằng những tài liệu tìm được tại địa chỉ của Hồ được xem như bằng chứng để trục xuất ông về Thượng Hải với tội danh tuyên truyền cộng sản. Không những người Anh đã tìm được bức thông tư dang dở lên án đế quốc Pháp trên máy đánh chữ của Hồ, họ còn tìm được những bức thư cho thấy rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kích động phong trào cộng sản tại Mã Lai Á. Nhưng một số cố vấn pháp luật của Anh nhận định về vụ án này trong hồ sơ của Văn Phòng Thuộc Địa đã biện hộ rất mạnh mẽ cho quyền công dân của bị cáo. Ông đã không hề vi phạm pháp luật tại Hồng Kông, và vì thế lý do duy nhất để trục xuất ông là việc ông là một người cộng sản. Một luật sư là Walter Ellis đã viết rằng: "Tôi thấy rằng chúng ta không thể bắt buộc ông ấy phải bị trục xuất về Đông Dương nhiều hơn là nếu chúng ta có cơ hội bắt buộc một cựu quan chức trong chính phủ Sa Hoàng phải bị trục xuất về một nước cộng hoà Xô Viết." Ellis giải thích rằng nếu người Pháp có bằng chứng rằng Hồ đã vi phạm "một tội có thể dẫn độ được" thì họ nên đưa ra một kháng án chính thức để dẫn độ ông.[5]
Hồ đã không khai nhận bất cứ tên tuổi nào ngoài Sung Man Cho, tên này được ghi trong hộ chiếu Trung Quốc mà ông nhận được từ Singapore. Nhưng mâu thuẫn với việc ông tự nhận mình là người Trung Quốc, ông đã sắm vai là một người quốc gia chiến đấu cho nhà vua và đất nước với bản án tử hình đang chờ đợi ông tại Việt Nam.[6] Như Dennis Duncanson (học giả người Anh - ND) đã chỉ ra, lời khai báo mâu thuẫn này có thể là một chiến thuật bào chữa do QTCS đề xướng.[7] Đến tháng 7 1931 ông đã có được cố vấn luật pháp rất tài giỏi từ một nhóm luật sư do Frank Loseby dẫn đầu, rõ ràng đây là sự sắp đặt của tổ chức Trợ Giúp Đỏ (International Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS - ND). Những luật sư của ông lập luận rằng việc trục xuất ông về Thượng Hải cũng chẳng khác gì một cuộc dẫn độ trá hình về Đông Dương.[8] (Trên thực tế Hồ Tùng Mậu và các đồng chí của mình đã bị trục xuất về Thượng Hải vào cuối tháng 6 mà không có một sự nhận diện chính thức. Họ bị bắt lại tại tô giới Pháp và bị đưa về Việt Nam.[9])
Chiến lược của bên bào chữa là đòi hỏi cho Hồ quyền lợi của một tù chính trị chiếu theo Sắc Lệnh Trục Xuất trong đó cho phép ông được quyền chọn lựa điểm đi và điểm đến một cách bí mật. Nếu quyền lợi này không được bảo đảm, bị cáo sẽ "phản kháng quá trình xét xử bằng mọi hình thức và tiến trình có được", luật sư Jenkin tuyên bố trước toà.
Nhờ đã vận dụng chiến lược này mà vụ án của Hồ đã kéo dài mãi cho đến tháng 1 1933. Việc huy động toàn lực lượng cánh tả trên toàn thế giới để hậu thuẫn cho đôi vợ chồng bí ẩn Noulens có lẽ đã làm mọi người quan tâm đến hoàn cảnh của Hồ nhiều hơn là nếu ông bị bắt một mình. Tin tức báo chí cũng cho thấy ông cũng đã gây ấn tượng tốt tại toà bằng việc phát biểu bằng tiếng Anh mà không cần phiên dịch và biểu lộ sự thành khẩn trong việc chứng minh rằng ông mang tư tưởng quốc gia. Văn Phòng Thuộc Địa rõ ràng là cũng muốn giao ông cho người Pháp; một quan chức gọi ông là "một trong những kẻ kích động tồi tệ nhất đã bị bắt vào rọ trong cuộc ruồng bố sau khi bắt được tên người Pháp [Ducroux]".[11] Sau khi toà án Anh bác bỏ yêu cầu bị cáo có được quyền Habeas Corpus [Quyền của bị cáo yêu cầu nhà chức trách đối chất với bị cáo trước toà về việc bị bắt giữ có hợp pháp hay không - ND], người Pháp càng tin tưởng rằng cuối cùng họ sẽ có được người họ muốn. Ngày 24 tháng 8 1931 Sở Liêm Phóng tại Hà Nội đã đánh điện vào Sài Gòn để thông báo rằng Hồ Chí Minh sẽ rời Hồng Kông vào ngày 1 tháng 9 trên chiếc tàu General Metzinger đi Sài Gòn. Hai cảnh sát người Pháp được giao nhiệm vụ áp giải Hồ về Việt Nam.[12] Nhưng chỉ vài ngày trước khi trục xuất, những luật sư của Hồ đã kháng án đến Uỷ Ban Xét Xử thuộc Hội Đồng Cơ Mật tại London. Họ cho rằng lệnh trục xuất Hồ thì không có giá trị dưới luật pháp Hồng Kông. Vì thế vào ngày 23 tháng 10 1931, Thư Ký Chính Phủ đã thông báo rằng sẽ không có lệnh trục xuất cho đến khi họ biết được kết quả kháng án từ Hội Đồng Cơ Mật.[13] Vì thời gian cần thiết để chuẩn bị cho những hồ sơ pháp lý, phiên toà phúc thẩm đã không bắt đầu cho đến tháng 11 1932.
Trong lúc ấy Sở Liêm Phóng đã bắt đầu thúc giục Lâm Đức Thụ thu thập thông tin của những người Việt bị bắt tại Quảng Châu, và có lẽ để liên lạc với Hồ. Sau khi Lý Ung Thuân được phóng thích vào cuối tháng 8 1931 vì lý do bà là người Trung Quốc, bà đến ở tạm với Thụ. Vào tháng 11 "điệp viên Pinot" (tức Lâm Đức Thụ - ND) báo rằng đã nhận được tin tức từ Hồ yêu cầu trợ giúp trong việc trả tự do cho những người Việt bị bắt tại Hồng Kông cũng như giúp đỡ thực hiện những công việc của đảng cho đến khi những nhà hoạt động mới từ Moscow đến. Hồ đặc biệt mong mỏi Trương Văn Lềnh được phóng thích để nắm lấy việc vận hành đảng tại Trung Quốc, theo lời Lâm Đức Thụ; có lẽ Hồ cũng đã lo lắng đến tình trạng của Nguyễn Thị Minh Khai.[14] Thật là lạ lùng khi ông đã liên lạc với một người chỉ điểm lộ diện lúc này - có lẽ ông đã tin rằng Thụ không thể làm tổn hại gì hơn nữa với tình hình hoạt động của đảng đã bị phá vỡ thảm hại. Những sự liên lạc này có lẽ đã dẫn đến việc Hồ bị phê bình về cách hành xử của mình sau khi được thả ra. Nhưng những tiếp xúc này dường như không kéo dài được lâu. Từ một báo cáo Thụ gửi vào ngày 16 tháng 5 1932 ta biết được rằng Thụ đã thu thập tin tức của Hồ một cách gián tiếp qua văn phòng của Loseby.
Đến cuối năm 1931 Hồ Chí Minh được chuyển vào bệnh viện có canh gác. Vào tháng 12 Hoàng Thân Cường Để gửi thư cho ông khi nghe tin ông đang bị bệnh nặng. Hoàng Thân đã gửi 300 Yên để trả viện phí cho ông và khuyên ông nên giữ gìn sức khoẻ "vì lợi ích của nước nhà".[15] (Vào thời điểm này những người cộng sản Việt Nam như Lê Hồng Sơn vẫn giữ quan hệ với Cường Để, có lẽ chỉ hoàn toàn vì lý do thực dụng và tài chính.[16]) Việc Dennis Duncanson khẳng định rằng Hồ không bị bệnh trong thời gian bị giam cầm rõ ràng là không chính xác.[17] Như chúng ta đã thấy, Hồ đã từng nói rằng ông bị bệnh lao phổi rất nặng vào tháng 9 1930; viên lãnh sự Pháp tại Hồng Kông là Soulange Teissier vào năm 1932 đã xác nhận trong một bức thư gửi cho bộ trưởng bộ ngoại giao rằng ông đã bị mắc chứng lao phổi trong tình trạng chậm phát triển và có thể chữa được. Vào mùa hè 1932 tin tức báo chí về "một người Việt Nam nhỏ bé, có thân thể bị suy nhược vì lao lực và tinh thần của một lãnh tụ" bắt đầu xuất hiện.[18] Sau này truyền thông cộng sản đã loan báo rằng Hồ đã chết vì lao phổi vào tháng 8 1932.[19] Nhưng người Pháp đã không tin vào những báo cáo này. Lãnh sự quán của họ tại Hồng Kông đã cập nhật cho nhà cầm quyền tại Hà Nội những bước đi của Hồ trong nỗ lực rời khỏi mảnh đất thuộc địa của Anh.[20]
Việc ra đi của ông cuối cùng đã xảy ra vào cuối tháng 1 1933, sau một lần bị đình chỉ. Ngày 27 tháng 6 1932 kháng cáo đến Hội Đồng Cơ Mật đã được rút lại khi luật sư của Hồ đồng ý với luật sư của chính quyền Hồng Kông về những điều khoản mới trong việc trục xuất ông. Cuối cùng Hồ được đưa lên một chiếc tàu đi Singapore và đã đến đây vào ngày 6 tháng 1 1933. Nhưng nhà chức trách vùng eo biển Malacca đã không cho ông ở lại đây, vì thế ông đã bị gửi về lại Hồng Kông và đã bị bắt lại khi vừa lên bờ vào ngày 19 tháng 1. Toàn quyền Hồng Kông là William Peel quyết định không áp dụng án tù 1 năm dành cho những di dân bất hợp pháp; ông cũng không chịu thông báo cho Teissier về chi tiết của chuyến khởi hành thứ hai của Hồ.[21] Lần này Loseby đã thuyết phục chính quyền nên đóng vai trò tích cực hơn trong quá trình giúp đỡ Hồ đi đến nơi mà ông tự quyền lựa chọn. Chính Peel đã giải thích trong thông điệp của mình rằng ông đã thu xếp để Hồ đáp một "chiếc thuyền dân sự" để lên chiếc tàu An Huy đang bỏ neo ngoài cảng Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1.[22]