26.2.2007
Mai Thái Lĩnh
Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh - Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
1 2
Trong số di cảo lưu tại gia đình, có một lá thư đề ngày 26.3.1922 do Phan Châu Trinh (lúc đó đang ở tại Marseille) soạn sẵn để gửi các báo ở Pháp, trong đó có đoạn viết:
“Tôi là Phan Châu Trinh, nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam, trú tại Pháp đã 11 năm qua. Say mê chủ nghĩa xã hội, tôi đã luôn đấu tranh chống lại chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở Đông Dương, do các nhà chức trách Pháp cũng như do các quan lại bản xứ thực hiện.” [1]
Điều này chứng tỏ Phan Châu Trinh có quan tâm đến “chủ nghĩa xã hội”. Vấn đề đặt ra là quan niệm của ông có liên quan gì đến chủ nghĩa Marx hay không? Và nếu có thì ông theo xu hướng dân chủ - xã hội hay theo xu hướng cộng sản?
Do chỗ Phan Châu Trinh mất sớm, ông chưa có dịp trình bày về chủ đề này một cách đầy đủ so với những gì ông đã nói về chế độ dân chủ. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy một vài nét lớn về chủ nghĩa xã hội trong một bài diễn thuyết tại nhà hội Việt Nam (Sài Gòn) vào đêm 19.11.1925. Điều đáng ngạc nhiên là buổi nói chuyện này có đề tài “Đạo đức và luân lý Đông Tây”, nghĩa là một chủ đề không liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội cả.
Trước khi tìm hiểu quan niệm của Phan Châu Trinh về chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm của ông về chủ nghĩa quốc gia, bởi vì hai khái niệm này có liên quan mật thiết với nhau.
Từ chủ nghĩa gia trưởng đến chủ nghĩa quốc gia
Như đã trình bày trong bài trước, Phan Châu Trinh quan niệm nước (quốc gia) là một hiệp hội (association) bao gồm những con người hợp tác với nhau một cách bình đẳng (hiệp dân lại mà thành nước), còn triều đình (chính phủ) chỉ là “những người được uỷ quyền”, phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc ích nước lợi dân. [2]
Như vậy, quốc gia (nước) không phải là một tập hợp của các thần dân đặt dưới quyền cai trị của một vị chủ tể (vua), dựa trên quan hệ vua-tôi, thống trị-bị trị, mà là một sự hợp tác, một hiệp hội (association) bao gồm những công dân có quan hệ bình đẳng. Quyền lực của vua (nguyên thủ quốc gia), hay của triều đình (chính phủ) không phải do Trời ban cho mà do được cộng đồng xã hội uỷ nhiệm, nhà cầm quyền chỉ thay mặt cho quốc gia để quản lý công việc chung, dựa trên lợi ích chung.
Theo quan niệm đó, chủ nghĩa quốc gia (mà Phan Châu Trinh gọi là quốc gia luân lý) gắn bó với chế độ dân chủ.
Chỉ trong một chế độ dân chủ, khi quan hệ thống trị-bị trị trở thành quan hệ hợp tác bình đẳng, khi mọi người dân thật sự làm chủ các công việc của đất nước, quốc gia mới thật sự hình thành. Chất keo gắn bó những người dân với nhau, gắn bó người dân với quốc gia chính là chủ nghĩa quốc gia. [3] Cần lưu ý là Phan Châu Trinh không dùng chữ “dân tộc” như người ta sính dùng trong nước hiện nay mà lại dùng chữ “quốc gia”. Điều này chứng tỏ ông nhấn mạnh đến Nhà nước như yếu tố hàng đầu cấu thành quốc gia.
Trong bài “Đạo đức và luân lý Đông Tây” [4] , Phan Châu Trinh trình bày về nguồn gốc của chủ nghĩa quốc gia. Theo ông, chủ nghĩa quốc gia ở châu Âu hình thành từ thế kỷ 16, nghĩa là giữa lúc “nền quân chủ đang thịnh”. Có hai nguyên nhân tạo ra chủ nghĩa quốc gia.
Về nguyên nhân thứ nhất, Phan Châu Trinh nói:
“Vua của họ hồi ấy cũng như vua của ta, nghĩa là tự thánh tự thần làm chuyên chế quá cho nên mới nảy ra [5] nhiều nhà đại triết học thuyết minh vua là gì, nước là gì, nói ra có giới hạn, rất phân minh, khiến cho ai nấy đều hiểu quốc gia có quan hệ mà nhẹ bớt gia đình.” (NQT, tr. 481; NVD, tr. 932).
Dưới chế độ quân chủ, vua tự coi mình là người được Thượng Đế trao quyền lực, cho nên không thể bị ràng buộc bởi bất cứ quyền lực trần thế nào. Những nhà tư tưởng khai sáng của chế độ dân chủ ở châu Âu đã bác bỏ điều này, và chứng minh rằng nước (quốc gia) là do dân hợp thành, quyền lực của triều đình (chính phủ) là do dân giao cho. Khái niệm “quốc gia” hình thành từ đó. Quốc gia không còn là một “đại gia đình” dưới quyền cai trị của một ông vua; quyền lực không phải từ một nguồn gốc siêu nhiên ban cho, do đó vương triều không còn có quyền “chuyển giao quyền lực” từ đời cha đến đời con. Quyền lực thuộc về nhân dân và chỉ có thể thông qua bầu cử để quyết định việc giao phó và chuyển giao quyền lực. Việc chuyển từ chế độ quân chủ dựa trên chủ nghĩa gia trưởng (paternalisme) sang chế độ dân chủ dựa trên chủ nghĩa quốc gia (nationalisme) là hợp theo quy luật tiến hoá “tự nhiên”:
“… từ khi cái tư tưởng quốc gia của họ đã tiến lên thì cái tư tưởng gia đình lần lần nhẹ bớt đi, ấy cũng là lẽ tiến hoá tự nhiên…” (NQT, tr. 480; NVD, tr.932)
Còn có một nguyên nhân khác, đó là do chiến tranh. Các quốc gia ở Âu châu hình thành qua các cuộc chiến tranh lập quốc diễn ra trong các thế kỷ 16, 17, 18. Chiến tranh đã tạo ra tinh thần hiếu chiến và tính tự trọng, khiến cho mỗi người dân đều nghĩ đến quốc gia của mình, tự hào hoặc cảm thấy ô nhục khi quốc gia mình thắng hay bại trận. Lòng tự hào dân tộc này gắn với tinh thần quốc gia, với chế độ dân chủ chứ không phải gắn với một vương triều, một dòng họ hay một cá nhân nào:
“… từ đời đó các dân tộc ở Âu châu đều có tính háo chiến cho nên thường lấy sự thắng trận làm vinh, thua trận làm nhục mà đánh nhau lung tung. Vì tính háo chiến đó, vì tính tự trọng đó, cho nên dân các nước bên Âu châu về thời đó đều có một nền quốc gia luân lý rất bền chặt vững vàng.” (NQT, tr. 481; NVD, tr. 932)
Như vậy, nước ta có chủ nghĩa quốc gia hay không?
“Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có.”(NQT, tr. 487; NVD, tr. 937).
Tại sao Phan Châu Trinh khẳng định như vậy? Đó là vì:
“… quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không nói đến “dân và nước” vì dân không được bàn đến việc nước!” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 937-938).
Như vậy, theo Phan Châu Trinh, không có Nhà nước dân chủ thì không thể nói đến quốc gia đúng nghĩa được. Dưới chế độ quân chủ không thể có quốc gia đúng nghĩa vì lúc đó quốc gia nằm trong tay một người, một dòng họ hay một tập đoàn chính trị chứ không phải là của toàn dân. Nói cách khác, “nước Việt” lúc đó là của “nhà Trần”, “nhà Lê”, “nhà Nguyễn” v.v. chứ không phải là của “dân Việt”.
Dưới chế độ quân chủ, quyền lực không thuộc về dân; quyền lực thuộc về một vị chủ tể được gọi là “vua”. Ở đây, không có quan hệ dân-nước (công dân - quốc gia) mà chỉ có quan hệ vua-tôi (chủ-tớ, kẻ thống trị-người phục tùng).
“Vua là gì? Vua là người cầm quyền chính trong nước, là người đầu sỏ trong một bộ lạc ấy, hoặc là người anh hùng thấy dân đồ thán ra đánh đổ cường quyền, khôi phục lấy đất nước của ông cha để lại rồi tự đặt lên làm chúa tể cả muôn người; hoặc là người gian hùng, nhân thời ly loạn dùng mưu quỷ chước thần đánh đổ con cháu một dòng vua nào rồi tự đặt mình lên cái địa vị [6] ấy; hoặc người cùng một nước đánh nhau đặng cầm quyền chuyên chế; hoặc người nước ngoài lấy sức mạnh đến đánh đặng cầm lấy chìa khoá quyền lợi.” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 938)
Như vậy, vua có thể là người cầm quyền một chính đáng (người thống nhất đất nước, người đánh đuổi ngoại xâm khôi phục nền độc lập) hoặc một cách không chính đáng (nhờ vào ngoại bang để nắm quyền, cướp ngôi của dòng họ khác, tranh giành quyền lực lẫn nhau theo quy luật mạnh được yếu thua) . Nhưng dù nắm quyền bằng cách nào, vua cũng chỉ là người tước đoạt quyền lực của dân:
“Nói tóm lại vua là người lấy quyền người làm quyền mình, lấy quyền công làm quyền tư, lấy đất người làm đất mình, lấy đất công làm đất tư vậy.” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 938).
Trong quan hệ đó, người dân chỉ là tôi tớ, là “người tôi mọi”:
“Tôi là gì? Tôi là người tùng phục vua (vua chư hầu) hoặc là người làm nô lệ cho vua, hoặc là người làm công cho vua. Đem mình ra nơi đầu tên mũi đạn đổi lấy một mảnh giấy vàng, một dấu ấn đỏ; dang đầu ra giữa trận mưa dầu nắng lửa để đổi lấy chung rượu lạt, tiếng ban khen. Nói tóm lại, tôi là người tôi mọi, đã bán rẻ vừa hồn lẫn xác [7] cho vua vậy.” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 938)
Ở đây, Phan Châu Trinh vượt lên trên quan niệm cổ truyền của dân tộc ta vốn coi việc các bậc anh hùng dựng nước hay giữ nước được nắm quyền lực chính trị là chính đáng, cũng như việc họ đem quyền lực ấy truyền lại cho con cháu từ đời này sang đời khác là chuyện tự nhiên. Chính hay nguỵ đối với ông không phải là vấn đề cốt lõi, bởi vì dù là chính hay nguỵ, vua cũng chỉ là “người lấy quyền người làm quyền mình, lấy quyền công làm quyền tư, lấy đất người làm đất mình, lấy đất công làm đất tư”.
Nói như vậy không có nghĩa là Phan Châu Trinh phủ nhận vai trò lịch sử của chế độ quân chủ. Với một thái độ hết sức khách quan, ông thừa nhận giá trị của chế độ đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định:
“Đang hồi thượng cổ, trung cổ, dân chúng còn hèn yếu ngu dốt, cho nên bất câu loài dân nào cũng phải có cái quyền quân chủ để bao bọc cho dân, dạy dỗ cho dân, che chở cho dân; đang cái thời đó thì quân chủ thật là một vị thuốc rất hay cho loài người…”. (NQT, tr. 450; NVD, tr. 965)
Tuy nhiên, khi nhân loại đã tiến lên một giai đoạn mới thì tác dụng tích cực của chế độ quân chủ không còn. Quyền lực quân chủ cũng mất đi tính chính đáng (légitimité) của nó. Một khi đã thừa nhận rằng quyền lực là của nhân dân, đất nước là của chung của cả dân tộc thì không một người nào, không dòng họ nào (và suy rộng đến ngày nay thì không một đảng phái nào) được phép lấy làm của riêng, đem phân phát, ban bố cho nhau và nguỵ biện rằng điều đó là do “Trời ban cho”, do “Trời uỷ quyền cho” (thiên mệnh); hoặc nói theo ngôn ngữ “biện chứng” hiện nay là “do lịch sử quy định”.
Theo Phan Châu Trinh, chính quan hệ vua-tôi (tức là quan hệ thống trị-bị trị) làm cho người dân trong nước không hiểu nước (quốc gia) là gì, do đó “không biết vua và nước có giới hạn gì khác nhau không”. Sự nhầm lẫn giữa “nghĩa tôn quân” với “nghĩa ái quốc” khiến cho người dân tưởng rằng nước là của vua, và chỉ biết trông cậy vào vua; nhưng vì dân không có quyền chọn vua, nên chỉ biết trông mong Trời ban cho một đấng “minh quân”, một “lãnh tụ” sáng suốt:
“Vì thế cho nên dân chỉ biết nghĩa tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc, gặp vua tử tế làm nhiều sự công bình thì dân thương, dám liều chết ra đánh giặc giúp vua; gặp vua tàn bạo, làm nhiều điều độc ác thì dân ghét, muốn rửa hờn, mở cửa thành cho giặc vào.” (NQT, tr. 488; NVD, tr. 938)
Dân không được bầu cử vua, không được quyền chọn vua, do đó giữa vua với dân không có nghĩa vụ gì đối với nhau, không có sự ràng buộc nào về mặt đạo đức; mối quan hệ giữa vua với dân chỉ thuần tuý dựa trên sức mạnh, trên sự áp chế, đè nén. Vua và tôi tớ của vua (tức tầng lớp quan lại) hợp tác với nhau để thống trị nhân dân:
“Xem như thế thì xưa nay nước ta không có quốc gia luân lý, chỉ có một cái luật vua tôi bắt buộc dân phải theo. Vua với dân không có luân lý gì dính nhau, chẳng qua vua và tôi tớ của vua hiệp nhau lấy sức mạnh để đè nén dân mà thôi vậy.”(NQT, tr. 488; NVD, tr. 939)
Cần chú ý là Phan Châu Trinh nói “vua và tôi tớ của vua” chứ không phải chỉ nói đến vua. Tầng lớp quan lại ở các nước Á Đông - tức các nhà nho ra làm quan, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì, củng cố và bảo vệ chế độ quân chủ, một chế độ mà theo đánh giá của Phan Châu Trinh, chuyên chế một cách “khéo” (xảo quyệt) hơn chế độ quân chủ của châu Âu rất nhiều.
Từ chủ nghĩa quốc gia đến chủ nghĩa xã hội (socialisme)
Theo Phan Châu Trinh, chủ nghĩa xã hội là một giai đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa quốc gia.
Chủ nghĩa xã hội phát sinh do hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là do bên trong nước, sự tranh chấp giữa lao động với tư bản làm cho tình hình mất ổn định:
“Bên Âu châu họ cũng có nhiều cái dở (…) như giàu nghèo cách biệt thái quá, người ngồi không, kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động, người tư sản [8] xung đột nhau mà trong nước không yên.” (NQT, tr. 506; NVD, tr. 955)
Mặt khác, chủ nghĩa quốc gia vào thời trung cổ vẫn còn là một thứ “mê tín”, một thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, cực đoan; đó chính là mầm mống gây ra chiến tranh:
“Mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ thái quá, yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang hoạ chiến tranh mãi mãi.” (NQT, tr. 506; NVD, tr. 955)
Cuộc chiến tranh thế giới lần I (1914-1918) thực chất là cuộc chiến tranh toàn Âu châu. Nó làm cho kẻ thua người thắng đều bị thiệt hại, đồng thời làm cho phong trào xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ:
“Đến bây giờ thì thời cuộc thịnh như đã suy, từ khi bốn năm đại chiến vừa rồi, nước thua dân bị lầm than thì đã đành, mà nước được dân cũng lắm nỗi khốn [9] thành ra trăm việc đều hư nát mà nào có ích cho ai! Vì thế nên mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại giáo dục đều biết rằng cái thời đại quốc gia đã qua, không thể duy trì lại được nữa đành phải bỏ mà tiến lên thời đại xã hội vậy. Tuy nước nào cũng có một đảng thủ cựu phản đối kịch liệt, nhưng cái phong trào xã hội bây giờ cuồn cuộn như nước nguồn đang đổ, thì làm sao ngăn lại được nữa. Cuộc đại thắng của xã hội luân lý sau này cũng là một việc dĩ nhiên.” (NQT, tr. 481-482; NVD, tr. 933)
Như vậy, chủ nghĩa xã hội là một phong trào nảy sinh nhằm giải quyết hai mâu thuẫn lớn của thời đại mới: xung đột giữa lao động với tư bản và tranh chấp giữa các quốc gia với nhau. Phan Châu Trinh tin rằng bước tiến từ chủ nghĩa quốc gia (nationalisme) lên chủ nghĩa xã hội (socialisme) là một quy luật tất yếu:
“Ấy là một bước tiến lên, bỏ quốc gia luân lý mà bước lên xã hội luân lý, cũng như khi trước bỏ gia đình luân lý mà tiến lên quốc gia luân lý vậy.” (NQT, tr. 482; NVD, tr. 933)
Thế nhưng chủ nghĩa xã hội là gì?
Trước hết, chủ nghĩa xã hội là phá tan “bức thành ngăn cách” giữa người giàu và người nghèo, sao cho mọi người đều được “bình đẳng”, nghĩa là được giáo dục và sinh hoạt như nhau:
“Cũng như ngày nay cái phong trào xã hội bên Âu châu mạnh quá, khiến cho lắm nhà triết học đã nghĩ đến cách làm thế nào phá tan cái vòng gia đình chật hẹp kia, cho mọi người trong nước đều được bình đẳng, nghĩa là kẻ giàu người nghèo đều được giáo dục và sinh hoạt như nhau, không đến nỗi như ngày nay xa nhau một trời một vực. Phá cái thành ‘phân cách’ chặn ngang các hạng người như thế, là cốt giữ gìn trật tự trong xã hội và cho ai ai cũng được bình đẳng như nhau.” (NQT, tr. 480-481; NVD, tr. 932)
Ở một chỗ khác, Phan Châu Trinh định nghĩa “chủ nghĩa xã hội” như sau:
“Xã hội luân lý [10] không phải là cái luân lý cường quyền của chính phủ đối với dân, cũng không phải là sức mạnh của nước nọ đối với nước kia, mà chính là trong nước thì lấy người này đối với người kia, suy rộng ra thế giới thì lấy loài người đối với loài người.” (NQT, tr. 482; NVD, tr. 933)
Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội là thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa người với người trong một nước (lấy người này đối với người kia) và suy rộng ra toàn thế giới là thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa quốc gia này với quốc gia kia, giữa dân tộc này với dân tộc khác (lấy loài người đối với loài người).
Phan Châu Trinh giải thích câu “trong nước thì lấy người này đối với người kia” như sau:
“Muốn cho dễ hiểu câu ‘trong nước người này đối với người kia’ nghĩa là: người có giúp cho người không, người mạnh giúp cho người yếu như bên nước họ mấy nhà giàu bỏ tiền lập nhà thương, trường học cho con nhà nghèo; những kẻ đi đường thấy người yếu bị đè nén thì hết sức bênh vực v.v. Nói tóm lại xã hội luân lý là suy tự lòng công đức mà công đức lại là suy ở tư đức mà ra.” (NQT, tr. 482-483; NVD, tr. 933-934)
Như vậy chủ nghĩa xã hội đối với trong nước chính là thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa người với người, mối quan hệ này sinh ra từ mối quan hệ đạo đức. Mỗi người trong xã hội chẳng những phải biết sống theo những giá trị đạo đức thông thường (tư đức) mà còn phải biết mở rộng lòng mình hướng về cộng đồng (công đức), bằng cách giúp đỡ người nghèo, bênh vực người yếu. Một xã hội dân chủ tạo điều kiện để phát huy công đức (đạo đức lớn), mà công đức chính là tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội công bằng hơn, nhân đạo hơn. Ngược lại, trong một xã hội phi dân chủ thì không có đạo đức lớn (công đức), mà đạo đức lớn không có thì tư đức (đạo đức nhỏ) cũng chẳng còn:
“Đạo đức lớn ta không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của mỗi người, ta có hay không? Thưa rằng: Không! Một xứ đã bị chuyên chế thì tính chất gì thuộc về đạo đức cũng không thể nào sinh sản được” (NQT, tr. 498; NVD, tr. 947)
Đó là mối quan hệ giữa người với người trong một nước. Còn đối với thế giới thì sao? Phan Châu Trinh giải thích như sau:
“Trong buổi quốc gia luân lý bên Âu châu đang thịnh, có câu nói rằng: Một người đối với một người thì có công lý, còn một dân tộc đối với một dân tộc thì không có công lý, ngày nay lòng người xu hướng về xã hội luân lý thì lại có câu nói trái lại rằng: Một người đối với một người đã có công lý thì mấy trăm nghìn, mấy ức triệu người nhập lại thành một nước, tài nào lại không có công lý.” (NQT, tr. 482; NVD, tr. 933)
Như vậy, chủ nghĩa xã hội có nghĩa là: thực hiện “công lý trong lòng mỗi dân tộc”, và thực hiện “công lý trong lòng cả nhân loại”. Cần chú ý là Phan Châu Trinh sử dụng từ “công lý” tương tự như người Pháp sử dụng từ “justice”. Nó có ý nghĩa cả về chính trị (công bằng trước pháp luật) lẫn ý nghĩa về mặt kinh tế, tức là “công bằng xã hội” (justice sociale). Như ở đoạn trên, ông cho rằng công lý vừa là “người có giúp cho người không” (công bằng về kinh tế), vừa là “người mạnh giúp cho người yếu” (công bằng về chính trị).
Với quan niệm như trên, rõ ràng là cái nhìn của Phan Châu Trinh hoàn toàn khác với quan điểm mác-xít. Theo nhà chí sĩ họ Phan, xã hội loài người tiến lên theo con đường “gia đình - quốc gia - xã hội”, trong khi đối với Marx thì “lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” [11] . Những người mác-xít cho rằng muốn có thế giới đại đồng tất phải thông qua đấu tranh giai cấp, do đó hoà bình thế giới chỉ có trên phạm vi toàn thế giới khi toàn bộ giai cấp tư sản ở tất cả các nước đều bị đánh đổ, hoặc ít nhất là giai cấp tư sản ở các nước tiên tiến nhất phải bị đánh đổ; lúc đó giai cấp tư sản còn lại trong các nước nhỏ vì quá sợ hãi mà phải tự mình “hai tay dâng quyền lực” cho giai cấp vô sản. Chính vì lòng tin đó mà người cộng sản sẵn sàng đổ xương máu chẳng những của mình mà cả của hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người khác để mong có ngày “bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”. Tuy Marx có nói đến “dân tộc”, nhưng dân tộc chỉ là hình thức mà giai cấp vô sản thế giới tạm thời vay mượn để thực hiện cuộc đấu tranh tự giải phóng chứ không phải là một yếu tố chủ đạo trong quá trình tiến hoá của nhân loại.
Thực tế của thế kỷ 20 đã chứng minh luận điểm nói trên của chủ nghĩa Marx chỉ là một ảo tưởng. Chiến tranh và tranh chấp biên giới vẫn diễn ra giữa các nước cộng sản với nhau, như giữa Liên Xô và Trung Quốc hoặc giữa Trung Quốc với Việt Nam, v.v. chứng tỏ giai cấp tư sản không phải là nguồn gốc duy nhất của chiến tranh. Ngược lại, chỉ khi nào các quốc gia ngồi lại với nhau để bàn bạc, thương lượng, thế giới mới mong có hoà bình. Từ “Hội Quốc Liên” (Société des Nations, League of Nations) hình thành từ lúc Phan Châu Trinh còn sống, cho đến Liên Hiệp Quốc hiện nay, thế giới đã tiến những bước quan trọng. Cho dù có ghét bỏ, nói xấu nó đến bao nhiêu, các nước lớn nhỏ đều phải ngồi vào đó, kể cả những nước trước đây coi Liên Hiệp Quốc chỉ là tổ chức của giai cấp tư sản hoặc là tổ chức của “bọn đế quốc”. Giai cấp không thể là nền tảng của hoà bình thế giới mà chính quốc gia mới là cơ sở để thiết lập hoà bình. Và bởi vì quốc gia chỉ thật sự là quốc gia khi chế độ dân chủ được thiết lập, cho nên khi tất cả các quốc gia đều trở thành dân chủ, hoà bình sẽ được thiết lập bền vững. Ý tưởng tưởng chừng như không tưởng của Phan Châu Trinh đã trở thành hiện thực ngay trên đất châu Âu, nơi mà ranh giới quốc gia không còn là rào cản giữa các dân tộc. Liên hiệp châu Âu (Union européenne, UE; European Union, EU) chính là sự hiện thực hoá lời tiên đoán của Phan Châu Trinh, nơi mà các quốc gia giàu nghèo, lớn nhỏ khác nhau thay vì gây chiến tranh đã cùng nhau xây dựng một mái nhà chung, làm gương cho tất cả các nước trên thế giới học tập.
Nhưng chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa quốc gia, cho nên mỗi quốc gia-dân tộc không thể bỏ qua giai đoạn quốc gia để tiến thằng lên chủ nghĩa xã hội được:
“Chúng ta phải biết rằng: ‘Một người dân trong nước [12] cũng như bọn học trò trong trường học, phải có thứ lớp, phải tuần tự mà tiến tới, phải qua lớp dưới mới lên lớp trên, không bao giờ nhảy lớp được, nghĩa là phải do gia đình luân lý tiến lên quốc gia luân lý, rồi do quốc gia luân lý mà tiến lên xã hội vậy.” Thế thì chúng ta cũng phải bước qua cái nền quốc gia luân lý trong đôi ba mươi năm đã, rồi mới có thể mong tiến lên xã hội luân lý được.”(NQT, tr. 492, NVD, tr. 942).
Như vậy trước khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, mỗi quốc gia phải hình thành được chủ nghĩa quốc gia (quốc gia luân lý), nghĩa là phải thiết lập được một nền dân chủ (Phan Châu Trinh gọi là dân trị chủ nghĩa). Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi mỗi người phải hiểu rõ “cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người”. Nhưng trước khi hiểu được cái nghĩa vụ đó, phải hiểu được “cái nghĩa vụ mỗi người trong nước” đối với nhau. [13] Cái nghĩa vụ công dân đó chỉ có thể phát triển trong một đất nước có dân chủ, nghĩa là trong một đất nước thuộc về mọi người chứ không phải chỉ là tài sản riêng của một ông vua, một dòng họ nào đó.
Đối với Phan Châu Trinh, cái nghĩa vụ người trong nước đối với nhau thể hiện ở chỗ khi gặp bất công, áp bức thì người dân phải hiệp nhau lại để đấu tranh. Ông nêu ví dụ về người Pháp mà ông đã có dịp quan sát trong 14 năm:
“Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ cho đến được công bình [14] mới nghe. Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền lực đè nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy để đè nén mình, cho nên phải hiệp nhau lại để phòng ngừa trước.”(NQT, tr. 493, NVD, tr. 943)
Ông so sánh với “bên ta”:
“… Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình!”(NQT, tr. 493, NVD, tr. 943)
Sự thờ ơ đó của người dân, lối sống “sống chết mặc ai” [15] đó không phải do lỗi tại người dân. Nói cách khác, đó không phải khuyết điểm thuộc về bản chất của dân tộc Việt Nam, bởi vì từ ngàn xưa, dân tộc ta ít nhiều cũng đã biết đến “đoàn thể”, đến “công ích”:
“Đã biết sống thì phải bênh vực nhau”, ông cha mình ngày xưa cũng đã hiểu đến. Cho nên mới có câu: ‘Không ai bẻ đũa cả nắm’ và ‘Nhiều tay làm nên bộp’. Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như ngày nay.” (NQT, tr. 493; NVD, tr. 943)
Vậy thì tại sao đến đầu thế kỷ 20, dân Việt lại không biết đoàn thể, không trọng lợi ích chung? Phan Châu Trinh giải thích:
“Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi ba bốn trăm năm trở về đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bã vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị mình được vững mãi, bèn kiếm cách thiết lập luật phá tan tành đoàn thể của quốc dân.” (NQT, tr. 493-494; NVD, tr. 943)
Như vậy, theo Phan Châu Trinh, đoàn thể bị phá tan, công ích không được coi trọng chính là do chế độ quân chủ. Nhưng thủ phạm chính không chỉ là ông vua và dòng họ nhà vua, bởi vì chỉ mình họ không thể làm nổi. Chính “tầng lớp trí thức thời trung cổ” hình thành nên bộ máy quan lại làm chỗ dựa cho chế độ quân chủ đã vì lợi ích riêng của họ mà tìm cách phá hỏng hai điều kiện nền tảng của phong trào đấu tranh của quần chúng: tinh thần “công ích” và các tổ chức quần chúng (đoàn thể). Đối với họ: “dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý!”
Lẽ sống của tầng lớp trí thức thời trung cổ ấy cho dù có dùng văn chương bóng bẩy để ca ngợi, vẽ vời, “bốc thơm”, suy cho cùng cũng chỉ nằm trong hai chữ “làm quan”:
“Chẳng những thế mà thôi, ‘một người làm quan một nhà có phước’, dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút rỉa của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy! Luân lý của bọn thượng lưu - tôi không gọi ấy là thượng lưu [16] , tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi - ở nước ta là thế đấy!” (NQT, tr.494; NVD, tr. 944)
Dưới chế độ thực dân, tầng lớp quan lại ấy sống lại dưới một hình dạng khác:
“Ngày xưa thì bọn ấy là bọn nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ, ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ký lục thông ngôn; có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa.”(NQT, tr. 494; NVD, tr. 944)
Phan Châu Trinh gọi tất cả những quan lại đời cũ và đời mới ấy bằng cái tên “lũ ăn cướp có giấy phép.” (NQT, tr. 494; NVD, tr. 944)
Điều tai hại là căn bệnh “mê làm quan” [17] đó lây lan ra đến tận vùng nông thôn nghèo khó của nước ta thời đó:
“Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền, cũng bén mùi làm quan. Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xuôi, dầu cố ruộng dâu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cầu được lấy một chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà vẫn không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi, làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có chút gì gọi là đạo đức, là luân lý cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chí như dối với dân kiều cư ký ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa! Ôi! một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế.” (NQT, tr. 495; NVD, tr. 944)
Đọc những dòng này, chúng ta thấy Phan Châu Trinh lên án tầng lớp nhà nho dưới chế độ quân chủ một cách gay gắt. Tại sao ông có thái độ đó? Chính bởi vì qua nghiên cứu lịch sử của châu Âu, ông thấy tầng lớp trí thức (intelligentsia) ở đó chính là nguồn lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, trong khi ở nước ta, trí thức lại theo hùa với quyền lực chính trị để phá huỷ khả năng hợp quần đấu tranh của quần chúng, phá huỷ tinh thần vì công ích trong nhân dân.
Tóm lại, theo Phan Châu Trinh, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội, trước hết Việt Nam phải được tự do, độc lập. Nhưng muốn có tự do, độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể. “Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.” (NQT, tr. 495; NVD, tr. 945)
Truyền bá chủ nghĩa xã hội là để người dân “có đoàn thể, có công đức”, “biết giữ lợi chung”. Có như vậy, mỗi khi bị người có chức, có quyền (người có quyền thế), hoặc bị chính phủ “lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay một hội nào” thì quần chúng có thể “hiệp nhau lại” mà kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai (biểu tình), vận động để đạt cho kỳ được sự công bằng (công bình) mới thôi.
Một xã hội tự nhận là “xã hội chủ nghĩa” trước hết phải là một xã hội “dân chủ”, nghĩa là phải tạo ra những điều kiện giúp cho mọi người dân có thể đấu tranh bảo vệ quyền lợi chung cũng như bảo vệ quyền lợi của riêng mình. Điều kiện thứ nhất là “có đoàn thể”, tức là có quyền tự do lập hội, tự do thành lập công đoàn. Điều kiện thứ hai là “có công đức”, nghĩa là giáo dục đạo đức sao cho người dân có tinh thần chống áp bức, bất công, có tinh thần giúp đỡ người nghèo và bảo vệ người bị áp bức.
Điều đáng nói là với những tiêu chuẩn mà Phan Châu Trinh đã nêu ra, nếu đem áp dụng vào thế giới ngày nay, chúng ta thấy không có một quốc gia nào theo chế độ cộng sản xứng đáng được gọi là “xã hội chủ nghĩa”, trong khi rất nhiều nước mà những người mác-xít coi là “tư bản chủ nghĩa” lại xứng đáng được gọi là quốc gia “xã hội chủ nghĩa”.
Tóm lại, theo cách nhìn của Phan Châu Trinh, sự phát triển của xã hội loài người diễn ra theo quy luật: từ luân lý gia đình tiến lên luân lý quốc gia, rồi từ luân lý quốc gia tiến lên luân lý xã hội. Nói cách khác, xã hội loài người tiến từ chủ nghĩa gia trưởng (paternalisme) lên chủ nghĩa quốc gia (nationalisme), rồi từ chủ nghĩa quốc gia tiến lên chủ nghĩa xã hội (socialisme).
© 2007 talawas
[1]Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, tr. 242
[2]Thư thất điều gửi vua Khải Định, NQT, tr. 425; NVD, tr. 650-651; NQT: Nguyễn Q. Thắng, sđd; NVD: Nguyễn Văn Dương, sđd. Xem phần thư mục.
[3]Trong bài nói của PCT, có khi ông gọi là “tư tưởng quốc gia”, có khi ông gọi là “quốc gia luân lý” (luân lý quốc gia). Tại sao ông dùng từ “luân lý”? Điều này sẽ được bàn trong môt dịp khác.
[4]NQT, tr. 475-508; NVD, tr. 927-957. Trong bài này, tôi trích theo bản của Nguyễn Q. Thắng, có tham khảo bản của Nguyễn Văn Dương để sửa lỗi.
[5]Bản của NQT ghi “xảy ra”. Ở đây theo bản của NVD.
[6]Bản của NQT ghi “tự đặt tên mình lên cái địa vị ấy” (thừa chữ tên), ở đây dựa theo bản của NVD.
[7]Bản của NVD ghi “là bán rẻ vừa hồn lẫn xác”.
[8]Bản của NVD ghi là “người tư bản”.
[9]Bản của NQT ghi “dân cũng bị lắm nỗi khốn”.
[10]Bản của NQT ghi thiếu hai chữ “luân lý”.
[11]Xem “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” (1848). Engels chú thích : “lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay” tức là “toàn bộ lịch sử thành văn”. (Tuyển tập Mác – Ăng ghen, tập I, Nxb Sự Thật , Hà Nội, 1980, tr. 540.)
[12]Bản của NVD ghi “Một loài dân trong một nước…”
[13]“Cái chủ nghĩa xã hội bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng đại ra như thế mà người bên ta thì điềm nhiên như kẻ ngủ không biết là gì. Thương hại thay! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả.” (NQT, tr. 493; NVD, tr. 942-943), người trích nhấn mạnh.
[14]Người trích nhấn mạnh. Ở đây, ta thấy Phan Châu Trinh dùng chữ “công bình” (tức “công bằng”).
[15]Lối sống mà ngày nay trong dân gian thường gọi là lối sống mackeno (“mặc kệ nó !”)
[16]Phan Châu Trinh vốn không có thành kiến giai cấp. Ông rất coi trọng giới thượng lưu “tiến bộ” ở các nước châu Âu, như ông đã trình bày trong nhiều bài viết, bài nói.
[17]nói theo ngôn ngữ đời nay là “mê làm cán bộ”, thể hiện ở hiện tượng “mê vào Đảng”, “mê vào cấp uỷ”, “mê vào Trung ương”…