Tóm Lược Các Sách Kinh Thánh Tân Ước
40.Mathiơ | 41.Mác | 42.Luca | 43.Giăng | 44.Công vụ các Sứ Đồ | 45.Rôma | 46.1-Côrinhtô | 47.2-Côrinhtô | 48.Galati | 49.Êphêsô | 50.Philíp | 51.Côlôse | 52.1-Têsalônica | 53.2-Têsalônica | 54.1-Timôthê | 55.2-Timôthê | 56.Tít | 57.Philêmôn | 58.Hêbơrơ | 59.Giacơ | 60.1-Phierơ | 61.2-Phierơ | 62.1-Giăng | 63.2-Giăng | 64.3-Giăng | 65.Giuđe | 66.Khải Huyền | | + Diễn Biến Lịch Sử |
-----------------------------------------------------------------------------
(<<) 40 - MATHIƠ (Matthew)
Mục đích: Chứng minh Chúa Jêsus là Đấng Cứu Rỗi (Đấng Mêsi), là Vua muôn đời.
Tác giả: Mathiơ (Matthew).
Ngày viết: Khỏang năm 60-65 Sau Công Nguyên (A.D.).
Địa điểm quan trọng: Bethlehem, Jerusalem, Capernaum, Galilee, Judea
Bối Cảnh:
Mathiơ là người thâu thuế trở thành môn đệ Chúa Jêsus. Sách Tin Lành Mathiơ là gạch nối giửa Cựu Ước và Tân Ước vì đã chứng minh Chúa Jêsus là Đấng Cứu Rỗi làm trọn lời tiên tri trong Cựu Ước.
Những Điểm Đặc Biệt:
Sách Tin Lành Mathiơ có rất nhiều lời tiên tri ("Con Cháu Vua Đavít " đã dùng suốt cả sách) và Tiên-tri trong Cựu Ước đã được trích dẫn rất nhiều (53 Tríc Dẫn (quotes), và 76 Liên Hệ (references).) Sách Tin Lành Mathiơ không viết theo thứ tự nhưng mục đích để chứng minh với bằng chứng rõ ràng Chúa Jêsus là Đấng Mêsi (Messiah), Đấng Christ, Đấng Cứu Rỗi.
Câu gốc - Mathiơ 5:17
Các ngươi đừng tưởng Ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; Ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn.
Đề Tài Chính:
+1. Chúa Jêsus đến thế gian để cứu rỗi nhân loại. +2. Chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất, nhưng có Ba Ngôi Hiệp Một:: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Linh (3:16-17; 28:19). +3. Tiêu chuẩn công bình căn bản của Đức Chúa Trời rất cao, vượt quá sức con người thế gian, nhưng qua niềm tin nơi Chúa Jêsus và Kinh Thánh, mọi người đều có thể được xưng công bình qua sự giúp đở của Đức Thánh Linh. +4. Chúa Jêsus đã hy sinh cho tất cả sự cần dùng thánh thiện của Cơ Đốc nhân. +5. Đường lối Chúa là toàn thiện và vình cửu hơn đường lối của thế gian. +6. Chúa Jêsus đã giáng thế và bằng lòng hy sinh làm lễ vật cứu chuôc xứng đáng duy nhất và thánh sạch cho nhân loại. +7. Chúa muốn Cơ Đốc nhân vâng giữ điều răng quan trọng nhất: "Yêu Chúa, yêu người" (22: 37-40). 8. Mục đích chính của Chúa Jêsus là cứu rỗi tội nhân, truyền bá Tin Lành và huấn luyện môn đồ để truyền giáo và thành lập Hội thánh.
Mục lục:
+ Chúa Jêsus - Vua Muôn Đời
1. Chúa Jêsus sinh ra và tuổi thơ ấu 1:1-2:23
2. Sự chuẩn bị và bắt đầu chức vụ của Chúa Jêsus 3:1-4:25
3. Bài Giảng Trên Núi 5:1-7:29
4. Mục vụ của Chúa Jêsus và các phép lạ 8:1-9:34
5. Chúa Jêsus sai mười hai môn đồ đi 9:35-11:1
6. Chúa Jêsus tiếp tục các mục vụ với chứng minh Con Đức Chúa Trời và các ngụ ngôn 11:2-25:46
7. Chúa Jêsus chịu khổ nạn và bị đóng đinh trên thập tự giá 26:1-27:56
8. Chúa Jêsus được chôn, phục sinh, và thăng thiên 27:57-28:20
MATHIƠ (Tóm Lược):
+8. ”Người Ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Ðức Chúa Trời.” (4:4). +9. Cơ Đốc nhân là muối của đất và sự sáng của thế gian (5:13-14). +10. Chúa Jêsus đến thế gian để làm trọn luật pháp (5:17-18). +11. Bài cầu nguyện của Chúa Jêsus (6:9-13). +12. Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ cửa ... (7:7). +13. Chúa Jêsus đến không phải vì người công bình nhưng vì kẻ có tội (9:12-13). +14. Hãy kính sợ Chúa hơn người ta vì Ngài có quyền trên cả thể xác lẫn linh hồn (10:28). +15. Hãy xưng nhận Chúa và đừng chối Chúa (10:32-33). +16. Hãy trao mọi gánh nặng cho Chúa (11:28-30). +17. Ngụ ngôn về người gieo giống (chứng đạo) (13:1-23). +18. Các ngụ ngôn về nước thiên đàng (13:31-52). +19. Chúa Jêsus đi trên mặt nước (14:22-33; Mac 6:45-52; Gi 6:15-21). +20. "Được cả thiên hạ mà mất linh hồn thì có ích gì?" (16:26). +21. Nước thiên đàng dành cho những ai biết khiêm nhường như trẻ em (18:3-5; Mac 10:14). +22. Đừng xui trẻ em phạm tội (18:6; Mac 9:42). +23. Nơi nào có hai ba người hiệp nhất cầu nguyện nơi đó có sự hiện diện cùa Chúa (18:19-20). +24. Tha thứ bảy mươi lần bảy (18:21-22). +25. Chớ đem tội lỗi vào "Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện" (21:13; Mac 11:17; Lu 19:46; Gi 2:16). +26. Cầu nguyện với đức tin (21:22). +27. Nhiều người được gọi nhưng ít người được chọn (22:14). +28. Vấn Đề Đóng Thuế (22:15-22; Mac 12:13-17; Lu 20:20-26). +29. "Các ngươi lầm, vì không hiểu Kinh Thánh, và cũng không hiểu quyền phép Ðức Chúa Trời thể nào. Vì đến khi sống lại, người Ta không cưới vợ, cũng không lấy chồng, song những kẻ sống lại là như thiên sứ trên trời vậy" (22:29-30; Mac 12:24; Lu 20:35-36). +30. Tiên tri về "Ngày Cuối Cùng" (24:1-51). +31. "Trời đất sẽ qua, nhưng lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi" (24:35). +32. Chớ tiên đoán "Ngày Chúa Trở Lại" (24:36). +33. Tiên tri về "Ngày Phán Xét" (25:31-45). +34. Lễ tiệc Thánh (25:26-29; Mac 14:22-26; Lu 22:14-20; 1Cô 11:23-25). +35. Hãy cầu nguyện để tránh sự cám dỗ vì "tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối" (26:41). +36. Chúa Jêsus phục sinh (28:1-10). +37. Đại Mạng Lệnh Truyền Giáo (28:18-20).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 41 - MÁC (Mark)
Mục Đích: Trình bày về "Con Người", Chức Vụ, và Sự Giảng Dạy của Chúa Jêsus
Tác Giả: Giăng Mác (John Mark) không phải là một trong 12 sứ đồ, ông là người đã theo sứ đồ Phao-lô trong cuộc truyền giáo lần thứ nhất (Công Vụ 13:13).
Ngày viết: Viết tại Rôma, Khỏang năm 55-65 Sau Công Nguyên (A.D.)
Địa điểm Chính: Capernaum, Nazareth, Caesarea Philippi, Jericho, Bethany, Mount of Olives, Jerusalem, Golgotha
Bối Cảnh:
Đế quốc La-mã thời hoàng đế Tiberius Caesar có cùng chung ngôn ngữ, hệ thống giao thông và truyền thông tiện lợi đã đem "Tin Lành" đến khắp các nước cách nhanh chóng.
Những Điểm Đặc Biệt:
Tin Lành Mác là sách Tin Lành đầu tiên trong các sách phúc âm. Ba sách Tin Lành (Mathiơ, Luca, Giăng) đã trích dẫn 31 câu trong sách Mác. Tin Lành Mác ghi nhiều phép lạ của Chúa Jêsus hơn các sách Phúc Âm khác.
Câu Gốc - Mác 10:45
Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.
Đề Tài Chính:
+1. Chúa Jêsus yêu thương và quan tâm đến mọi khía cạnh của đời sống con người, nhất là vấn đề tâm linh, và sự cứu rỗi linh hồn. +2. Chúa Jêsus là tấm gương cho cho Cơ Đốc nhân qua đời sống, lời nói và việc làm, đế làm chứng tốt về Tin Lành. +3. Sự hy sinh và sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá là trọn vẹn cho sự cứu rỗi cho mọi người tin Ngài, ăn năn tội và vâng theo Lời Ngài. +5. Không có tội nhân và tội lỗi nào có thể ngăn trở tình yêu thương, sự tha tội, và sự cứu rỗi linh hồn qua niềm tin nơi Chúa Jêsus. +6. Chúa Jêsus đã xuống thế cách khiêm nhường, yêu thương để phục vụ Tin Lành, Cơ Đốc nhân cũng theo gương Chúa Jêsus, yêu thương và phục vụ Tin Lành cho mọi người. +7. Chúa muốn Cơ Đốc nhân vâng giữ điều răng quan trọng nhất: "Yêu Chúa, yêu người" (12: 29-33).
Mục Lục:
+ Chúa Jêsus - Đấng Phục Vụ
1. Chúa Jêsus chịu báptem và bắt đầu chức vụ 1:1-1:13
2. Chúa Jêsus với mục vụ chửa bệnh và giảng dạy 1:14-8:26
3. Chúa Jêsus giảng dạy và huấn luyện các môn đồ 8:27-13:37
4. Chúa Jêsus chịu khổ nạn và bị đóng đinh trên thập tự giá 14:1-15:41
5. Chúa Jêsus được chôn và Phục sinh 15:42-16:20
MÁC (Tóm Lược):
+8. Chúa Jêsus chịu báptem - "Lại có tiếng từ trên trời phán rằng: Ngươi là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đường" (1:11). +9. "Các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin Lành" (1:15). +10. "Hãy theo Ta, và Ta sẽ khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người" (1:17). +11. "Chẳng phải kẻ mạnh khỏe cần thầy thuốc đâu, nhưng là kẻ có bịnh; Ta chẳng phải đến gọi người công bình, nhưng gọi kẻ có tội" (2:17). +12. "Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người. Vậy thì Con Người (Chúa Jêsus) cũng làm chủ ngày Sa-bát" (2:27-28). +13. Ngụ Ngôn Người Gieo Giống (4:1-20; Mat 13:1-9; Lu 8:4-8). +14. Chúa Jêsus phán: "Sao các ngươi sợ? Chưa có đức tin sao?" (4:40). +15. "Đức tin con đã cứu con; hãy đi cho bình an và được lành bịnh" (5:34; 10:52). +16. "Ðấng tiên tri chỉ bị quê hương mình, bà con mình và trong nhà mình khinh dể mà thôi" (6:4). +17. "Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta" (8:34). +18. "Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì?" (8:36). +19. "Kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả.... Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi!" (9:23-24). +20. "Nếu không kiên ăn cầu nguyện, thì chẳng ai đuổi thứ quỉ ấy ra được" (9:29; KTLH Mat.12:43-45; Lu.11:24-26). +21. "Hễ ai vì danh Ta tiếp một đứa trong những đứa trẻ nầy, tức là tiếp Ta; còn ai tiếp Ta, thì chẳng phải tiếp Ta, bèn là tiếp Ðấng đã sai Ta vậy" (9:37). +22. Hôn nhân - "Vậy, người ta không nên phân rẽ những kẻ mà Ðức Chúa Trời đã phối hiệp" (10:9). +23. "Kẻ giàu vào nước Ðức Chúa Trời khó là dường nào! ..." (10:23-27). +24. "Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (10:45). +25. Chớ đem tội lỗi vào "Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện của muôn dân" (11:17). +26. Cầu Nguyện với đức tin, hòa thuận, tha lỗi cho nhau (11:24-26). +27. Tiên tri về Ngày Chúa trở lại và các tiên tri giả trong ngày sau rốt (13:1-37). +28. "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối" (14:38). +29. Phierơ chối Chúa 3 lần (14:66-72). +30. Chúa Jêsus phục sinh (16:1-8). +31. "Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi người" (16:15). +32. Chúa Jêsus thăng thiên (16:19-20).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 42 - LUCA (Luke)
Mục Đích: Thuật lại chi tiếc cuộc đời của Chúa Jêsus để chứng minh Ngài là Con Đức Chúa Trời, là Đấng Cứu Thế xuống thế làm "Con người."
Tác Giả: Bác sĩ Luca (Côlôse 4:14) là Cơ-đốc-nhân người Hy-lạp (Greek) . Luca là tác giả duy nhất trong Kinh-thánh không phải là người Do-thái. Luca là bạn đồng hành với sứ-đồ Phaolô. Ông cũng là tác giả sách Công Vụ Các Sứ Đồ, hai sách này nối tiếp nhau.
Năm Viết: Khoảng năm 60 A.D.
Địa Điểm Chính: Bethlehem, Galilee, Judea, Jerusalem.
Bối cảnh: Luca viết từ thành Rome hoặc có thể từ Caesara.
Những Điểm Đặc Biệt:
Đây là sách Tin Lành đầy đủ nhất. Văn tự của sách Luca cho biết ông là người có học thức và kiến thức về y-khoa với nhiều chi tiếc về bệnh tật và chuẩn đoán bệnh. Luca nói nhiều về mối liên hệ của Chúa Jêsus với nhiều người; chú trọng đến Cầu nguyện, phép lạ, và Thiên sứ. Ghi lại nhiều bài ca ngợi khen Chúa; và vị trí quan trọng của phụ nữ. Phần lớn đoạn 9:51-18:35 không có ghi trong các sách Tìn lành khác.
Câu Gốc: Luca 19:9-10
9 Ðức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hôm nay sự cứu đã vào nhà nầy, vì người nầy cũng là con cháu Áp-ra-ham. 10 Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất.
Đề Tài Chính:
+1. Chúa Jêsus hiểu và thương xót cho sự yếu đuối, sự cám dỗ, và sự thương khó mọi người phải chịu tại thế gian. +2. Chúa Jêsus đến thế gian để cứu rỗi mọi người: già, trẻ, giàu, nghèo, đàn ông, phụ nữ, người tự do, tù nhân, ... và mọi dân tôc. +3. Tin Lành cứu rỗi không từ chối bất cứ ai có lòng tin và ăn năn tội. +4. Chúa muốn Cơ Đốc nhân vâng giữ điều răng quan trọng nhất: "Yêu Chúa, yêu người" (10:27).
Mục Lục:
+ Chúa Jêsus - Đấng Cứu Rỗi
1. Giới thiệu 1:1-1:4
2. Sự sinh ra và chuẩn bị cho chức vụ của Chúa Jêsus và Giăng Báptít 1:5-2:52
3. Mục vụ của Giăng Báptít 3:1-3:20
4. Chúa Jêsus chịu Báptêm, gia phả và chịu cám dỗ trong đồng vắng 3:23-4:13
5. Chúa Jêsus giảng dạy và chửa bệnh 4:14-9:50
6. Chúa Jêsus hành trình từ Galilê đến Jêrusalem 9:51-19:27
7. Chúa Jêsus chịu khổ nạn và bị đóng đinh trên thập tự giá 19:28-23:49
8. Chúa Jêsus được chôn, Phục sinh, và Thăng thiên 23:50-24:53
LUCA (Tóm Lược):
+5. "Khi Ðức Chúa Jêsus khởi sự làm chức vụ mình thì Ngài có độ ba mươi tuổi" (3:23). +6. "Ðức Chúa Jêsus thấy đức tin của họ, bèn phán rằng: Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha" (5:20). +7. "Ta không phải đến gọi kẻ công bình hối cải, song gọi kẻ có tội" (5:32). +8. "Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phước cho kẻ rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình" (6:27-28). +9. "Các ngươi muốn người ta làm cho mình thể nào, hãy làm cho người ta thể ấy" (6:31). +10. "Ðừng đoán xét ai, thì các ngươi khỏi bị đoán xét; đừng lên án ai, thì các ngươi khỏi bị lên án; hãy tha thứ, người sẽ tha thứ mình" (6:37). +11. Xem trái thì biết cây ... điều thiện hay ác phát xuất tự trong lòng rồi thành hành động (6:43-45). +12. Sự vâng Lời Chúa giống như xây nhà trên đá, ... hoặc trên cát (6:46-49). +13. "Xin Chúa phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành" (7:7). +14. Bằng chứng cho Chúa Jêsus - "Kẻ đui được sáng, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, Tin Lành đã rao giảng cho kẻ nghèo" (7:22). +15. "Tội lỗi ngươi đã được tha rồi ... Ðức tin của ngươi đã cứu ngươi; hãy đi cho bình an" (7:48-50). +16. Chứng đạo, truyền giáo - Ngụ ngôn người gieo giống và 4 loại đất (8:4-15). +17. "Mẹ Ta và anh em Ta là kẻ nghe đạo Ðức Chúa Trời và làm theo đạo ấy" (8:21). +18. "Phi-e-rơ thưa rằng: Thầy là Ðấng Christ của Ðức Chúa Trời" (9:20). +19. Chúa Jêsus hóa hình trên núi - "Nầy là Con Ta, Người được lựa chọn của Ta, hãy nghe Người" (9:35). +20. "Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu" (9:58). +21. "Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Ðức Chúa Trời" (9:62). +22. "Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của Mình" (10:2). +23. "Chớ mừng vì các quỉ phục các ngươi; nhưng hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên thiên đàn" (10:20). +24. "Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là Ðức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân cận như mình" (10:27; Phục 6:5; Lêvi 19:18). +25. Ngụ Ngôn Người Samaritan Nhân Lành (10:30-37). +26. "Vậy nếu các ngươi là người xấu, còn biết cho con cái mình vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban Ðức Thánh Linh cho người xin Ngài!" (11:13). +27. Đừng sợ kẻ giết thể xác ... hãy kính sợ Chúa là người có quyền phán xét cả thể xác và linh hồn nơi địa ngục (12:4-5). +28. Hãy xưng nhận Chúa, ... và đừng chối Chúa (12:8-9). +29. Khi bị bắt bớ "chính giờ đó Ðức Thánh Linh sẽ dạy các ngươi những lời phải nói" (12:12). +30. Nếu "đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại; vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai?" (12:20). +31. Hãy giao mọi sự lo lắng cho Chúa (12:22-34; Mathiơ 6:25-34). +32. "Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng cũng ở đó" (12:34). +33. "Bởi vì ai tự nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên" (14:11). +34. "Ta nói cùng các ngươi, trên trời cũng như vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn hơn là chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn" (15:7,10). +35. Ngụ Ngôn Về “Đứa Con Hoang Đàng” (15:11-32) -- "Nhưng thật nên dọn tiệc và vui mừng, vì em con đây đã chết mà lại sống, đã mất mà lại thấy được" (15:32). +36. Các ngươi không có thể đã làm tôi Ðức Chúa Trời, lại làm tôi Ma-môn (tiền tài) nữa (16:13). +37. "Trời đất sẽ qua, song lời Ta nói sẽ không qua đâu" (21:33; 16:17; Mat. 5:18; Mác 13:31). +38. Ápraham, người giàu và người nghèo La-xa-rơ (16:19-31) -- Nếu không tin (Kinh Thánh) và các đấng tiên tri, thì dầu có ai từ kẻ chết sống lại, họ cũng chẳng tin (16:31). +39. Đừng xui trẻ em phạm tội (17:2). +40. Nước Ðức Chúa Trời chừng nào đến? (17:20-37; Mat 24:23-28, 37-41). +41. Hãy cầu nguyện trong sự khiêm nhường, đừng kiêu ngạo - ngụ ngôn về người công bình và kẻ thâu thuế (18:9-14). +42. Chúa Jêsus yêu trẻ em (18:15-17) - "Vì nước Ðức Chúa Trời thuộc về những người giống như con trẻ ấy.... Ai không nhận lãnh nước Ðức Chúa Trời như một đứa trẻ, thì sẽ không được vào đó" (18:16-17). +43. "Kẻ giàu vào nước Ðức Chúa Trời là khó dường nào!" ... "Sự chi người ta không làm được, thì Ðức Chúa Trời làm được." ... Ai vì Chúa mà hy sinh "thì trong đời nầy được lãnh nhiều hơn, và đời sau được sự sống đời đời" (18:24-30). +44. "Hãy sáng mắt lại; đức tin của ngươi đã chữa lành ngươi" (18:42). +45. Xachê, người thâu thuế - "Hôm nay sự cứu đã vào nhà nầy, vì người nầy cũng là con cháu Áp-ra-ham" (19:9). +46. Đừng đem tội lỗi vào nơi "Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện" (19:46). +47. Đóng thuế - "Của Sê-sa hãy trả lại cho Sê-sa, của Ðức Chúa Trời hãy trả lại cho Ðức Chúa Trời" (20:25). +48. Sự sống lại - "Con cái của đời nầy lấy vợ gả chồng; song những kẻ đã được kể đáng dự phần đời sau và đáng từ kẻ chết sống lại, thì không lấy vợ gả chồng. Bởi họ sẽ không chết được nữa, vì giống như các thiên sứ, và là con của Ðức Chúa Trời, tức là con của sự sống lại" (20:34-36). +49. Dâng hiến với tâm lòng quí hơn số lượng - bà hóa dâng 2 đồng (21:1-4). +50. Dấu Hiệu Thời Kỳ Cuối Cùng (21:7-28; Mat 24:3-14; Mác 13:3-13). +51. Tiệc Thánh (22:19-20). +52. "Hãy cầu nguyện, hầu cho các ngươi khỏi sa vào sự cám dỗ" (22:40). +53. Phierơ chối Chúa 3 lần (22:54-62). +54. Chúa Jêsus trên thập tự giá -- "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì" (23:34). +55. Tử tội biết ăn năn -- "Ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với Ta trong nơi Ba-ra-đi" (23:43). +56. Đại Mạng Lệnh Truyền Giáo (24:44-48).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 43 - GiĂNG (John)
Mục đích: Chứng minh Chúa Jêsus là Con Đức Chúa trời và ai tin nhận Ngài sẽ được sự sống đời đời.
Tác giả: Sứ đồ Giăng (John), còn có tên "con của Sấm xét" (son of Thunder), con của Zebedee, anh em của Giacơ (James).Viết cho: Người mới tin Chúa và những người đang tìm hiểu về Chúa.
Ngày viết: Khoảng năm 85-90 A.D.
Địa điểm quan trọng: Vùng đồng bằng Judean, Samaria, Galilee, Bethany, Jerusalem
Bối Cảnh:
Viết sau ngày thành Jêrusalem bị tàn phá 70 A.D. và trước khi Giăng bị đày vào đảo Patmos.
Những Điểm Đặc Biệt:
Sáu trong tám phép lạ ghi trong Tin Lành Giăng rất là đặc biệt so với các sách Tin Lành khác. Gần 90% Tin Lành Giăng viết rất riêng biệt so với các sách Tin Lành khác. Giăng không ghi lại: gia phả Chúa Jêsus, thời thơ ấu của Ngài, cám dỗ trong đồng vắng, sự hóa hình, chọn 12 môn đồ, các ngụ ngôn, Chúa thăng thiên, và Đại Mạng Lệnh.
Câu gốc: Giăng 20:30-31
30 Ðức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy. 31 Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Ðức Chúa Jêsus là Ðấng Christ, tức là Con Ðức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống.
Đề Tài Chính:
++1. "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài hầu cho hể ai tin con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Vả, Ðức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu." (3:16-17). +2. Mục đích của phép lạ không chỉ để chửa bệnh, cứu sống người, nhưng để làm chứng về Chúa Jêsus, Đấng Cứu Thế, "Con" Đức Chúa Trời. +3. Chúa muốn Cơ Đốc nhân vâng giữ điều răng quan trọng nhất: "Yêu Chúa, yêu người, và vâng lời Ngài" (15:9-12). +4. Huyết Chúa Jêsus tha tội và Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Cơ Đốc nhân. +5. Chúa Jêsus hiểu rõ sự thương khó của con người ... Ngài đã hy sinh để chửa lành cho nhân loại. +6. Thánh Linh Chúa Jêsus giúp đở và ban sự bình an đời đời mà thế gian không thể cho được (14:26-27).
Mục Lục:
+ Chúa Jêsus - Con Đức Chúa Trời
1. Sự giáng thế của Con Đức Chúa Trời 1:1-1:14
2. Giới thiệu, bắt đầu chức vụ, và các mục vụ của Chúa Jêsus 1:15-5:15
3. Các thế lực chống đối với chức vụ của Chúa Jêsus 5:16-12:50
4. Chúa Jêsus giảng dạy và huấn luyện các môn đồ 13:1-17:26
5. Chúa Jêsus chịu khổ nạn và bị đóng đinh trên thập tự giá 18:1-19:37
6. Chúa Jêsus được chôn và Phục sinh 19:38-21:25
GIĂNG (Tóm Lược):
+7. "Ban đầu có Ngôi Lời (Chúa Jêsus), Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời" (1:1). "Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật" (1:14). +8 "Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài. Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người. Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng" (1:3-5). +9. "Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người. Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài. Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy" (1:9-11). +10. "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, ... là kẻ chẳng phải sanh bởi ... ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy" (1:12-13). +11.Chớ đem tội lỗi vào "Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện" (2:16;12-22; Mat. 21:13; Mac 11:17; Lu 19:46). +12. "Vì luật pháp đã ban cho bởi Môi-se, còn ân điển và lẽ thật bởi Ðức Chúa Jêsus Christ mà đến" (1:17). +13. Chúa Làm Chứng Cho Ni-cô-đem (3:1-21) - "Nếu một người chẳng Sanh Lại, thì không thể thấy được nước Ðức Chúa Trời" (3:3). +14 ... +15. Chúa Jêsus Đến Từ Đức Chúa Trời (3:31-36). +16. Nước sự sống đời đời (4:10-16). ++17. "Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Ðức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy" (4:23-24). +18. Ba Ngôi là Một - "Cha cũng chẳng xét đoán ai hết, nhưng đã giao trọn quyền phán xét cho Con, đặng ai nấy đều tôn kính Con, cũng như tôn kính Cha vậy" (5:22-23). +19. "Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin Ta chẳng hề khát" (6:35,48). +20. "Ðây là ý muốn của Cha Ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn Ta, Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt" (6:40). +21. "Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng? Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời; chúng tôi đã tin, và nhận biết rằng Chúa là Ðấng thánh của Ðức Chúa Trời" (6:67-69). +22. "Bởi chưng chính các anh em Ngài không tin Ngài" (7:5). +23. "Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người" (8:7). +24. "Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa" (8:11). +25. "Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo Ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống" (8:12). +26. "Nếu các ngươi hằng ở trong đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi" (8:31-32). +27. "Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do" (8:36). +28. "Nếu các ngươi là kẻ mù, thì không có tội lỗi chi hết; nhưng vì các ngươi nói rằng: Chúng ta thấy, nên tội lỗi các ngươi vẫn còn lại" (9:41). +29. Chúa Jêsus là người chăn chiên hiền lành, khác với người chăn thuê (10:1-18). +30. "Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta quen nó, và nó theo Ta" (10:27). "Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay Ta" (10:28). +31. "Ta với Cha là một" (10:30). +32."25 Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin Ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. 26 Còn ai sống và tin Ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?" 27 Người thưa rằng: "Lạy Chúa, phải, tôi tin Chúa là Ðấng Christ, Con Ðức Chúa Trời, là Ðấng phải đến thế gian." (11:25-27). +33. "Thưa Cha, tôi tạ ơn Cha, vì đã nhậm lời tôi" (10.41) ... "Hỡi La-xa-rơ, hãy ra! (sống lại)" (11:43). ++34. "Vì các ngươi thường có kẻ nghèo ở với mình, còn Ta, các ngươi không có Ta luôn luôn" (12:8). +35. Chúa rửa chân cho môn đồ - "Vì Ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như Ta đã làm cho các ngươi" (13:15). +36. "Ai tiếp người mà Ta đã sai, tức là tiếp Ta; hễ ai tiếp Ta, tức là tiếp Ðấng đã sai Ta đến" (13:20). +37. "Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, các người phải yêu nhau ... Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta" (13:34-35). +38. "Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha" (14:6). +39. "12 Kẻ nào tin Ta, cũng sẽ làm việc Ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa, vì Ta đi về cùng Cha.13 Các ngươi nhân danh Ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, Ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con." (14:12-13). ++40. "15 Nếu các ngươi yêu mến Ta, thì giữ gìn các điều răn Ta. 16 Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Ðấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, 17 tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi." (14:15-17). +41. "Ai có các điều răn của Ta (Kinh Thánh) và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta; người nào yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu lại, Ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết Ta" (14:21). +42. "Nhưng Ðấng Yên ủi, tức là Ðức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh Ta sai xuống, Ðấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều Ta đã phán cùng các ngươi" (14:26). +43. "Ta để sự bình an lại cho các ngươi; Ta ban sự bình an Ta cho các ngươi; Ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi" (14:27). +44. "Ta là gốc nho thật, Cha Ta là người trồng nho" (15:1) - Tín đồ là nho của Chúa - tình yêu thương (15). ++45. "Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được" (15:5). +46. "Ví thử các ngươi làm theo điều Ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu Ta. Ta chẳng gọi các ngươi là đầy tớ nữa, vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm" (15:14-15). +47. "Nếu Ta không đến và không phán dạy họ, thì họ chẳng có tội lỗi gì; song bây giờ họ không có thể chữa chối được tội lỗi mình" (15:22). +48. Chúa Ba Ngôi là Một - Đức Thánh Linh, thần lẽ thật sẽ nói và làm chứng vể Đức Chúa Trời và Chúa Jêsus (16:13-14). +49. "Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; Lời Cha tức là lẽ thật" (17:17). +50. Sự hiệp một trong Chúa (17:20-26). +51. "Ðức Chúa Jêsus phán: Vì ngươi đã thấy Ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!" (20:29). +52. Simôn Phiêrơ, ngươi yêu Ta chăng, ... hãy chăn chiên Ta" (21:15-17). +53. "Lại còn nhiều việc nữa mà Ðức Chúa Jêsus đã làm; ví bằng người ta cứ từng việc mà chép hết, thì Ta tưởng rằng cả thế gian không thể chứa hết các sách người ta chép vậy" (21:25).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 44 - CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ (Acts)
Mục đích: Ghi lại chính xác lịch sử thành lập và phát triển Hội thánh và truyền giáo qua quyền năng của Đức Thánh Linh hướng dẫn các môn đồ.
Tác Giả: Bác sĩ Luca (Côlôse. 4:14) là Cơ-đốc-nhân người Hy-lạp (Greek). Luca là tác giả duy nhất trong Kinh-thánh không phải là người Do-thái. Luca là bạn đồng hành với sứ-đồ Phaolô. Ông cũng là tác giả sách Tin Lành Luca, hai sách này viết nối tiếp nhau.
Ngày viết: Khoảng năm 63 - 70 A.D.
Bối Cảnh:
Sách Công Vụ Các Sứ Đồ rất quan trọng, viết về lịch sử nối tiếp từ cuộc đời Chúa Jêsus qua lịch sử thành lập Hội thánh; và gạch nối từ các sách Tin Lành qua các sách Thư Tín.
Những Điểm Đặc Biệt:
Luca được Đức Thánh Linh hướng dẫn viết sách Công Vụ Các Sứ Đồ nối tiếp theo sách Tin Lành Luca. Theo truyền thuyết, Sách Công Vụ chấm dứt cách đột ngột, có lẽ Luca muốn viết sách thứ ba!
Câu gốc: (Công Vụ 1:8)
Nhưng khi Ðức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về Ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.
Đề Tài Chính:
+1. Đức Chúa Trời không đòi hỏi Cơ Đốc nhân làm điều gì mà không có sự tiếp trợ của Ngài qua quyền năng của Đức Thánh Linh và theo chương trình chung Ngài đã định trong Kinh Thánh. +2. Hội thánh Chúa Jêsus Christ sẽ tiếp tục phát triển khắp thế giới dưới sự lãnh đạo của Đức Thánh Linh để truyền bá Tin Lành cứu rỗi linh hồn tội nhân. +3. Kinh Thánh khẳng định Cơ Đốc nhân và Hội thánh không thể sống cuộc đời thành công vinh hiển danh Chúa nếu không có ơn và sự giúp sức của Đức Thánh Linh. +4. Cơ Đốc nhân và Hội thánh biết vâng phục Chúa sẽ luôn có cơ hội phát triển tâm linh để làm chứng vể Tin Lành Cứu Rỗi qua Chúa Jêsus Christ và quyền năng của Đức Thánh Linh.
Mục Lục:
1. Chúa Jêsus dạy dỗ các môn đồ và thăng thiên 1:1-1:11
2. Đức Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần (Pentecost) và Hội thánh đầu tiên tại Jêrusalem. 1:12-8:3
3. Tin Lành lan rộng khắp vùng Judea và Samaria 8:4-12:25
4. Chúa hiện ra, làm phép lạ và kêu gọi Saulơ (Phaolô) tin Chúa 9:1-31
5. Phaolô truyền giáo lần thứ nhất 13:1-14:28
6. Hội đồng Tin Lành đầu tiên tại Jêrusalem 15:1-15:35
7. Phaolô truyền giáo lần thứ hai 15:36-18:22
8. Phaolô truyền giáo lần thứ ba 15:18-21:14
9. Phaolô trên đường đến thành Rôma 21:15-28:31
CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ (Tóm Lược):
+++5. "Vì chưng Giăng đã làm phép báp-tem bằng nước, nhưng trong ít ngày, các ngươi sẽ chịu phép báp-tem bằng Ðức Thánh Linh" (1:5). +6. "Ðến ngày lễ Ngũ tuần, ... Hết thảy đều được đầy dẫy Ðức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Ðức Thánh Linh cho mình nói" (2:1-4). +7. "Hỡi anh em, chúng ta phải làm chi? Phi-e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Ðức Chúa Jêsus chịu phép báp-tem, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Ðức Thánh Linh. Vì lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy mọi người ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa là Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi." - Khoảng 3000 tin Chúa, và gia nhập Hội thánh (2:38-41). +8. "Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện" (2:42). "Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ; còn ở nhà, thì bẻ bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà" (2:46), "ngợi khen Ðức Chúa Trời và được đẹp lòng cả dân chúng. Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội thánh." (2:47). +9. Phierơ và Giăng bị bắt vì truyền đạo, nhưng nhiều người vẫn tin Chúa và Hội thánh tăng lên 5000 (4:1-4). ++9. "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu" (4:12). ++10. "Nhưng Phi-e-rơ và Giăng trả lời rằng: Chính các ông hãy suy xét, trước mặt Ðức Chúa Trời có nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Ðức Chúa Trời chăng?" (4:19). ++11. "Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Ðức Thánh Linh, giảng đạo Ðức Chúa Trời cách dạn dĩ" (4:31). +12. "Vả, người tin theo đông lắm, cứ một lòng một ý cùng nhau. Chẳng ai kể của mình là của riêng; nhưng kể mọi vật là của chung cho nhau" (4:32). +13. Đạo Tin Lành càng ngày càng tấn tới, Hội thánh ngày càng đông hơn, các sứ đồ làm nhiều dấu kỳ phép lạ, chửa bệnh cho nhiều ngưòi (5:12-16). +14. Các sứ đồ bị bắt vào khám, nhưng được thiên sứ giải cứu, kêu họ tiếp tục giảng đạo (5:17-28). ++15. "Phi-e-rơ và các sứ đồ trả lời rằng: Thà phải vâng lời Ðức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta" (5:29). ++16. "Ngày nào cũng vậy, tại trong đền thờ hoặc từng nhà, sứ đồ cứ dạy dỗ rao truyền mãi về Tin Lành của Ðức Chúa Jêsus, tức là Ðấng Christ" (5:42). +17. "Mười hai sứ đồ bèn gọi hết thảy môn đồ nhóm lại, mà nói rằng: Bỏ sự dạy đạo Ðức Chúa Trời mà giúp việc bàn tiệc thật chẳng xứng hợp. Vậy, anh em hãy chọn trong bọn mình bảy người có danh tốt, đầy dẫy Ðức Thánh Linh và trí khôn, rồi chúng ta sẽ giao việc nầy cho. Còn chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo" (6:2-4). +18. "Ðạo Ðức Chúa Trời càng ngày càng tràn ra, số môn đồ tại thành Giê-ru-sa-lem thêm lên nhiều lắm. Cũng có rất nhiều thầy tế lễ vâng theo đạo nữa" (6:7). +19. Êtiên giảng đạo với đầy dẫy Đức Thánh Linh, và bị tử đạo (6:8-7:60). -- "Lạy Ðức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi. Ðoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ" (7:59-60). +20. Vì bị bắt bớ đạo - "Những kẻ đã bị tan lạc đi từ nơi nầy đến nơi khác, truyền giảng đạo Tin Lành" (8:4). +21. "Phi-e-rơ và Giăng bèn đặt tay trên các môn đồ (mới tin Chúa), thì đều được nhận lấy Ðức Thánh Linh" (8:17). +22. Phierơ quở trách thầy phù phép Simôn muốn dùng tiền để mua quyền phép của Đức Thánh Linh (8:18-25). +23. Philíp giúp hoạn quan người Êthiôbi tin Chúa (8:26-40). -- "Nầy, nước đây, có sự gì ngăn cấm tôi chịu phép báp-tem chăng? ... Nếu ông hết lòng tin, điều đó có thể được" (8:36-38). +24. Chúa Jêsus hiện ra và kêu gọi Saulơ (Phaolô) tin Chúa. -- Anania giúp Phaolô. (9:1-30). -- "Ta đã chọn người nầy làm một đồ dùng Ta, để đem danh Ta đồn ra trước mặt các dân ngoại, các vua, và con cái Y-sơ-ra-ên" (9:15). +25. Phierơ cầu nguyện Chúa cứu sống bà Tabitha (9:36-43). +26. Đội trưởng Cọtnây (người Itali) siên năng cầu nguyện và làm việc thiện, ông và cả nhà tin Chúa qua Đức Thánh linh và Phierơ giúp đở (10:1-48). +26. "Ấy là ở thành An-ti-ốt, người ta bắt đầu xưng môn đồ là Cơ-rê-tiên (Cơ Đốc nhân, Christian)" (11:26). +27. Vua Hêrốt bắt Phierơ vào ngục nhưng Chúa sai thiên sứ mở xiềng và cửa ngục giải thoát cho Phierơ (12:1-19). +28. "Dân chúng kêu lên rằng: Ấy là tiếng của một thần, chẳng phải tiếng người ta đâu! Liền lúc đó, có thiên sứ của Chúa đánh vua Hê-rốt, bởi cớ chẳng nhường sự vinh hiển cho Ðức Chúa Trời; và vua bị trùng đục mà chết" (12:22-23). +29. "Ðang khi môn đồ thờ phượng Chúa và kiêng ăn, thì Ðức Thánh Linh phán rằng: Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ đặng làm công việc Ta đã gọi làm" (13:2). +30. Phaolô và Banaba từ chối được tôn là thần (14:1-18). +31. Phaolô bị ném đá nhưng không chết (14:19-20). +32. "Khi hai sứ đồ khiến lựa chọn những trưởng lão trong mỗi Hội thánh, cầu nguyện và kiêng ăn xong, thì dâng các người đó cho Chúa là Ðấng mình đã tin đến" (14:23). +33. Đức Thánh Linh dạy các môn đồ - "anh em phải kiêng ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngột, và chớ tà dâm" (15:28-29). +34. Phaolô và Banaba phân rẽ nhau vì Mác (15:35-41). +35. Phaolô đem theo Timôthê (mẹ là người Giuđa, cha là người Gờréc) (16:1-7). +36. Phaolô và Sila bị bỏ tù, họ ca hát. Chúa làm động đất, xiềng xích và cửa tù đều mở. Người cai ngục được cứu (16:16-40) - "Hãy tin Ðức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi" (16:31). +37. "Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Tê-sa-lô-ni-ca, đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng" (17:11). +38. "Ban đêm, Chúa phán cùng Phao-lô trong sự hiện thấy rằng: Ðừng sợ chi; song hãy nói và chớ làm thinh" (18:9). +39. "Chúng nghe bấy nhiêu lời, bèn chịu phép báp-tem nhân danh Ðức Chúa Jêsus. Sau khi Phao-lô đã đặt tay lên, thì có Ðức Thánh Linh giáng trên chúng, cho nói tiếng ngoại quốc và lời tiên tri" (19:5-6). +40. "Ðức Chúa Trời lại dùng tay Phao-lô làm các phép lạ khác thường, đến nỗi người ta lấy khăn và áo đã bận vào mình người mà để trên các kẻ đau yếu; thì họ được lành bịnh, và được cứu khỏi quỉ dữ" (19:11-12). +41. Quỉ dữ không sợ thầy pháp giả mạo danh Chúa Jêsus (19:13-20) ++ "Song quỉ dữ đáp lại rằng: Ta biết Ðức Chúa Jêsus, và rõ Phao-lô là ai; nhưng các ngươi là kẻ nào?" (19:15). +42. Nhiều người chủ và thợ bị mất quyền lợi kinh tế buôn bán thần tượng nên chống lại đạo Tin Lành (19:21-41). +43. Phaolô cứu sống người trẻ khi nghe giảng bị té lầu chết (20:7-12). +44. Phaolô bị bắt, lời giảng làm chứng về Chúa và chức vụ sứ đồ của mình (21:27-23:11). +45. "Qua đêm sau, Chúa hiện đến cùng Phaolô mà phán rằng: Hãy giục lòng mạnh mẽ, ngươi đã làm chứng cho Ta tại thành Giê-ru-sa-lem thể nào, thì cũng phải làm chứng cho Ta tại thành Rô-ma thể ấy" (23:11). +46. Phaolô bị kiện cáo và làm chứng trước mặt các quan và các vua (23:23-26:32). +47. "Phao-lô tâu: Cầu xin Ðức Chúa Trời, chẳng kíp thì chầy, không những một mình vua, nhưng hết thảy mọi người nghe tôi hôm nay đều (tin Chúa Jêsus) như tôi, chỉ trừ bỏ xiềng nầy thôi!" (26:29). +48. Phaolô bị giải đi đến thành Rôma bằng tàu. Bị bảo và chìm tàu. Dân đảo tin Chúa. (27:1-28:10). +49. Phaolô tại thành Rôma. Bị quản thúc tại nhà trọ và tự do giảng đạo (28:11-31).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 45 - RÔMA (Romans)
Mục đích: Sứ đồ Phaolô tự giới thiệu và trình bày đức tin về Tin Lành cho các tính hữu tại Rôma.
Tác giả: Sự đồ Phaolô (Paul)
Ngày viết: Viết Khoảng năm 57 A.D. tại Côrinhtô, trước khi thăm viếng Jêrusalem.
Bối Cảnh:
Sự đồ Phaolô vừa kết thúc chương trình truyền giáo lần thứ ba, ông dự tính sau khi đem tiền dâng hiến để giúp đở các tín đồ nghèo tại Jêrusalem (15:23-28), ông sẽ ghé thăm Hội thành Rôma trên đường đi đến Tây Ban Nha (Spain). Phần đông tín đồ tại Rôma là người Giuđa, nhưng cũng có rất đông người ngoại.
Những Điểm Đặc Biệt:
Thư Tín Rôma là thư dài nhất trong 13 thư tín của Phaolô. Sứ đồ Phaolô biết tín đồ tại Rôma phần đông có học thức và chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi triết học, các tư tưởng mới, phong tục tập quán, và luật pháp; nên ông để rất nhiều thời giờ cầu nguyện và viết cách cẩn thận dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh để trình bài đức tin về Tin Lành của mình cho Hội thánh Rôma và Cơ Đốc nhân khắp nơi.
Câu gốc - Rôma 5:1:
Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Ðức Chúa Trời, bởi Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta,
Đề Tài Chính:
+1. Mọi người đều sanh ra trong tội lỗi, (3:23): "Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời" (TĐạo7:20; Gal.3:22; 1Gi.1:8-10). +2. Mọi người đều có cuộc chiến thuộc linh với tội lỗi để làm điều thiện, đặc biệt Cơ Đốc nhân càng nhận biết tội lỗi và sự yếu đuối của xác thịt cách rõ ràng hơn nhờ Lời Chúa và Đức Thánh Linh. +3. Sự cứu rỗi là món quà tặng không... không phải do việc làm nhưng qua ân điển Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời. +4. Không có gì cò thể chia cách tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta qua Chúa Jêsus Christ (8:28-39). +5. Chỉ có đức tin qua Chúa Jêsus và sự vâng Lời Ngài, mới giúp chúng ta được công bình trước sự phán xét của Đức Chúa Trời. +6. Mọi người được cứu bởi đức tin, không phải qua việc làm (1:17; 3:22; 4:5,9,11,13; 9:30; 10:6). +7. Sự thánh hóa (sanctification) qua quyền năng Đức Thánh Linh chứ không phải qua sự giữ gìn luật pháp. +8. Ai tin Đấng Christ sẽ được cứu và được ban cho Đức Thánh Linh để giúp có một đời sống mới chiến thắng tội lỗi.
Mục Lục:
1. Giới thiệu 1:11-1:17
2. Mọi người đều có tội ... 1:18-3:20
3. Sự cứu rỗi linh hồn được ban cho mọi người qua đúc tin nơi Chúa Jêsus 3:21-8:39
4. Chương trình của Đức Chúa Trời dành cho người Giuđa 9:1-11:36
5. Cá tánh và mối liên hệ của Cơ Đốc nhân 12:1-15:13
6. Lời khuyên cuối và chào thăm 15:14-16:27
RÔMA (Tóm Lược):
+++9 Tin Lành Chúa Jêsus Christ (1:1-7): ++ "1 Phao-lô, tôi tớ của Ðức Chúa Jêsus Christ, được gọi làm sứ đồ, để riêng ra đặng giảng Tin Lành Ðức Chúa Trời, - 2 là Tin Lành xưa kia Ðức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri Ngài mà hứa trong Kinh Thánh, 3 về Con Ngài, theo xác thịt thì bởi dòng dõi vua Ða-vít sanh ra, 4 theo thần linh của thánh đức, thì bởi sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết, được tỏ ra là Con Ðức Chúa Trời có quyền phép, tức là Ðức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta." (1:1-4). +++10 Quyền năng của Tin Lành cứu rỗi (1:16-17): ++ "16+ Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Ðức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc; 17 vì trong Tin Lành nầy có bày tỏ sự công bình của Ðức Chúa Trời, bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: "Người công bình sẽ sống bởi đức tin." (Hab.2:4). (1:16-17). +++ Đức Chúa Trời tỏ mình qua sự sáng tạo của Ngài (1:20): + "20 Những gì về Đức Chúa Trời mà mắt trần không thấy được, tức là quyền năng đời đời và thần tín của Ngài, thì ngay từ buổi sáng thế người ta đã nhận thức rõ ràng khi quan sát các tạo vật của Ngài, cho nên họ không thể bào chữa được." (1:20). +++11 Loài người phạm tội vì không nhận biết Đức Chúa Trời (1:18-32). +++12 Sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời (2): ++ "4 Hay là ngươi khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài, mà không nhận biết lòng nhân từ của Ðức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn sao? 5 Nhưng tấm lòng cứng cỏi, không ăn năn của ngươi đang tích lũy cho mình sự giận dữ trong ngày thịnh nộ, là khi sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời được bày tỏ, 6 vì "Ngài sẽ báo ứng cho mỗi người tùy theo công việc họ làm." (TThiên 62:12; ChNgôn 24:12; Mat.16:27): 7+ ai bền lòng làm lành, tìm sự vinh hiển, sự tôn trọng và sự chẳng hề chết, thì Ngài ban cho sự sống đời đời. 8 còn ai có lòng chống trả, không vâng phục lẽ thật, mà vâng phục sự không công bình (sự bất chính), thì chuốc lấy cho họ sự giận dữ và cơn thạnh nộ." (2:4-8). +++13 Đức Chúa Trời công bình: + "11 Vì trước mặt Ðức Chúa Trời, chẳng vị nể ai đâu." (2:11). + "12 Phàm những kẻ không luật pháp mà phạm tội, cũng sẽ không luật pháp mà hư mất; còn những kẻ có luật pháp mà phạm tội, thì sẽ bị luật pháp đoán xét; 13 Vì chẳng phải kẻ nghe đọc luật pháp là người công bình trước mặt Ðức Chúa Trời, bèn là kẻ làm theo luật pháp được xưng công bình vậy." (2:12-13). +++13.4 Chúa phán xét dân ngoại cách công bình (2:14-16): ++ "14 Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. 15 Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình. 16 Ấy là điều sẽ hiện ra trong ngày Ðức Chúa Trời bởi Ðức Chúa Jêsus Christ mà xét đoán những việc kín nhiệm của loài người, y theo Tin Lành tôi." (2:14-16). +++14 Chúa đáng tin cậy hoàn toàn (3:3-8): ++ "4 Thà xưng Ðức Chúa Trời là thật và loài người là giả dối, như có chép rằng: "Ấy vậy Chúa sẽ được xưng công bình trong lời phán của Ngài, Và sẽ được thắng khi chịu xét đoán." (TThiên.51:4)." (3:4). +++15 Mọi người đều phạm tội (3:9-20): ++ "10 Như có chép rằng: Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không." (3:10). + "20 Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi." (3:20). +++16 Ân điển Chúa tuyên xưng sự công bình cho ai tin Chúa Jêsus Christ (3:21-31): ++ "22 Tức là sự công bình của Ðức Chúa Trời, bởi sự tin đến Ðức Chúa Jêsus Christ, cho mọi người nào tin, chẳng có phân biệt chi hết, 23 vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời, (TĐạo 7:20; Gal. 3:22; 1Gi 1:8-10), 24 và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không (phải trả giá), bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Ðức Chúa Jêsus Christ, 25 là Ðấng Ðức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Ðấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia." (3:22-25). +++17 Ápraham được xưng công bình bởi đức tin (4): ++ "3 Vì Kinh Thánh có dạy chi? "Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, và điều đó kể là công bình cho người." (Sáng.15:6)." (4:3). +++18 Chúa tha tội loài người qua đức tin nơi Chúa Jêsus (5:1-11): ++ "1+ Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Ðức Chúa Trời, bởi Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta, 2+ là Ðấng đã làm cho chúng ta cậy đức tin vào trong ơn nầy là ơn chúng ta hiện đang đứng vững; và chúng ta khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Ðức Chúa Trời. 3+ Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, 4+ sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. 5+ Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Ðức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Ðức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta." (5:1-5). ++ "8 Nhưng Ðức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Ðấng Christ vì chúng ta chịu chết." (5:8). ++ Nhờ Chúa Jêsus chúng ta được hòa thuận với Đức Chúa Trời (5:9-11): ++ "9 Vậy bây giờ chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình rồi, thì hẳn chúng ta sẽ càng nhờ Ngài mà được cứu khỏi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời càng hơn. 10 Vi nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà nhờ sự chết của Con Ngài chúng ta đã được hòa thuận với Đức Chúa Trời, thì huống chi nay đã được hòa thuận rồi, chúng ta lại càng được cứu nhờ sự sống của Con Ngài là dường nào. 11 Không những thế, chúng ta lại còn vui mừng trong Đức Chúa Trời bởi Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ, nhờ Ngài mà bây giờ chúng ta nhận được sự hòa thuận." (5:9-11). " (5:11). +++19 Ađam phạm tội đem đến sự chết; Chúa Jêsus ban cho ân điển và sự sống đời đời (5:12-21). +++20 Hãy để tội lỗi chết đi và được sống lại với Chúa Jêsus qua phép Báptem (6:1-14): ++ "4+ Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm trong sự chết Ngài, hầu cho Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy." (6:4). ++ "11 Vậy anh em cũng hãy coi mình như chết về tội lỗi và như sống cho Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jêsus Christ. 12 Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó." (6:11-12). ++ "14 Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới luật pháp, mà thuộc dưới ân điển." (6:14). +++21 Hãy chiến thắng với Chúa thoát khỏi sự nô lệ của tội lỗi (6:15-23): ++ "22+ Nhưng bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Ðức Chúa Trời rồi, thì anh em được lấy sự nên thánh làm kết quả, và sự sống đời đời làm cuối cùng. 23+ Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta." (6:22-23).+++22 Cơ Đốc Nhân được giải thoát khỏi luật pháp để phục vụ Chúa cách mới (7:1-6): ++ "6 Nhưng bây giờ chúng ta đã chết về luật pháp, là điều bắt buộc mình, thì được buông tha khỏi luật pháp đặng hầu việc Ðức Chúa Trời theo cách mới của Thánh Linh, chớ không theo cách cũ của văn tự." (7:6). +++23 Luật pháp Chúa khiến chúng ta nhận biết tội lỗi (7:7-25): ++ "21 Vậy tôi thấy có luật nầy trong tôi: khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi. 22 Vì theo người bề trong, tôi vẫn lấy luật pháp Ðức Chúa Trời làm đẹp lòng; 23 nhưng tôi cảm biết trong chi thể mình có một luật khác giao chiến với luật trong trí mình, bắt mình phải làm phu tù cho luật của tội lỗi, tức là luật ở trong chi thể tôi vậy. 24 Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25 Cảm tạ Ðức Chúa Trời, nhờ Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta! Như vậy, thì chính mình tôi lấy trí khôn phục luật pháp của Ðức Chúa Trời, nhưng lấy xác thịt phục luật pháp của tội lỗi." (7:21-25). +++24 Đức Thánh Linh giúp tín đồ Đấng Christ được buông tha khỏi xác thịt để sống đời sống mới. (8:1-17): ++ "1+ Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Ðức Chúa Jêsus Christ, (là kẻ bước theo Thánh Linh, không theo xác thịt); 2+ vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Ðức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết." (8:1-2). +++25 "5 Thật thế, kẻ sống theo xác thịt thì chăm những sự thuộc về xác thịt; còn kẻ sống theo Thánh Linh thì chăm những sự thuộc về Thánh Linh. 6 Vả, chăm về xác thịt sanh ra sự chết, còn chăm về Thánh Linh sanh ra sự sống và bình an." (8:5-6). +++26 "7 vì sự chăm về xác thịt nghịch với Ðức Chúa Trời, bởi nó không phục dưới luật pháp Ðức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được. 8 Vả, những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Ðức Chúa Trời." (8:7-8). +++27 "9 Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Ðức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Ðấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài. 10 Vậy nếu Ðấng Christ ở trong anh em, thì thân thể chết nhân cớ tội lỗi, mà thần linh sống nhân cớ sự công bình." (8:9-10). +++28 Hãy bước đi với Đức Thánh Linh (8:12-17): ++ "14 Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Ðức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của Ðức Chúa Trời. 15 Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! 16 Chính Ðức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Ðức Chúa Trời. 17 Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Ðức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Ðấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài." (8:14-17). +++29 So sánh sự khổ nạn tạm thời với tương lai vinh hiển (8:18-27): ++ "18 Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta." (8:18). +++30 Sự trông cậy thiên liêng (8:24-25): ++ "24 Vì chúng ta được cứu trong sự trông cậy, nhưng khi người ta đã thấy điều mình trông rồi, ấy không phải là trông nữa: mình thấy rồi, sao còn trông làm chi? 25 Song nếu chúng ta trông điều mình không thấy, ấy là chúng ta chờ đợi điều đó cách nhịn nhục." (8:24-25). +++31 Đức Thánh Linh giúp chúng ta cầu nguyện (8:26-27): ++ "26 Cũng một lẽ ấy, Ðức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Ðức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta. 27 Ðấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Ðức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy." (8:26-27). +++32 Quyền năng của tình yêu Chúa (8:28-39): ++ "28 Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Ðức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định." (8:28). +++33 "29 Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; 30 còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển." (8:29-30). +++34 Tình yêu Chúa vĩnh cữu (8:35-39): ++ "35 Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Ðấng Christ? ... (8:35). ++ "38 Vì tôi chắc rằng bất khi sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, 39 bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta." (8:38-39). +++35 Phaolô đau buồn cho người Giuđa chưa tin Chúa Jêsus (9:1-5): +++ Lời Chúa hứa cho người Giuđa (9:6-33). +++ Sự công bình đến bởi đức tin, (không bởi luật pháp) (9:30). +++36 Phaolô nhắc nhở người Giuđa sự cần thiết phải tin vào Đấng Christ (10): ++ "4 Vì Ðấng Christ là sự cuối cùng của luật pháp, đặng xưng mọi kẻ tin là công bình." (10:4). +++37 Tin Nhận Chúa Jêsus Christ (10:8-27): ++ "9+ Vậy nếu miệng ngươi xưng Ðức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Ðức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; 10+ vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi. 11+ Vả, Kinh-Thánh nói rằng: Kẻ nào tin Ngài sẽ chẳng bị hổ thẹn. (Êsai 28:16). (10:9-11). +++38 "13+ Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu. (Giôên 2:32)." (10:13). +++39 Truyền Giáo và Chứng Đạo (10): ++ "14 Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao? 15+ Lại nếu chẳng ai được sai đi, thì rao giảng thể nào? như có chép rằng: "Những bàn chân kẻ rao truyền tin lành là tốt đẹp biết bao!" (Êsai 52:7) ." (10:14-15). +++40 "16 Nhưng chẳng phải mọi người đều nghe theo tin lành đâu; vì Ê-sai có nói rằng: Lạy Chúa, ai tin lời chúng tôi rao giảng? (Êsai 53:1) 17 Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Ðấng Christ được rao giảng." (10:16-17). +++41 Chỉ một phần dân Ysơraên không tin (11:1-10). ++ Dân ngoại được thế vào cây sự sống (11:11-24): ++ Lời Chúa hứa phục hưng Ysơraên (11:25-36). +++42 Sự dâng mình thánh thiện cho Đức Chúa Trời (12:1-8): ++ "1+ Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Ðức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Ðức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2 Ðừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Ðức Chúa Trời là thể nào." (12:1-2). +++43 Một thân thể Đấng Christ nhưng có nhiều ân tứ Thánh Linh (12:3-8): ++ "6 Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7 ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8 ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm." (12:6-8). +++44 Yêu thương và tôn trọng lẫn nhau (12:9-12): ++ "9+ Lòng yêu thương phải cho thành thật. Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành." (12:9). ++ "12+ Hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện. 13+ Hãy cung cấp sự cần dùng cho các thánh đồ; hãy ân cần tiếp khách. 14+ Hãy chúc phước cho kẻ bắt bớ anh em; hãy chúc phước, chớ nguyền rủa. 15+ Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc." (12:12-15). +++45 "17+ Chớ lấy ác trả ác cho ai; phải chăm tìm điều thiện trước mặt mọi người. 18+ Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người. 19+ Hỡi kẻ rất yêu dấu của tôi ơi, chính mình chớ trả thù ai, nhưng hãy nhường cho cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời; vì có chép lời Chúa phán rằng: Sự trả thù thuộc về Ta, Ta sẽ báo ứng. (Xuất 32:35) 20+ Vậy nếu kẻ thù mình có đói, hãy cho ăn; có khát, hãy cho uống; vì làm như vậy, khác nào mình lấy những than lửa đỏ mà chất trên đầu người. (ChâmNg.25:21-22). 21+ Ðừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác." (12:17-21). +++46 Cơ Đốc Nhân tôn trọng luật pháp (13:1-7). +++47 Lòng yêu thương làm trọn luật pháp (13:8-10): ++ "8 Ðừng mắc nợ ai chi hết, chỉ mắc nợ về sự yêu thương nhau mà thôi, vì ai yêu kẻ lân cận mình ấy là đã làm trọn luật pháp." (13:8). ++ "10 Sự yêu thương chẳng hề làm hại kẻ lân cận; vậy yêu thương là sự làm trọn luật pháp." (13:10). +++48 Sự khoan dung đối với kẻ kém đức tin (14:1-14): ++ "1 Hãy bằng lòng tiếp lấy kẻ kém đức tin, chớ cãi lẫy về sự nghi ngờ. (tránh xét đoán nhau)." (14:1). ++ "4 Ngươi là ai mà dám xét đoán tôi tớ của kẻ khác? Nó đứng hay ngã, ấy là việc chủ nó; - song nó sẽ đứng, vì Chúa có quyền cho nó đứng vững vàng." (14:4). +++49 "7 Vả, chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà sống, cũng chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà chết; 8+ vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả. 9 Ðấng Christ đã chết và sống lại, ấy là để làm Chúa kẻ chết và kẻ sống." (14:7-9). +++50 Chớ làm cớ vấp phạm cho anh em yếu đuối (14:13-23): ++ "13 Vậy chúng ta chớ xét đoán nhau; nhưng thà nhất định đừng để hòn đá vấp chân trước mặt anh em mình, và đừng làm dịp cho người sa ngã." (14:13). +++51 "16 Vậy chớ để sự lành mình trở nên cớ gièm chê. 17+ Vì nước Ðức Chúa Trời chẳng tại sự ăn uống, nhưng tại sự công bình, bình an, vui vẻ bởi Ðức Thánh Linh vậy. 18 Ai dùng cách ấy mà hầu việc Ðấng Christ, thì đẹp lòng Ðức Chúa Trời và được người ta khen. 19 Vậy chúng ta hãy tìm cách làm nên hòa thuận và làm gương sáng cho nhau." (14:16-19). +++52 "21 Ðiều thiện ấy là (thà) đừng ăn thịt, đừng uống rượu, và kiêng cữ mọi sự chi làm dịp vấp phạm cho anh em mình." (14:21). +++53 Dùng tình yêu thương xây dựng cho nhau trong Chúa (15:1-6): ++ "1 Vậy chúng ta là kẻ mạnh, phải gánh vác sự yếu đuối cho những kẻ kém sức, chớ làm cho đẹp lòng mình. 2 Mỗi người trong chúng ta nên làm đẹp lòng kẻ lân cận mình, đặng làm điều ích và nên gương tốt." (15:1-2). ++ "4 Vả, mọi sự đã chép từ xưa đều để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự yên ủi của Kinh Thánh dạy mà chúng ta được sự trông cậy. " (15:4). +++54 Hãy chấp nhận nhau như Chúa đã chấp nhận chúng ta (15:7-13): ++ "7 Vậy thì, anh em hãy tiếp lấy nhau, cũng như Ðấng Christ đã tiếp anh em, để Ðức Chúa Trời được vinh hiển." (15:7). +++55 "13 Vậy xin Ðức Chúa Trời của sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin, hầu cho anh em nhờ quyền phép Ðức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!" (15:13). +++56 Phaolô ôn lại quá khứ, dự định tương lai trong sự cầu nguyện (15:14-33): ++ "30 Vậy, hỡi anh em, nhờ Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta, và nhờ sự yêu thương sanh bởi Ðức Thánh Linh, tôi khuyên anh em phải cùng tôi chiến đấu trong những lời cầu nguyện mà anh em vì tôi trình cùng Ðức Chúa Trời." (15:30). +++57 Khuyên tránh xa kẻ gây ra bè đảng và chia rẽ (16:17-20): ++ "17 Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi. 18 Vì những kẻ đó chẳng hầu việc Ðấng Christ, Chúa chúng ta, song hầu việc cái bụng họ, và lấy những lời ngọt ngào dua nịnh dỗ dành lòng kẻ thật thà. 19 Sự anh em vâng phục thì ai ai cũng biết rồi, vậy tôi vì anh em vui mừng, mong rằng anh em khôn ngoan về điều lành, và thanh sạch đối với điều dữ." (16:17-19). +++58 Lời kết: ++ "25 Ngợi khen Ðấng có quyền làm cho vững chí anh em theo Tin Lành của tôi và lời giảng Ðức Chúa Jêsus Christ, theo sự tỏ ra về lẽ mầu nhiệm, là lẽ đã giấu kín từ mọi đời trước, 26 mà bây giờ được bày ra, và theo lịnh Ðức Chúa Trời hằng sống, bởi các sách tiên tri, bày ra cho mọi dân đều biết, đặng đem họ đến sự vâng phục của đức tin, - 27 nhân Ðức Chúa Jêsus Christ, nguyền xin vinh hiển về nơi Ðức Chúa Trời khôn ngoan có một, đời đời vô cùng! A-men." (16:25-27).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 46 - 1 CÔRINHTÔ (1 Corinthians)
Mục đích: Để nhận biết những khó khăn và tội lỗi trong Hội thánh Côrinhtô. Phương pháp giải quyết nan đề theo Kinh Thánh. Hướng dẫn tín hữu sống đời sống Cơ Đốc nhân trong một xã hội nhiều tội lỗi.
Tác giả: Sự đồ Phaolô (Paul)
Ngày viết: Khoảng năm 55 A.D. Viết cho tín hữu tại Côrinhtô và Cơ Đốc nhân khắp nơi.
Bối Cảnh:
Côrinhtô là thành phố lớn, có trung tâm thương mại, có bờ biển và càng cho tàu buông -- một trong những thành phố quan trọng vùng tiểu á. Vì thế nơi đây có rất nhiều tôn giáo thờ thần tượng, nhiều phương tiện giải trí không lành mạnh, nhiều tội lỗi. Hội thánh tại đây phần đông là người ngoại mới tin Chúa, nên có nhiều nan đề. Sứ đồ Phaolô đã thành lập Hội thánh trong lần truyền giáo lần thứ hai.
Những Điểm Đặc Biệt:
Vì những nan đề và tội lỗi, Hội thánh Côrinhtô đã cho người đem thư đến hỏi ý kiến và nhờ Phaolô giúp đở. Phaolô viết thư trả lời một cách có hệ thống phương pháp giải quyết những nan đề như: sự chia rẽ trong Hội thánh, sự tà dâm, kiện cáo nhau, chống đối lại quyền sứ đồ của Phaolô, cúng bái và thờ thần tượng, vấn đề hôn nhân, ly dị, và lễ tiệc thánh. Căn bản dạy dỗ về ân tứ Thánh Linh (12), tình yêu thương của Cơ Đốc nhân (13), ân tứ nói tiên tri và nói tiếng lạ (14), sự phục sinh (15), điều lệ và kỷ luật trong Hội thánh. Mục đích chính là nhắc nhở Hội thánh hãy tuân phục theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh là sự thông sáng và quyền năng tối thượng của Đức Chúa Trời.
Câu gốc - 1 Côrinhtô 1:10
Hỡi anh em, tôi nhân danh Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta, khuyên anh em thảy đều phải đồng một tiếng nói với nhau, chớ phân rẽ nhau ra, nhưng phải hiệp một ý một lòng cùng nhau.
Đề Tài Chính:
+1. Chỉ có Đấng Christ mới có thể tẩy sạch mọi tội lỗi và làm Cơ Đốc nhân được xứng đáng trước mặt Đức Chúa Trời. +2. Tình yêu thương không vị kỷ của Cơ Đốc nhân phải theo lẽ thật trong Ý Chúa (13). +3. Tình yêu thương thật phải được bày tỏ qua sự vâng lời Chúa, đức tin, hành động, và việc làm. +4. Đức Chúa Trời không để Cơ Đốc nhân phải chịu sự cám dỗ quá sức chịu đựng của mình. +5. Sự đoàn kết và hiệp một trong tình yêu thương anh chị em trong Chúa là do quyền năng của Đức Chúa Trời ban cho qua Chúa Jêsus Christ mà thế gian không có được. +6. Các Cơ Đốc nhân trưởng thành đôi khi cần giới hạn sự tự do của mình để làm gương tốt cho những người yếu đuối trong đức tin. +7. Cơ Đốc nhân được ban cho ân tứ Thánh Linh để làm vinh hiển nhanh Chúa, bày tỏ tình yêu thương và xây dựng Hội thánh. +8. Chúa Jêsus quan tâm đến mọi khía cạnh trong đời sống Cơ Đốc nhân, và Ngài là câu trả lời cho mọi nan đề thuộc linh của nhân loại.
Mục Lục:
1. Giới thiệu 1:1-1:9
2. Những nan đề trong Hội thánh Côrinhtô 1:10-4:21
3. Kỷ luật trong Hội thánh 5:1-6:20
4. Vấn đề hôn nhân 7:1-7:40
5. Quyền lợi căn bàn và sự tự do của Cơ Đốc nhân 8:1-11:1
6. Sự thờ phượng và ân tứ Thánh Linh 11:2-14:40
7. Vấn đề phục sinh 15:1-15:58
8. Chương trình của Phaolô và lời cuối 16:1-16:24
1 CÔRINHTÔ (Tóm Lược):
+++9 Ơn phước cho Cơ Đốc Nhân (1:1-9): "4 Tôi hằng vì anh em tạ ơn Ðức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Ðức Chúa Trời ban ơn trong Ðức Chúa Jêsus Christ; 5 vì chưng anh em đã được dư dật về mọi điều ban cho, cả lời nói và sự hiểu biết, 6 như lời chứng về Ðấng Christ đã được vững bền ở giữa anh em." (1:4-6). ++ "9 Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài đã gọi anh em được thông công với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta." (1:9). +++10 Bè phái và chia rẽ lãnh đạo (1:10 – 17). ++ "10 Hỡi Anh em, tôi nhơn danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, khuyên anh em thảy đều phải đồng một tiếng nói với nhau, chớ phân rẽ nhau ra, nhưng phải hiệp một ý một lòng cùng nhau." (1:10). +++11 Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và sự rồ dại của thế gian (1:18-31): ++ "18 Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời." (1:18). + "25 Bởi vì sự dồ dại của Đức Chúa Trời là khôn sáng hơn người ta, và sự yếu đuối của Đức Chúa Trời là mạnh hơn người ta." (1:25). + "27 Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh." (1:27), + "31 Hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa." (1:31). +++12 Lời giảng của Phaolô không dựa vào sức người nhưng vào quyền phép của Đức Chúa Trời qua Đức Thánh Linh (2:1-5): ++ "2 Vì ở giữa anh em, tôi đã quyết định không biết gì khác ngoài Đức Chúa Jêsus Christ, và Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh vào thập tự giá." (2:2). "4 Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; 5 hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời." (2:4-5). +++13 Sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Lành chỉ nhờ Đức Thánh Linh hướng dẫn và bày tỏ s(2:6-16): ++ "10 Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa. 11 Vả, nếu không phải là thần linh trong lòng người, thì ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự trong Đức Chúa Trời. 12 Về phần chúng ta, chúng ta chẳng nhận lấy thần thế gian, nhưng đã nhận lấy Thánh Linh từ Đức Chúa Trời đến, hầu cho được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời; 13 chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giải bày sự thiêng liêng." (2:10-13). +++14 Cơ Đốc Nhân yếu đuối (tánh xác thịt) được nuôi bằng sửa thuộc linh (3:1-4). +++15 Truyền giáo: Người trồng, kẻ tưới, nhưng Đức Chúa Trời làm cho lớn lên (3:5-17): ++ "7 Vậy, người trồng kẻ tưới, đều không ra gì, song Đức Chúa Trời là Đấng làm cho lớn lên." (3:7). ++ Chỉ Đấng Christ là nền Hội thánh (3:9-15): + "11 Vì, chẳng ai có thể lập một nền khác ngoài nền đã lập, là Đức Chúa Jêsus Christ." (3:11). ++ Cơ Đốc Nhân là đền thờ của Đức Chúa Trời (3:16-23): + "16 Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? 17 Vì có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ." (3:16-17). +++16 "19 Vì sự khôn ngoan đời nầy trước mặt Đức Chúa Trời là sự dại dột." (3:19), (3:18-23): ++ "23 anh em thuộc về Đấng Christ, Đấng Christ thuộc về Đức Chúa Trời." (3:23). +++17 Người quản trị nhà Chúa cách xứng đáng (4:1-13): ++ "4 Vì tôi chẳng thấy mình có điều gì đáng tội, nhưng tôi cũng không nhờ sự đó mà được xưng là công bình: Đấng xử đoán tôi, ấy là Chúa. 5 Vậy, chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến; chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh." (4:4-5). + "12 Chúng tôi dùng chính tay mình làm việc khó nhọc; khi bị rủa sả, chúng tôi chúc phước; khi bị bắt bớ, chúng tôi nhịn nhục; 13 khi bị vu oan, chúng tôi khuyên dỗ; chúng tôi giống như rác rến của thế gian, cặn bả của loài người, cho đến ngày nay." (4:12-13). +++18 "20 Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng lực." (4:20). +++19 Gương rất xấu tại Côrinhtô (5:1-8). +++20 Nhận biết tội lỗi trong nhà Chúa và nhờ cậy Chúa để giải quyết (5:9-13). +++21 Khuyên không nên kiện cáo trước mặt kẻ ngoại đạo (6:1-11): ++ "1 Khi trong anh em ai có sự nghịch cùng người khác, sao dám để cho kẻ không công bình đoán xét hơn là cho các thánh đồ? " (6:1). ++ "9 Anh em không biết rằng những kẻ không công chính sẽ chẳng được thừa hưởng vương quốc của Đức Chúa Trời sao?" (6:9, 9-11). +++22 Khuyên tránh sự ô uế (6:12-20): ++ "12 Tôi được phép làm mọi sự, những không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không làm nô lệ cho bất cứ điều gì." (6:12; 10:23). ++ "18 Hãy tránh sự dâm dục... 19 Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? 20 Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời." (6:18-20). ("Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối." - Mác 14:38) +++ 22 Lý do cho hôn nhân hoặc độc thân. Hôn nhân và ly dị ... (7:1-40). ++ "2 Song, cho được tránh khỏi mọi sự dâm dục, thì mỗi người đờn ông phải có vợ, mỗi người đờn bà phải có chồng." (7:2). ++ "7 Tôi muốn mọi người được như tôi. Nhưng mỗi người được Đức Chúa Trời ban cho ân tứ riêng, người ân tứ nầy, kẻ ân tứ khác." (7:7). +++23 Thần tượng; Của cúng: Sự nhậy cảm và làm gương tốt (8:1-13): ++ "1 Luận đến của cùng các thần tượng thì chúng ta biết mình đều có sự hay biết cả. Song sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt." (8:1). ++ "3 Nhưng nếu có một người yêu mến Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời biết người đó." (8:3). ++ "6 về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy." (8:6). ++ "9 Nhưng hãy giữ lấy, kẻo sự tự do mình làm dịp cho kẻ yếu đuối vấp phạm." (8:9). +++24 Quyền của các sứ đồ (9:1-23): ++ "11 Nếu chúng tôi đã gieo những điều thiêng liêng giữa anh em, thì việc gặt được vật chất từ anh em là việc quá đáng sao?" (8:11). ++ "14 Cũng vậy, Chúa có truyền rằng ai rao giảng Tin Lành thì được nuôi mình bởi Tin Lành." (9:14) (Mat.10:10; Luca.10:7). ++ "16 Ví bằng tôi rao truyền Tin Lành, tôi chẳng có cớ khoe mình, vì có lẽ cần buộc tôi; còn không rao truyền Tin Lành, thì khốn khó cho tôi thay. 17 Nếu tôi vui lòng làm việc đó, thì được thưởng; lại nếu tôi không vui lòng mà làm, thì cái chức vụ cũng vẫn phó thác cho tôi." (9:16-17). +++25 Chạy đua để được mão triều thiên (9:24-27): ++ "27 song tôi đãi thân thể mình cách nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi đã giảng dạy kẻ khác, mà chính mình phải bị bỏ chăng." (9:27). +++26 Bài học từ Cựu Ước (10:1-13): ++ "12 Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã. 13 Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được." (10:12-13). +++27 Tránh sự hòa đồng liên hệ đến sự thờ thần tượng (10:14-22): ++ "14 Vậy, thưa anh em quí mến, hãy xa lánh việc thờ thần tượng." (10:14). +++28 Cảnh giác về sự tự do và của cúng thần tượng (10:23-33). ++ "23 Mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm gương tốt." (10:23; 6:12). ++ "24 Chớ ai tìm lợi riêng cho mình, nhưng hãy tìm lợi ích chung cho mọi người." (10:24). ++ "31 Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm." (10:31). +++29 Khăn trùm đầu cho phụ nữ (11:1-16): ++ "3 Dầu vậy, tôi muốn anh em biết Đấng Christ là đầu mọi người; người đờn ông là đầu người đờn bà; và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ." (11:3). +++30 Cách dự tiệc thánh để vinh hiển Chúa (11:17-34): ++ Tiệc Thánh (11:23-29). ++ "26 Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến. 27 Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của Chúa cách không xứng đáng, thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa. 28 Vậy mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh uống chén ấy; 29 vì người nào không phân biệt thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự xét đoán cho mình." (11:26-29). +++31 Ân tứ thuộc linh (Đức Thánh Linh) (12:1-11): ++ "3 Vì vậy, tôi muốn anh em hiểu rằng, không một ai được Thánh Linh của Đức Chúa Trời hướng dẫn mà lại nói: "Đức Chúa Jêsus đáng nguyền rủa!" Nếu Đức Thánh Linh không hướng dẫn, thì cũng không ai xưng "Đức Chúa Jêsus là Chúa!" (12:3). ++ "4 Vả, có các sự ban cho khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Thánh Linh. 5 Có các chức vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có các việc làm khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng làm mọi việc trong mọi người." (12:4-6). ++ "7 Sự thể hiện của Thánh Linh được ban cho mỗi người, vì lợi ích chung." (12:7). +++32 Sự hiệp một của ân tứ Thánh Linh trong thân thể Đấng Christ (12:12-30). ++ "27 Anh em là thân thể của Đấng Christ, và mỗi cá nhân là một chi thể." (12:27). +++ Ân tứ, nhiệm vụ, và sự hiệp một trong Đấng Christ (12:28-31). +++33 Tình yêu Cơ Đốc Nhân (13): ++ "4 Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhơn từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5 chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6 chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. 7 Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự. 8 Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ." (13:4-8). ++ "13 Nên bây giờ còn có ba điều nầy: đức tin, sự trông cậy, tình yêu thương; nhưng điều trọng hơn trong ba điều đó là tình yêu thương." (13:13). +++34 Ân tứ nói tiếng lạ và nói tiên tri (14): ++ "1 Hãy nôn nả tìm kiếm tình yêu thương. Cũng hãy ước ao các sự ban cho thiêng liêng, nhứt là sự ban cho nói tiên tri." (14:1). ++ "4 Kẻ nói tiếng lạ, tự gây dựng lấy mình; song kẻ nói tiên tri, gây dựng cho Hội thánh." (14:4). +++35 Các ân tứ nên tôn trọng thứ tự và tôn nghiêm khi thờ phượng Chúa (14:20-40). ++ "27 Nếu có người nói tiếng lạ, thì chỉ nên hai hoặc ba người là tối đa, mỗi người nói theo thứ tự, và phải có người thông dịch. 28 Nếu không có ai thông dịch, thì người nói phải yên lặng, chỉ nói với chính mình và với Đức Chúa Trời." (14:27-29). ++ "33 Vì Đức Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự hổn loạn, nhưng của sự trật tự (hòa bình)." (14:33). ++ "39 Ấy vậy, hỡi anh em, hãy trông mong ơn nói tiên tri, và đừng ngăn trở chi về điều nói tiếng lạ. 40 Nhưng mọi sự đều nên làm cho phải phép và theo thứ tự." (14:39-40). +++36 Chứng nhân cho sự Phục Sinh của Chúa Jêsus (14:1-11): ++ "2 Nhờ Tin Lành đó anh em được cứu rỗi, nếu anh em giữ vững ... 3 Trước hết, tôi đã truyền đạt cho anh em điều chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội lỗi các ngươi theo lời Kinh Thánh. 4 Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài đã sống lại, theo lời Kinh Thánh; 5 và Ngài đã hiện ra cho Sêpha, rồi cho mười hai sứ đồ. 6 Sau đó, cùng một lúc, Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em, phần lớn trong số nầy hiện vẫn còn sống, nhưng có vài người đã ngủ rồi. 7 Ngài cũng hiện ra cho Giacơ, sau đó cho tất cả các sứ đồ. 8 Sau hết, Ngài cũng hiện ra cho tôi như cho một thai sinh non vậy. " (15:2-8). +++37 Sự quan trọng và cần thiết Chúa Jêsus Phục Sinh (15:12-34): ++ "14 Nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì sự giảng dạy của chúng tôi ra luống công, và đức tin anh em cũng vô ích." (15:14). ++ "16 Vì nếu kẻ chết chẳng sống lại, thì Đấng Christ cũng đã chẳng sống lại nữa. 17 Và nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì đức tin anh em cũng vô ích, anh em còn ở trong tội lỗi mình. 18 Vậy, những kẻ ngủ trong Đấng Christ cũng phải hư mất đời đời. 19 Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết." (15:16-19). ++ "26 Kẻ thù bị hủy diệt sau cùng, tức là sự chết." (15:26). ++ "33 Anh em chớ mắt lừa: "Bạn bè xấu làm hư tính nết tốt." (15:33), (Êsai 22:13). +++38 Thân thể mới (thiêng liêng) khi phục sinh (15:35-40): ++ "42 Sự sống lại của kẻ chết cũng như vậy. Thân thể đã gieo ra là hay hư nát, mà sống lại là không hay hư nát; 43 đã gieo ra là nhục, mà sống lại là vinh; đã gieo ra là yếu, mà sống lại là mạnh; 44 đã gieo ra là thể huyết khí, mà sống lại là thể thiêng liêng. Nếu đã có thể huyết khí, thì cũng có thể thiêng liêng." (15:42-44). ++ "45 Như có lời chép: "Người đầu tiên là Ađam đã trở nên một hữu thể sống (Xuất 2:7), nhưng Ađam sau cùng (Chúa Jêsus) là thần linh ban sự sống." 46 Không phải con người thuộc linh đến trước, mà là con người tự nhiên, sau đó là con người thuộc linh. 47 Người đầu tiên từ đất mà ra, thì thuộc về đất, Người thứ hai từ trời mà đến. 48 Những người thuộc về đất, thì giống như người ra từ đất, những người thuộc về trời, thì giống như Đấng đến từ trời. 49 Như chúng ta đã mang hình ảnh của người ra từ đất, thì chúng ta cũng mang hình ảnh của Đấng đến từ trời." (15:45-49). +++39 Sự biến hóa và thắng trận sau cùng (15:50-59): ++ "56 Cái nọc sự chết là tội lỗi, sức mạnh tội lỗi là luật pháp. 57 Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta." (15:56-57). ++ "58 Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu." (15:58). +++40 Dâng hiến để giúp đở con dân Chúa (16:1-4). +++41 Chào thăm và Chúc phước (16:5-24): ++ "23 Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Jêsus Christ ở với anh em! 24 Lòng yêu thương của tôi ở với hết thảy anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ." (16:23-24).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 47 - 2 CÔRINHTÔ (2 Corinthians)
Mục đích: Để chứng minh chức vụ sứ đồ và các mục vụ truyền giáo cho người ngoai của Phaolô. Để cảnh cáo về các giáo sư giả và đạo giả đang tìm cách xâm nhập, cám dỗ và lung lạc Hội thánh.
Tác giả: Sự đồ Phaolô (Paul)
Ngày viết: Khoảng năm 55-57 A.D. Viết cho tín hữu tại Côrinhtô và Cơ Đốc nhân khắp nơi.
Bối Cảnh:
Đây là thư tín thứ hai của Phaolô gởi cho Hội thánh Côrinhtô. Trong thư tín thứ nhất Phaolô đã dùng nhiều lời mạnh mẽ để nhắc nhở Hội thánh, và phần đông đã nhờ sự cầu nguyện và Đức Thánh Linh nhận biết được lẽ thật và ăn năn tội. Nhưng trong Hội thánh còn một số ít người và các giáo sư giả vẫn tìm cách chống đối và thách thức chức vụ sứ đồ của Phaolô, nên Phaolô phải viết thư tín thứ hai để chứng minh sự kêu gọi của Chúa cho chức vụ sứ đồ của mình và nhắc nhở Hội thánh hãy trung tín với lẽ thật Kinh Thánh, tránh xa tôi lỗi, các giáo sư giả và đạo giả.
Những Điểm Đặc Biệt:
Đây là thư tín rất cá nhân của Phaolô gởi cho Hội thánh, nói lên tâm tình, niềm hy vọng và tình yêu thương của ông đối với Hội thánh. Ông viết chi tiếc về sự kêu gọi, chức vụ sứ đồ của mình, và những sự khổ nạn phải gánh chịu để hầu việc Chúa; kể cả cái dầm trong thịt để giúp ông có sự khiêm nhường (12:7). Ông cũng nhắc nhở Hội thánh trong sự dâng hiến rời rộng để giúp đở các Hội thánh thiếu thốn nhiều nơi. Ông ca ngợi niềm vui và ơn phước của sự dâng hiến cách tự nguyện (9).
Câu gốc - 2 Côrinhtô 5:20
Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Ðấng Christ, cũng như Ðức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh Ðấng Christ mà nài xin anh em: hãy hòa thuận lại với Ðức Chúa Trời.
Đề Tài Chính:
+1. Sự công bình thánh sạch của Chúa có quyền năng hơn sự cám dỗ và đường lối tội lỗi của ma quỉ. +2. Được kêu gọi và được ban ơn tứ để hầu việc Chúa là ân điển lớn nhất của Cơ Đốc nhân. +3. Phải cẩn thận các giáo sư giả, không phải ai trong chức vụ cũng là người thật sự thuộc vể Chúa và hầu việc Chúa. +4. Lẽ thật và lời thật của người trung tín với Chúa nhiều khi gặp nhiều chống đối và bắt bớ của thế gian. +5. Nếu ai muốn kheo mình ... hãy kheo mình trong Chúa (10:17). +6. "Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy" (5:7).
Mục Lục:
1. Giới thiệu 1:1-1:11
2. Mục vụ và đức tin hầu việc Chúa của Phaolô 1:12-7:16
3. Khuyến khích hầu việc Chúa và dâng hiến 8:1-9:15
4. Chính Chúa Jêsus Christ đã kêu gọi và ban quyền sứ đồ đặc biệt cho Phaolô 10:1-13:10
5. Lời khuyên cuối 13:11-13:14
2 CÔRINHTÔ (Tóm Lược):
+++7 Sự an ủi trong Đấng Christ (1:3-11): ++ "3 Chúc tạ Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự yên ủi. 4 Ngài yên ủi chúng tôi trong mọi sự khốn nạn, hầu cho nhơn sự yên ủi mà Ngài đã yên ủi chúng tôi, thì chúng tôi cũng có thể yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ gặp!" (1:3-4). +++8 "20 Vì chưng cũng như các lời hứa của Đức Chúa Trời đều là "Phải" trong Ngài cả, ấy cũng bởi Ngài mà chúng tôi nói "A-men," làm sáng danh Đức Chúa Trời." (1:20). +++9 Cơ Đốc Nhân tha thứ: ++ "11 hầu đừng để cho quỉ Sa-tan thắng chúng ta, vì chúng ta chẳng phải là không biết mưu chước của nó." (2:11). +++10 "17 Vả, chúng tôi chẳng giả mạo lời của Đức Chúa Trời (vì lợi riêng) như nhiều kẻ khác; nhưng chúng tôi lấy lòng chân thật, theo như đạo từ Đức Chúa Trời đến thể nào, thì giảng ra thể ấy trước mặt Đức Chúa Trời, trong Đấng Christ." (2:17). +++11 Quyền năng và kết quả của Tin Lành đều đến từ Chúa (3:1-6): ++ "3 Vả, rõ thật rằng anh em là bức thơ của Đấng Christ, bởi chức vụ chúng tôi viết ra, chẳng phải viết bằng mực, nhưng bằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời hằng sống, chẳng phải viết trên bảng đá, nhưng trên bảng thịt, tức là trên lòng anh em." (3:3). ++ "4 Nầy là sự tin chắc của chúng tôi nhờ Đấng Christ mà có trong Đức Chúa Trời: 5 không phải tự mình chúng tôi có tài năng mà nghĩ việc gì như bởi chính mình chúng tôi, nhưng tài năng của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời; 6 và ấy là Ngài đã ban tài năng cho chúng tôi giúp việc giao ước mới, chẳng phải giao ước về chữ, bèn là giao ước về Thánh Linh; vì chữ làm cho chết, song Thánh Linh làm cho sống." (3:4-6). +++12 Chức vụ về Tin lành (Giao Ước Mới) hơn chức vụ về luật pháp (Giao Ước Cũ) (3): ++ Mục vụ đến từ Đức Thánh Linh vinh danh đời đời (3:7-18): ++ "17 Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng ở đó." (3:17). +++13 Chúa Jêsus là trọng tâm của Tin Lành (4:1-6): ++ "3 Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất cho những kẻ hư mất, 4 cho những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời. 5 Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Chúa; và vì tình yêu mến Đức Chúa Jêsus mà chúng tôi xưng mình là tôi tớ của anh em. 6 Vì Đức Chúa Trời, là Đấng có phán: "Sự sáng phải soi từ trong sự tối tăm! (Sáng.1:3) đã làm cho sự sáng Ngài chói lòa trong lòng chúng tôi, đặng sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời soi sáng nơi mặt Đức Chúa Jêsus Christ." (4:3-6). +++14 Quyền phép của đức tin trong mọi thử thách (4:7-15): ++ "8 Chúng tôi bị chèn ép mọi cách, nhưng không bị nghiền nát; bị bối rối, nhưng không tuyệt vọng; 9 bị bắt bớ, nhưng không bị bỏ rơi; bị đánh gục, nhưng không bị tiêu diệt." (4:8-9). ++ "13 Vì chúng tôi có đồng một lòng tin, y như lời Kinh Thánh rằng: "Ta đã tin, cho nên ta nói" (TThiên 116:10), cũng vậy, chúng tôi tin, cho nên mới nói, 14 Vì chúng tôi biết rằng Đấng đã khiến Chúa là Đức Chúa Jêsus sống lại, cũng sẽ khiến chúng tôi sống lại với Chúa Jêsus, và đem chúng tôi cùng với anh em vào trong sự hiện diện của Ngài." (4:13-14). ++ "15 Bởi chưng mọi điều đó xảy đến vì cớ anh em, hầu cho ân điển rải ra cách dư dật, khiến sự tạ ơn nơi nhiều người hơn cũng dư dật, mà thêm vinh hiển cho Đức Chúa Trời." (4:15). +++15 Sự không thấy được là đời đời (4:16-18): ++ "16 Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. 17 Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên, 18 bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy." (4:16-18). +++16 Chổ ở tại trên trời (thiên đàng) (5:1-10): ++ "1 Vả, chúng ta biết rằng nếu nhà tạm của chúng ta dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra." (5:1). ++ "7 Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy." (5:7). +++17 Chức vụ về sự giảng hòa - sứ giả của tình yêu Chúa: ++ "17 Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới." (5:17). ++ Hòa thuận lại với Đức Chúa Trời: ++ "18 Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta. 19 Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi. 20 Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh Đấng Christ mà nài xin anh em: hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời. 21 Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời." (5:18-21). +++18 Sự không hòa hợp (6:14-18): ++ "14 Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng nhau được chăng?" (6:14). +++19 "1 Thưa anh em yêu dấu, vì có những lời hứa nầy, chúng ta hãy thanh tẩy chính mình khỏi mọi vết nhơ của thể xác và tâm linh, và hãy làm cho sự thánh hóa được trọn vẹn trong niềm kính sợ Đức Chúa Trời." (7:1). +++20 Sự ăn năn đem đến niềm vui và khích lệ (7:2-16): ++ "10 Vì sự đau buồn theo ý Đức Chúa Trời sinh ra sự ăn năn để được cứu rỗi, điều nầy không có gì phải hối tiếc, nhưng sự đau buồn theo thế gian, thì dẫn đến sự chết." (7:10). +++21 Cơ Đốc Nhân dâng hiến và từ thiện (8:1-24): ++ "Vậy thì, như anh em đã vượt trội trong mọi việc: Đức tin, lời nói, tri thức, lòng nhiệt thành, và tình yêu thương đối với chúng tôi, thì anh em cũng nên vượt trội trong việc từ thiện nầy." (8:7). +++22 Làm việc từ thiện cách vui lòng (9:6-15): ++ "6 Hãy nhớ rằng: Ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều. 7 Mỗi người nên quyên góp tùy theo lòng mình đã định, không miễn cưỡng hoặc do ép buộc, vì Đức Chúa Trời yêu mến người dâng hiến cách vui lòng. 8 Đức Chúa Trời có quyền ban cho anh em đủ mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa để làm các thứ việc lành. (8:6-8). ++ "11 Anh em sẽ được phong phú trong mọi sự để làm mọi việc từ thiện, để qua chúng ta người ta sẽ cảm tạ Đức Chúa Trời. 12 Vì sự trợ giúp nầy, không những đáp ứng nhu cầu các thánh đồ mà còn khiến nhiều người cảm tạ Đức Chúa Trời nữa. 13 Việc trợ giúp nầy là bằng chứng để họ tôn vinh Đức Chúa Trời, vì sự vâng phục Thánh Linh của Đấng Christ mà anh em đã bày tỏ, và vì sự trợ giúp rộng rãi của anh em đối với họ và với mọi người. 14 Còn họ sẽ cầu nguyện cho anh em và quí mến anh em, vì ân điển kỳ diệu Đức Chúa Trời đã ban cho anh em." (9:11-14). ++ "15 Cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự ban tặng không thể tả của Ngài." (9:15). +++23 Quyền năng Đức Chúa Trời là sứ mạnh Cơ Đốc Nhân (10:1-11): ++ "3 Chúng tôi dù sống trong thân xác, nhưng không chiến đấu theo cách xác thịt. 4 Vũ khí chúng tôi dùng để chiến đấu không phải là những vũ khí xác thịt, nhưng là quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để phá đổ các thành lũy, 5 đánh hạ các lý luận và mọi sự kiêu căng chống lại sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và buộc mọi ý tưởng phải thuận phục Đấng Christ." (10:3-5). ++ "17 Nhưng ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa." (10:17). +++24 Sự phán xét các mục vụ giả tạo (11:1-15): ++ "13 Vì những kẻ như vậy là sứ đồ giả, những kẻ làm công lừa dối, mạo làm sứ đồ của Đấng Christ. 14 Nào có lạ gì, ngay cả Satan cũng mạo làm thiên sứ sáng láng. 15 Vì vậy, những đầy tớ của nó mạo làm đầy tớ của sự công bình, thì cũng chẳng lạ gì. Kết cuộc chúng sẽ nhận hậu quả xứng với việc chúng đã làm." (11:13-15). +++25 Sự khiêm nhường, việc làm và sự gian khổ của Phaolô (11:16-33): ++ "28 Chưa kể những việc khác, hằng ngày tôi phải lo lắng về tất cả các Hội Thánh." (11:28). +++26 Viễn tượng về nước thiên đàng: ++ "2 Tôi biết một người trong Đấng Christ (Phaolô!), cách đây mười bốn năm đã được cất lên đến tầng trời thứ ba (hoặc trong thân thể, hoặc ngoài thân thể người, tôi không biết, có Đức Chúa Trời biết)." (12:2). +++27 Cái dằm trong xác thịt: ++ "7 Để giữ tôi khỏi kiêu ngạo về những mặc khải diệu kỳ nầy, một cái dằm đã đâm vào xác thịt tôi, một sứ giả của Satan đã đánh tôi, để tôi đừng kiêu ngạo. 8 Đã ba lần tôi cầu nguyện xin Chúa cho nó lìa xa tôi. 9 Nhưng Ngài phán: "Ân điển Ta đây đủ cho con, vì sức mạnh của Ta trở nên trọn vẹn trong sự yếu đuối." Vì vậy, tôi rất vui mừng tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi." (12:7-9). +++28 Nhắc nhở kẻ có tội (13:1-10): ++ "4 Mặc dù Ngài đã chịu đóng đinh vào thập tự giá trong tình trạng yếu đuối, nhưng Ngài đang sống với quyền năng của Đức Chúa Trời. Chúng tôi cũng vậy, dù yếu đuối trong Ngài, nhưng nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời, chúng tôi phải sống với Ngài, để cư xử với anh em. 5 Hãy thử tra xét chính mình để xem anh em còn ở trong đức tin chăng. Hãy tự kiểm chứng mình đi. Anh em không nhận biết rằng Đức Chúa Jêsus đang ở trong anh em sao? Trừ phi anh em không đạt tiêu chuẩn." (13:4-5). +++29 "13 Nguyền xin ân điển của Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ, tình yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự tương giao của Đức Thánh Linh ở với tất cả anh em!" (13:14).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 48 - GALATI (Galatians)
Mục đích: Để chứng minh những sai lầm về sự dạy dỗ phải vâng giữ luật pháp mới được cứu, và kêu gọi Cơ Đốc nhân hãy trung tín với sự dạy dỗ của Đấng Christ, nhờ đó được ban cho sự tự do trong ân điển.
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 49 - 50 A.D., vìết từ Antioch, trước khi hội đồng tại Giêrusalem
Bối Cảnh:
Đề tài có nhiều thắc mắc và được tranh luận nhiều nhất trong các Hội thánh đầu tiên với nhiều tín hữu mới cũ là sự khác biệt và cách áp dụng ân điển qua Đấng Christ và luật pháp của Cựu Ước. Đây là một nan đề quan trọng trong các Hội thánh mới với nhiều tín hữu mới tin Chúa và những tín hữu người Giuđa. Phaolô đã viết thư tín để giải thích cách rõ ràng sự khác biệt và cách áp dụng. Vấn đề này đã được các lãnh đạo hội thánh bàn thảo và quyết định cách chính thức qua hội đồng tại Giêrusalem.
Những Điểm Đặc Biệt:
Galati là thư tín viết cho mọi Cơ Đốc nhân chứ không phải chỉ một nhóm người đặc biệt nào trong vùng Galati.
Câu gốc: Galati 5:1
Ðấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa.
Đề Tài Chính:
+1. Luật pháp được ban cho để chỉ rõ tội lỗi của con người. +2.. Sống theo luật pháp sẽ bị tù túng ... nhưng sống theo đức tin trong ân điển sẽ được tự do (3:10-29). +3. Cơ Đốc nhân không bị lệ thuộc bởi luật pháp ... Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do (3:22-27). +4. Chớ lấy sự tự do trong Đấng Christ là cái cớ để tiếp tục phạm tội (5:13). +5. Đức Thánh Linh là quyền năng giúp cho Cơ Đốc nhân chiến thắng tội lỗi; bông trái Thánh Linh (5:16-26).
Mục Lục:
1. Chỉ có một Tin Lành (Kinh Thánh) duy nhất 1:1-1:10.
2. Sứ đồ Phaolô được Chúa kêu gọi và được các sứ đồ công nhận 1:11-2:10.
3. Giải thích ân điển được ban cho qua đức tin nơi Đấng Christ 2:11-4:31.
4. Tự do trong Đấng Christ và tội lỗi của xác thịt 5:1-5:26.
5. Nhịn nhục, khiêm nhường, gieo và gặt, phép cắt bì 6:1-6:15.
6. Chào biệt và chúc phước 6:16-18.
GALATI (Tóm Lược):
+++5 Chào thăm: ++ "3 Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Ðức Chúa Trời, là Cha, và bởi Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta, 4 là Ðấng phó mình vì tội lỗi chúng ta, hầu cho cứu chúng ta khỏi đời ác nầy, y theo ý muốn Ðức Chúa Trời, là Cha chúng ta, 5 nguyền Ngài được vinh hiển đời đời vô cùng! A-men." (1:3-5). +++6 Chỉ có một Tin Lành Đấng Christ mà thôi (1:6-10): + "8 Nhưng nếu có ai, hoặc chính chúng tôi, hoặc thiên sứ trên trời, truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin Lành chúng tôi đã truyền cho anh em, thì người ấy đáng bị a-na-them! (xử phạt đời đời) (1:8). "+10 Còn bây giờ, tôi muốn được lòng loài người hay Đức Chúa Trời? Có phải tôi đang cố gắng làm đẹp lòng loài người không? Nếu tôi vẫn cố gắng làm đẹp lòng loài người, thì tôi chẳng phải là đấy tớ của Đấng Christ." (1:10). +++7 Tin Lành được (Phaolô) giảng dạy đến từ Đức Chúa Jêsus Christ (đã chọn ông làm sứ đồ) (1:11-24): ++ "+11 Hỡi anh em, tôi nói cho anh em rằng, Tin Lành mà tôi đã truyền, chẳng phải đến từ loài người đâu; +12 vì tôi không nhận và cũng không học Tin Lành đó với một người nào, nhưng đã nhận lấy bởi sự tỏ ra của Ðức Chúa Jêsus Christ." (1:11-12). +++8 Hội Thánh Giêrusalem nhìn nhận chức sứ đồ của Phaolô (2:1-10). +++9 Phaolô bênh vực đức tin của mình (2:11-21). ++ "+16 Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Ðức Chúa Jêsus Christ, nên chính chúng tôi đã tin Ðức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Ðấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp." (2:16). ++ "+19 Vả, bởi luật pháp, tôi đã chết cho luật pháp, để sống cho Ðức Chúa Trời. +20 Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ðấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Ðấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi. +21 Tôi không muốn làm cho ân điển Ðức Chúa Trời ra vô ích; vì nếu bởi luật pháp mà được sự công bình, thì Ðấng Christ chịu chết là vô ích." (2:19-21). +++10 Chúa ban Đức Thánh Linh cho ai có lòng tin (3:1-5): ++ "3 Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Ðức Thánh Linh, nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?" (3:3). +++11 Được xưng công bình bởi đức tin, không bởi luật pháp (3:6-18): ++ "6 Như Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, thì đã kể là công bình cho người (Sáng 15:6), 7 vậy anh em hãy nhận biết rằng những kẻ có đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham. 8+ Kinh Thánh cũng biết trước rằng Ðức Chúa Trời sẽ xưng dân ngoại là công bình bởi đức tin, nên đã rao truyền trước cho Áp-ra-ham tin lành nầy: Các dân sẽ nhờ ngươi mà được phước (Sáng 12:3;18:18;22:18). +9 Ấy vậy, ai tin thì nấy được phước với Áp-ra-ham, là người có lòng tin." (3:6-9). ++ "+11 Vả lại chẳng hề có ai cậy luật pháp mà được xưng công bình trước mặt Ðức Chúa Trời, điều đó là rõ ràng lắm, vì người công bình sẽ sống bởi đức tin. (Habacút 2:4) +12 Vả, luật pháp vốn không phải đồng một thứ với đức tin, nhưng luật pháp có chép rằng: Người nào vâng giữ các điều răn thì sẽ nhờ đó mà sống (Lêvi 18:5). +13 Ðấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp, bởi Ngài đã nên sự rủa sả vì chúng ta, vì có lời chép: Ðáng rủa thay là kẻ bị treo trên cây gỗ (Phục 21:23), +14 hầu cho phước lành ban cho Áp-ra-ham nhờ Ðức Chúa Jêsus Christ mà được rải khắp trên dân ngoại, lại hầu cho chúng ta cậy đức tin mà nhận lãnh Ðức Thánh Linh đã hứa cho. Lời hứa của Đức Chúa Trời có trước luật pháp." (3:11-14). +++12 Luật pháp được ban cho để dẫn đến Đấng Christ (3:19-25): ++ "+22 Nhưng Kinh Thánh tuyên bố mọi sự đều bị nhốt dưới quyền lực tội lỗi, để bởi đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ, lời hứa được ban cho những kẻ tin. +23 Trước khi đức tin chưa đến, chúng ta bị nhốt dưới sự canh giữ của luật pháp mà chờ đức tin phải bày ra. +24 Ấy vậy, luật pháp đã như thầy giáo đặng dẫn chúng ta đến Ðấng Christ, hầu cho chúng ta bởi đức tin mà được xưng công bình." (3:22-24). +++13 Ân điển được ban cho con cái Chúa, sự hiệp một trong Chúa (3:26-29): ++ "+26 Vì chưng anh em bởi tin Ðức Chúa Jêsus Christ, nên hết thảy đều là con Ðức Chúa Trời. +27 Vả, anh em thảy đều chịu phép báp tem trong Ðấng Christ, đều mặc lấy Ðấng Christ vậy. +28 Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Ðức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một. +29 Lại nếu anh em thuộc về Ðấng Christ, thì anh em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa." (3:26-29). +++14 Đức Thánh Linh làm chứng chúng ta là con cái Chúa (4:1-7): ++ "+6 Lại vì anh em là con, nên Ðức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha! +7 Dường ấy, ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con; và nếu ngươi là con, thì cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Ðức Chúa Trời." (4:6-7). +++15 Hội Thánh và luật lệ (phong tục) (4:8-20): ++ "-8 Xưa kia, anh em chẳng biết Ðức Chúa Trời chi hết, thì làm tôi các thần (người, vật,...) vốn không phải là thần. +9 Nhưng hiện nay anh em biết Ðức Chúa Trời lại được Ðức Chúa Trời biết đến nữa, sao còn trở hướng về lề thói hèn yếu nghèo nàn đó mà suy phục nữa ư?" ++ "+16 Tôi lấy lẽ thật bảo anh em, lại trở nên thù nghịch của anh em sao?" (4:16). +++16 Hai lời hứa tượng trưng qua hình bóng của hai người con Ápraham (4:21-31). ++ "21 Hãy nói cho tôi, anh em là kẻ ưa phục dưới luật pháp, há không nghe luật pháp sao? 22 Vì có chép rằng Áp-ra-ham có hai con trai: một là con của người nữ tôi mọi, một là con của người nữ tự chủ. 23 Nhưng con của người nữ tôi mọi sanh ra theo xác thịt, con của người nữ tự chủ sanh ra theo lời hứa." (4:21-23). +++17 Sự tự do trong Đấng Christ (5:1-15): ++ "+1 Ðấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa." (5:1). ++ "+4 Anh em thảy đều muốn cậy luật pháp cho được xưng công bình, thì đã lìa khỏi Ðấng Christ, mất ân điển rồi. +5 Về phần chúng ta, ấy là bởi đức tin và nhờ Thánh Linh mà chúng ta được nhận lãnh sự trông cậy của sự công bình. 6+ Vì trong Ðức Chúa Jêsus Christ, cái điều có giá trị, không phải tại chịu phép cắt bì hoặc không chịu phép cắt bì, nhưng tại đức tin hay làm ra bởi sự yêu thương vậy." (5:4-6). ++ "+13 Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau. +14 Vì cả luật pháp chỉ tóm lại trong một lời nầy: "Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình." (Lêvi 19:18). +15 Nhưng nếu anh em cắn nuốt nhau, thì hãy giữ, kẻo kẻ nầy bị diệt mất bởi kẻ khác. (5:14-15). +++18 Chiến tranh giữa thuộc linh và xác thịt (5:16-18). ++ "+16 Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt. +17 Vì xác thịt có những điều ưa muốn trái với những điều của Thánh Linh, Thánh Linh có những điều ưa muốn trái với của xác thịt; hai bên trái nhau dường ấy, nên anh em không làm được điều mình muốn làm. +18 Nhưng, ví bằng anh em nhờ Thánh Linh chỉ dẫn, thì chẳng hề ở dưới luật pháp." (5:16-18). +++19 Những việc làm tội lỗi của xác thịt (5:19-21). +++20 Trái Thánh Linh (5:22-26): ++ "22+ Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: 23 không có luật pháp nào cấm các sự đó." (5:22-23). ++ +24 Vả, những kẻ thuộc về Ðức Chúa Jêsus Christ đã đóng đinh xác thịt với tình dục và dâm dục mình trên thập tự giá rồi. +25 Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống, thì cũng hãy bước theo Thánh Linh vậy. +26 Chớ tìm kiếm danh vọng giả dối mà trêu chọc nhau và ghen ghét nhau." (5:24-26). +++21 Nhắc nhở và giúp đở nhau trung tín với Chúa (6:1-5). ++ "+1 Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Ðức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng. +2 Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Ðấng Christ." (6:1-2). +++22 Gieo và Gặt (6:6-7): ++ "+6 Kẻ nào mà người ta dạy đạo cho, phải lấy trong hết thảy của cải mình mà chia cho người dạy đó. +7 Chớ hề dối mình; Ðức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy. +8 Kẻ gieo cho xác thịt, sẽ bởi xác thịt mà gặt sự hư nát; song kẻ gieo cho Thánh Linh, sẽ bởi Thánh Linh mà gặt sự sống đời đời. +9 Chớ mệt nhọc về sự làm lành, vì nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ chúng ta sẽ gặt. +10 Vậy, đang lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho anh em chúng ta trong đức tin." (6:7-10). +++23 Chỉ kheo mình về thập tứ giá Đấng Christ (6:11-16). ++ "+14 Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy! +15 Vì điều yếu cần, chẳng phải sự chịu cắt bì, hay là sự chẳng chịu cắt bì, bèn là trở nên người mới." (6:14-15). ++ "+18 Hỡi anh em, nguyền xin ân điển của Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta ở với tâm thần anh em! A-men." (6:18).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 49 - ÊPHÊSÔ (Ephesians)
Mục đích: Xây dựng đức tin Cơ Đốc cho các tín hữu tại Êphêsô và Cơ Đốc nhân khắp nơi. Giải thích mục đích của Hội thánh là thân thể của Đấng Christ.
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 60 A.D., khi Phaolô bị tù tại Rôma.
Bối Cảnh:
Thư tín Galati được viết không phải để chống lại những sự dạy dỗ của đạo lạc trong Hội thánh, nhưng để gây dựng và khuyến khích đức tin cho Hội thánh trong vùng và Cơ Đốc nhân khắp nơi. Phaolô đã xây dựng và làm việc với Hội thánh Êphêsô hơn ba năm nên ông rất gần gũi với họ. Phaolô đã hội họp với các trưởng lão của Hội thánh Êphêsô tại Milê (Công Vụ 20:17-38). Đây là buổi họp để chia tay trong sự nhớ thương và buồn bả, vì Phaolô báo cho họ biết sẽ tiếp tục công việc truyền giáo và có thể không gặp lại họ nữa. Thư này, Phaolô đã nhờ Tichicơ trao lại cho Hội thánh (6:21-22).
Những Điểm Đặc Biệt:
Phaolô đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả cá tánh của "Hội thánh Chúa Jêsus" như; thân thể, đền thờ, những bí mật, người mới, nàng dâu, và người lính. Đây là thư tín được phổ biến rất rộng rãi trong các Hội thánh đầu tiên.
Câu gốc: Êphêsô 4:4-7
4 Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5 chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báp tem; 6 chỉ có một Ðức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người. 7 Nhưng, đã ban ân điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Ðấng Christ.
Đề Tài Chính:
+1. Đức Thánh Linh bảo vệ Cơ Đốc nhân qua đức tin thật nơi Chúa. +2. Thập tự giá và đức tin nơi Đấng Christ giúp chúng ta hòa thuận với Đức Chúa Trời (2:16, 3:12). +3. Hội thánh là thân thể Đấng Christ ... được dùng truyền bá lẽ thật của Tin Lành để cứu rỗi tội nhân. +4. Chúa đã ban mọi ân điển và ân tứ để giúp Cơ Đốc nhân và Hội thánh chiến thắng tội lỗi và sự tấn công của ma quỉ. +5. Sức con người khổng thể địch lại quyền lực của ma quỉ ... hãy mặc lấy áo giáp và khí giới Chúa ban để được bảo vệ và ban cho quyền năng (6:10-20). +6. Nếu Cơ Đốc nhân được mặc khải về sự kêu gọi trong Đấng Christ, đời sống họ sẻ được đổi mới.
Mục Lục:
1. Chào thăm. 1:1-1:2
2. Địa vị của Cơ Đốc nhân trong Đấng Christ. 1:3-3:21
3. Sự hiệp một và sự thánh hóa của Hội thánh. 4:1-5:21
4. Mối liên hệ trong Đấng Christ. 5:22-6:9
5. Chiến tranh thuộc linh. 6:10-6:20
6. Lời cuối. 6:21-6:24
ÊPHÊSÔ (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 50 - PHILÍP (Philippians)
Mục đích: Cám ơn Hội thánh Philíp đã giúp đở và dâng hiến rời rộng cho công việc Chúa. Khuyến khích và nâng đở đức tin. Lẽ thật và niềm vui thật chỉ đến từ đức tin nơi Chúa Jêsus.
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 61 A.D. Viết từ ngục tù tại Rôma.
Bối Cảnh và Những Điểm Đặc Biệt:
Phaolô và các bạn đồng hành thành lập Hội thánh tại Philíp trên chuyến truyền giáo lần thứ hai (Công Vụ 16:11-40). Đây là Hội thánh đầu tiên tại vùng Âu Châu. Hội thánh Philíp đã gởi quà cho Phaolô khi ông bị tù tại Rôma (4:18). Ông viết thư để cám ơn Hội thánh Philíp và khuyến khích đức tin họ.
Câu gốc: Philíp 4:4
Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại nói nữa: hãy vui mừng đi.
Đề Tài Chính:
+1. Người bỏ cuộc sẽ không thành công ... người thành công sẽ không bỏ cuộc. +2. Dầu người hầu việc Chúa thật hay giả, không quan trọng bằng lẽ thật của Tin Lành được truyền giảng cho mọi người (1:15-18). +3. "Hãy có đồng một tâm tình như Ðấng Christ" (2:5). +4. Hãy quên quá khứ và luôn hướng về tương lai theo sự kêu gọi của Đấng Christ (3:14). +5. Chớ lo phiền nhưng hãy luôn cầu nguyện để được bình an (4:6-7). +6. "Tôi làm được mọi sự nhờ Ðấng ban thêm sức cho tôi" (4:13). +7. Những gì đi vào tư tưởng chúng ta sẽ trở ra thành hành động. +8. Đức Chúa Trời luôn chiến thắng. 6. Niềm vui thật và muôn đời chỉ đến từ mối liên hệ với Chúa Jêsus. +9. Cơ Đốc nhân gặp nhiều thử thách và nan đề, nhưng quyền năng của Chúa Jêsus sẽ giúp vượt qua. +10. Cơ Đốc nhân không có cớ để khoe mình, chỉ theo gương Chúa Jêsus.
Mục Lục:
1. Phaolô cầu nguyện cho Hội thánh Philíp 1:1-1:11
2. Hoàng cảnh tù đày và xiền xích của Phaolô đã giúp cho Tin Lành được tấn tới 1:12-1:26
3. Tình yêu thương nhân loại của Đấng Christ là tấm gương cho Phaolô 1:27-2:18
4. Lời dạy bảo và nhắn nhủ của Phaolô cho Timôthê và Épbaphôđích 2:19-2:30
5. Sự thông sáng và bình an trong Đấng Christ không gì sánh bằng 3:1-4:20
6. Lời chào biệt 4:21-4:23
PHILÍP (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 51 - CÔLÔSE (Colossians)
Mục đích: Lời khuyên dạy giúp chống lại những sai lầm trong Hội thánh. Đấng Christ và Lời Chúa là đầy đủ và duy nhất cho đức tin của Cơ Đốc nhân.
Tác giả: Sừ đồ Phaolô.
Ngày viết: Khoảng năm 60 A.D. Khi Phaolô bị tù tại Rôma.
Bối Cảnh:
Phaolô chưa hề đến Hội thánh Côlôse -- Có bằng chứng cho thấy Hội thánh Côlôse đã được thành lập bởi Êphápra (1:7; 4:12) và những người tin Chúa qua các cuộc truyền giáo của Phaolô. Nhưng Hội thánh đang gặp khó khăn qua sự xâm nhập bởi những tà thuyết từ các tôn giáo thờ thần tượng, các học thuyết và triết lý với ý định hoà lẫn với sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Phaolô chỉ rõ những sai lầm và bảo đảm Kinh Thánh là đầy đủ và duy nhất cho Hội thánh của Đấng Christ.
Những Điểm Đặc Biệt:
Đấng Christ và Lời Chúa có thẩm quyền trên hết, duy nhất và đầy đủ cho đức tin. Tín hữu Côlôse cũng có chung một nan đề về đạo giả với tín hữu Êphêsô, có lẽ vì thư tín được viết cùng một khoảng thời gian, nhưng cũng có nhiều khó khăn khác biệt.
Câu gốc: Côlôse 2:9-10
9 Vì sự đầy dẫy của bản tánh Ðức Chúa Trời thảy đều ở trong Ðấng ấy như có hình. 10 Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự, vì Ngài là đầu của mọi quyền cai trị và mọi thế lực.
Đề Tài Chính:
+1. Đấng Christ là duy nhất và đầy đủ cho đức tin và đời sống đạo của Cơ Đốc nhân. +2. Đấng Christ là đầu Hội thánh (1:18). +3. Hình ảnh toàn thiện của Đức Chúa Trời vô hình được phản ảnh qua Đấng Christ. +4. Các triết lý không làm vinh hiển Đấng Christ không phải đến từ Chúa. +5. Đừng để các triết lý và các lời truyền khẩu bắt phục chúng ta (2:8). +6. Mối liên hệ với Chúa được phản ảnh qua mối liên hệ với những người chung quanh (3:12-). +7. "Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta" (3:23).
Mục Lục:
1. Phaolô cầu nguyện cho tín hữu Côlôse 1:1-1:14
2. Sự siêu việt của Đấng Christ 1:15-2:5
3. Sai lầm của triết học và lời truyền khẩu 2:6-2:23
4. Giải thích đời sống được thánh hóa 3:1-3:17
5. Hướng dẫn cho các mối liên hệ của Cơ Đốc nhân 3:18-4:1
6. Lời khuyên cuối 4:2-4:18
CÔLÔSE (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 52 - 1 TÊSALÔNICA (1 Thessalonians)
Mục đích: Gầy dựng đức tin cho tín hữu tại Têsalônica. Giải thích và bảo đảm về "Ngày Chúa Jêsus Trở Lại."
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 51 A.D. Viết từ Côrinhtô. Một trong những thư tín đầu tiên của Phaolô.
Bối Cảnh:
Hội thánh Têsalônica mới được thành lập khoảng hai ba năm trước khi thư tín này được viết. Tín hữu tại Têsalônica mới tin Chúa nên cần được trưởng thành trong đức tin. Thêm vào đó, có sự hiểu lầm về "Ngày Chúa Jêsus Trở Lại" -- nhiều người nghĩ rằng Chúa Jêsus sẽ trở lại ngay lúc đó, và họ phân vân không biết những người qua đời trước "Ngày Chúa Trở Lại" sẽ ra sao? Cùng lúc đó, đang có sự bắt bớ đạo trong vùng, nên họ càng mong Chúa sớm trở lại.
Những Điểm Đặc Biệt:
Phaolô nhận được báo cáo rất tốt về Hội thánh Têsalônica qua Timôthê. Nhưng Phaolô cần viết thư tín này để khuyến khích đức tin và giải thích về sự hiều lầm về "Ngày Chúa Jêsus Trở Lại" đang làm phân vân và lo lắng cho nhiều người trong Hội thánh.
Câu gốc: 1 Têsalônica 4:14
Vì nếu chúng ta tin Ðức Chúa Jêsus đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Ðức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Ðức Chúa Jêsus cùng đến với Ngài.
Đề Tài Chính:
+1. Chúa mong muốn Cơ Đốc nhân làm gương tốt cho người ngoại. +2. Sự khó khăn và bắt bớ không phải là lý do để chối bỏ đức tin. +3. Chúng ta sẽ chiến thắng trong Đấng Christ. +4. "Ngày Chúa Jêsus Trở Lại" là chắc chắn. +5. Tín hữu cần phải thường xuyên cầu nguyện cho Hội thánh và những người lãnh đạo. +6. Một đời sống trung tín và hy sinh là Ý Chúa cho mọi Cơ Đốc nhân. +7. "Thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện" (1:2). +8. Sự sống lại và Ngày Chúa đến (4:13-5:11). +9. Các lời khuyên tốt - "Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi, phàm làm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy. Chớ dập tắt Thánh Linh; chớ khinh dể các lời tiên tri; hãy xem xét mọi việc, điều chi lành thì giữ lấy. Bất cứ việc gì tựa như điều ác, thì phải tránh đi (5:16-22).
Mục Lục:
1. Chào thăm 1:1
2. Cảm tạ Chúa cho đức tin của tín hữu Têsalônica 1:2-1:10
3. Mục vụ của Phaolô tại Têsalônica 2:1-4:12
4. Chuẩn bị cho "Ngày Chúa Trở Lại" 4:13-5:11
5. Lời khuyên cuối 5:12-5:28
1 TÊSALÔNICA (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 53 - 2 Têsalônica (2 Thessalonians)
Mục đích: Giải thích sự hiều lầm về "Ngày Chúa Jêsus Trở Lại."
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 51-52 A.D. Viết vài tháng sau thư tín 1 Têsalônica.
Bối Cảnh:
Thư tín 1Têsalônica vẫn chưa giải quyết được sự phân vân về thời gian nhất định "Ngày Chúa Trở Lại", và nhiều người hiểu lầm "Ngày Chúa Trở Lại" sẽ xảy ra rất sớm. Thêm vào đó, sự bắt bớ đạo ngày càng gia tăng nên nhiều người cho rằng đó lá dấu hiệu "Ngày Chúa Trở Lại" rất gần. Nhiều người viện cớ "Chúa sắp Trở Lại" nên trở nên thụ động và gây khó khăn cho Hội thánh.
Những Điểm Đặc Biệt:
Đây là thư tiếp theo 1Têsalônica. Phaolô giải thích những biến cố sẽ xảy ra trước ngày "Ngày Chúa Trở Lại."
Câu gốc: 2 Têsalônica 3:5
Nguyền xin Chúa soi dẫn lòng anh em tới đến sự yêu mến Ðức Chúa Trời, và sự nhịn nhục của Ðấng Christ!
Đề Tài Chính:
1. Niềm tin nơi Chúa đem đến sự bình an trong mọi hoàng cảnh. 2. Đừng đợi đến ngày mai những việc có thể làm vinh hiển danh Chúa hôm nay. 3. Sự phán xét sẽ dành cho những ai vui mừng trong sự bất công và sự ác. 4. Chớ thụ động, hãy luôn hầu việc Chúa. 5. Cơ Đốc nhân không hề mệt mõi trong việc làm lành. 6. Trước khi Chúa trở lại sẽ có "Kẻ chống lại Đấng Christ" (Antichrist) đến (2:1-12). 7. Hãy cầu nguyện cho đạo Chúa và những người hầu việc Chúa, nhất là những người có trách nhiệm truyền giảng Tin Lành (3:1-2).
Mục Lục:
1. Chào thăm 1;1
2. Phaolô cảm tạ và cầu nguyện 1:3-1:12
3. Giải thích "Ngày Chúa Trở Lại" 2:1-2:17
4. Không nên thụ động 3:1-3:15
5. Lời cuối 3:16-3:18
2 TÊSALÔNICA (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 54 - 1 TIMÔTHÊ (1 Timothy)
Mục đích: Khuyến khích và hướng dẫn người lãnh đạo trẻ Timôthê. Cách tổ chức và điều hành Hội thánh.
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 64 A.D. Viết từ Rôma (hoặc Macedonia, hoặc Philíp). Có lẽ viết trước ngày Phaolô bị tù lần cuối tại Rôma.
Bối Cảnh:
Timôthê là một trong những người lãnh đạo trẻ được Phaolô huấn luyện và rất thân cận với ông. Phaolô đã sai Timôthê đến Hội thánh Êphêsô để bảo vệ Tin Lành và chống lại sự dạy dỗ sai lạc, tà giáo đang xâm nhập Hội thánh (1:3-4). Có lẽ Timôthê đã từng là một trong những người lãnh đạo phục vụ tại Hội thánh Êphêsô. Phaolô mong muốn đến thăm Timôthê (3:14-15; 4:13), ông viết thư này để hướng dẫn Timôthê những phương pháp thực tế trong Ý Chúa để lãnh đạo và phục vụ Hội thánh.
Những Điểm Đặc Biệt:
1 Timôthê là thư cá nhân, là cẩm nang tổ chức, điều hành Hội thánh, chọn lựa lãnh đạo,cảnh giác về giáo sư giả, hướng dẫn thờ phượng, cầu nguyện, và chăm sóc tín hữu.
Câu gốc: 1 Timôthê 4:12
Chớ để người ta khinh con vì trẻ tuổi; nhưng phải lấy lời nói, nết làm, sự yêu thương, đức tin và sự tinh sạch mà làm gương cho các tín đồ.
Đề Tài Chính:
1. Chỉ có một Tin Lành (Kinh Thánh) duy nhất, và chỉ có Cơ Đốc nhân trung tín mới quyết tâm sống theo Lời Chúa. 2. Đức tin thật theo Kinh Thánh được bày tỏ qua thái độ, hành động và đời sống. 3. Tuổi tác không phải là một trở ngại để được Chúa dùng cách hữu hiệu. 4. Ơn lãnh đạo thuộc linh là do Chúa ban, không phải do sự huấn luyện của con người. 5. Giống như sự rèn luyện của các vận động viên, người Cơ Đốc nhân cũng cần rèn luyện đức tin và kỷ luật thuộc linh. 6. Hãy tránh những lời tầm phào, tin đồn nhảm và sự cải lẫy trong Nhà Chúa (1:4). 7. "Mục đích của sự răn bảo, ấy là sự yêu thương, bởi lòng tinh sạch, lương tâm tốt và đức tin thật mà sanh ra" (1:5). 8. "Ðức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn" (1:15). 9. Hãy "cầm giữ đức tin và lương tâm tốt" (1:19). 10. Cầu Nguyện cho mọi người là đẹp lòng Chúa (2:1-3), vì "Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật" (2:4). 11. Sự bội đạo và giáo sư giả trong ngày sau rốt (4:1-5). 12. "Chớ để người ta khinh con vì trẻ tuổi ..." (4:12). 13. "Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ, ... Ðừng bỏ quên ơn ban trong lòng con, ... Hãy giữ chính mình con và sự dạy dỗ của con, ..." (4:13-16). 13. "Các trưởng lão khéo cai trị Hội thánh thì mình phải kính trọng bội phần, nhất là những người chịu chức rao giảng và dạy dỗ" (5:17). 14. "Ðừng vội vàng đặt tay trên ai, chớ hề nhúng vào tội lỗi kẻ khác; hãy giữ mình cho thanh sạch" (5:22). 15. "Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng hề đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng" (6:6-8). 16. "Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác..." (6:10). 17. "Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời..." (6:12).
Mục Lục:
1. Luật pháp và Đức tin. Giáo sư giả 1:1-2:15
2. Hướng dẫn và huấn luyện lãnh đạo trong Hội thánh 3:1-3:16
3. Cách đối phó với đạo giả, và rèn luyện đức tin thật 4:1-4:16
4. Cách chăm sóc và áp dụng kỷ luật trong Hội thánh 5:1-6:2
5. Những cạm bẩy và nguy hiểm của lòng ham mê tiền bạc 6:3-6:21
1 TIMÔTHÊ (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 55 - 2 TIMÔTHÊ (2 Timothy)
Mục đích: Tâm sự, khuyến khích và hướng dẫn Timôthê, Mục sư trẻ Hội thánh Êphêsô.
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 66-67 A.D. Viết từ ngục tù tại Rôma.
Bối Cảnh:
Phaolô đang ở tù một mình, chỉ có Luca thường đến chăm sóc ông. Phaolô viết thư tín này để tâm sự và truyền lại lời giáo huấn cho thế hệ lãnh đạo mai sau. Ông cũng nhắn nhủ bạn bè hãy tìm cách gởi các tài liệu của ông khi đến thăm viếng -- trong các tài liệu của Phaolô có thể gồm có các bài viết Kinh Thánh của ông và các môn đồ khác, và một phần sách Cựu Ước. Sau một hoặc hai năm được tự do, Phaolô bị bắt lần cuối và bị xử chết dưới thời vua Nero.
Những Điểm Đặc Biệt:
Có lẽ đây là thư tín cuối cùng, nên Phaolô bày tỏ hết tâm sự cá nhân của ông về công việc Chúa: Lời Chúa là quan trọng và trên hết, đức tin bền bĩ, lòng tự tin, kiên trì, và yêu thương cho đến cuối cùng, ...
Câu gốc: 2 Timôthê 2:15
Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Ðức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật.
Đề Tài Chính:
1. "Vì Ðức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình thương yêu và dè giữ (tự chủ)" (1:7). 2. "Ấy là vì Tin Lành đó mà ta đã được lập làm người giảng đạo, sứ đồ và giáo sư, ấy lại là cớ mà ta chịu khổ, ..." (1:11-12). 3. Sự khó khăn và thử thách chắc chắn sẽ xảy ra cho những ai trung tín sống theo Lời Chúa. 4. "Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Ðức Chúa Jêsus Christ" (2:3). 5. "Nếu chúng ta không thành tín, song Ngài vẫn thành tín, vì Ngài không thể tự chối mình được" (2:13). 6. Cơ Đốc nhân nên tránh sự cải lẫy có hại cho đức tin và tình yêu thương (2:14). 7. "Cũng hãy tránh khỏi tình dục trai trẻ, mà tìm những điều công bình, đức tin, yêu thương, hòa thuận ..." (2:22). 8. "Cả Kinh Thánh đều là bởi Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Ðức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành." (3:16-17). 9. "Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời..." (4:2). 10. Sẽ có những lúc mọi người đều lìa xa chúng ta, nhưng Chúa luôn là lẽ thật và tình yêu muôn đời.
Mục Lục:
1. Chào thăm 1:1-1:2
2. Khuyến khích cho sự trung tín 1:3-2:26
3. Tiên tri về sự bại hoại trong ngày sau rốt 3:1-3:13
4. Lời khuyên trung tín với Kinh Thánh 3:14-3:17
5. Trách nhiệm giảng đạo 4:1-4:5
6. Phaolô - thời kỳ sắp qua đời 4:6-4:18
7. Lời chào biệt cuối 4:19-4:22
2 TIMÔTHÊ (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 56 - TÍT (Titus)
Mục đích: Khuyến khích và hướng dẫn Tít trong trách nhiệm chăm sóc các Hội thánh tại đảo Cơrết (Crete.)
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 64 A.D. khoảng cùng thời gian với 1Timôthê. Có lẽ viết từ Macedonia.
Bối Cảnh:
Phaolô sai Tít đến đảo Cơrết để tổ chức và coi sóc các Hội thánh. Thư tín này giúp hướng dẫn Tít cách chu toàn trách nhiệm.
Những Điểm Đặc Biệt:
Thư tín Tít rất giống thư tín 1Timôthê với mục đích hướng dẫn cách tổ chức, chăm sóc và lãnh đạo Hội thánh.
Câu gốc: Tít 1:5
Ta đã để con ở lại Cơ-rết, đặng sắp đặt mọi việc chưa thu xếp, và theo như ta đã răn bảo cho con mà lập những trưởng lão trong mỗi thành.
Đề Tài Chính:
1. Làm việc tốt không đem đến sự cứu rỗi, nhưng phản ảnh kết quả của người được cứu. 2. Cơ Đốc nhân không nên nói xấu người khác 3. Ân điển Chúa ban, dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian (2:12). 3. "Trông cậy sự sống đời đời, là sự sống mà Ðức Chúa Trời không thể nói dối đã hứa từ muôn đời về trước" (1:2). 4. "Vì người giám mục làm kẻ quản lý nhà Ðức Chúa Trời thì phải cho không chỗ trách được ..." (1:7). 5. "Vả, ân điển Ðức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi" (2:11), để dạy Cơ Đốc nhân làm mọi việc lành. 6. "Chớ nói xấu ai, chớ tranh cạnh, hãy dong thứ, đối với mọi người tỏ ra một cách mềm mại trọn vẹn" (3:2). 7. "Nhưng hãy lánh những điều cãi lẽ dại dột, những gia phổ, những sự cạnh tranh nghị luận về luật pháp, vì mấy sự đó đều là vô ích và hư không" (3:9). "Sau khi mình đã khuyên bảo kẻ theo tà giáo một hai lần rồi, thì hãy lánh họ" (3:10), "vì biết rằng người như thế đã bội nghịch mà cứ phạm tội, thì tự đoán phạt lấy mình" (3:11).
Mục Lục:
1. Giới thiệu 1:1-1:4
2. Chỉ định các trưởng lão 1:5-1:9
3. Khuyên can và trách phạt các giáo sư giả 1:10-1:16
4. Hãy dạy Đạo lẽ thật (sound doctrine) 2:1-2:15
5. Sống trung tín và ngay thẳng 3:1-3:11
6. Lời kết 3:12-3:15
TÍT (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 57 - PHILÊMÔN (Philemon)
Mục đích: Khuyên Philêmôn hãy tha thứ cho Ônêsim (người đào tẩu nô lệ), và chấp nhận Ônêsim như một người anh em trong Chúa.
Tác giả: Sứ đồ Phaolô
Ngày viết: Khoảng năm 60 A.D. trong thời gian Phaolô bị tù tại Rôma. Viết cùng lúc với thư tín Êphêsô và Côlôse.
Bối Cảnh:
Chế độ nô lệ rất phổ thông suốt một thời gian dài trong lịch sử nhân loại, nhất là thời kỳ thuộc địa La mã. Đây là bằng chứng cho thấy nhiều Cơ Đốc nhân cũng có nô lệ. Thư của Phaolô khuyên Cơ Đốc nhân có nô lệ hãy đối xử tốt với họ, và coi những Cơ Đốc nhân bị làm nô lệ như những anh chị em trong Chúa.
Những Điểm Đặc Biệt:
Đây là thư cá nhân của Phaolô gởi cho Philêmôn, một người anh em, người bạn trong Chúa.
Câu gốc: Philêmôn 15-16
15 Vả, có lẽ người (Ônêsim) đã tạm xa cách anh, cốt để anh nhận lấy người mãi mãi, 16 không coi như tôi mọi nữa, nhưng coi hơn tôi mọi, coi như anh em yêu dấu, nhứt là yêu dấu cho tôi, huống chi cho anh, cả về phần xác, cả về phần trong Chúa nữa.
Đề Tài Chính:
1. Hình ảnh nô lệ được dùng nhiều trong Tân Ước để diễn tả tình trạng phạm tội và bị làm nô lệ cho tội lỗi. Niềm tin nơi Chúa Jêsus là giải pháp giải thoát tôi nhân khỏi tội lỗi và cứu rỗi linh hồn. 2. Luật pháp của xã hội dành cho mọi người, kể cả Cơ Đốc nhân. 3. Mối liên hệ thật trong Đấng Christ giúp phá vở và thay đổi sự bất công và giai cấp trong xã hội. 4. Sự tha thứ và hòa thuận đòi hỏi hành động của cả hai bên, người phạm lỗi và người bị xúc phạm. 5. Cơ Đốc nhân biết ăn năn được Chúa tha thứ mọi tội lỗi, để bắt đầu một đời sống mới trong Đấng Christ. 6. "Tôi cảm tạ Ðức Chúa Trời tôi, hằng ghi nhớ anh trong lời cầu nguyện, vì nghe nói anh có lòng yêu thương và đức tin trong Ðức Chúa Jêsus và cùng các thánh đồ" (4-5).
Mục Lục:
1. Chào thăm 1-3
2. Cảm tạ và Cầu Nguyện cho Philêmôn 4-7
3. Phaolô xin tha thứ cho Ônêsim 8-21
4. Chào biệt 22-25
PHILÊMÔN (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 58 - HÊBƠRƠ (Hebrew)
Mục đích: Chứng minh Đấng Christ là Đấng Cứu Rỗi, Ngài là duy nhất, trọn vẹn, và siêu việt cho đức tin của Cơ Đốc nhân.
Tác giả: Không chắc, nhưng có thể: Phaolô, Luca, Philíp, Bạnaba, Abôlô, ...)
Ngày viết: Không rõ thời gian, nhưng trước năm 70 A.D., vì nhiều lễ nghi tại đền thờ Giêrusalem vẫn được nhắc đến, nhưng không có viết về sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ vào năm 70.
Bối Cảnh:
Cơ Đốc nhân, nhứt là những người Giuđa Cơ Đốc đang bị bắt bớ khắp nơi bởi người cùng sứ và chính quyền La Mã. Chúa Jêsus chưa trở lại để giải thoát những người thuộc về Ngài, và mọi người cần sự bảo đảm niềm tin Cơ Đốc là niềm tin thật, là chân lý duy nhất, và Chúa Jêsus chính là Đấng Mêsi, là Đấng Christ.
Những Điểm Đặc Biệt:
Sách Hêbơrơ được gọi là thư tín (13:22), nhưng có cấu trúc của một bài giảng dài, hay luận án thần học.
Câu gốc: Hêbơrơ 1:1-3
1 Ðời xưa, Ðức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, 2 rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; 3 Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Ðức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Ðấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao.
Đề Tài Chính:
1. Cơ Đốc Giáo đối với thế gian chỉ là một tôn giáo ... nhưng đối với Chúa là mối liên hệ cá nhân giữa Cơ Đốc nhân và Chùa Jêsus Christ. 2. Để chiến thắng, Cơ Đốc nhân phải tranh đấu với mục đích duy nhất là "nhìn xem Ðức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin" (12:2). 3. Hãy trao mọi sự khó khăn và cám dỗ cho Chúa Jêsus ... vì Ngài đã trải qua tất cả và chiến thắng. 4. Chúa muốn con cái Ngài yêu thương, khuyến khích và làm gương tốt cho nhau. 5. Chỉ có huyết Chúa Jêsus mới tẩy sạch mọi tội lỗi của chúng ta.
Mục Lục:
1. Chúa Jêsus siêu việt hơn các tiên tri và thiên sứ 1:1-2:18
2. Chúa Jêsus siêu việt hơn Môise 3:1-4:13
3. Chúa Jêsus, Thầy Tế Lễ cả của Đức Chúa Trời 4:14-7:28
4. Sự hy sinh cao cả của Chúa Jêsus và Lời Giao Ước Mới 8:1-10:18
5. Vâng phục Chúa trong đức tin 10:19-12:29
6. Lời kết 13:1-13:25
HÊBƠRƠ (Tóm Lược):
6. "Ðức Thánh Linh phán rằng: Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, Thì chớ cứng lòng" (3:7-8; TThiên 95:7-8). 7. "Hỡi anh em, hãy giữ lấy, kẻo ai trong anh em có lòng dữ và chẳng tin mà trái bỏ Ðức Chúa Trời hằng sống chăng. Nhưng hằng ngày anh em hãy khuyên bảo lẫn nhau, đang khi còn gọi là "Ngày nay," hầu cho trong anh em không ai bị tội lỗi dỗ dành mà cứng lòng" (3:12-13). 8. "Vì lời của Ðức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng (4:12). Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Ðấng mà chúng ta phải thưa lại (4:13)". 9. "Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ân điển để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng" (4:16). 10. Đừng tiếp tục chỉ ăn sữa, nhưng hãy trưởng thành trong đức tin (5:11-14). 11. "Ta sẽ để luật pháp ta trong trí họ Và ghi tạc vào lòng; Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời họ, Họ sẽ làm dân Ta" (8:10). 12. "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét (9:27), cũng vậy, Ðấng Christ đã dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người; Ngài lại sẽ hiện ra lần thứ hai, không phải để cất tội lỗi đi nữa, nhưng để ban sự cứu rỗi cho kẻ chờ đợi Ngài" (9:28). 13. "Bởi hễ có sự tha thứ thì không cần dâng của lễ vì tội lỗi nữa" (10:18). 14. "Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành (10:24); chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy (10:25). Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có tế lễ chuộc tội nữa (10:26)." 15. "Sự trả thù thuộc về Ta; Ta sẽ báo ứng" (10:30; Phục 32:35). 16. "Người công bình của Ta sẽ cậy đức tin mà sống, Nhưng nếu lui đi thì linh hồn Ta chẳng lấy làm đẹp chút nào" (10:38; Habacúc 2:3-4). 17. "Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy" (11:1). 18. "Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Ðức Chúa Trời phải tin rằng có Ðức Chúa Trời, và Ngài là Ðấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài" (11:6). 19. "Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu" (12:6). 20. "Hãy cầu sự bình an với mọi người, cùng tìm theo sự nên thánh, vì nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Ðức Chúa Trời" (12:14; 1Phiero 1:15-16; Levi 19:2). 21. "Khá coi chừng kẻo có kẻ trật phần ân điển của Ðức Chúa Trời, kẻo rễ đắng châm ra, có thể ngăn trở và làm ô uế phần nhiều trong anh em chăng" (12:15). 22. "Hãy hằng có tình yêu thương anh em (13:1). "Chớ quên sự tiếp khách; có khi kẻ làm điều đó, đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết" (13:2). 23. "Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Ðức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu" (13:5; Phục 31:6). 24. "Chớ quên việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Ðức Chúa Trời" (13:16). 25. "Ðức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi" (13:8).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 59 - Gia Cơ (James)
Mục đích: Chỉ rõ sự giả hình và hướng dẫn cách áp dụng đức tin thật vào đời sống thực tế.
Tác giả: Gia Cơ, em Chúa Jêsus, con Giôsép. Giacơ chỉ tin Chúa sau ngày Chúa Jêsus phục sinh và trở nên một trong những lãnh đạo tại Hội thánh Giêrusalem.
Ngày viết: Khoảng năm 45-49 A.D. trước khi hội đồng tại Giêrusalem
Bối Cảnh:
Thư tín bày tỏ mối quan tâm của Giacơ trước việc bắt bớ Cơ Đốc nhân, trong đó có nhiều người thuộc Hội thánh Giêrusalem.
Những Điểm Đặc Biệt:
Chỉ có đức tin để được cứu thì không đủ. Giacơ chỉ rõ đức tin thật phải đi đôi với việc làm lành và đời sống đạo đức. Thư tín này ghi rõ nhiều tội lỗi và cá tánh xấu, và cách khắc phục để có một đời sống Cơ Đốc đẹp lòng Chúa và vinh hiển danh Ngài.
Câu gốc: Giacơ 2:18
Hoặc có kẻ nói: Ngươi có đức tin, còn ta có việc làm. Hãy chỉ cho ta đức tin của ngươi không có việc làm, rồi ta sẽ chỉ cho ngươi đức tin bởi việc làm của ta.
Đề Tài Chính:
1. Cơ Đốc nhân được cứu chỉ bởi đức tin, nhưng đức tin thật phải đi đôi với việc làm lành, vâng phục Chúa, và sanh bông trái thánh linh. 2. Không ai được cứu chỉ bởi làm việc tốt. 3. Đức tin thật sẽ sanh ra việc làm thánh thiện và một đời sống đổi mới từ tư tưởng, hành động, tới việc làm. 4. Cơ Đốc nhân không chi là người nghe đạo, nhưng là người sống đạo. 5. Khả năng con người không thể thống trị được tội lỗi của lưỡi, nhưng quyền năng của Chúa làm được mọi sự. 6. Đức Thánh Linh và đức tin thật sẽ giúp Cơ Đốc nhân thắng sự tham lam.
Mục Lục:
1. Giới thiệu 1:1
2. Những sự thử thách, bắt bớ và cám dỗ 1:2-1:18
3. Cá tánh Cơ Đốc nhân với đức tin thật 1:19-2:20
4. Tội lỗi, và những cạm bẩy cho đức tin 3:1-5:6
5. Tội lỗi của lưỡi 3:1-3:12
6. Cầu Nguyện và Đức tin chiến thắng 5:7-5:20
GIACƠ (Tóm Lược):
7. "Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Ðức Chúa Trời ..." (1:5). "Nhưng phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ ..." (1:6). 8. "Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình (1:14). Ðoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết (1:15." 9. "Hỡi anh em yêu dấu, anh em biết điều đó: người nào cũng phải mau nghe mà chậm nói, chậm giận (1:19); vì cơn giận của người ta không làm nên sự công bình của Ðức Chúa Trời (1:20)." 10. "Hãy làm theo Lời Chúa, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình" (1:22). 11. "Nhược bằng có ai tưởng mình là tin đạo, mà không cầm giữ lưỡi mình, nhưng lại lừa dối lòng mình, thì sự tin đạo của người hạng ấy là vô ích" (1:26). 12. "Vì người nào giữ trọn luật pháp, mà phạm một điều răn, thì cũng đáng tội như đã phạm hết thảy" (2:10). 13. "Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết" (2:17). 14. "Hỡi anh em, trong vòng anh em chớ có nhiều người tự lập làm thầy, vì biết như vậy, mình sẽ phải chịu xét đoán càng nghiêm hơn" (3:1). 15. Tội lỗi của lưỡi (3:1-12). 16. "Vì ở đâu có những điều ghen tương tranh cạnh ấy, thì ở đó có sự lộn lạo và đủ mọi thứ ác" (3:16). 17. "Những điều chiến đấu tranh cạnh trong anh em bởi đâu mà đến? Há chẳng phải từ tình dục anh em vẫn hay tranh chiến trong quan thể mình sao?" (4:1). 18. "Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình" (4:3). 19. "Kinh Thánh chép rằng: Ðức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (4:6; ChNgôn 3:34). 20. "Vậy hãy phục Ðức Chúa Trời; hãy chống trả ma quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em (4:7). Hãy đến gần Ðức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi. (4:8)." 21. Chớ nói hành, chớ xét đoán nhau, vì Chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng xét đoán" (4:11-12). 22. "Anh em phải nói trái lại: Ví bằng Chúa muốn, và ta còn sống, thì ta sẽ làm việc nọ việc kia" (4:15). 23. "Kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội" (4:17). 24. "Hỡi anh em, trước hết chớ có thề, chớ chỉ trời, chỉ đất, cũng chớ chỉ vật khác mà thề; nhưng phải thì nói phải, không thì nói không, hầu cho khỏi bị xét đoán" (5:12). 25. Hãy luôn cầu nguyện trong mọi hoàng cảnh, người cầu nguyện với đức tin, Chúa sẽ chửa bệnh và tha tội (5:13-16).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 60 - 1 PHIERƠ (1 Peter)
Mục Đích: Khuyên dạy và khích lệ các Cơ Đốc nhân đang gặp khó khăn bắt bớ khắp nơi (nhất là trong vùng tiểu á).
Thời Gian: Khoảng năm 63 - 64 A.D (Có thể viết tại thành Rôma)
Tác Giả: Sứ đồ Phierơ
Bối Cảnh:
Có thể Phierơ đang ở tại Rome khi có sự bắt bớ đạo tàn bạo của vua Nero (Theo truyền thuyết, Phierơ đã bị xử tội chết trong cuộc bắt bớ này). Vua Nero đã ra lệnh bắt bớ đạo Cơ Đốc khắp các sứ thuộc địa, Cơ Đốc nhân bị bắt, bỏ tù, tra tấn, giết chết, ... bởi đức tin. Tín đồ tại Jêrusalem đã tản mác khắp nơi để rao giảng Tin Lành và tránh sự bắt bớ.
Câu Gốc: 1 Phierơ 1:7
Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Ðức Chúa Jêsus Christ hiện ra.
Đề Tài Chính:
1. Lời hứa về sự cứu rỗi được ban cho mọi Cơ Đốc nhân. 2. "Nhưng Lời Chúa còn lại đời đời" (1:25; Êsai 6:8). 3. Chúa muốn chúng ta trao mọi điều lo lắng cho Ngài. 4. Cơ Đốc nhân giống Chúa Jêsus trong sự thương khó và chịu bắt bớ. 5. Vinh hiển thay cho đời sống thương khó vì sự công bình ... Hổ thẹn thay cho đời sống thương khó vì tội lỗi (3:17). 6. Quỉ Satan ghét và tìm mọi cách đánh bại Cơ Đốc nhân. 7. Phước hạnh thay cho người vâng lời và phục tùng Chúa.
Mục Lục:
1. Chào thăm 1:1-2
2. Ngợi khen Chúa 1:3-1:12
3. Lời khuyên về sự nên thánh 1:13-2:12
4. Sự trung tín và phục tùng của Cơ Đốc nhân 2:13-3:7
5. Sự thương khó của Cơ Đốc nhân 3:8-5:11
6. Lời kết 5:12-14
1 PHIERƠ (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 61 - 2 PhIERƠ (2 Peter)
Mục đích: Cảnh tỉnh Cơ Đốc nhân về tiên tri và giáo sư giả. Nhắc nhở mọi người hãy trao dồi tri thức về "Lời Chúa" và trưởng thành trong đức tin nơi Đấng Christ
Tác giả: Sứ đồ Phierơ
Ngày viết: Khoảng năm 67 A.D. Viết cho Hội thánh và Cơ Đốc nhân khắp nơi.
Bối Cảnh:
Phierơ biết rằng thời gian của đời sống ông không còng bao nhiêu (1:13-14), nên ông viết với tấm lòng tha thiết để khuyên mọi người hãy giữ vững và trao dồi đức tin qua Tin Lành Đấng Christ. Ông cũng cảnh tình mọi người hãy trung tín với lẽ thật và cẩn thận với những giáo sư và tiên tri giả, nhất là khi ông và các sứ đồ qua đời. Ông cũng nhắc nhở mọi người hãy thức tỉnh và cầu nguyện vì "Ngày của Chúa" gần đến.
Những Điểm Đặc Biệt:
Có nhiều sự bàn thảo về thư tín 2 Phierơ vì ngày viết và địa điểm không được rõ ràng, và có nhiều điểm giống như thư tín Giuđe.
Câu gốc: 2 Phierơ 1:3-4
3 Quyền phép Ðức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Ðấng lấy vinh hiển và nhân đức mà gọi chúng ta, 4 và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản tánh Ðức Chúa Trời.
Đề Tài Chính:
1. Sự giả tạo đến với nhiều hình thức khác nhau, nhưng lẽ thật chỉ đến với một hình thức - từ Đức Chúa Trời. 2. Đức Chúa Trời đã chậm lại ngày phán xét để thêm nhiều người có cơ hội ăn năn tội và được cứu (3:8-9). 3. Thánh Linh Chúa bảo vệ "Lời Ngài", sự phán xét và trách phạt sẽ đến với những ai cố tình sửa đổi hoặc làm sai lạc Kinh Thánh. 4. Sự trưởng thành trong Chúa sẽ đến khi chúng ta hết lòng tìm kiếm mối liên hệ cá nhân với Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Linh, và thường xuyên cầu nguyện và học hỏi Lời Chúa. 5. Cuối cùng thì sự công bình và thánh thiện sẽ chiến thắng sự ác.
Mục Lục:
1. Chào thăm 1:1-1:2
2. Trưởng thành trong sự hiểu biết trong Đấng Christ. 1:3-1:21
3. Sự phán xét dành cho tiên tri và giáo sư giả 2:1-2:22
4. "Ngày của Đức Giêhôva" 3:1-3:18
2 PHIERƠ (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 62 - 1 GIĂNG (1 John)
Mục Đích: Gây dựng đức tin vững chắc cho Cơ Đốc nhân và cảnh cáo về đạo giả.
Thời Gian: Cùng một lúc với sách 2 Giăng, khoảng năm 85-90 A.D.
Viết tại: Êphêsô (Ephesus)
Tác Giả: Sứ đồ Giăng (the apostle John)
Bối Cảnh:
Giăng đã lớn tuổi và có lẽ là sứ đồ duy nhất còn sống. Giăng chưa bị lưu đài tại đảo Pátmô. Ông là môn đồ, sứ đồ và chứng nhân thật của Chúa Jêsus Christ. Ông viết với thẩm quyền của người anh cả, người trưởng lão để huấn luyện thế hệ Cơ Đốc nhân nối tiếp, khuyến khích và cũng cố đức tin thật trong Chúa, và nhắc nhở cảnh cáo về đạo giả.
Câu Gốc: 1 Giăng 5:13
Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Ðức Chúa Trời.
Đề Tài Chính:
1. Đức Chúa Trời là sự sống, ... là ánh sáng, ... là tình yêu. 2. Dấu hiệu sự tái sanh của Cơ Đốc nhân là sự công bình thánh (righteousness). 3. Lẽ thật trong tình yêu sẽ biến thành hành động chứ không chỉ qua lời nói. 4. Tình yêu thương thật không có sự sợ hải (4:18). 5. Tình yêu Đức Chúa Trời dành cho nhân loại qua sự hy sinh của Chúa Jêsus Christ là chân thật và vô điều kiện. 6. Chỉ có huyết Chúa Jêsus mới tẩy sạch tội lỗi và ban đời sống mới cho Cơ Đốc nhân.
Mục Lục:
1. Hãy bước đi trong ánh sáng Chúa 1:1-2:14
2. Những ngăn trở sự thông công với Chúa 2:15-2:27
3. Hãy bám chặc vào tình yêu Chúa Jêsus Christ 2:28-5:5
4. Đức Chúa Trời là sự sống 5:1-5:21
5. Chiến thắng và sự bảo đảm của đức tin 5:6-5:21
1 GIĂNG (Tóm Lược):
7. "Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối và không làm theo lẽ thật (1:6). Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Ðức Chúa Jêsus, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta (1:7)." 8. "Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta (1:8). Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác (1:9). Nhược bằng chúng ta nói mình chẳng từng phạm tội, ấy là chúng ta cho Ngài là kẻ nói dối, lời Ngài không ở trong chúng ta (1:10)." 9. Chúa Jêsus là Đấng Công bình, là Đấng chuộc tội, là Đấng cầu thay cho tội lỗi chúng ta và cho cả thế gian trước mặt Đức Chúa Trời (2:1-2). 10. Người thật sự tin và biết Chúa sẽ giữ các điều răn của Chúa (2:3-4). 11. Chúa Jêsus là sự sáng, ai yêu anh em mình là ở trong sự sáng, ai ghét anh em mình là ở trong sự tối tăm (2:8-11). 12. "Nếu ai yêu (tội lỗi) thế gian, thì sự kính mến Ðức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy (2.15). ... Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn Ðức Chúa Trời thì còn lại đời đời (2:17)." 13. Nhiều "Kẻ địch lại Đấng Christ" (Antichrist), là kẻ nói dối, sẽ từ chúng ta mà ra nhưng sẽ chống lại Chúa, đó là dấu hiệu của Ngày Sau Cùng gần đến (2:18-19). 14. "Ai chối Con, thì cũng không có Cha: ai xưng Con, thì cũng có Cha nữa" (2:23). 15. Vì tình yêu thương, Đức Chúa Trời đã nhận chúng ta làm con cái Ngài (3:1). 16. Ai (cố tình) phạm tội là người phạm luật pháp và chối Chúa (3:3-10). 17. "Chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật" (3:18). 18. "Ví bằng lòng mình không cáo trách, thì chúng ta có lòng rất dạn dĩ, đặng đến gần Ðức Chúa Trời" ... và Ngài sẽ nhận lời cầu nguyện (3:21-22). 19. Ai có tình yêu thương và vâng giữ các điều răn Chúa, thì Đức Thánh Linh sẽ làm chứng cho biết Chúa đang ở cùng ngưới đó (3:23-24). 20. Thánh Linh giả -- "Chớ tin cậy mọi thần (spirit), nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Ðức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ" ... thần nào chống lại Chúa Jêsus và sự dạy bảo của Kinh Thánh là thần giả (4:1-6). 21. Căn bản của Cơ Đốc giáo là tình yêu thương, yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu người, ... "Ai chẳng yêu, thì không biết Ðức Chúa Trời; vì Ðức Chúa Trời là sự yêu thương (4:8)"... (4:7-21). 22. "Vì nầy là sự yêu mến Ðức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ điều răn Ngài. Ðiều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề (5:3), vì hễ sự gì sanh bởi Ðức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta (5:4)." 23. Đức Thánh Linh là lẽ thật, Ngài sẽ làm chứng về Chúa cho chúng ta, bằng chứng của thế gian không quan trọng bằng (5:7-10). 24. Ai có Ðức Chúa Con thì có sự sống (đời đời); ai không có Con Ðức Chúa Trời thì không có sự sống" (5:12-13). 25. Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ mình về hình tượng! (5:21).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 63 - 2 GIĂNG (2 John)
Mục Đích: Nhấn mạnh đến căn bản Cơ đốc giáo - Lẽ thật và Tình yêu thương. Cảnh cáo về tiên tri giả.
Thời Gian: Cùng một lúc với sách 1 Giăng, khoảng năm 85-90 A.D.
Viết tại: Êphêsô (Ephesus)
Tác Giả: Sứ đồ Giăng (the apostle John)
Bối Cảnh:
Viết cho người nữ chấp sự trong hội thánh và gia đình bà. Sứ đồ Giăng nhắc nhở bà và hội thánh về tiên tri giả và đạo giả đang len vào hội thánh và cám dỗ nhiều tín hữu
Câu Gốc: 2 Giăng 1:6
Vả, sự yêu thương là tại làm theo các điều răn của Ðức Chúa Trời. Ðó là điều răn mà các ngươi đã nghe từ lúc ban đầu, đặng làm theo.
Đề Tài Chính:
1.Những "Kẻ địch lại Đấng Christ" (Antichrsits) đang hiện diện trên thế gian, và đang tìm mọi cách lừa dối Cơ Đốc nhân. 2. Tình yêu thương và sự vâng lời phải đi đôi với nhau. 3. Cơ Đốc nhân tham gia vào tội lỗi thế gian là đang dự phần vào âm mưu của ma quỉ. 4. Hạnh phúc thật cho Cơ Đốc nhân đang giúp đở và gầy dựng những tín hữu khác lớn lên trong Chúa. 5. "Lòng vui mừng lắm mà thấy trong con cái bà có mấy kẻ làm theo lẽ thật, theo điều răn chúng ta đã nhận lãnh nơi Ðức Chúa Cha" (4). 6. Trong thế gian đã rải nhiều kẻ dỗ dành, không tin Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời ... hãy giữ mình cẩn thận ... đừng đi giông dài ... bền lòng giữ đạo (7-9).
Mục Lục:
1. Chào thăm 1-3
2. Hãy bước đi trong tình yêu thương và vâng lời 4-6
3. Cẩn thận tránh xa các giáo sư giả 7-11
4. Lời kết 12-13
2 GIĂNG (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 64 - 3 GIĂNG (3 John)
Mục Đích: Khuyến khích và khen ngợi Gaiút đã sống theo lẽ thật của đức tin và giúp đở các thánh đồ.
Thời Gian: khoảng năm 90 A.D.
Viết tại: Êphêsô (Ephesus)
Tác Giả: Sứ đồ Giăng (the apostle John)
Bối Cảnh:
Các sứ đồ và trưởng lão đang trên đường truyền giáo, huấn luyện lãnh đạo và thành lập Hội thánh khắp các tình thành và các nước. Họ cần sự đóng góp, giúp đở của các tín đồ, nhất là tín đồ địa phương. Gaiút là một tín đồ và lãnh đạo trung tín trong sự tiếp đãi và giúp đở các trưởng lão, các nhà truyền giáo.
Đề Tài Chính:
1. Tín đồ và Hội thánh Chúa cần giúp đở lẫn nhau như anh chị em trong đại gia đình Chúa, nhất là giúp đở những nhà truyền giáo. 2. Khi chúng ta giúp đở một mục vụ (ministry), chúng ta gián tiếp dự phần vào công việc Chúa của mục vụ đó. 3. Danh tốt trong Chúa là cần thiết để làm gương cho nhau và vững niềm tin bước đi với Chúa. 4. Cơ Đốc nhân cần giữ vững đức tin khi đối diện với sự giả hình gây khó khăn trong Hội thánh và công cuộc truyền giáo chung. 5. Vui mừng vì con cái Chúa làm theo lẽ thật (3-4). 6. "Chớ bắt chước điều dữ, nhưng bắt chước điều lành. Ai làm điều lành là thuộc về Ðức Chúa Trời; còn kẻ làm điều dữ, chẳng hề thấy Ðức Chúa Trời (11).
Mục Lục:
1. Chào thăm 1
2. Tình yêu thương và đức tin của Gaiút 2-8
3. Khiển trách và cảnh cáo về Điôtrép 9-10
4. Ngợi khen và khuyến khích về Đêmêtriu 11-12
5. Lời tạm biệt 13-14
3 GIĂNG (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 65 - GIUĐE (Jude)
Mục Đích: Cảnh cáo về tiên tri giả, đạo giả và các học thuyết sai lạc.
Thời Gian: Khoảng năm 65 - 80 A.D.
Tác Giả: Giuđe (Jude) (em của Chúa Jêsus; con của Giôsép -- Mathiơ 13:55; Mác 6:3)
Bối Cảnh:
Hội thánh và các tín đồ đang bị nhiều học thuyết sai lầm và các giáo sư giả làm sai lạc niềm tin Cơ đốc, chia rẽ giửa các Hội thánh. Giuđe nhắc nhở các tín hữu hãy giử vững niềm tin.
Câu Gốc: Giuđe 1:3
Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi.
Đề Tài Chính:
1. Cơ Đốc nhân nên thức tình và cảnh giác về những giáo sư giả và đạo giả đang làm sai lạc Hội thánh Chúa. 2. Qua hành động, lời nói, việc làm, Cơ Đốc nhân có thể nhận biết những ai không kính sợ Chúa. 3. Cơ Đốc nhân phải có tình yêu thương và lòng thương xót với người ngoại (người chưa tin Chúa). 4. Chúa Jêsus Christ sẽ tẩy sạch và thánh hóa Cơ Đốc nhân để họ được xứng đáng trước mặt Đức Chúa Trời. 5. Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời cho những ai không tin là điều chắc chắn. 6. "Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi (3). 7. "Trong các thời kỳ sau rốt, sẽ có mấy người hay nhạo báng làm theo lòng ham muốn không tin kính của mình (18). ... Gây nên phe đảng, thuộc về tánh xác thịt, không có Ðức Thánh Linh (19) ... về phần anh em, hãy tự lập lấy trên nền đức tin rất thánh của mình, và nhân Ðức Thánh Linh mà cầu nguyện (20), hãy giữ mình trong sự yêu mến Ðức Chúa Trời, và trông đợi sự thương xót của Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta cho được sự sống đời đời (21)."
Mục Lục:
1. Giới thiệu 1-2
2. Nhắc nhở, cảnh cáo, và lên án các giáo sư giả và đạo giả 3-16
3. Lời kêu gọi sự trung tín với lẽ thật 17-23
4. Ngợi khen Chúa 24-25
GIUĐE (Tóm Lược):
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) 66 - KHẢI HUYỀN (Revelation)
Mục Đích: Mặc khải lẽ thật về Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus Christ, Đức Thánh Linh, thiên sứ, nước thiên đàng, ma quỉ, tội lỗi, và sự phán xét. Tiên tri về những ngày sau cùng và Ngày Chúa Jêsus Christ trở lại.
Tác Giả: Sứ đồ Giăng (the apostle John)
Thời Gian: khoảng năm 95 A.D. Viết từ đảo Patmos (nơi Giăng bị lưu đày)
Bối Cảnh:
Các học giả tin rằng bảy hội thánh trong vùng tiểu á đang kinh nghiệm về sự bắt bớ đạo thời hoàng đế La mã Domitian (90-95 A.D.). Sứ đồ Giăng đang bị tù đày tại đảo Patmos. Giăng đã được chứng kiến Chúa Jêsus sống lại và lên trời. Chúa đã mặc khải cho Giăng thấy khải tượng về sự vinh hiển của Chúa Jêsus Christ và tương lai sẽ có nhiều sự bắt bớ trước chiến thắng cuối cùng của Chúa dẹp tan mọi quyền lực của ma quỉ trên thế gian và ngày phán xét cuối cùng, niềm hy vọng của Cơ đốc nhân.
Câu Gốc:
Khải Huyền 1:3: + Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ theo điều đã viết ra đây. Vì thì giờ đã gần rồi
Khải Huyền 3:19-22: + 19 Phàm những kẻ Ta yêu thì Ta quở trách sửa phạt; vậy hãy có lòng sốt sắng, và ăn năn đi. 20+ Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho, thì Ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với Ta. 21+ Kẻ nào thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngôi Ta, như chính Ta đã thắng và ngồi với Cha Ta trên ngôi Ngài. 22+ Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!
Đề Tài Chính:
+1.Sự cuối cùng của đời sống tại thế gian là sự bắt đầu cho đời sống vĩnh cữu. +2. Cơ Đốc Nhân thật sẽ được về với Chúa nơi thiên đằng đời đời. +3 Tội nhân và những ai không ăn năn sẽ chịu phạt trong hồ lửa (địa ngục) đời đời. 4+ Đức Chúa Trời muốn tất cả những ai tin nơi Con Ngài sẽ nhận được sự cứu rỗi... ngay hôm nay!
Mục Lục:
1. Giới thiệu Khải Huyền 1:1-1:7
2. Đấng Christ hiện ra với Giăng 1:8-1:20
3. Thơ cho Bảy Hội thánh 2:1-3:22
4. Ngôi Đức Chúa Trời trên thiên đàng 4:1-5:14
5. Bảy Dấu Ấn (7 seals) 6:12-8:5
6. Bảy Tiếng Kèn (7 trumpets) 8:6-11:19
7. Bảy mặc khải về tiên tri 12:1-14:20
8. Bảy bát tai họa (7 bowls of wrath) 15:1-16:21
9. Sự sụp đổ của Babylôn 17:1-19:5
10. Tiên tri về Ngày Chúa Jêsus trở lại 19:6-19:21
11. Tiên tri về 1000 năm bình an, Satan bị nhốt 20:1-20:6
12. Satan được thả. Trận chiến cuối cùng. Satan và bè đảng bị phạt xuống lò lửa đời đời 20:7-20:10
13. Ngày phán xét cuối cùng 20:11-20:15
14. Trời mới, đất mới, và thành Giêrusalem mới 21:1-22:6
15. Chúa Jêsus Christ trở lại 22:7-22:17
16. Cảnh cáo những ai thêm bớt hay làm sai lạc Kinh Thánh 22:18-22:21
KHẢI HUYỀN (Tóm Lược):
+++5 Nguyên nhân sách Khải Huyền được mặc khải cho Giăng (1:1-7): +++ "1 Sự mặc thị của Ðức Chúa Jêsus Christ mà Ðức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ ra cùng tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên sứ đến tỏ những điều đó cho Giăng, tôi tớ Ngài, 2 là kẻ đã rao truyền lời Ðức Chúa Trời và chứng cớ của Ðức Chúa Jêsus Christ, về mọi điều mình đã thấy. 3+ Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ theo điều đã viết ra đây. Vì thì giờ đã gần rồi." (1:1-3). +++6 Giới thiệu Chúa Jêsus: + "4+ Giăng gởi cho bảy Hội thánh ở xứ A-si: nguyền xin ân điển và sự bình an ban cho anh em từ nơi Ðấng Hiện Có, Ðã Có Và Còn Ðến, cùng từ nơi bảy vị thần ở trước ngôi Ngài, 5+ lại từ nơi Ðức Chúa Jêsus Christ là Ðấng làm chứng thành tín, sanh đầu nhất từ trong kẻ chết và làm Chúa của các vua trong thế gian! 6+ Ðấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Ðức Chúa Trời là Cha Ngài, đáng được sự vinh hiển và quyền năng đời đời vô cùng! A-men." (1:4-6). +++7 Đấng sẽ đến, An-pha và Ô-mê-ga: + "7+ Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trong thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cùng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài. Quả thật vậy. A-men! 8+ Chúa là Ðức Chúa Trời, Ðấng Hiện Có, Ðã Có, Và Còn Ðến, là Ðấng Toàn năng, phán rằng: Ta là An-pha và Ô-mê-ga." (1:7-8). +++8 Thư gởi cho 7 Hội Thánh (2,3): ++ "10 Nhằm ngày của Chúa, tôi được Ðức Thánh Linh cảm hóa, nghe đằng sau có tiếng kêu vang, như tiếng loa, 11 rằng: Ðiều ngươi thấy, hãy chép vào một quyển sách mà gởi cho bảy Hội Thánh tại Ê-phê-sô, Si-miệc-nơ, Bẹt-găm, Thi-a-ti-rơ, Sạt-đe, Phi-la-đen-phi và Lao-đi-xê." (1:10-11). +++9 "Con Người" nói truyện với Giăng (1:12-20). +++10 Thư gởi cho Hội Thánh Êphêsô (2:1-7): ++ "1 Hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Ê-phê-sô rằng: Nầy là lời phán của Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi chính giữa bảy chân đèn vàng:" (2:1): ++ "2+ Ta biết công việc ngươi, sự khó nhọc ngươi, sự nhịn nhục ngươi; Ta biết ngươi không thể dung được những kẻ ác, lại biết ngươi đã thử những kẻ tự xưng là sứ đồ mà không phải là sứ đồ, ngươi đã rõ rằng chúng nó giả dối. 3+ Ngươi hay nhịn nhục và chịu khó vì danh Ta, không mệt nhọc chút nào. 4+ Nhưng điều Ta trách ngươi, là ngươi đã bỏ lòng kính mến ban đầu. 5+ Vậy hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ đâu, hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu của mình; bằng chẳng vậy, Ta sẽ đến cùng ngươi, nếu ngươi không ăn năn thì Ta sẽ cất chân đèn của ngươi khỏi chỗ nó. 6+ Song ngươi có điều nầy khá, là ngươi ghét những việc làm của đảng Ni-cô-la (đạo giả), mà Ta, Ta cũng ghét nữa. 7+ Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh rằng: Kẻ nào thắng, Ta sẽ cho ăn trái cây sự sống ở trong Ba-ra-đi của Ðức Chúa Trời." (2:2-7). +++11 Thư gởi cho Hội Thánh Simiệcnơ (2:8-7): ++ "8 Hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Si-miệc-nơ rằng: Nầy là lời phán của Ðấng trước hết và Ðấng sau cùng, Ðấng chết rồi mà đã sống lại:" (2:8): ++ Cáo trách ai kêu ngạo về đời nầy, an ủi ai bị bắt bớ, nghèo khó, và trung tín (2:9-10). ++ "11 Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh rằng: Kẻ nào thắng, sẽ chẳng bị hại gì về lần chết thứ hai." +++12 Thư gởi cho Hội Thánh Bẹtgâm 2:12-17: ++ "12 Cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Bẹt-găm rằng: Nầy là lời phán của Ðấng có thanh gươm nhọn hai lưỡi:" (2:12). ++ Khen ngợi ai trung tín; cáo trách ai chịu ảnh hưởng bởi đạo giả và giáo sư giả (2:13-16). ++ "17 Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh: Kẻ nào thắng, Ta sẽ ban cho ma-na đang giấu kín; và Ta sẽ cho nó hòn sỏi trắng, trên đó có viết một tên mới, ngoài kẻ nhận lấy không ai biết đến." (2:17). +++13 Thư gởi cho Hội Thánh Thiatirơ (2:18-29): ++ "18 Ngươi cũng hãy viết thơ cho thiên sứ của Hội thánh Thi-a-ti-rơ rằng: Nầy là lời phán của Con Ðức Chúa Trời, là Ðấng mắt như ngọn lửa, và chân như đồng sáng:" (2:18): ++ "19+ Ta biết công việc ngươi, lòng thương yêu ngươi, đức tin ngươi, sự hầu việc trung tín ngươi, lòng nhịn nhục ngươi, và công việc sau rốt ngươi còn nhiều hơn công việc ban đầu nữa. 20- Nhưng điều Ta trách ngươi, ấy là ngươi còn dung cho Giê-sa-bên, người nữ ấy xưng mình là tiên tri, dạy dỗ và phỉnh phờ tôi tớ Ta, đặng rủ chúng nó phạm tà dâm, và ăn thịt cúng thần tượng." (2:19-20). ++ Cảnh tỉnh và xét đoán người nữ tiên tri giả và ai theo người nữ đó phải ăn năn; Phần thưởng hứa cho ai trung tín (2:19-28). ++ "29 Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!" (2:29). +++14 Thư gởi cho Hội thánh Sạtđe (3:1-6): +- "1 Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Ðấng có bảy vì thần Ðức Chúa Trời và bảy ngôi sao: Ta biết công việc ngươi; ngươi có tiếng là sống, nhưng mà là chết. +- 2 Hãy tỉnh thức, và làm cho vững sự còn lại, là sự hầu chết; vì Ta không thấy công việc của ngươi là trọn vẹn trước mặt Ðức Chúa Trời Ta. 3+- Vậy hãy nhớ lại mình đã nhận và nghe đạo thể nào, thì giữ lấy, và ăn năn đi. Nếu ngươi chẳng tỉnh thức, Ta sẽ đến như kẻ trộm, và ngươi không biết giờ nào Ta đến bắt ngươi thình lình. 4+ Nhưng, ở Sạt-đe, ngươi còn có mấy người chưa làm ô uế áo xống mình: những kẻ đó sẽ mặc áo trắng mà đi cùng Ta, vì họ xứng đáng như vậy. 5+ Kẻ nào thắng, sẽ được mặc áo trắng như vậy. Ta sẽ không xóa tên người khỏi sách sự sống và sẽ nhận danh người trước mặt Cha Ta, cùng trước mặt các thiên sứ Ngài. 6+ Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!" (3:1-6). +++15 Thư gởi cho Hội Thánh Phi-la-đen-phi (3:7-13): ++ "7 Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Phi-la-đen-phi rằng: Nầy là lời phán của Ðấng thánh, chân thật, là Ðấng có chìa khóa của Ða-vít, mở thì không ai đóng được, đóng thì không ai mở được: 8 Ta biết công việc ngươi; nầy, Ta đã mở trước mặt ngươi một cái cửa không ai đóng được; vì ngươi có ít năng lực, mà đã giữ đạo Ta, và chẳng chối danh Ta." (3:7-8). ++ "10 Vì ngươi đã giữ lời nhịn nhục Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách, là giờ sẽ đến trong khắp thế gian, đặng thử những người ở trên đất. 11 Ta đến mau kíp; hãy giữ lấy điều ngươi có, hầu cho không ai cất lấy mão triều thiên của ngươi. 12 Kẻ nào thắng, Ta sẽ cho làm trụ trong đền Ðức Chúa Trời Ta, và người sẽ không ra khỏi đó nữa; Ta lại sẽ lấy danh Ðức Chúa Trời Ta, danh của thành Ðức Chúa Trời Ta, là Giê-ru-sa-lem mới từ trên trời, bởi Ðức Chúa Trời ta mà xuống, cùng danh mới Ta, mà viết trên người. 13+ Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!" (3:10-12). +++16 Thư gởi cho Hội Thánh Laođixê (3:14-22): ++ "14 Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Lao-đi-xê rằng: Nầy là lời phán của Ðấng A-men, Ðấng làm chứng thành tín chân thật, Ðấng làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của Ðức Chúa Trời 15- Ta biết công việc của ngươi; ngươi không lạnh cũng không nóng. Ước gì ngươi lạnh hoặc nóng thì hay! 16- Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên Ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng Ta." (3:14-16). ++ Đừng ỷ vào vật chất đời nầy nhưng tìm kiếm sự giàu có thuộc linh Chúa ban (3:17-18). ++ "19+ Phàm những kẻ Ta yêu thì Ta quở trách sửa phạt; vậy hãy có lòng sốt sắng, và ăn năn đi. 20+ Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho, thì Ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với Ta. 21+ Kẻ nào thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngôi Ta, như chính Ta đã thắng và ngồi với Cha Ta trên ngôi Ngài. 22+ Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!" +++17 Ngôi của Đức Chúa Trời (4): + 24 trưởng lão, và 4 con sinh vật có cánh: sư tử, bò đực, như mặt người, chim phụng hoàng. +++18 Quyển sách đóng 7 ấn. Chỉ có Chiên Con đáng mở 7 ấn (5). +++19 Chiên Con tháo 6 cái ấn (6): + Ấn thứ nhất: ngựa trắng, người cỡi cầm cung.(6:1-2). + Ấn thứ 2: ngựa hồng (đỏ), người cỡi cầm gương - cất đi hòa bình, chiến tranh.(6:3-4). + Ấn thứ 3: ngựa ô (đen), người cỡi cầm cân. (6:5-6) + Ấn thứ 4: - "8 Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa màu nhạt hiện ra. Người cỡi ngựa ấy tên là Sự Chết, và Âm phủ theo sau người. Họ được quyền trên một góc tư thế gian, đặng sát hại dân sự bằng gươm dao (chiến tranh), bằng đói kém, bằng dịch lệ và bằng các loài thú dự trên đất." (6:7-8). + Ấn thứ 5: linh hồn những kẻ tử đạo mặt áo trắng than vang sự báo trả.(6:9-11). + Ấn thứ 6: động đất, thiên tai, mọi người kinh sợ vì ngày của Chúa gần đến. (6:12-17). +++20 Các tôi tớ Đức Chúa Trời và 12 bộ tộc được đóng ấn (7:1-8): + 144000 - 12000 + 144000 - 12000 mỗi chi phái: Giuđa, Rubên, Gát, Ase, Néptali, Manase, Simêôn, Lêvi, Ysaca, Sabulôn, Giôsép, Bêngiamin. +++21 Phước thiên đàng cho những kẻ được chọn (7:9-17): ++ "9+ Sự ấy đoạn, tôi nhìn xem, thấy vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng mà ra; chúng đứng trước ngôi và trước Chiên Con, mặc áo dài trắng, tay cầm nhành chà là, 10+ cất tiếng lớn kêu rằng: Sự cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời ta, là Đấng ngự trên ngôi, và thuộc về Chiên Con. 11+ Vả, hết thảy thiên sứ đứng vòng chung quanh ngôi và chung quanh các trưởng lão cùng bốn con sanh vật, sấp mặt xuống trước ngôi, và thờ lạy Đức Chúa Trời, 12+ mà rằng: A-men! Sự ngợi khen, vinh hiển, khôn ngoan, chúc tạ, tôn quí, quyền phép và sức mạnh đều về Đức Chúa Trời chúng ta đời đời vô cùng! A-men." (7:9-12). ++ "13+ Bấy giờ một trưởng lão cất tiếng nói với tôi rằng: những kẻ mặt áo dài trắng đó là ai, và bởi đâu mà đến? 14+ Tôi thưa rằng: Lạy chúa, chúa biết điều đó. Người lại phán cùng tôi rằng: Đó là những kẻ ra khỏi cơn đại nạn, đã giặt và phiếu trắng áo mình trong huyết Chiên Con. 15+ Ấy vì đó mà chúng được ở trước ngôi Đức Chúa Trời, và ngày đêm hầu việc Ngài trong đền Ngài; còn Đấng ngồi trên ngôi sẽ che chở chúng dưới trại Ngài. 16+ Chúng sẽ không đói không khát nữa; cũng không có mặt trời, hoặc cơn nắng gắt nào hại đến mình. 17+ Vì Chiên Con ở giữa ngôi sẽ chăn giữ và đưa chúng đến những suối nước sống; Đức Chúa Trời sẽ lau hết nước mắt nơi mắt chúng." (7:13-17). +++22 Chiên Con mở ấn thứ 7: 7 ống loa (kèn) (8): ++ "1 Khi Chiên Con mở ấn thứ bảy, trên trời yên lặng chừng nửa giờ. 2 Tôi thấy bảy vị thiên sứ đứng trước mặt Ðức Chúa Trời, và có người trao cho bảy ống loa. 3 Ðoạn, một vị thiên sứ khác đến, đứng bên bàn thờ, người cầm lư hương vàng, và được nhiều hương để dâng hương ấy trên bàn thờ bằng vàng ở trước ngôi với các lời cầu nguyện của mọi thánh đồ." (8:1-3). +++23 6 thiên sứ thổi 6 ống loa đầu tiên: Tai họa cho dân trên đất (8:6-9:21). ++ 1/ - "7 Vị thứ nhất thổi loa, thì có mưa đá và lửa pha với huyết bị quăng xuống đất. Một phần ba đất bị cháy, một phần ba loài cây bị cháy, và mọi giống cỏ xanh đều bị cháy." (8:7). ++ 2/ - "8 Vị thiên sứ thứ nhì thổi loa; bèn có một khối tựa như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến ra huyết, 9 một phần ba sanh vật trong biển chết hết, và một phần ba tàu bè cũng bị hủy hết." (8:8-9). ++ 3/ - "10 Vị thiên sứ thứ ba thổi loa, thì một ngôi sao lớn ở trên trời rơi xuống, cháy có ngọn như một bó đuốc; ngôi sao ấy rơi vào một phần ba các sông lớn và các suối nước. 11 Tên ngôi sao đó là Ngải cứu, một phần ba nước biến ra như mùi ngải cứu, và làm chết mất nhiều người ta, vì đã biến thành ra đắng." (8:10-11). ++ 4/ "12 Vị thiên sứ thứ tư thổi loa, thì một phần ba mặt trời bị hại, một phần ba mặt trăng và một phần ban các ngôi sao cũng vậy, hầu cho một phần ba các vì sáng ấy đều bị tối tăm, và hầu cho ban ngày mất một phần ba sáng, và ban đêm cũng vậy." (8:12). ++ 5/ Ống loa thứ 5: - Vực sâu được mở ra, châu chấu bay ra có hình như lính chiến, mặt người, áo giáp bằng sắt, răng như sư tử, có nọc độc bồ cạp, cắn và hành hạ ai không có dấu ấn của Chúa, nhưng không ai được chết. Vua của vực sâu châu chấu tên Hủy họai (Abaddon.heb, Apollyon.grk). (9:1-12). ++ 6/ Vị thiên sứ thứ sáu thổi loa: - 4 thiên sứ với quân đội 200 triệu -- "17 Kìa trong sự hiện thấy, tôi thấy những ngựa và kẻ cỡi ra làm sao: những kẻ ấy đều mặc giáp màu lửa, mầu tía, mầu lưu hoàng; đầu ngựa giống như dầu sư tử, và miệng nó có phun lửa, khói và diêm sanh. 18 Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn đó, là lửa, khói, và diêm sanh ra từ miệng ngựa." (9:17-18). +++24 Nhiều người vẫn không ăn năn: -- "20 Còn những người sót lại, chưa bị các tai nạn đó giết đi, vẫn không ăn năn những công việc bởi tay chúng nó làm cứ thờ lạy ma quỉ cùng thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đã và gỗ, là những tượng không thấy, không nghe, không đi được. 21 Chúng nó cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của mình nữa." (9:20-21). +++ 7/ Vị thiên sứ thứ Bảy thổi loa: Nước Đức Chúa Trời (11:15-19). +++25 Thiên sứ với quển sách nhỏ (10). ++ Thiên sứ nói: "... 5 Bấy giờ vị thiên sứ mà tôi đã thấy đứng trên biển và trên đất, giơ tay hữu lên trời, 6 chỉ Ðấng hằng sống đời đời, là Ðấng đã dựng nên trời cùng muôn vật trên trời, dựng nên đất cùng muôn vật dưới đất, dựng nên biển cùng muôn vật trong biển, mà thề rằng không còn có thì giờ nào nữa; 7 nhưng đến ngày mà vị thiên sứ thứ bảy cho nghe tiếng mình và thổi loa, thì sự mầu nhiệm Ðức Chúa Trời sẽ nên trọn, như Ngài đã phán cùng các tôi tớ Ngài, là các đấng tiên tri." (10:5-7). +++26 Thiên sứ bảo Giăng nuốt sách và nói tiên tri: + "11 Có lời phán cùng tôi rằng: Ngươi còn phải nói tiên tri về nhiều dân, nhiều nước, nhiều tiếng và nhiều vua nữa." (10:11). +++27 Hai người làm chứng cho Đức Chúa Trời với quyền phép, làm chứng trong 1260 ngày (11): + "5 Nếu ai muốn làm hại hai người đó, thì có lửa ra từ miệng hai người thiêu nuốt kẻ thù nghịch mình: kẻ nào muốn làm hại hai người thì phải bị giết như vậy. 6 Hai người có quyền đóng trời lại, để cho trời không mưa trong những ngày mình nói tiên tri; hai người lại có quyền biến nước thành huyết và khiến các thứ tai nạn làm hại trên đất, lúc nào muốn làm cũng được cả. 7 Khi hai người đã làm chứng xong rồi, có con thú dưới vực sâu lên, sẽ chiến đấu cùng hai người; thú ấy sẽ thắng và giết đi." (11:5-7). -- Người ta vui mừng sau khi hai chứng nhân bị giết vì họ đã làm thiệt hại nhiều, nhưng 3.1/2 ngày sau đó Chúa hà hơi ban sự sống và đem họ lên trời trước sự chứng kiến của kẻ thù (11:8-14). +++28 Vị thiên sứ thứ Bảy thổi loa: Nước Đức Chúa Trời (11:15-19). +++ "15+ Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Ðấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời. 16+ Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Ðức Chúa Trời, trên ngai mình, đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Ðức Chúa Trời, 17+ mà rằng: Hỡi Chúa là Ðức Chúa Trời Toàn năng, là Ðấng Hiện Có, Trước Ðã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì. 18+ Các dân tộc vốn giận dữ, nhưng cơn thạnh nộ của Ngài đã đến: giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa là các đấng tiên tri, thưởng cho các thánh và các người kính sợ danh Chúa, thưởng cho kẻ nhỏ cùng kẻ lớn, và hủy phá những kẻ đã hủy phá thế gian. 19+ Ðền thờ Ðức Chúa Trời bèn mở ra ở trên trời, hòm giao ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng, tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn." (11:15-19). +++29 Người đàn bà, Con Trẻ, và con rồng (12:1-6). ++ "1 Ðoạn, trên trời hiện ra một dấu lớn: một người đàn bà có mặt trời bao bọc, dưới chân có mặt trăng, và trên đầu có mão triều thiên bằng mười hai ngôi sao. 2 người có thai, và kêu la vì nhọc nhằn và đau đẻ." (12:1-2). ++ "3 Trên trời cũng hiện ra một dấu khác nữa: là một con rồng lớn sắc đỏ, có bảy đầu, mười sừng, và trên đầu có bảy mão triều thiên. 4 Ðuôi kéo một phần ba các ngôi sao trên trời, đem quăng xuống đất; con rồng ấy chực trước người đàn bà gần đẻ, hầu cho khi đẻ ra thì nuốt con người đi. 5 người sanh một Con Trai, Con Trai ấy sẽ dùng gậy sắt mà cai trị mọi dân tộc; Đứa Trẻ ấy được tiếp lên tới Ðức Chúa Trời, và nơi ngôi Ngài. 6 Còn người đàn bà, thì trốn vào đồng vắng, tại đó người đã có một nơi ở mà Ðức Chúa Trời đã sửa soạn cho, để nuôi mình trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày." (12:3-6). +++30 Satan tranh chiến thua thiên sứ Michên và các thiên sứ Đức Chúa Trời, và bị đuổi khỏi nước thiên đàng (12:7-12): +-- "7- Bấy giờ có một cuộc chiến đấu trên trời: Mi-chen và các sứ người tranh chiến cùng con rồng, rồng cũng cùng các sứ mình tranh chiến lại; 8- song chúng nó không thắng, và chẳng còn thấy nơi chúng nó ở trên trời nữa. 9- Con rồng lớn đó bị quăng xuống, tức là con rắn xưa, gọi là ma quỉ và Sa-tan, dỗ dành cả thiên hạ; nó đã bị quăng xuống đất, các sứ nó cũng bị quăng xuống với nó." (12:7-9). ++ Trên trời vui mừng vì ma quỉ thua trận bởi huyết Chiên Con (12:10-12): + "10+- Tôi lại nghe trên trời có tiếng lớn rằng: Bây giờ sự cứu rỗi, quyền năng, và nước Ðức Chúa Trời chúng ta đã đến cùng quyền phép của Ðấng Christ Ngài nữa; vì kẻ kiện cáo anh em chúng ta, kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Ðức Chúa Trời, nay đã bị quăng xuống rồi. 11+ Chúng đã thắng nó bởi huyết Chiên Con và bởi lời làm chứng của mình; chúng chẳng tiếc sự sống mình cho đến chết. 12+- Bởi vậy, hỡi các từng trời và các đấng ở đó, hãy vui mừng đi! Khốn nạn cho đất và biển! vì ma quỉ biết thì giờ mình còn chẳng bao nhiêu, nên giận hoảng mà đến cùng các ngươi." (12:10-12). +++31 Con rồng săn đuổi người đàn bà trên đất (12:13-17). -- "... 17 Con rồng giận người đàn bà bèn đi tranh chiến cùng con cái khác của người, là những kẻ vẫn giữ các điều răn của Ðức Chúa Trời và lời chứng của Ðức Chúa Jêsus." (12:17). +++32 Con thú thứ nhất ở biển lên (13:1-10). +-- "1 Ðoạn, tôi thấy ở dưới biển lên một con thú có mười sừng bảy đầu, trên những sừng có mười cái mão triều thiên, và trên những đầu có danh hiệu sự phạm thượng. 2 Con thú tôi thấy đó giống như con beo; chân nó như chân gấu, miệng như miệng sư tử, và con rồng đã lấy sức mạnh, ngôi, và quyền phép lớn mà cho nó. 3 Một cái trong các cái đầu nó như bị thương đến chết; nhưng vít thương chết ấy được lành, và cả thế gian đều lấy làm lạ mà theo con thú đó." (13:1-3). +--- Con thú cai trị trên đất: +- "7 Nó lại được phép giao chiến cùng các thánh đồ và được thắng. Nó cũng được quyền trị mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng và mọi nước. 8 Hết thảy những dân sự trên đất đều thờ lạy nó, là những kẻ không có tên ghi trong sách sự sống của Chiên Con đã bị giết từ buổi sáng thế. 9 Ai có tai, hãy nghe!" (13:7-9). +++33 Con thú thứ nhì ở đất lên (13:11-18): +-- "11 Tôi lại thấy từ dưới đất lên một con thú khác, có hai sừng như sừng chiên con, và nói như con rồng. 12 Nó cũng dùng mọi quyền phép của con thú trước tại trước mặt con thú ấy, và nó bắt thế gian cùng dân cư nó phải thờ lạy con thú trước, là con có vít thương đến chết đã được lành. 13 Nó làm những phép lạ lớn, đến nỗi khiến lửa từ trên trời rơi xuống đất trước mặt người ta. 14 Nó lừa dối dân cư trên đất bằng những phép lạ nó đã được phép làm ra trước mặt con thú; và khuyên dân cư trên đất tạc tượng cho con thú đã bị thương bằng gươm và đã sống lại. 15 Nó cùng được quyền hà hơi sống vào tượng con thú, hầu cho tượng ấy nói được và khiến hết thảy những kẻ nào không thờ lạy tượng con thú đó bị giết đi." (13:11-15). *** (Chú thích: Con rồng và hai con thú là hình ảnh ba ngôi của ma quỉ giả tạo để chống lại Ba Ngôi Đức Chúa Trời.) ***+++34 Dấu ấn của ma quỉ: +-- "16 Nó cũng khiến mọi người, nhỏ và lớn, giàu và nghèo, tự chủ và tôi mọi, đều chịu ghi dấu hoặc trên tay hữu, hoặc trên trán, 17 hầu cho người nào không có dấu ấy, nghĩa là không có danh con thú hay số của tên nó, thì không thể mua cùng bán được. 18- Ðây tỏ ra sự khôn ngoan: Kẻ nào thông minh, hãy tính số con thú, vì đó là một số người; số nó là sáu trăm sáu mươi sáu (666)." (13:16-18). +++35 Chiên Con và dân sự được cứu chuộc. (14:1-5): ++ "1 Tôi nhìn xem, thấy Chiên Con đứng trên núi Si-ôn, và với Ngài có mười bốn vạn bốn ngàn (144000) người đều có danh Chiên Con và danh Cha Chiên Con ghi trên trán mình." (14:1). ++ Họ trung tín và thánh sạch. +++36 Ba thiên sứ rao truyền sự kính yêu Đức Chúa Trời và sự phán xét (14:6-13): +-- "6 Ðiều ấy đoạn, tôi thấy một vị thiên sứ khác bay giữa trời, có Tin Lành đời đời, đặng rao truyền cho dân cư trên đất, cho mọi nước, mọi chi phái, mọi tiếng, và mọi dân tộc. 7 Người cất tiếng lớn nói rằng: Hãy kính sợ Ðức Chúa Trời, và tôn vinh Ngài, vì giờ phán xét của Ngài đã đến; hãy thờ phượng Ðấng dựng nên trời, đất, biển và các suối nước." (14:6-7). +++ "12 Ðây tỏ ra sự nhịn nhục của các thánh đồ: chúng giữ điều răn của Ðức Chúa Trời và giữ lòng tin Ðức Chúa Jêsus." (14:12). ++ Phước cho người chết trong Chúa: + "13 Tôi nghe có tiếng đến từ trên trời rằng: Hãy viết lấy: Từ rày, phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Ðức Thánh Linh phán: Phải, vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau." (14:13). +++37.6 Mùa gặt trên đất: Chúa Jêsus gặt trái tốt, thiên sứ Ngài gặt trái xấu (14:14-20): ++ "14 Tôi nhìn xem, thấy một đám mây trắng; có kẻ giống như một Con Người (Đaniên 7:13) ngồi trên mây, đầu đội mão triều thiên vàng, tay cầm lưỡi liềm bén. 15 Có một thiên sứ khác ở đền thờ đi ra, cất tiếng lớn kêu Ðấng ngồi trên mây rằng: Hãy quăng lưỡi liềm xuống và gặt đi; vì giờ gặt hái đã đến, mùa màng dưới đất đã chín rồi. 16 Ðấng ngồi trên mây bèn quăng lưỡi liềm mình xuống đất, và dưới đất đều bị gặt." (14:14-16). +-- Thiên sứ khác gặt những trái xấu để chịu sự trừng phạt trong lửa và máu (14:17-20). +++37 7 vị thiên sứ và 7 tai nạn sau cùng (15): +- "1 Tôi thấy một điềm khác ở trên trời, vừa lớn vừa lạ: bảy thiên sứ cầm bảy tai nạn sau cùng, vì bởi các tai nạn nầy làm hết cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời." (15:1). +++38 7 Thiên sứ trút 7 tai nạn sau cùng xuống đất (16): +-- "1 Bấy giờ, tôi nghe một tiếng lớn từ trong đền thờ ra, phán với bảy vị thiên sứ rằng: Hãy đi, trút bảy bát thạnh nộ của Ðức Chúa Trời xuống đất." (16:1). +-- "16 Chúng nhóm các vua lại một chỗ, theo tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Ha-ma-ghê-đôn (Armageddon). (16:16). (Chú thích: Nhiều người tin rằng trận đại thế chiến sau cùng sẽ xảy ra tại Armageddon.). +++39 Sự phạm tội và bắt bớ tại thế gian: Người dâm phụ ngồi trên con thú bắt bớ đạo (17:1-6). +++40 Thiên sứ giải thích về dâm phụ và con thú (17:7-18). -- "7 Thiên sứ bảo tôi rằng: sao người lấy làm lạ? Ta sẽ cắt nghĩa cho ngươi sự mầu nhiệm của người đàn bà cùng của con thú chở nó, là con thú có bảy đầu và mười sừng." (17:7). +++41 Sự hủy phá Babylôn lớn và những kẻ phạm tội theo nó (18:1-8). +++42 Cảnh cáo về sự tàn phá Babylon lớn; sự than khóc (18:9-19). +++43 Sự vui mừng ngợi khen Chúa về sự phán xét và hủy diệt Babylon lớn ((18:20-24 + 19:1-5). +++44 Lễ cưới Chiên Con (19:6-10). ++ "7 Chúng ta hãy hớn hở vui mừng, tôn vinh Ngài; vì lễ cưới Chiên Con đã tới, và vợ Ngài (Hội Thánh) đã sửa soạn," (19:7). ++ "9 Thiên sứ phán cùng tôi rằng: "Hãy chép: Phước thay cho những kẻ được mời đến dự tiệc cưới Chiên Con!" Người lại tiếp rằng: "Ðó là những lời chân thật của Ðức Chúa Trời." (19:9). +++ Thờ phượng Chúa duy nhất: + "10 Tôi bèn gieo mình xuống dưới chân người đặng thờ lạy; song người phán rằng: Hãy giữ lấy, đừng làm vậy; Ta là bạn tôi tớ với ngươi và với anh em ngươi là người cùng giữ lời chứng của Ðức Chúa Jêsus. + Ngươi hãy thờ lạy Ðức Chúa Trời. Vì sự làm chứng cho Ðức Chúa Jêsus là đại ý của lời tiên tri." (19:10). +++45 Đấng Trung Tín và Chân Thật cỡi ngựa bạch và đội quân của Ngài ((19:11-16): ++ "11 Bấy giờ tôi thấy trời mở ra, và có một con ngựa bạch hiện ra: Ðấng cỡi ngựa ấy gọi là Ðấng Trung Tín Và Chân Thật; Ngài lấy lẽ công bình mà xét đoán và chiến đấu." (19:11). +++Mô tả Chúa Jêsus hiện đến: + "12 Mắt Ngài như ngọn lửa; trên đầu có nhiều mão triều thiên, lại có đề một danh, ngoài Ngài ra không ai biết được. + 13 Ngài mặc áo nhúng trong huyết, danh Ngài xưng là Lời Ðức Chúa Trời. + 14 Các đạo binh trên trời đều mặc vải gai mịn, trắng và sạch, cỡi ngựa bạch theo Ngài. + 15 Có một lưỡi gươm bén ở miệng Ngài ra, Ngài sẽ lấy nó mà đánh các dân, và cai trị họ bằng một cây gậy sắt. Ngài giày đạp thùng rượu cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời toàn năng. + 16 Trên áo tơi và trên đùi Ngài, có đề một danh là Vua Của Các Vua Và Chúa Của Các Chúa." (19:12-16). +++46 Con thú và tiên tri giả thua trận và bị ném vào lò lửa (19:17-21). -- "19 Tôi lại thấy con thú và các vua thế gian cùng những quân đội mình nhóm lại đặng tranh chiến với Ðấng cỡi ngựa, và với đạo binh của Ngài. 20 Nhưng con thú bị bắt và tiên tri giả là kẻ đã làm phép lạ trước mặt con thú, nhờ đó lừa dối những người đã nhận dấu hiệu con thú cùng thờ lạy hình tượng nó, cùng bị bắt với nó nữa; cả hai đều đang sống bị quăng xuống hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng." (19:19-20). +++47 Satan bị xiềng 1000 năm (20:1-3): ++ "1- Ðoạn, tôi thấy một vị thiên sứ trên trời xuống, tay cầm chìa khóa vực sâu và một cái xiềng lớn. 2- Người bắt con rồng, tức là con rắn đời xưa, là ma quỉ, là Sa-tan, mà xiềng nó lại đến ngàn năm. 3- Người quăng nó xuống vực, đóng cửa vực và niêm phong lại, hầu cho nó không đi lừa dối các dân được nữa, cho đến chừng nào hạn một ngàn năm đã mãn. Sự đó đoạn, Sa-tan cũng phải được thả ra trong ít lâu." (20:1-3). +++48 Đấng Christ và các thánh đồ cai trị 1000 năm (20:4-6): ++ "4+ Tôi lại thấy những ngai, và những người ngồi trên ngai được quyền xét đoán. Kế đó, tôi thấy linh hồn những kẻ đã phải chết chém vì sự làm chứng cho Ðức Chúa Jêsus và vì lời Ðức Chúa Trời, linh hồn những kẻ chẳng thờ lạy con thú cùng hình tượng nó, chẳng nhận dấu hiệu nó, hoặc trên trán hoặc trên tay. Các người ấy được sống và trị vì với Ðấng Christ trong một ngàn năm. 5+ Còn những kẻ chết khác chẳng được sống cho đến khi đủ một ngàn năm. Ấy là sự sống lại thứ nhất. 6+ Phước thay và thánh thay những kẻ được phần về sự sống lại thứ nhất! Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên những người ấy; song những người ấy sẽ làm thầy tế lễ của Ðức Chúa Trời và của Ðấng Christ, cùng sẽ trị vì với Ngài trong một ngàn năm." (20:4-6). +++49 Satan được thả ra, rồi phải bị thua đời đời (20:7-10): -- "7 Khi hạn ngàn năm mãn rồi, quỉ Sa-tan sẽ được thả, 8 và nó ra khỏi ngục mình đặng dỗ dành dân ở bốn phương trên đất, dân Gót và dân Ma-gót; nó nhóm chúng lại để chiến tranh, đông như cát bờ biển. 9 Chúng nó lên khắp các vùng rộng trên mặt đất, vây dinh thánh đồ và thành yêu dấu. Nhưng có lửa từ trên trời rơi xuống thiêu diệt chúng nó. 10 Còn ma quỉ là đứa đã dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống hồ lửa và diêm, trong đó đã có con thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời." (20:7-10). +++50 Sự Phán Xét Cuối Cùng (Tòa án Đức Chúa Trời) (20:11-15): ++ "11+ Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Ðấng đang ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. 12+ Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa, và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa, là Sách Sự Sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy. 13+ Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. 14+ Ðoạn, Sự Chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. 15+ Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa." (20:11-15). +++51 Trời mới, Đất mới, Giêrusalem mới (21): ++ "1+ Ðoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. 2+ Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Ðức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình." (21:1-2). ++ "3+ Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Ðức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Ðức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4+ Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết ,cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi." (21:3-4). ++ "5+ Ðấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, Ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Ðoạn, lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung tín và chân thật. 6+ Ngài lại phán cùng tôi rằng: Xong rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là đầu tiên và cuối cùng. Kẻ nào khát, Ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không." (21:5-6). ++ "7+ Kẻ nào thắng sẽ được những sự ấy làm cơ nghiệp, Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời người và người sẽ làm con Ta." (21:7). -- "8+ Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự chết thứ hai." (21:8). +++52 Thành Thánh Trên Nước Thiên Đàng (21:9-27): ++ "10+ Rồi tôi được Thánh Linh cảm động, thiên sứ đó đưa tôi đến trên một hòn núi lớn và cao, và chỉ cho tôi thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trên trời, ở nơi Ðức Chúa Trời mà xuống" (21:10). ++ "22+ Ở đó, tôi không thấy đền thờ nào; vì Chúa là Ðức Chúa Trời toàn năng và Chiên Con đều là đền thờ của thành. 23+ Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng để soi sáng; vì vinh hiển của Ðức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là ngọn đèn của thành. 24+ Các dân sẽ đi giữa sự sáng thành đó và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển mình vào đó. 25+ Những cửa thành ban ngày không đóng, vì ở đó không có ban đêm. 26+ Người ta sẽ đem vinh hiển và phú quí của các dân đến đó; 27+ kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối không hề được vào thành; nhưng chỉ có những kẻ đã biên tên trong sách sự sống của Chiên Con." +++53 Phước của kẻ được chọn, Sông Nước sự sống, Cây sự sống (22:1-5): ++ "1+ Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Ðức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra. 2+ Ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân. 3+ Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Ðức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; 4+ chúng sẽ được thấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Ðêm không còn có nữa, 5+ và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Ðức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời." (22:1-5). +++54 Chúa Jêsus Christ Trở Lại (22:7-21): ++ "7 Kìa, Ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách nầy!" (22:7). +++ Thờ phượng Chúa duy nhất (22:8-9): "Hãy thờ phượng Ðức Chúa Trời!". +++ "10+ Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì thì giờ đã gần đến." (22:10). ++ Kẻ không đổi lòng: + "11 Kẻ nào không công bình, cứ không công bình nữa; kẻ nào ô uế, cứ còn ô uế nữa; kẻ nào công bình, cứ làm điều công bình nữa; kẻ nào là thánh, cứ làm nên thánh nữa!" (22:11) ++ "12 Nầy, Ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với Ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm." (22:12). ++ "13+ Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là thứ nhất và là sau chót, là đầu và là rốt. 14+ Phước thay cho những kẻ giặt áo mình đặng có phép đến nơi cây sự sống và bởi các cửa mà vào trong thành!" (22:13-14). +++ "16+ Ta là Jêsus, đã sai thiên sứ Ta đến làm chứng về những sự đó cho các ngươi trước mặt các Hội thánh. Ta là chồi và hậu tự của Ða-vít, là sao mai sáng chói." (22:16). ++ "17 Thánh Linh và vợ mới cùng nói: Hãy đến! Kẻ nào nghe cũng hãy nói rằng: Hãy đến! Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không." (22:17). +++ "18+ Tôi ngỏ cho kẻ nào nghe lời tiên tri trong sách nầy: nếu ai thêm vào sách tiên tri nầy điều gì, thì Ðức Chúa Trời sẽ thêm cho người ấy tai nạn đã ghi chép trong sách nầy. 19+ Và kẻ nào bớt điều gì trong những lời ở sách tiên tri nầy, thì Ðức Chúa Trời sẽ cất lấy phần họ về cây sự sống và thành thánh, mà đã chép ra trong sách nầy." (22:18-19). +++ "20+ Đấng làm chứng cho những điều ấy, phán rằng: Phải, Ta đến mau chóng. A-men, lạy Đức Chúa Jêsus, xin hãy đến! 21+ Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Jêsus ở với mọi người!" (22:20-21).
--------------------------------------------------------------------------------
(<<) DIỄN BIẾN LỊCH SỬ
B.C. (Trước Công Nguyên):
(430? - 7?) Khoảng 400 năm im lặng (không có lời tiên tri)
37 Vua Herod the Great bắt đầu cai trị xứ Palestine
6/5 Chúa Jêsus sinh ra
5/4 Gia đình Chúa Jêsus đào thoát qua Aicập
4 Vua Herod the Great qua đời
4/3 Gia đình Chúa Jêsus trở về Nazareth
A.D. (Sau Công Nguyên):
6 Xứ Giuđa trở thành một tỉnh của La Mã (Rome)
6/7 Chúa Jêsus thăm viếng đền thờ tại Jêrusalem
14 Tiberius Caesar trở thành hoàng đế La Mã
26 Pontius Philát trở thành thống đốc
26 Giăng Báptít bắt đầu chức vụ
26/27 Chúa Jêsus bắt đầu chức vụ
28 Chúa Jêsus chọn 12 sứ đồ
30 Chúa Jêsus bị đóng đinh, Phục sinh, và Thăng thiên
30 Lễ Ngũ Tuần: Đức Thánh Linh bắt đầu Hội Thánh
35 Êtiên (Stephen) tử đạo; Phaolô trở về đạo (tin Chúa Jêsus)
38 Phaolo trở về Tarsus
43 Barnabas đến tìm Phaolô
44 Giacơ tử đạo; Phierơ bị bắt vào ngục.
46-48 Phaolô đi truyền giáo lần thứ nhất
50 Hội đồng đầu tiên tại Jerusalem
50-52 Phaolô đi truyền giáo lần thứ hai
53-57 Phaolô đi truyền giáo lần thứ ba
54 Nero trở thành hoàng đế La Mã
57-59 Phaolô ở tù tại Caesarea
59 Phaolô bị bắt đi Rôma (truyền giáo lần thứ tư)
62 Phaolô được thả khỏi ngục
67? Phaolô tử đạo
70 Quân đội La Mã hủy diệt thành Jêrusalem
-------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét