Vũ Hoàng Chương
Ta đã làm chi đời ta
( Bút ký )
Hà, Bắc, Hải, Đông…
Không nhớ rõ năm 1942 ấy đã đi đến tháng thứ bao nhiêu. Chỉ nhớ chắc rằng chuyện xảy ra khoảng mùa Hạ. Vì, nếu không phải mùa Hạ, thì sao có mục “dạo mát trên bờ sông Thương” và mục “ngồi quạt cho người đẹp tỉnh Đông” chứ!
Chiều hôm đó, Hoàng định lên Bắc Ninh, thăm “Biệt phòng” ở xóm Niềm. Mà đã phải nghĩ tới chuyện này, là trong túi đã xu hào không còn rủng rỉnh nữa. Cần một chỗ nằm yên, có người cung phụng đủ thứ, và rủ rỉ đôi lời ân ái suông!
Ai ngờ, cái số thật trớ trêu! Vừa ra khỏi căn nhà phố hàng Cót, để tiến tới ga Đầu Cầu, thì đụng ngay hai gã: Tô Hoài, Nguyễn Bính.
Tác giả Lỡ bước sang ngang tự mắc luôn vào Hoàng, điều này đâu có lạ gì đối với nhà thơ cát bụi ấy. Lạ là lạ ở chỗ anh chàng học trò mặt trắng, hiền lành như con gái kia, là Tô Hoài, cũng nhất định xin kết thành bộ ba “Giang hồ vặt”.
Hoàng cảm thấy hơi nguy, cái nguy của một đầu tàu đang lúc cạn than, củi. Không lẽ chạy toàn bằng nước lã hay sao?
Nhưng, đã đi thì phải đi cho trót. Đến đâu thì đến đâu. Hãy biết một điều: Không mất tiền mua vé cũng cứ “đi” và cứ “đến” được. Hoàng quen khắp mặt các “xếp tanh” (Chef de train) trên quãng đường sắt này mà.
*
Bính và Tô lang thì thích thú lắm, mặc dầu riêng chàng Tô có hơi run…
Bánh sắt quay thong thả, chừng 30 cây số một giờ, nhưng rồi thoáng cái đã đến ga Bắc Ninh lúc nào không biết.
Trên sân ga chỉ thưa thớt mấy chục hành khách; Hoàng nhận ra ngay trong số những tà áo màu tung bay phấp phới một dáng vẻ quen quen. Thì vừa đúng kịp đôi mắt lá răm nhìn lên, và tiếng reo lứn được ném ra, át cả tiếng “xình… xịch” của máy hơi nước.
“Anh Hoàng đấy hả? Chị Tuyết vừa xuống Hà Nội rồi. Em ra đón người quen nhưng chưa thấy bóng vía đâu cả. Anh xuống chứ?”.
Hoàng đẩy vội hai ông bạn quý vào trong toa rồi cũng vào theo; và ló đầu ra ngoài khuôn cửa, nói một cách uể oải lừng khừng:
“Xuống làm gì bây giờ? Thôi để ít hôm nữa Tuyết nó về hẵng hay”.
Cô đào rượu ở nhà hát của Tuyết xóm Niềm nhe răng cười, có vẻ thông cảm lắm.
Cờ lại phất. Còi lại thổi. Và chuyến xe lại tiếp tục lên đường, đem theo ba gã hành khách bất đắc dĩ…
Nhưng chỉ một giờ đồng hồ sau thì đến chỗ “sơn cùng thủy tận”. Vì chuyến xe lửa này chỉ đi đến Phủ Lạng Thương là hết nhiệm vụ. Mà đây, Phủ Lạng Thương rồi. Nguy chưa!...
Đành kéo nhau xuống vậy. Mặt trời cũng đang xuống. Màu nắng quái lê thê trên tỉnh lỵ Bắc Giang. Ngày mùa Hạ dài thật. Và như thế, đêm nay sẽ ngắn. Lời tục nói “Tháng năm chưa nằm đã sáng”; âu cũng là một điều may cho Hoàng.
May nữa là Tô Hoài chợt nhớ ra một người, chắc chắn đang có mặt trong dãy phố yên tĩnh của phủ Lạng, sông Thương. Người ấy là Bàng quân Bá Lân, có nhiều thơ đăng báo và in thành sách, lại có nhà cửa ruộng nương, đồn điền trang trại, khét tiếng vùng này.
Khốn nỗi cả ba đều chẳng ai từng có dịp nhất kiến với ông Bá họ Bàng cả. Không biết đến quấy rầy người ta có tiện chăng?
Nhưng suy đi xét lại, đằng nào cũng là trong văn giới với nhau. “Tương phùng hà tất tằng tương thức”. Bạch Cư Dị chẳng đã bảo thế là gì!...
Quả nhiên khi gặp nhau, chẳng một ai bỡ ngỡ; khách thì rất tự nhiên, mà chủ thì cười nói liên hồi, ra chiều thích thú, an nhiên tự tại lắm.
Rồi cơm được bưng ra, khả dĩ ăn no bụng. Câu chuyện thơ văn cũng được đề cập, khả dĩ thêm hương vị cho chén trà mạn đàm…
Và rồi chủ nhân mời khách cùng ra đường:
“Chúng ta đi dạo phố một lát cho tiêu cơm. Đến cầu sông Thương sẽ quay về ngủ cũng còn sớm chán!”.
Câu nói giản dị này đã tác động với ba chiều hướng khác nhau trong tâm lý rất phức tạp của bộ ba Hoài, Hoàng, Bính.
Chàng Tô thì mãn ý quá. Nhà văn thư sinh này chỉ phiêu lưu theo kiểu Dế Mèn. Bỗng nhiên được ngao du không mất tiền, lại được ăn ngon và hứa hẹn một giấc ngủ kỹ; thế là nhất rồi!
Còn Hoàng, chẳng vui chẳng buồn. Công trình dự định đã sai bét cả, thôi đành lẽ phó cho định mệnh đẩy đưa. Đối với Hoàng, cái tỉnh lỵ Bắc Giang này quá quen thuộc. Cả đến con sông Thương nước chảy đôi giòng kia, đục phía nào trong phía nào Hoàng cũng nhắm mắt mà thấy được. Lại thấy cả trong ký ức những nhà ai nhà ai nơi xóm hát bên kia cầu! Nhưng thôi, gió chưa lên, hãy dạo mát đôi ba vòng rồi về ngủ cũng tạm ổn. “Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục” mà!
Tuy nhiên, Bình thì hận lắm. Nhà thơ này cứ tưởng thế nào chủ nhân cũng đãi một chầu hát linh đình, gọi là đánh dấu cuộc hội ngộ “Tứ bất tử” mới đích đáng chứ! Đi khắp thiên hạ, mòn gót giầy gẫy bánh xe để tìm “tri kỷ”, mà “tri kỷ” lại bảo dạo phố rồi về ngủ sớm, trước mười giờ tối; hỏi có ức không?
Thế rồi lỉnh kỉnh suốt đêm hôm ấy, Bính cứ ngồi dậy hút thuốc lào vặt hoài.
“Lắm muỗi quá, Hoàng nhỉ?”
“Ừ thì lắm muỗi. Ở đây gần rừng rồi mà! Phủ Lạng còn khá đấy, chứ lên chút nữa, như Bố Hạ, Bắc Lệ thì phải biết, thiếu màn, không nhắm mắt được yên đâu!”
“Thế mà Tô Hoài nó ngả lưng xuống là “kéo gỗ” liền. Chịu thật!”
“Thì đang sức ăn sức ngủ của người ta”.
“Đành rồi! Nhưng chúng mình khác”.
Làm thế nào cho qua được đêm nay đây?... À, Bính với Hoàng liên ngâm một bài chơi đi. Thử lấy vần điệu làm binh lực phá cái thành Sầu này xem sao!
“Phá thì phá. Ra quân trước đi! Cho nó “Lỡ bước…” một thể”.
“Khó gì. Đây câu đầu:
Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương”.
“Vần này dễ. Hoàng nối đây này:
Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương”.
“Hay! Tiếp câu ba luôn đi; rồi Bính sẽ đối cho thành câu bốn và ném câu năm ra liền”.
“Thong thả! Ý thì sẵn nhưng vận dụng chữ nghĩa hơi khó. À, đây rồi:
Sở tại bàng quan chầu xuống xóm”.
“Chữ “bàng quan” nhẹ quá, nhưng chữ “Sở tại” thì hay, hay!... Bính đọc tiếp câu bốn câu năm nhé!”
Nói vậy thôi chứ Bính loay hoay mãi, hút đến cả chục mồi thuốc lào, và bị Hoàng giục đến lần thứ ba rồi Bính mới cười vang lên, và lấy giọng đọc:
“Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường.
Hai giòng trong đục thêm ngao ngán”.
Hoàng trầm ngâm một phút:
“Dùng chữ “bá ngọ” người ta tưởng mình là sư thì sao? À mà… “Anh hùng mạt lộ án vi tăng [1] “; làm sư một nửa thì “bá ngọ”được lắm! Nhưng “Hai giòng trong đục”, khó đối cho Hoàng quá! Đề nghị sửa thế này:
Giòng trong giòng đục thêm ngao ngán,
Và Hoàng sẽ đối:
Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương”.
Bính nhảy dựng lên:
“Tài lắm. Gợi cảm đến chết người! Hoàng làm cho Bính càng hận vô tả. Nghe rõ từng tiếng đàn đáy đang “chùm chín chùm xanh” ở bên tai…”
Thế rồi cả hai cùng nằm xuống giường nghĩ nốt hai câu kết. Loanh quanh thế nào ngủ quên mất. Chắc chắn là Bính ngủ sau Hoàng.
Mãi đến khi cáo biệt Bàng quân ra ga Phủ Lạng để “hồi đô”, mới hoàn tất được bài Liên ngâm, trước sự ngạc nhiên của tác giả O Chuột và Dế mèn phiêu lưu ký.
Chép lại toàn bài như sau:
Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương
Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương.
Sở tại bàng quan chầu xuống xóm,
Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường,
Giòng trong giòng đục thêm ngao ngán,
Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương.
Nằm muỗi qua đêm chờ sáng dậy:
Còn xe Phong hỏa xé màn sương!
*
Cái hận “thiên trường địa cửu” nói trên, ngay chiều hôm sau là đã rũ được. Thật ra, đó chỉ là hận của Bính. Chứ Tô Hoài thì khi chia tay ở khởi điểm (ga Đầu Cầu) để lấy xe điện về Bưởi, đã tỏ ra mười phần thỏa mãn. Còn hẹn với Hoàng lần sau tiện dịp cứ đem theo.
Nhưng về phần Hoàng, chẳng đến nỗi hận như Bính đã đành; thế mà vẫn cảm thấy nó thế nào ấy, làm Đầu tàu mà đi giang hồ hão như vậy, cũng đủ mang tiếng “chí lớn tài sơ” rồi còn gì!
May sao cặp Hoàng “Bính vừa đi đến bờ Hồ thì Chu Ngọc ở đâu hiện ra, đầu chải bóng chứ không bù xù như mọi khi, lại cả giầy cũng bóng lộn nữa.
“Hai “ông” biến đi đâu mà từ chiều qua đến giờ tìm đảo thiên đảo địa khắp nơi không thấy?... Đi! Lên xe cho mau. Anh em đang đợi ở nhà Chu Thị”.
Ngọc còn nói nhiều nữa lúc bộ ba đã nhảy lên hai chiếc xe kéo, trực chỉ xóm Khâm Thiên.
Tuy vậy, Hoàng đã có nhiều kinh nghiệm với anh chàng Ngọc này quá rồi. Hắn mời đi nghe hát đừng có vội “tưởng bở”.
Y như rằng! Hắn và Vũ Trọng Can đã “cháy” ở nhà Chu Thị từ hai hôm, sáng nay ông Can đã lấy được của Bắc kỳ dịch đoàn (do Claude Bourrin) một số tiền về tác quyền mấy vở thoại kịch mà ban này đem đi lưu diễn các nơi. Vừa đúng cơ hội người ta quay về Hà Nội nghỉ chân thì ông Can tìm đến đòi… thanh toán.
Nhưng số tiền cũng chẳng lớn bao nhiêu. Trang trải hai hôm trước thì còn dư chút ít, mà nằm ỳ lại đêm nay thì nhất định thiếu mất rồi. Dở dang quá.
Bắt được Hoàng ở bờ hồ, Ngọc như bắt được của. Lý do là trong số mấy anh em nhà văn lêu têu, chỉ riêng Hoàng có “công ăn việc làm” đều đặn: mỗi tuần lễ xuống Hải Phòng dạy hai ngày tại một tư thục lớn; mà hai ngày tức là mười sáu giờ, tính thành tiền được ngót ba chục bạc rồi. Giá tiền một chầu hát chỉ bảy hay tám đồng thôi, làm gì không trả được! Không sẵn tiền đem theo cũng không hề chi; nói một câu là “bà chủ” cho khất liền, nhất là khi “bà chủ” lại nhiều cảm tình với bọn văn nhân như Chu Thị.
Dầu sao, hôm nay đã thứ Bảy. Nội nhật ngày mai Hoàng phải có mặt ở Cảng để thứ Hai, thứ Ba còn dạy học chứ!
Quả nhiên, mọi việc “đâu vào đấy” cả. Giữa trưa hôm sau – Chủ nhật – Hoàng từ biệt Dì Năm, đem theo luôn cả Bính và Ngọc xuống Cảng. Riêng Vũ Trọng Can, còn có hẹn với nhà xuất bản nào ở Hà Nội không biết, nên đành chia tay.
Xuống đến Cảng là vững. Chỗ “làm ăn đứng đắn” của Hoàng kia mà! Huống hồ nhà thơ Lan Sơn, bạn thân của Hoàng tại đó, lại sẵn một Gia ca thất; có túng quá thì “hát nhà” chứ sao! Đủ lệ bộ hết. Trống, phách, đèn, đóm… tha hồ.
Nguyên ủy cũng ly kỳ lắm, nhà thơ tác giả “Anh với Em” trẻ tuổi mà tài cao: mới 20 tuổi đầu đã thi đỗ ông phán tòa Đốc lý. Rồi cưới được người mình yêu. Hạnh phúc nhất thiên hạ. Biết đâu ông Trời ghen thét: giữa đường đứt gánh phu thê, nhà thơ lãng mạn này bỗng hóa thân một bông Lan ủ rũ. Mà ủ rũ ghê gớm, một hai những tưởng hương chìm trong cánh rụng trong… hang. Nhưng rồi Nàng Tiên của Động Nâu mơn trớn thế nào mà Lan dần dần phục hồi được sinh lực, hay nói cho đúng hơn, lòng yêu đời. Lan đã tục huyền với một danh ca tỉnh Đông, và tổ uyên ương nơi đồng chua nước mặn, lại có bàn tay ngà săn sóc.
Hoàng xuống Cảng từ đầu năm 1941, thời thường vẫn là thực khách của hai vợ chồng rất “nghệ sĩ” này.
Một ngày kia, Lan tâm sự:
“Mình sắp trở thành “bác trai” đây”.
“Hả?”
“Đừng ngạc nhiên…! Cô nàng cứ đòi ra mở nhà hát. Lý luận rằng: Trước kia ở đây chỉ có xóm Quán Bà Mau độc chiếm thị trường, mặc dầu khá xa trung tâm thành phố; bây giờ xóm Quần Ngựa lác đác có mấy nhà mở, đông khách vô cùng, vì lẽ nó gần, lại khang trang hơn. Cô nàng bảo đó là dịp tốt. Sẵn vốn liếng, tiền bạc, giọng ca, xuân sắc và cả đàn em nữa, tội gì không ra thi thố với đời?”
“Thế cái nhà dột trong ngõ hẹp này anh trả lại à?”
“Không, chỉ cô nàng phải lên trên xóm Quần Ngựa trông nom thôi chứ. Còn mình thì đi đi về về…”
“Một chốn đôi quê, mệt nhỉ?”
Nói thế thì nói, chứ Hoàng cũng không chính thức góp ý kiến gì cả. Lan trở thành “bác giai” càng vui chứ có sao đâu.
Còn Nguyễn Bính và Chu Ngọc thì đích thực là số đỏ. “Nhà hát” của Lan Sơn vừa khai trương được hai tuần xong, đang hồi thịnh đạt. Ban ngài làng văn từ Hà Nội xuống, cứ việc thiết lập “Hành đô”, gió nổi lớn càng hay; bằng không, Hoàng và Lan sẽ chia nhau gánh chịu phí tổn, mỗi người một nửa; “bà chủ nhà hát”, không phiền hà gì. Còn làm mối cho bạn cô này cô kia là khác ấy chứ!
Dầu sao, Hoàng cũng phải lo chu tất mọi chuyện. Hiện kim chưa có được ngay; phải khất lại đến giữa tháng mới ký “bông” ở trường học được, thì cũng là hát “cháy” rồi còn gì?
Huống hồ Bính lại bảo: “Cây nhà lá vườn mãi, chán chết. Phải xuống Quán Bà Mau một phen mới vơi nổi cái sầu vạn cổ này”.
Thế là đám “cháy” lan rộng ra mãi, dập tắt sao cho hết được bây giờ?
Bởi thế, Hoàng mới hạ bút một bài "Mưỡu nói", tạm lấy chữ “cháy” làm nhan đề:
Từ đêm Chu Thị cháy nhà,
Cháy vào Hà Nội cháy ra Hải tần.
Cháy xa thôi lại cháy gần,
Một phen dung hỏa, mấy lần cầu phong!
Cháy hoài cháy hủy
Gió không nhiều, âm ỉ cháy lan man.
Dụng hỏa công tài nghệ lấn Chu Lang,
Trí dũng vượt Trương Lương cầu Sạn đạo.
Tam nguyệt Hàm Dương tro lạnh lẽo,
Tứ vi Bàn Cốc khói lưa thưa.
Thuyền, cầu, hang, cung điện hỡi mấy ngàn xưa!
Đây cuộc cháy hãy còn to thập bội!
Ấy ba gã tuềnh toàng cùng một hội.
Chẳng đường hẻm lau khô, cũng không cần gió nổi,
Cháy từ đêm Hà Nội cháy loang ra…
Lửa chơi ai dập cho bà?
*
Hoàng xuống Hải Phòng đã được bốn hôm. Đám “cháy” lan rộng có nguy cơ khốn, thì may quá – một cái may bất ngờ – Chu Ngọc đi lêu têu thế nào lại vào đúng đường dây của một ông chủ rạp hát đang muốn làm việc nghĩa. Việc nghĩa theo nghĩa đúng. Nghĩa là: Trình diễn một buổi kịch long trọng, lấy tiền giúp vào việc chẩn tế các nạn nhân bị thiên tai, quanh vùng Hải Kiến thì phải. Tuy tham dự vào nghĩa cửa cao đẹp này, Ban Kịch của bộ ba Ngọc – Hoàng – Bính vẫn được hưởng thù lao tương xứng. Và nhất là được người tổ chức đưa trước một số tiền để sửa soạn các thứ: diễn viên, y phục, bài trí v.v…
Chu Ngọc vui như trẻ con được cho kẹo, nói cười huyên thuyên:
“Kịch thì sẵn rồi. Một kịch xuôi – Thế Chiến Quốc – của Trần Tử Anh [2] ; và một kịch thơ – Bóng giai nhân [3] – của Nguyễn Bính. Chỉ còn lo mấy chuyện lặt vặt. Nhưng có hai việc phải làm ngay. Việc thứ nhất: chọn một danh xưng cho Ban Kịch mới, chẳng lẽ gọi là Ban Kịch Bộ Ba, hay Ban Kịch Ngọc Hoàng Bính!”
“Khó gì!” – Hoàng góp ý kiến – “Chúng ta đã nổi gió từ Hà Nội bốc xuống đây, thì cứ đặt phăng là Ban Kịch Hà Nội và lấy Tháp Rùa làm huy hiệu ấn tín, cho nó hách một thể”.
“Đúng! Còn việc thứ hai là… dời khỏi nơi này gấp. Nằm lâu quá, ê ẩm cả xương cốt; chúng ta phải ra Đồ Sơn tắm biển mấy hôm cho sạch sẽ mát mẻ đôi chút, rồi mới bắt tay vào việc được”.
Bính không phản đối nhưng xem ra muốn nằm lỳ ở Quán Bà Mau hơn là đi tắm biển. “Trưởng giả quá!”… Bính vừa nói vừa bĩu môi.
Tuy nhiên, người cầm tiền bây giờ là Chu Ngọc. Hoàng tạm thời nhường lại cái chức Đầu tàu cho y. Bính có nhõng nhẽo với Hoàng cũng vô ích. Huống chi Hoàng đã lưu lại nhiều cảm tình, vô số người đang muốn gặp để kéo đi ngồi nghe sóng biển mơ dựng những lâu đài bằng cát cho tương lai …
Thế là bộ ba tạm sống được 48 giờ lành mạnh ở bãi biển, ra cái điều cũng “vui vẻ trẻ trung”, không thua gì thiên hạ đâu!
Nhưng đến giờ thứ 49 thì… đành… hàng. Chịu không nổi nữa cái vẻ mặt đưa đám và cái giọng ngâm thơ đứt ruột của Bính. Chừng như suốt bao đêm hát “cháy”, Bính chẳng tìm được cặp mắt nào gọi là hơi xanh xanh một chút cả. Cô nào cũng nông cạn, vô duyên đến phát khóc lên. Cặp mắt đã vậy, tấm lòng thì:
Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu [4]
“Bính nó khổ quá” - lời Chu Ngọc – “thôi bọn mình “bốc” về Hà Nội đi. Cho nó nằm một chỗ nào thật vững; rồi chúng mình còn lo công việc chứ”.
“Được lắm!” Bính cướp lời – “nhưng không về Hà Nội, mà ghé Hải Dương kia!”
“Sao lại Hải Dương?” – Cả Ngọc cả Hoàng cùng hỏi dồn dập – “Hải Dương thì khác gì Hải Phòng?”
Bính nháy mắt:
“Bí mật chưa thể tiết lộ. Hai ông hẵng cứ biết là đưa Bính xuống tỉnh Đông cái đã. Tới nơi rồi khắc biết lý do”.
*
Chu Ngọc, một nhân vật khá đặc biệt trong giới Văn Lâm. Vì thật ra, Ngọc chẳng hề viết một bài văn nào, chứ đừng nói đến xuất bản thành sách. Thế mà Ngọc quen hầu hết anh chị em trong làng, và chẳng bị một ai ghét bỏ hay phủ nhận. Ngọc khoe với Hoàng rằng đã từng viết nhiều bài báo, phê bình phim Cánh đồng ma, lý luận xác đáng và phong phú đến độ thiên hạ mặc nhiên coi Ngọc như một chuyên viên sân khấu. Rồi Ngọc tự phong cho mình cái danh hiệu “đạo diễn”. Thì Hoàng cũng biết vậy thôi. Và lẽ dĩ nhiên, Ngọc sẽ là Đạo diễn của Ban Kịch Hà Nội; sẽ phụ trách dựng hai vở kịch: Thế chiến quốc và Bóng giai nhân.
Trong bộ ba Ngọc – Hoàng – Bính, Ngọc là người thực tế nhất; không gặp đâu hay đó như Hoàng, không đau khổ vớ vẩn như Bính. Cho nên khi xe lửa tiến vào ga Hải Dương, Ngọc tính toán rất kỹ:
Qua đêm nay, mai tôi về Hà Nội sớm. Bảo cho Lê Trọng Quỹ biết để hắn liệu thủ vai Ngô Thì Nhậm trong vở Thế chiến quốc; Ngọc Đĩnh sẽ thủ một vai quan trọng khác: vai Đặng Trần Thường. Những vai còn lại, ít quan trọng, thế nào trong 24 giờ cũng tìm ra. Chỉ lo vở Bóng giai nhân vì đó là kịch thơ, một hình thức sân khấu còn xa lạ đối với khán giả, nhất là khán giả của nơi đồng chua nước mặn vốn là một cửa biển, thích hợp với chuyện kỹ nghệ chuyện thương mại hơn chuyện thơ phú văn chương. Nhưng cũng may ở điểm kịch Bóng giai nhân chỉ có ba vai rưỡi…
“Sao lại… rưỡi?”
“Thì cái vai giai nhân đó, chỉ là bóng thôi, chỉ xuất hiện trên sân khấu dạo qua dạo lại mấy lần thôi; chứ có nói một lời hay ngâm một câu thơ nào đâu. Khoản ấy đỡ mệt cho mình lắm nhé”.
“Nhưng còn ba vai kia?”
“Đều là vai nam cả. Bính, tác giả, sẽ sắm vai Lý Đạt, thợ đúc gươm. Hoàng thì sắm vai tráng sĩ đi tìm mua gươm báu. Ổn quá rồi. Chỉ còn việc về Hà Nội tìm người thủ vai Đạo sĩ nữa là xong. Mà, vai này nhẹ; Kim nó thủ được đấy”.
“Kim nào?”
“Trần Huyền Trân ấy mà [5] !”
“Ừ, cứ cho là được đi”.
“Vậy ông Bính chỉ chỗ hiện nay vở kịch để ở đâu. Tôi về Hà Nội lấy đem xuống đây ngay, nội nhật ngày mai thôi. Ông và Hoàng sẽ tập dượt với nhau đi, càng xong sớm càng tốt. Mà… mà… Bính là tác giả tất phải thuộc ít nhiều chứ? Ngay ngày mai, trong lúc vắng tôi, hai ông có thể cứ bắt đầu tập rượt theo phép “truyền khẩu” được rồi”.
“Diễn kịch chứ đi ăn cướp đâu mà gấp thế?
“Còn khó hơn đi ăn cướp nhiều. Không gấp sao được! Nhưng nói vậy thì nói; chứ ai dám ra lệnh cho các ông!”
Từ nãy đến giờ, độc có Hoàng đối đáp với Ngọc, còn Bính chỉ ậm ừ; vì bao nhiêu tâm trí còn để cả vào việc “tìm lối Thiên Thai”. Bỗng nhiên, Bính dừng bước ngó quanh ngó quẩn, xác định phương hướng, rồi reo lên:
“Đây rồi”.
Thì ra, hôm còn ở Cảng, Bính đã tỉ tê thế nào chả biết với Lan sơn phu nhân, nên được giới thiệu ngay nhà bà Nghị ở xóm Đầu Ghi… nơi xuất thân của chính phu nhân, trước khi về làm vợ một thi sĩ nổi tiếng, đã từng được Thế Lữ ca ngợi trên tuần báo Phong Hóa từ năm xửa năm xưa, cái thuở ban đầu của phong trào Thơ Mới.
Nhà bà Nghị quả nhiên sang thật, Tủ chè sập gụ, câu đối hoành phi bóng lộn. Các em đào nương lố nhố đến cả chục, đủ cỡ tuổi, từ trăng tròn đến trăng khuyết, trăng tàn lụi, trăng vô ảnh vô tung…
Đích thân bà Nghị ra nói chuyện, mời uống trà, và hát một bài cho quý khách nghe. Giọng hát vững thật; không trách từ ba mươi năm trước bà đã nức tiếng danh ca, khiến cho ông Nghị viên tỉnh Đông này say như điếu đổ, phải cưới làm “đệ nhị phòng”.
Nhưng điều đáng kể nhất là cô con gái của ông Nghị và bà Nghị: Cô Hoài. Một con người ngọc, thanh sắc lưỡng toàn, lại thông thạo chữ nghĩa, tiểu thuyết của Khái Hưng, của Ngọc Giao, của Thanh Châu, v.v. ném tứ tung ngũ hoành khắp giường ngủ, bàn phấn.
Kịp đến khi người ngọc ra ngồi gieo phách thì – nếu Hoàng không lầm – cả bộ ba đều bị tiếng sét ái tình giáng xuống cân não…
Hồng Hồng Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào chưa biết cái chi chi [6] …
Giọng của người ngọc tất phải là giọng ngọc rồi, có khen cũng bằng thừa.
Tiếng sét ban đầu truyền điện ra càng mạnh. Thế này thì không khéo cả ban kịch Hà Nội với huy hiệu Tháp Rùa cũng bị đánh tan mất!
Nhưng còn may là Chu Ngọc đang mải tính toán việc dựng kịch, nên chỉ bị sét đánh ngất ngư. Nằm ngay đầu sóng ngọn gió là Hoàng với Bính; lại thêm ngọn đèn thần ở giữa hai ngọa khách này, khiến cho tiếng sét bổ xuống, gặp lửa càng phản kích sang hai bên. Hoàng và Bính tự nhận ra tiền thân họ Lưu họ Nguyễn. Chỉ phiền nỗi động Tiên có độc một nàng tiên mà thôi! Ác thế chứ!
Ác nhất là mai đã lại Chủ nhật rồi. Mà Chủ nhật tức nhiên Hoàng phải có mặt ở cảng để thứ Hai còn dạy học. Vả chăng còn phải về ký “bông” trang trải mọi thứ và giữ chút đỉnh làm vốn liếng. Ít ra cũng tối thứ ba mới tái đáo Thiên Thai được. Hận không?
Hình như Bính đã biết rõ những điều ấy hay sao mà coi bộ đắc ý lắm.
Xóm Ghi không có điện – điện hiểu theo nghĩa đen – nên không có quạt máy; nóng quá đi mất! Lại cái đèn “măng-xông” treo giữa nhà càng tỏa ra một nhiệt lượng kinh khủng. Người ngọc với mặt hoa mà nhễ nhại mồ hôi thì đứt ruột cho kẻ si tình biết mấy! Cho nên Bính cứ phải “… anh hầu quạt đây [7] “ luôn bên cạnh. Chả biết “lòng anh” có “mơ với quạt này” không, nhưng “lòng em” thì vẫn… “như chiếc lá khoai” thì phải. Nghĩa là cô Hoài vẫn có vẻ khủng khỉnh thế nào! Ít nói quá, chỉ cười chiếu lệ thôi.
Hoàng đang hận về cái mục trưa mai phải tạm thời “xuống núi” nhìn thấy cảnh đó càng nóng mắt, đã tính bảo cô ta vào nhà trong đi nghỉ cho được việc.
Nhưng chưa kịp mở miệng thì bà Nghị đã ra xin phép cho cô con gái cưng trở gót phòng loan. Đồng thời cũng ra lệnh cho đám “con nuôi” quạt màn để “các ông ấy” yên giấc.
Đêm nay hẳn tác giả Lỡ bước sang ngang phải hút thuốc lào vặt nhiều hơn cái đêm “Bắc Giang nằm muỗi”…
Theo đúng kế hoạch, sớm hôm sau Chu Ngọc lên đường từ lúc gà gáy.
Hoàng ngủ lỳ đến 11 giờ và toan ngủ nữa. Nhưng Bính lôi dậy cho kỳ được. Để Hoàng còn ra xe đi Hải Phòng chứ! Tử tế quá!
Hoàng biết vậy, liền chỉnh đốn y phục, ăn uống qua loa rồi chậm rãi nói chuyện với “ông bạn”:
“Còn nhớ chuyện Công Cẩn với Khổng Minh cùng mưu hạ Nam quận chứ [8] ?”
“Lạ gì! Nam quận do Tào Nhân trấn thủ, tường đồng vách sắt mà!”
“Cái việc trấn thủ mặc người ta. Hẵng nói việc mình. Tôi, Khổng Minh, nhường cho cậu, Công Cẩn, đem binh tấn công trước. Nhưng nếu thất bại thì đến lượt tôi đấy nhé! Đừng có than trời!”
Bính đồng ý ngay, coi bộ hừng lắm. Và Hoàng lẳng lặng ra xe. Mặc cho Bính độc chiếm giang sơn, yên trí rằng tối nay Ngọc sẽ từ Hà Nội xuống; còn Hoàng thì ít nhất cũng phải hai ngày sau. Càng nghĩ đến chuyện “nhường Nam quận”, càng thấy mình dại quá. Tuy nhiên, tính Hoàng vốn dĩ “gặp đâu hay đó”; về đến Cảng là quên ngay.
Thế mà không hiểu sao, suốt ngày thứ Hai, Hoàng nóng ruột vô hạn. Dạy học chẳng đâu ra đâu. Tới hôm thứ Ba thì đành dạy nốt buổi sáng, rồi ký “bông” và ra xe liền. Mấy giờ buổi chiều đã nói khó với một bạn đồng nghiệp nhờ thay tạm…
Lên đến Hải Dương mới hai giờ trưa. Hoài còn đang ngủ, mà… không có ai ngồi quạt bên cạnh mới lạ chứ! Ô hay, Bính đâu? Ngọc đâu rồi? Vắng tanh thế này nghĩa là gì?
Nhưng, kìa… Hoài đã thức giấc, ngồi dậy quấn lại tóc. Cái dáng vẻ của người ngọc lúc này sao gợi cảm thế! Bắt gặp một mỹ nhân vừa ngủ dậy mà thấy đẹp được, xúc động được, mê được… mỹ nhân ấy mới đích thực là “mỹ nhân”.
Cho nên Hoàng quên phắt cả hai ông bạn. Quên luôn cả chính mình đang ở đâu. Và… rồi cũng… tiến đến ngồi quạt hầu bên cạnh!...
Mãi đến chiều, Hoài mới đưa cho một mảnh giấy nhàu nát, chẳng biết lôi từ đâu ra!
“Cái ông tóc quăn quăn ấy bảo hễ anh xuống thì trao tận tay anh”.
“Thế còn ông kia?”
“Thì anh cứ xem trong giấy nói gì đã!”
Hoàng tuân lệnh. Thư rằng:
“Tôi mắc công việc ở Hà Nội, mãi sáng thứ Hai mới xuống Hải Dương. Lại bán được một tập thơ hộ Nguyễn Bính. Nhà xuất bản Hương Sơn ấy mà! Biết rằng ông còn ở Cảng đến chiều tối mới lên đây, tôi và Bình đành về Hà Nội từ sáng sớm để còn lãnh tiền tập thơ ấy chứ! Đợi ông thì mất đứt một ngày còn gì. Vậy ông tiếp được thư cũng liệu mà lên gặp chúng tôi ở Hà Nội ngay nhé! Công việc đang tiến hành. Ký tên: “Chu Ngọc”.
Lên ngay! Lên ngay!... Nhưng lên thế nào được! Giữa trưa xông vào nhà hát của người ta. Lại tri kỷ vụn cho đến bây giờ. Sắp lên đèn cả xóm rồi. Nói mới dễ nghe nhỉ?
Huống hồ lại đã mất công quạt cho người đẹp mấy tiếng đồng hồ rồi. Ít nhất cũng phải “neo thuyền” ở đây một đêm chứ!
Mặc dầu là nghe hát… một mình!...
Có điều lạ là hôm nay Hoài vui ghê lắm. Cứ nhảy như sáo ấy thôi. Điệu này thì Nguyễn Bính hạ Nam quận chắc không xong. Vả lại nếu thắng trận thì có thiên lôi cũng chẳng “kích” được Bính ra khỏi tỉnh Đông, chứ đừng nói Chu Ngọc! Bán được thơ lại càng có điều kiện nằm lỳ ở đây chứ. Ừ… ừ…! nhất định không xong rồi.
Thế là Hoàng cao hứng. Gọi trống phách đèn đóm cứ tưng bừng. Và bảo em Hoài rằng:
“Thôi! Hát mãi những bài cũ, chán chết! Đem giấy bút ra đây, anh viết một bài mới, xem có hay hơn bất cứ bài cũ nào không”.
Và sau đây là bài Mưỡu nói do chính Hoài đã hát đêm ấy cho độc một người nghe:
Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa!
Sông Hoài thuyền ghé lân la
Giai nhân danh sĩ là ta với mình.
Nhu hoài nhất phiến
Gió say này quạt đến… cháy vần Ô,
Ai thề hoa ước quạt những ngày xưa?
Hoa ngại nắng, quạt sầu mưa, ngàn vạn kiếp!
Ráo chén, hồn hoa cười phấn điệp,
Duyên đề, xác quạt nhớ tiền thân.
Mộng Trạng Sinh ngủ lại bến sông Tần,
Muôn canh quạt xa gần chen cánh bướm…
Ta chẳng có hẹn núi, thề sông, tình trao duyên ướm.
Chỉ hoa nồng quạt đượm cứ hoài say.
Say hoài quạt chẳng dời tay.
*
Cũng phải thêm rằng bốn câu Mưỡu chỉ có một câu thật sự của Hoàng: câu thứ ba. Còn câu một câu hai là “Tập Kiều” và bốn câu mượn tạm của Nguyễn Bính [9] .
Nguyên do đêm đầu tiên gặp em Hoài, Bính đã cùng với Hoàng đặt liên tiếp hai bài “Hát hãm” mỗi bài bốn câu. Như thường lệ Bính nhập cuộc là ra quân ngay: mặc dầu chỉ là một câu “Tập Cổ”:
Bán sinh phong cốt lăng tằng
Hoàng tiếp:
Nhu hoài nhất phiến sao bằng gửi đây.
Bính không ngần ngừ:
Tỉnh Đông mà có mái Tây,
Hoàng phải nghĩ một phút mới hoàn tất được:
Hồ vơi cung Bắc lại đầy gió Nam.
Đó là bài “Hãm” thứ nhất, còn bài thứ hai thì chính là bốn câu Mưỡu như trên đã chép. Hoàng ra quân trước:
Bấy lâu đáy bể mò kim
Bính rất thuộc Truyện Kiều, nên tiếp ngay:
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa!
Hoàng nối thành câu thứ ba, mà điều kiện bắt buộc là phải có chữ Hoài:
Sông Hoài thuyền ghé lân la.
Bính được dịp cười ha hả; vì Bính chỉ có việc lấy câu thơ vẫn ngâm hàng ngày ra, lựa vần nối luôn, ý lại cũng hợp mới thú chứ. Câu thơ ấy gốc ở câu nói trong Tam quốc chí: “Thiên hạ anh hùng, Sứ quân dữ Tháo”; và Bính vẫn tự khen là “tuyệt”, phải khuyên son đủ tám chữ:
Giai nhân danh sĩ là mình với ta.
Nhưng nếu cứ “khiêng” cả câu này vào bài “Hãm” thì lạc vần, nên Bính đảo lại:
Giai nhân danh sĩ là ta với mình.
Hoàng đề nghị đổi quách ra thành:
Nào ai danh sĩ, ai là giai nhân?
Bính không chịu, bảo rằng tách rời giai nhân ra khỏi danh sĩ là “nhảm”, là “vô tình”, v.v.
Bính ơi Bính, đêm nay chẳng biết “cậu” đang tự hủy diệt ở xóm nào? Tôi ngồi nghe hát một mình – và em Hoài hát đấy nhé! – Không thể quên được cậu, nên trong bài hát, tôi để nguyên vẹn câu bốn Hãm của tôi và của cậu làm Mưỡu; không sửa một chữ nào! Quý nhau đến thế đấy, cậu ạ!
Ý nghĩ này cứ chìm nổi mãi theo giọng ngọc của “giai nhân”, khiến cho Hoàng – chả biết có phải là “danh sĩ” hay không – chợt cảm thấy tất cả cái đẹp cái say của tình bạn “giang hồ vặt’.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Thơ Khiển sầu tác giả khuyết danh có hai câu:
Nhi nữ đa tình nguyên thị Phật
Anh hùng mạt lộ bán vi tăng.
Tạm dịch là:
Lẳng tính, cô em nguyên kiếp Phật
Cùng đường, cậu ấm nửa làm sư.
[2] Trần Tử Anh, tác giả vở kịch xuôi Thế chiến quốc, là một sinh viên con nhà giàu, chứ không phải trong nhóm “thơ văn lêu têu”. Chỉ có Chu Ngọc quen mà thôi. Mãi sau Hoàng mới gặp mặt tại Hà Nội.
[3] Vở kịch thơ này Nguyễn Bính lúc bấy giờ cho biết là đã hợp soạn với thi sĩ Yến Lan; nhưng Yến Lan ở miền Trung, Hoàng chưa hề gặp.
[4] Thơ của Nguyễn Bính, đã đăng báo, và đã in, trong tập nào không nhớ rõ.
[5] Trần Kim, bút hiệu Trần Huyền Trân, bạn thơ rất thân của Nguyễn Bính.
[6] Hai câu hát nói của cụ Dương Khuê; các đào nương ai cũng thuộc và hay hát bài hát nói đó nhất.
[7] Chỗ này, mượn tạm bài thơ Huy Cận; trong bài Ngậm ngùi:
Ngủ đi! Hãy ngủ! Anh hầu quạt đây.
Lòng em mở với quạt này…
[8]Truyện Tam quốc chí hồi thứ 51:
Tào Nhân đại phá Đông Ngô binh;
Khổng Minh nhất khí Chu Công Cẩn.
[9]Hát ả đào vốn là một lối “văn chơi”, không phải là văn “dạy đời” hay “cứu nước”; do đó trong bài, tha hồ vay mượn cổ nhân. Thí dụ bốn câu Mưỡu có thể lấy nguyên văn Truyện Kiều cũng cứ được. Hai câu thơ (thất ngôn hay ngũ ngôn) cũng tha hồ tập cổ.
Tuy nhiên, ở bài này của Hoàng, chỉ mượn hai câu trong Truyện Kiều là nguyên vẹn thôi (Tập Kiều).
Nguồn: Cơ sở xuất bản Trương Vĩnh Ký, in tại Sài Gòn ấn quán, 35 Nguyễn Đình Chiểu, Sài Gòn, Việt Nam. In 5.000 cuốn, xong ngày 20-3-1974 – Nạp bổn tháng 3-1974. Giấy phép PTUDV số 278-74 – KSALP – TP – ngày 21-1-1974. Phát hành: 25-3-1974 – Số đăng ký tại Nhà xuất bản: I-A.