Trở ngại ở phía trước trong quan hệ
Việt Nam và Trung Quốc
Sophie Quinn-Judge
30-04-2010
Sôi sục về sự bất mãn nổi tiếng ở Việt Nam trong các vấn đề lãnh thổ và môi trường là tín hiệu cho một giai đoạn mới trong mối quan hệ cũ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, bà Sophie Quinn – Judge viết riêng cho openDemocracy – nhận xét.
Năm 2009, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa đột nhiên trở thành vấn đề công chúng [quan tâm]. Qua việc đệ trình tuyên bố chủ quyền 80% vùng Biển Đông lên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển trong tháng 5, Trung Quốc chính thức hóa tham vọng lãnh thổ mà trước đây không phê chuẩn theo luật quốc tế. Việc đòi hỏi này này đặt Việt Nam vào một vị trí khó xử: hoặc Việt Nam phải chấp nhận sự thống trị của Trung Quốc về cái mà Việt Nam gọi là “Biển Đông”, giáp với bờ biển trải dài của họ, hoặc Việt Nam phải tham gia vào một cuộc xung đột với người láng giềng hùng mạnh của mình, điều mà chính phủ Hà Nội muốn tránh. Nhưng cộng đồng người Việt trên khắp thế giới có thể có sự lựa chọn tháo lui tốn kém.
Từ khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989 và tiếp theo là cuộc bầu cử do Liên Hiệp Quốc giám sát ở đó, Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập tình hữu nghị tốt đẹp. Bế tắc cay đắng giữa hai nước, trong đó điểm đáng nói nhất là cuộc tấn công phá hoại ngắn ngủi của Trung Quốc hồi tháng 2 năm 1979, đã bị lãng quên. Không chính thức, các nhà ngoại giao Việt Nam nhận xét rằng họ phải cẩn thận để tránh làm bực mình anh láng giềng phương bắc của mình, khi trở nên quá thân thiết với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những cuộc nói chuyện như vậy đã không được hiểu như là một mong muốn tránh xa Trung Quốc, mà là một phần của chính sách đối ngoại “thêm bạn, bớt thù”. Một loạt các quan hệ quốc tế rộng rãi đã từ lâu là mục tiêu trong cải cách của Việt Nam, gấp rút để tự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Nhưng sau hai thập kỷ thích nghi, sự trỗi dậy của Trung Quốc buộc Việt Nam phải đối mặt với các lựa chọn khó khăn. Tình hình đặc biệt phức tạp đối với sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP), kể từ khi cuộc khủng hoảng giai đoạn cuối của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu vào năm 1989, đã xác định chặt chẽ các chính sách của đảng Trung Quốc: cải cách kinh tế nhanh chóng kết hợp với sự độc quyền của đảng cộng sản lên đời sống chính trị và các tổ chức nhà nước.
Hiện tại, khi Trung Quốc gây áp lực buộc Việt Nam chấp nhận sự kiểm soát của Trung Quốc trên Biển Đông, Đảng [Cộng sản] Việt Nam bị ép buộc phải thừa nhận rằng hai nước có xung đột lợi ích trong một số lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực này là việc sử dụng các nguồn tài nguyên địa phương, chẳng hạn như vùng nước ở sông Cửu Long. Lượng nước chảy vào vùng đồng bằng Việt Nam đã giảm rõ rệt trong mười năm qua, khi Trung Quốc xây dựng một loạt các đập thủy điện ở thượng nguồn. Mối đe dọa đối với sông Cửu Long có thể trở thành vấn đề sinh tử cho nhiều người ở miền Nam Việt Nam. Nhưng tại thời điểm này, cuộc xung đột lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan tới việc sử dụng nguồn cá, dầu hỏa và khí đốt tìm thấy dưới đáy Biển Đông.
Một tia lửa ngầm
Báo động phổ biến về vai trò của Trung Quốc tại Việt Nam đã nổi lên trên bề mặt vào năm 2009, liên quan tới dự án khai thác mỏ ở đất liền gây tranh cãi. Đảng đã công bố một thỏa thuận cho phép Trung Quốc khai thác và chế biến bauxite ở khu vực Cao nguyên Trung phần. Dự án mà ban đầu được công bố là để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, chẳng bao lâu trở thành mối hiểm họa lâu dài: Trung Quốc cho biết rằng họ sẽ đưa công nhân của họ vào để thực hiện dự án, gây nên nỗi ám ảnh về việc định cư thường trực của Trung Quốc ở khu vực chiến lược nhạy cảm này, lấy mất việc làm của người lao động Việt Nam.
Hơn nữa, không có dấu hiệu của một báo cáo về tác động môi trường – một yếu tố rất quan trọng mà mọi người đều biết rằng việc khai thác bauxite sẽ để lại một cảnh quan lồi lõm và các chất thải gây ô nhiễm cho đất nông nghiệp và nguồn nước. Cuối mùa xuân, 139 trí thức Việt Nam đã ký vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ hủy bỏ thỏa thuận sản xuất bauxite. Nhiều người Việt hải ngoại cũng đã ký tên vào thỉnh nguyện thư, cũng như một số viên chức quân sự cao cấp. Một trong những nhân vật lãnh đạo chống dự án khai thác bauxite là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những nhà lãnh đạo cuối cùng trong thời kỳ cách mạng còn sống, ông vẫn còn đủ uy tín đạo đức để thành nhà phê bình có ảnh hưởng khi ông nhìn thấy đảng đi lạc khỏi đường lối (xem thêm: “Những dao động từ phía bắc“, của David G Marr, mục Inside Story, ngày 31 tháng 8 năm 2009).
Theo tin tức lưu hành ở Hà Nội vào mùa hè năm 2009, đó là một số tướng lĩnh (tin đồn nói rằng ba mươi) đã bị cho nghỉ hưu sớm, chính là sự trả thù về việc phản đối dự án bauxite. Kế hoạch khai thác mỏ sau đó đã được thảo luận trong quốc hội, và trong vòng ba ngày các đại biểu bất đồng nhất đã được thuyết phục để rút lại ý kiến đối lập của họ. Tháng 3 năm 2010, dự án trong giai đoạn đầu xây dựng, và các quan chức chính phủ địa phương bảo đảm với báo chí Việt Nam (một vài nhà báo vẫn còn dám đặt câu hỏi) rằng tác động môi trường sẽ được giám sát chặt chẽ. Vai trò của Trung Quốc đối với dự án ít khi được đề cập tới trong các bài báo này. Tin tức đồn rằng ít nhất có một nhân vật lãnh đạo đảng nhận được tiền chi trả của Trung Quốc để hỗ trợ cho dự án. Trong mọi tình huống, việc xử lý vấn đề bauxite của đảng cho thấy rằng nó đã được hỗ trợ rộng lớn từ những người có quyền lực nhất ở Việt Nam.
Đòi hỏi gây tranh cãi
Chỉ riêng vấn đề này không đủ làm đảo lộn mối quan hệ Việt-Trung lâu dài, nhưng đó là triệu chứng của những vấn đề lớn hơn. Điều làm thay đổi sự cân bằng trong các mối quan hệ giữa hai nước đó là ảnh hưởng mạnh về kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đơn phương tuyên bố lãnh hải “đường hình chữ U” kéo xuống từ phía bắc Borneo, thể hiện sự tự tin rằng bây giờ Trung Quốc có thể bảo vệ những gì mà Trung Quốc xem là phạm vi ảnh hưởng của họ. Gần đây Trung Quốc đã bắt đầu xem Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của họ, ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng.
Trường hợp này, việc đòi quyền sở hữu của Bắc Kinh dựa vào hai nhóm đảo: Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điều mà cho phép họ viện dẫn vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được Liên Hiệp Quốc chấp thuận. Nhiều đảo này nằm rải rác không hơn gì các doi cát, và chủ quyền đối với các dãi đảo này còn bị nhiều quốc gia khác tranh chấp, nhưng nếu Trung Quốc có thể thiết lập quyền sở hữu, điều đó sẽ cho phép họ kiểm soát các tuyến đường vận chuyển và khu vực được cho là có nhiều dầu hỏa và khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, một số nhà quan sát tin rằng, hiện tại Trung Quốc đã đi quá đà trong việc đưa ra phần của họ trong tranh chấp lãnh thổ này.
Việt Nam đã cố gắng bảo vệ tranh chấp của mình đối với các nhóm đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa kể từ khi thống nhất đất nước vào năm 1976, nhưng không thành công lắm. Ngược lại, Hà Nội đã thừa nhận một số vùng lãnh hải của họ với Trung Quốc trong Hiệp định Biên giới trên Vịnh Bắc Bộ, và thậm chí đồng ý cho hải quân tuần tra chung trong năm 2006. Nhưng cho dù với những nhượng bộ này và các mối quan hệ thân mật công khai, kể từ tháng 5 năm 2009 Trung Quốc cho đâm và bắt giữ các tàu đánh cá đi lạc vào khu vực mà Trung Quốc đòi chủ quyền, khu vực mà người Việt Nam xem là vùng đánh cá truyền thống của mình. Ngư dân đã bị giam giữ làm con tin hoặc bị tịch thu số cá bắt được, đã làm cho công chúng tại Việt Nam giận dữ.
Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh đơn vị đồn trú miền Nam Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa ra khỏi quần đảo vào năm 1974, khi chiến tranh Việt Nam đang giảm cường độ. Vào thời điểm đó chẳng ai phản đối gì, khi Hoa Kỳ còn bận tâm vì mối đe dọa của Liên Xô ở Thái Bình Dương. Việt Nam đòi chủ quyền lịch sử trên các quần đảo này, trở lại thời điểm ít nhất là những năm đầu dưới sự trị vì của nhà Nguyễn (từ 1802), hoàng đế Gia Long (trị vì từ năm 1802-1820) và Minh Mạng (trị vì từ năm 1820-1841) đã gửi các đội thám hiểm đến để vẽ biểu đồ vùng nước xung quanh các đảo, cho thấy quyền sở hữu của Việt Nam trên các bản đồ được vẽ bởi các nhà truyền giáo Pháp đầu tiên. Việc đòi chủ quyền này cũng phản ánh một thực tế là ngư dân từ miền Trung Việt Nam từ lâu đã khai thác các nguồn tài nguyên biển ở đây và tiến hành các hoạt động cứu hộ ở vùng biển nguy hiểm. Người Pháp có chủ quyền trên các vùng lãnh thổ này cho đến khi Đệ nhị Thế chiến, và miền Nam Việt Nam đã thừa kế quyền này.
Ngay cả việc mua sáu chiếc tàu ngầm loại kilo, chạy bằng dầu diesel của Nga, cũng không có cơ hội cho Việt Nam có thể giành chiến thắng trong một cuộc đối đầu hải quân với Trung Quốc. Và Việt Nam biết rằng việc mở rộng quân sự sẽ không giúp xây dựng niềm tin giữa các quốc gia khác trong khu vực. Thay vào đó nên để dành vai trò chủ tịch Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) trong năm 2010 để xây dựng một sự đồng thuận đa phương nhằm hỗ trợ lời kêu gọi các cuộc đàm phán về việc chia sẻ tài nguyên ở Biển Đông (The Philippines, Malaysia và Indonesia cũng đòi chủ quyền trên các vùng biển, điều này có xung đột với tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc). (Xem “Việt Nam kiếm nhiều đồng minh để ngăn ảnh hưởng của Trung Quốc“, Edward Wong, New York Times, ngày 4 tháng 2 năm 2010).
Tuyên bố về quy tắc ứng xử đã được Asean và Trung Quốc ký năm 2002, về các vấn đề như bảo vệ môi trường và tìm kiếm, cứu nạn, có thể là một mô hình cho các thương lượng trong tương lai. Nhưng sự thỏa thuận này không có hiệu lực pháp lý và các cuộc thảo luận là để mở rộng phạm vi đã bị giới hạn trong những năm gần đây. Điều gì có thể tạo ra một bước đột phá trong các lần đàm phán với Trung Quốc sẽ là sự chấp thuận của Mỹ và Nhật Bản tham gia vào một giải pháp đa phương.
Một câu hỏi cấp quốc gia
Có một sự tiên đoán bên trong Việt Nam rằng một số lãnh đạo đảng muốn nhìn thấy Việt Nam trở thành “một tỉnh của Trung Quốc” hơn là chấp nhận rủi ro quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam bị suy yếu bằng cách thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Washington. Tuy nhiên, các mối đe dọa đến toàn vẹn lãnh thổ ở Hà Nội hiện tại nghiêm trọng hơn là vào giữa thập niên đầu của thế kỷ 21.
Bốn mối đe dọa lớn đối với quốc gia được chỉ ra trong một chương trình đã được chuẩn bị cho Đại hội đảng lần tới vào năm 2011 là: 1) Kinh tế lạc hậu, 2) Các thế lực thù địch và diễn biến hòa bình, 3) Tranh chấp lãnh thổ và 4) Các vấn đề toàn cầu liên quan đến an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự nóng lên toàn cầu. Danh sách này thể hiện sự tinh tế ngày càng tăng của ngoại giao Hà Nội, mặc dù thực tế là nỗi lo sợ “diễn biến hòa bình” – mật mã nói về sự phá hoại các giá trị cộng sản do liên hệ với phương Tây – vẫn nằm ở vị trí nguy hiểm cao trong danh sách (xem thêm “Việt Nam: tiếng nói cần thiết“, ngày 29 tháng 4 năm 2007).
Hiện đã rõ ràng hơn đối với lãnh đạo Việt Nam rằng nhượng bộ nhiều hơn để Trung Quốc làm xói mòn niềm tin của tầng lớp quan trọng trong dân chúng, gồm cả trí thức và các bộ phận trong quân đội. Và mặc dù (hoặc có lẽ là do) kiểm soát chặt chẽ báo chí và internet, niềm tin của công chúng đối với các thông tin của chính phủ không còn mạnh như trước đây. Tất cả mọi thứ, từ các con số cho thấy lạm phát được kiểm soát cho tới các báo cáo lạc quan về tiến độ bảo vệ môi trường, được đón nhận với thái độ hoài nghi của những người đọc báo. Nếu công chúng tin rằng đảng cộng sản tự cho là để bảo vệ độc lập dân tộc, mà không còn [đủ sức] bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, thì tính hợp pháp của đảng sẽ ngày càng bị nghi ngờ.
ND : Ngọc Thu