Hiển thị các bài đăng có nhãn TRẦN CHUNG NGỌC : VÀI NÉT VỀ "CỤ HỒ " ( 2). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TRẦN CHUNG NGỌC : VÀI NÉT VỀ "CỤ HỒ " ( 2). Hiển thị tất cả bài đăng

9/9/09

TRẦN CHUNG NGỌC : VÀI NÉT VỀ "CỤ HỒ " ( 2)

VÀI NÉT VỀ “CỤ HỒ”

Trần Chung Ngọc



PHẦN 2



Trên Đàn Chim Việt, Minh Võ có viết bài phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Sau đó Minh Võ còn “đọc lại Trần Dân Tiên” và đưa ra một số ý kiến. Đọc hai bài này, chúng ta thấy rõ trình độ của ông Minh Võ không thể gọi là trình độ, kiến thức của Minh Võ không thể gọi là kiến thức. Tôi không có ý định phê bình chi tiết hai bài trên của ông Minh Võ, chỉ duyệt qua vài điểm, cùng trình bày vài ý kiến của độc giả về ông Minh Võ để chúng ta thấy rõ Minh Võ thuộc loại người nào. Trước đây, trên trang nhà Giao Điểm, Hà Giang đã có bài nhận định về cuốn “Ho Chi Minh” của Duiker, viết đứng đắn và nghiêm chỉnh hơn ông Minh Võ rất nhiều. Link: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/Hagiang_hcm.htm

Trước hết, Lê Duy Khoa trên Đàn Chim Việt đã vạch ra rằng ông Minh Võ đã áp dụng bậy bạ tam đoạn luận để phỉ báng ông Hồ như sau:

a) Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx là sai lầm, dối trá, tàn ác, phản nhân đạo, phản dân tộc. [TCN = Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite). Cũng như Trần Mạnh Hảo, ông Minh Võ, không hiểu gì về Marx mà cứ viết bậy về Marx. Thế giới ngày nay đánh giá Marx như thế nào? Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?. 1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7. 2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và ngu cả hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như ông Minh Võ? ]

b) Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng sản [Không ai phủ nhận điều này]

c) Kết luận: không thể coi HCM là nhân đạo, yêu nước, anh hùng mà phải coi ông ta là tội đồ ác ôn của đất nước.

Chúng ta thấy ngay, ông Minh Võ đã dựa trên sự hoàn toàn sai lầm của mình trong vế a) để đưa đến một kết luận tất nhiên cũng hoàn toàn sai lầm trong vế c). Nhưng không phải chỉ có vậy. Đọc Minh Võ, chúng ta thấy rõ qua giọng văn một sự thù hận ngất trời và phản ánh một trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đối với tôi, Minh Võ không phải là người đáng để tôi phê bình về những “tác phẩm” của ông ấy, tôi để dành điều này cho một số độc giả trên Đàn Chim Việt trong phần trích dẫn ở cuối bài. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một lý luận rất ngớ ngẩn nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ông Minh Võ khi phê bình đoạn sau đây của Duiker.

“Bất kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông [Hồ] để lại cho dân tộc mình ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ.”

Vì Nhà Nước VN muốn dịch cuốn “Hồ Chí Minh” của Duiker nhưng muốn bỏ đi những đoạn nói về đời tư của ông Hồ, nên ông Minh Võ phê bình như sau: “Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử gia [Duiker] thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?”

Thứ nhất ông Minh Võ không hiểu thế nào là di sản. Thứ nhì, cái di sản ông Hồ để lại cho dân tộc là nền độc lập quốc gia sau khi cất bỏ được chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên đất nước, và tiếp nối bởi chính ông và những người sau ông trong việc thành công đi đến sự thống nhất đất nước. Di sản đó tuyệt đối không phải là chính sách luôn luôn thay đổi của Nhà Nước và lẽ dĩ nhiên không phải là yêu cầu của Nhà Xuất Bản Chính Trị Việt Nam đối với Nhà Xuất Bản Hyperion ở New York như chúng ta thấy trong tài liệu sau đây trên Internet:

“Trong một bức thư cho nhà Xuất Bản Sách Hyperion ở New York, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia của chính quyền (VN) đã nói rằng họ chỉ muốn bỏ đi vài đoạn trong cuốn sách của Duiker “không phù hợp với những thông tin trong hồ sơ của họ.” (In a letter to New York publisher Hyperion Books, the state-run National Politics Publishing House has said only that it wants to remove certain passages from the Duiker biography that "do not conform with the information in our files".)

Đây có phải là một hành động ngăn cấm hay không hay chỉ là một đề nghị thương thuyết? Đầu óc như vậy mà ông Minh Võ muốn làm việc đội đá vá trời là xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh thì đúng là sự mơ tưởng hão huyền của những kẻ cuồng tín vô minh.

Một nhận định khác có tính cách phóng đại rất lố bịch của ông Minh Võ về cuộc cải cách ruộng đất như sau:

“Thời ông HCM cũng thế nếu ông ấy tôn trọng Hiến pháp sao ông lại làm cải cách ruộng đất giết chết hơn nửa triệu người.?”

Ông lấy con số “hơn nửa triệu” này ở đâu ra? Chắc chắn là ông chưa hề đọc đến những công cuộc khảo cứu rất sâu rộng về Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam: Mục đích, kết quả, số nạn nhân v..v.. của Gareth Porter, Edwin E. Moise, Noam Chomsky và Edward S. Herman. Rất có thể ông chỉ tin vào con số đoán mò của Hoàng Văn Chí, người đã thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ là đoán mò sau khi bị Gareth Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong tài liệu của Chí [Chi eventually conceded that his number of victims of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington Post, 13 September, 1972). This admission came after Porter had made Chi’s falsification public.] Thật là đẹp mặt cho Hoàng Văn Chí và cho cả Minh Võ.

Theo những tài liệu của Noam Chomsky và Edward S. Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng Văn Chí vốn là một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin của Chính Quyền miền Nam, rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ. Trong bài “The Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land reform Reconsidered” (Bulletin of Concerned Asian Scholars, September 1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch ra vài đoạn Hoàng Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành cải cách ruộng đất của Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và miền Nam tuyên truyền xuyên tạc, thí dụ :

“Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc” đáng lẽ phải dịch là “We did not pay attention to precautions against deviation” thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch lạc” (We made too many deviations); “Xử trí oan những người ngay” thay vì dịch là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch là “hành quyết quá nhiều người lương thiện” (executed too many honest people); “không nhấn mạnh phải thận trọng, tránh…” [did not emphasize the necessity for caution and for avoiding] thì Chí bỏ đi không dịch (omitted); “dùng những biện pháp trấn áp quá đáng” [used excessive repressive measures] thì Chí dịch là “xử dụng đế khủng bố” (resorted to terror); “thậm chí dùng phương pháp truy bức” [even coercive measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra tấn” (worse still, torture) v..v.. và còn thêm thắt vào những đoạn không có trong bản văn như “nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing enemies everywhere) mà Gareth Porter không tìm thấy trong bản gốc (not in original). Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng, trong những cuộc phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc cải cách ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau khi Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn kỳ lạ trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily candid in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những điều viết trong tài liệu của mình.

Noam Chomsky và Edward S. Herman viết trong cuốn The Political Economy of Human Rights, Vol. I, South End Press, Boston, 1979, trang 342:

“Nguồn thông tin căn bản về những con số giết chóc lớn trong cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những người của CIA hoặc Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt Công giáo nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến Tranh Tâm Lý Trung Ương của quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị “tắm máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng lên” bởi cơ quan tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các tài liệu ngụy tạo để bôi nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950 để biện minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong việc sửa soạn tổ chức cuộc bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.” (The basic sources for the larger estimates of killings in the North Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France, Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures for the land reform were “100% fabricated” by the intelligence services of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoi in preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)

Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149:

“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả, hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.” (Careful later studies, however, have estimated that the true figures for those executed in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)

Giáo sư Pierre Brocheux viết trong bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” , trang 34:

“Đối với Hồ Chí Minh, tập thể hóa đất đai là sự bảo đảm phân chia đồng đều tài sản. Nhưng ông ta tố cáo sự dùng những hành phạt thể xác đối với các địa chủ và các nông dân giàu có và yêu cầu thi hành một chương trình sửa sai những sự bất công và phục hồi những sở hữu của nông dân thuộc quyền của họ (1956). Nhưng ông ta phải nhượng bộ trước đa số trong Đảng. Chiến dịch cải cách ruộng đất làm cho ít nhất là 15000 người chết.” (Pour Ho Chi Minh, la collectivisation des campagnes est la garantie d’une répartition égalitaire des resources. Mais il dénonce l’utilisation des peines corporelles contre les “propriétaires fonciers et riches paysans” et demande une programme de correction des injustices et la restauration des paysans propriétaires dans leurs possessions et leurs droits (1956). Il s’incline pourtant devant la majorité du Parti. La réforme agraire côutera la vie à 15000 personnes au moins.)

Về con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ, chúng ta có thể đối chiếu với một số tài liệu khác: Của Gareth Porter: từ 800 đến 2500; của Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000; của Trương Như Tảng, David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”: nhiều ngàn (thousands); của Bùi Tín trong Mặt Thật: “lên tới mười mấy ngàn”; của Vũ Thư Hiên: từ 4000 đến 5000. Chúng ta không thể biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số nông dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy v..v.. thì con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ là con số chỉ có trong đầu của ông Minh Võ.

Trên diễn đàn Đông Dương Thời Báo, tháng 5, 2006, chúng ta có thể đọc một đoạn về cải cách ruộng đất của chủ biên người Công Giáo, Giu-se Phạm Hữu Tạo, như sau:

Thật vậy, Hồ Chí Minh thực hiện cải cách ruộng đất, muốn lấy lại đất mà không phải giết nhiều người, vì lúc đó các địa chủ có tiền bạc tài sản, chạy thoát trước về vùng Pháp chiếm đóng… Cải cách ruộng đất là việc phải làm ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Phải lấy lại đất của Pháp, của nhà Chung để chia cho cán bộ và nông dân có sức lực và siêng năng cần cù mà không có đất để sống và cày bừa và hy sinh cho cách mạng quyết dành chủ quyền - độc lập - thống nhất đất nước … Chính sách cải cách ruộng đất đương nhiên là đụng đến Giáo hội và giáo dân Công giáo Việt gian, cho nên chúng ta không lạ gì tại sao người Công giáo căm thù CSVN và ngụy tạo bôi đen chính sách Cải Cách Ruộng Đất.

Hiện tượng Minh Võ thì hầu như ai cũng biết về ý đồ và trình độ của ông ta như thế nào. Để quảng cáo cho cái ý đồ này, ông ấy nhờ một người quen biết trẻ hơn, có cùng trình độ như ông ấy, lên tiếng quảng cáo cho cuốn Hồ Chí Minh: Một Nhận Định Tổng Hợp của ông ấy trong buổi ra mắt sách. Đó là ông Huỳnh Lương Thiện. Nhưng đọc Huỳnh Lương Thiện chúng ta thấy rõ là trình độ của ông ấy cũng chẳng hơn Minh Võ là bao nhiêu. Chứng minh?

Ông Huỳnh Lương Thiện phát ngôn:

Tôi nghĩ rằng tôi chỉ đáng em hay con của rất nhiều vị ngồi trong phòng này mà thôi. Thế mà quý vị có thể tưởng tượng là có kẻ khi tuổi còn nhỏ hơn, chỉ đáng em của tôi thôi mà đã dám xưng là bác với cả nước chúng ta. Quý vị biết đó là ai không? Hồ Chí Minh. Vâng, cám ơn quý vị đã cho biết kẻ đã dám xưng bác với cả nước là Hồ Chí Minh, tôi cũng biết điều đó. Tuy nhiên phải đến khi đọc cuốn sách này của bác Minh Võ thì tôi mới biết thêm là họ Hồ đã dám xưng bác với cả nước khi chỉ mới 55 tuổi, bằng tuổi cô em gái tôi.

Thưa quý vị, tôi tuổi Canh Dần, 56, 57 tuổi rồi và đó là một trong hàng chục, hàng trăm dữ kiện độc đáo, đặc biệt mà tôi đã tìm thấy trong cuốn sách này.

Như vậy là ông Huỳnh Lương Thiện sinh khoảng năm 1949-1950, tất nhiên đích thân không biết gì về ông Hồ Chí Minh mà chỉ biết qua những sự kiện mà ông ấy cho là độc đáo trong cuốn sách của Minh Võ. Rõ ràng là, dựa vào điều viết bậy của Minh Võ trong cuốn sách của ông ấy, Huỳnh Lương Thiện đã phát ngôn bậy như trên. Nhưng dữ kiện trên có thật là độc đáo không? Rất có thể là độc đáo ở chỗ đã để lộ cái trình độ vô cùng thấp kém của mình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.

Thứ nhất, từ “Bác” mà ông Hồ Chí Minh dùng chỉ để nói với các “cháu nhỏ” trong vòng thân tình như người trong một nhà. Bác, nguyên nghĩa là anh của Bố hoặc Mẹ, và người Việt Nam thường dùng tiếng “Bác” để gọi thay con. Tiếng Bác cũng còn được dùng giữa các bạn bè cao tuổi dù rằng người bạn kém tuổi mình “Nguyễn Khuyến: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác (Dương Khuê)”. Ông Hồ có thói quen là bất chợt đi thăm các em nhỏ trong trường học và nói những chuyện “Bác cháu ta”. Chưa ai thấy ông Hồ xưng là Bác với cả nước như ông Huỳnh Lương Thiện đã nói bậy dựa theo lời viết bậy của Minh Võ bao giờ. Người dân Việt Nam gọi ông Hồ là “Bác” nghĩa là coi ông như là bậc trưởng thượng thân tình của các con cháu trong nhà. Các ông chống Cộng mà chẳng biết gì về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hãy đọc Peter A. DeCaro ở Buena Vista University viết về ông Hồ Chí Minh (acjournal.org):

“Chức “Bác” của ông Hồ phải được hiểu trong ngữ cảnh của nền văn hóa Trung Hoa trong đó người cao tuổi hơn được đặc biệt tôn kính. Bác (big uncle) là từ dùng để chỉ người anh của Bố hoặc Mẹ, người em nhỏ tuổi hơn gọi là “Chú”. Thật là tự nhiên khi người dân gọi [ông Hồ] là “Bác Hồ” vì những đồng nghiệp của ông ta thuộc một thế hệ trẻ hơn. Do đó Bác là một từ thân thuộc và những người Cộng Sản ở miền Bắc thường đưa ra sự kiện là mọi gia đình đều coi Bác Hồ là một thành phần vinh dự của gia đình. Còn nữa, Bác đồng nghĩa với cách cư xử dân chủ: người Cha có thể ra lệnh, nhưng người Bác [hay Chú] chỉ có thể đưa ra những lời khuyên.”

(Ho’s title of “Bac” must be understood in the context of Chinese culture in which the eldest members of society enjoy especial veneration. Bac means “big uncle;” it is the term used to denote the elder brother of a father or mother while the younger brother is referred to as Chu, “little uncle.” It was only natural that people began to speak of Bac Ho because his closest colleagues already belonged to a younger generation. Bac is therefore a familiar term and the Communists in North Vietnam liked to point out that every family considered Bac Ho an honored member. In addition, Bac is synonymous with democratic conduct; the father can command, but the uncle only advises.)



Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển nhiên là những người không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém của mình về xã hội Việt Nam so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên phí thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là thủ đoạn và trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay.

Vậy sau đây, tôi xin nhường chỗ cho vài tiếng nói của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt:

1) Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu vấn đề một cách chủ động, giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã rơì quá dễ dàng vào những thứ lý sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy thử đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả Mỹ nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn lưu ý: đây là một vấn đề sử học, một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn diễn lập trường, hoặc tệ hơn nữa bộc lộ oán thù, phục hận.

2) Tôi chưa đọc cuốn sách "HCM, Nhận định tổng hợp" của Minh Võ nhưng đã "thử" đọc mấy bài viết của Minh Võ trên DCV Online, và chưa lần nào "tiêu hóa" nổi trọn vẹn một bài của Minh Võ. Không thể "tiêu hóa" nổi vì giọng văn của Minh Võ đầy hằn học và hận thù; người đọc (ngay cả lớp trẻ) có thể dễ dàng nhận thấy đó là giọng văn của một loser. Không thể "tiêu hóa" nổi vì những phân tích và nhận định của Minh Võ chẳng dựa trên phương pháp luận khoa học và những tài liệu lịch sử nào. Còn những bài viết của HCM để tuyên truyền, kêu gọi người dân đứng lên giành độc lập cho đất nước là những nghệ thuật vĩ đại; nó sánh như Nguyễn Trãi khi bôi mỡ vào lá cây cho kiến ăn để tạo ra dòng chữ "Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi", hoặc là truyền thuyết về anh em vua Quang Trung thuần phục được ngựa thần trên núi.

Sách của Minh võ là tiểu thuyết để giải trí ư? Không đáng; là sách lịch sử ư? Không phải. Có thư viện nào người ta mua và lưu trữ sách của Minh Võ không? Không có. Cái ông Lương Thiện gì đó chẳng lương thiện tí nào đang quảng cáo sách cho Minh Võ đó; và cũng nhân cái diễn đàn này ông ta gài thêm mấy khẩu hiệu chống cộng cũ rích - cũng là giọng hằn học của một loser.

3) Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định kiến ác ý cuả chính mình, hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh- Một nhân vật vĩ đại, kiệt xuất số một; Vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử VN và nhân loại. Đó là những lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; Câu chữ cắt xén, biạ đặt một cách có chủ ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại của dân tộc ta.

Những người có thiện ý, thiện tâm... Thường có con mắt bao dung, độ lượng, nhìn vào mặt sáng, khai thác mặt sáng - Mặt tích cực. Công đức và thành tựu mà các vị giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn kẻ tiểu nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện chứng, dẫn chứng, có lang, có lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ tiền. Chỉ cần chú ý đôi chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng.



4) Rêu rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến thức của Minh Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) MV đã sai lầm hoàn toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết Marx là sản phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó ĐTQT là phản ứng của những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân, đế quốc. 2) MV chỉ biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì đến những tác phẩm khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, MV cũng chỉ bám vào những từ ngữ tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho chúng (tư hữu, vô sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) MV không hiểu biết gì về những mâu thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia (giàu/giàu, giàu/nghèo, thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý thức hệ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát xít…) do đó đã trút tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy móc. 3) Riêng với những nước bị thực dân thống trị vấn đề cướp nước và chống cướp nước đã bị MV đầy lùi về phía sau một cách cố ý rồi mượn luận điệu của thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để biện hộ cho tội cướp nước của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt gian” không có gì là oan cả.

5) Phương pháp gọi là “nghiên cứu” của MV cũng hoàn toàn phản khoa học. Ông ta không tìm hiểu thực tế và những phát sinh và chuyển động của nó để rút ra kết luận mà ngược lại: gán cho cộng sản một số thuộc tính chết cứng rồi từ đó kết án tất cả những biểu hiện khác nhau trong thời gian của phong trào cộng sản (bất chấp những nội dung khác nhau, mâu thuẫn trong phong trào ấy). Trong tranh luận, nghiên cứu người ta gọi phương pháp ấy là procès d’intention, không cần tìm hiểu, phân tích xem sự thực như thế nào mà chỉ cần quy kết theo thiên kiến của mình là đủ. Ai cũng biết đó là phương pháp suy luận của những đàn bà hay ghen (nhìn đâu cũng thấy những kẻ cướp chồng minh), những kẻ bị bệnh tâm thần ( nhìn đâu cũng thấy kẻ hại mình). Chẳng có gì khoa học, học thuật ở đây cả. Lý luận của MV rất phù hợp với cộng đồng những người có thâm thù với cộng sản: họ không còn đủ sáng suốt để nhìn ra đúng sai trong chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa cộng sản có rất nhiều cái sai) như một hiện tượng lịch sử, từ lý thuyết đến thực hành, cũng không đủ lý trí để nhìn ra ngay cả những đúng sai trong bản thân những thất bại nhục nhã, đau đớn của họ nữa. Đối với những con người như vậy, họ chỉ cần đổ lỗi để biện minh, chỉ cần bôi bác, nguyền rủa để trả hận là đủ. Thứ lý luận của MV chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi.

6) Thực ra thì "Nhận định tổng hợp ", hay không tổng hợp thì người ta cũng biết rõ: Hằn học, chửi rủa thoá mạ một nhân vật lịch sử của VN như cố chủ tịch HCM là những người như thế nào ! Có rất nhiều gương mặt khác nhau dưới đủ mọi chiêu bài. Rất may, qua đó người ta càng hiểu hơn thế nào là tính chân xác của lịch sử. Sẽ chẳng có người VN tỉnh táo nào lại lên án Vua Lê Lợi, khi chỉ vì quyền lợi quốc gia mà đem vợ mình cúng sống thần biển. ( bây giờ việc làm đó là thất đức và nặng mùi mê tín ) Nhưng mỗi người dân VN, đều công nhận Lê Lợi, đó là một vị Vua có công đánh đuổi ngoại xâm, lập nên nhà Lê dài hơn 300 năm. Chắc chắn, thời buổi của ông không có máy tính, để bị lên án và vạch trần nhiều thủ đoạ, mà tất cả vì đất nước v.v. Trong công cuộc xây dựng, mở nước, và giữ nước, chưa có ông Vua VN nào chuyên viết thỉnh nguyện thư gởi cho kẻ thù, để mong được kẻ thù thương mà trả nước. Tất cả các chiến công lẫy lừng như Bạch Đằng giang dậy sóng, hay trận Chi lăng ghi sử sách, chẳng viết bằng máu của dân VN đó sao? Chẳng lẽ trận Rạch gầm, Xoài mút được viết bằng máu của người Miên hay Lào ? Đó là máu của người VN đã đổ cho đất nước hôm nay. Dù muốn nói gì và nói sao chăng nữa thì lịch sử đã chứng minh: Pháp đô hộ Việt nam, Mỹ muốn cứu đồng minh và Người Nhật đã làm cho hai triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta chết đói. Biết đâu trong chúng ta, có những người là con cháu của những người may mắn nhờ có Việt minh phá kho thóc của Nhật.

7) Dù nói gì đi chăng nữa, thì một dân tộc với mã tấu răng đen như các anh vẫn gọi, thế mà trong một thế kỷ đánh gục đầu ba nước to lớn. Thử hỏi trong lịch sử từ cổ chí kim của nhân loại hỏi ai đã làm được như thế ? Người làm được chuyện đó ngoài HCM thì còn có ai ? Chẳng lẽ Ngô chí sỹ chăng hay Cựu hoàng Bảo đại ? Tui biết trong thân tâm cũa người ngoại quốc, nhất là với người Mỹ, người Pháp và nhiều người dân thuộc các nước nhược tiểu khác, trong con mắt của họ: HCM là nhà tổ chức kỳ tài! Nếu không đủ đức đủ tài, mà như tui và các anh chẳng hạn, thì làm sao làm được những việc kinh thiên động địa trên. Như chính chủ tịch HCM, công nhận hễ là con người thì ai cũng có khuyết điểm, trên con đường kiến tạo đất nước và giữ nước, Đảng CS VN không khỏi tránh những sai lầm.. Nhưng dù sai lầm đến như thế nào thì cái chính là nền độc lập tự chủ của VN đã được tạo dựng. Còn xây dựng nó như thế nào thì VN đang dần bước lên những nấc thang mà tiền nhân vẫn mong đợi là xây dựng đất nước bằng mười bằng trăm thế kỷ 20 ? Bạn có mơ và tin điều đó không ? Tui rất tin điều đó, bởi đó là bước đi tất yếu mà chẳng có ai ngăn được bước đi lên của dân tộc VN chúng ta.! Vì vậy Hồ chí Minh luôn là ngọn cờ soi dọi mỗi bước ta đi lên phiá trước !

8) Họ chụp mũ chúng ta là CS, chúng ta chỉ cười thầm vì bạn bè lớn nhỏ của chúng ta cũng đang sinh hoạt trên diễn đàn này, và tất nhiên bạn bè của chúng ta biết chúng ta hơn ai hết. Họ chửi chúng ta là tay sai, nhưng họ không có thể đem ra một bằng chứng nào cả. Chúng ta, vì tình người, đề nghị họ đọc một số sách vỡ lòng để họ còn biết tôn giáo họ như thế nào, nhưng họ không dám đọc vì sợ "bức xúc" trong lòng. Thế thì còn căn bản nào để nói cho nhau nghe? Thế thì còn căn bản nào để trở lại một con người chân chánh? Tôi coi ông Karl Marx là một triết gia như bao nhiêu triết gia khác, nhưng họ không chịu ông Karl Marx là một triết gia, mà xem ông Karl Marx là một ông "kẹ" hạng nhất trên đời này. Triết lý của Karl Marx được dạy khấp nơi trên thế giới ngay cả bật trung học, nhưng họ quả quyết rằng chỉ có những quốc gia CS mới dạy triết lý của Karl Marx! Rất buồn, là cùng một giống người, nhưng mà hể có "thánh đạo" thì hung hãn như một con chó, chỉ biết ăn rồi sủa chứ chẳng biết lý luận gì cả, còn người không có "thánh đạo" thì hiền từ.

9) Theo ông Minh Võ thì cản trở cho công cuộc vận động dân chủ tại VN là do dân chúng vẫn còn hiểu sai về Hồ Chí Minh cho nên cần phải đánh đổ thần tượng Hồ mà bấy lâu nay đảng cọng sản xây dựng nên. Đây là một công việc vô bổ vì chẳng làm cho uy tín của ông Hồ suy giảm đối với người dân hai miền Nam Bắc. Gần một triệu người miền Bắc mà đa số là công giáo di cư, sai lầm của cải cách ruộng đất, vụ nhân văn giai phẩm, tết Mậu thân vẫn không ngăn cản được Việt cọng thực hiện được thống nhất đất nước. Chắc chắn rằng khi quân Mỹ đem một đội quân đông tới hơn 500000 người, chưa kể thêm những đội quân đồng minh thì những người như ông Minh Võ lúc ấy ở Sài gòn đều nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng . Vậy thì sức mạnh của Viêt cọng là ở chỗ nào nếu không nói là lòng dân. Họ tin tưởng ông Hồ vì đơn giản ông Hồ và người dân có cùng chung một mục tiêu là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Chẳng có bao nhiêu bộ đội đọc nhiều sách như ông Minh Võ để hiểu về lý thuyết này lịch sử nọ. Họ cũng chẳng chiến đấu vì một thần tượng, lý do là năm 1969 ông Hồ mất, Việt cọng vẫn tiếp tục sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy phân tích nguyên nhân không phát triển của tình hình hiện là do VN còn tín nhiệm ông Hồ. Điều này không đúng. Cần phải nhận định cho đúng đâu là nguyện vọng của người dân hiện tại để có khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, nếu không chỉ là Dã Tràng se cát...



10) Tôi, TCN, không còn trẻ, nhưng tôi rất mừng vì có những bạn trẻ đã đưa ra những nhận định chính xác và sáng suốt, dựa trên những sự kiện lịch sử chứ không dựa trên cảm tính phe phái. Đây là một niềm hi vọng cho đất nước Việt Nam. Để kết luận, tôi xin trích dẫn hai tài liệu. Trước hết là đoạn kết trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, trang 189-190:

“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất thế giới, đưa đến một thế bí quân sự.

Sự cương quyết về một mục đích đã làm thay đổi giòng lịch sử, làm phân rẽ dư luận quần chúng ở Hoa Kỳ, bắt buộc một Tổng Thống Mỹ phải rút lui không tái cử cho nhiệm kỳ hai, khiến cho hàng triệu giới trẻ trên khắp thế giới kính ngưỡng ông ta ủng hộ cách mạng và xuống đường biểu tình ủng hộ ông ta, hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”

Sự pha trộn duy nhất chủ nghĩa Mác-xít với chủ nghĩa gia trưởng, và chủ nghĩa quốc gia cao độ của ông Hồ đã thành công vĩ đại trong việc gây cảm hứng cho dân ông chịu đựng những sự hi sinh to lớn. Họ cũng còn kính yêu “Bác Hồ” vì nhân cách khiêm nhường và những cách cư xử từ ái của ông. Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù – Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở ngoài Bắc.

Một trong những thành quả vĩ đại của ông là, cũng như Tito, ông đã đạt thành một “Cộng sản quốc gia”, giữ cho nước của ông ta ở ngoài những móng vuốt của cả Trung Hoa Đỏ và Liên Bang Sô Viết, trong khi ông ta khôn khéo đi hàng đôi để có được sự giúp đỡ mà nước ông cần đến. Khi ông ta mất, Việt Nam không phải là một nước chư hầu, mà là một nước độc lập đầy hãnh diện, cương quyết trên sự thiết lập cá tính quốc gia cho mọi người Việt Nam…

Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”



(Communist or not, Ho Chi Minh will probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous, dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States, the world’s mightiest power, to a military stalemate.

His single mind resolution changed the course of history, polarized public opinion in the United States, forced an American President to withdraw from seeking a second term, and radicalized millions of admiring youth around the world who demonstrated in his support chanting, “Ho, Ho, Ho Chi Minh”.

Ho’s unique mixture of Marxism, paternalism, and intense nationalism was enormously successful in inspiring tremendous sacrifice among his people. They also loved “Bac Ho” (Uncle Ho) for his winning personal modesty and gentle ways. Ho was the despair of all his enemies – the French, the Saigon regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him. He was held in as much affection in South Vietnam as among the people he led in the North.

Not the least of his great achievements was that he had, like Tito, achieve a “national Communism” which kept his country out of the grip of both Red China and the Soviet Union, while he skillfully played one off against the other to get the help his country needed. When he died, North Vietnam was no satellite but a proud, independent country, determined on nationhood for all Vietnamese…

When the books of his life are balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam, Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.)



Thứ đến là nhận định của một cựu quân nhân Mỹ, ông David Thomas, giáo sư nghệ thuật, đại học Boston, người đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh ảnh Hồ Chí Minh ở Oakland, California, và đã bị một số người Việt Quốc Gia đến hò hét chống đối, văng tục và hành hung. Trước cuộc triển lãm, ông Thomas đã tổ chức một cuộc thảo luận với một số người Việt Nam. Ông phàn nàn: “Họ không cho tôi nói, văng tục, chửi hết câu này đến câu khác” (They kept hurling insult after insult. I didn’t get a chance to speak.) Nhưng ông ta cương quyết không nhượng bộ (But he stands behind his work unflinchingly). Ý định của ông tổ chức cuộc triển lãm là để cho quần chúng tìm hiểu về “con người đã làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới.” (I want viewers to question, investigate this man who changed world history). Về ông Hồ Chí Minh, Thomas nói:

“Tôi kính trọng tính chính trực của ông ta. Có vẻ như là ông ta chỉ có một nhiệm vụ trong đời, và đó là giải phóng Việt Nam ra khỏi người Pháp, và ông ta đã thành công. Hãy suy nghĩ về điều đó, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam đã đánh bại một nước như nước Pháp và quay lại đánh bại chúng ta. Điều này chưa từng có trong lịch sử. Và tôi kinh ngạc bởi điều đó. Chúng ta phải ngưỡng mộ con người đã làm được như vậy.” (I respect his integrity,” Thomas adds. “He seemed to have one mission in his life, and that is to free Vietnam of the French, and he did it. Think about it, a little country like Vietnam beat a country like France and turned around and beat us. That has never been done in history. And I’m awed by that. You have to admire a man that did that.)

Hẳn nhiên Thomas đã nhìn sự việc trên bình diện to lớn của lịch sử hơn là những chuyện lặt vặt như ông Hồ có mấy vợ, hút bao nhiêu điếu thuốc lá một ngày, hay đã làm đơn xin học trường thuộc địa [Muốn học ở Pháp khi đó không xin học ở trường thuộc địa thì xin học ở trường nào, trường Nhà Dòng chăng. Nhưng có ai đọc kỹ câu này không: “Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”. Vậy rõ ràng mục đích của ông Hồ là muốn tăng thêm học vấn để phục vụ đồng bào. Pháp dùng chính sách ngu dân để cai trị, nhưng ông Hồ lại muốn “trở thành hữu ích cho Pháp” với mục đích dùng kiến thức của mình phục vụ đồng bào. Đọc về ông Hồ, chúng ta ta thấy rõ đó là mục đích chính của ông. Nên nhớ, khi vừa nắm được chính quyền, Việt Minh đã phát động phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ khắp nước. Vậy mà người ta lại thường viện vào cái đơn xin học này để chứng tỏ ông Hồ không phải là người yêu nước...]



Vài lời kết :

Tôi chưa từng có cơ hội đọc cuốn sách của Trần Dân Tiên, chỉ biết đến tên cuốn sách này qua bài ông Minh Võ đọc Trần Dân Tiên và viết trên Đàn Chim Việt: “Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh.” Ông Minh Võ cho rằng các tác giả viết về ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1948-1975 đều bị lừa bịp bởi cuốn sách của Trần Dân Tiên về ông Hồ, và kể ra vài tác giả quen thuộc: Bernard Fall, Jean Lacouture, David Halberstam. Nhưng đọc mấy tác giả này, Bernard Fall: “Street Without Joy” (1964), “The Two Viet-Nams” (1967); Jean LaCouture: “Cinq Hommes Contre La France” (1961); Halberstam: “The Making Of A Quagmire” (1965) chúng ta thấy họ không hề nêu ra nguồn tài liệu nào về Ông Hồ là lấy từ cuốn sách của Trần Dân Tiên trong danh sách những tư liệu tham khảo. Và ngay cả trong hàng trăm cuốn sách trong đó có viết về ông Hồ sau năm 1975 cũng không có cuốn nào dùng tài liệu của Trần Dân Tiên.

Đúng như một bạn trẻ đã nhận định ở trên: “Thứ lý luận của Minh Võ chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi” chúng ta hãy điểm qua vài “lý luận” của ông Minh Võ:

1) Nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn thậm chí cưỡng bách nhiều năm.

Thật vậy sao? Cưỡng bách tôn sùng? Điều này chỉ có thể thấy trong lịch sử Công Giáo qua những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (Inquisition) và lịch sử truyền đạo qua chính sách thực dân. Nếu là cưỡng bách thì làm sao người dân có thể chiến thắng một cường quốc như Pháp rồi về sau lại đánh bại một cường quốc vào bậc nhất thế giới như Mỹ. France Fitzgerald đã viết: “Một bài học mà hầu như bất cứ vị lãnh đạo quốc gia nào cũng có thể học được từ ông Hồ Chí Minh: đó là, nếu đi vào một cuộc chiến lâu dài thì phải có sự ủng hộ của người dân. Sự ủng hộ này quan trọng hơn vũ khí, vì nếu người dân tin vào chính nghĩa của họ, họ có thể chấp nhận những sự hi sinh phi thường. Nếu họ không tin, mọi vũ khí trở thành vô ích.” [Vietnam Reconsidered: Lessons From A War, p. 302: There’s a lesson that almost any leader in any country might learn from Ho Chi Minh, and that is, if you embark on a war of any duration, you must have the support of your people. This support is more important than weapons, for if people believe their cause is just, they are capable of extraordinary sacrifices. If they do not, all your weapons are useless.]. Fitzgerald đã viết không sai. Nếu không tin tưởng vào chính nghĩa, người dân Việt Nam không thể chịu bao hi sinh để thắng nổi những thế lực quân sự có ưu thế tuyệt đối về quân sự như Pháp và Mỹ trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Ai đã mang lại chính nghĩa đó, nếu không phải là ông Hồ.

2) Minh Võ viết: “6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.”



Chẳng có ai, xin lỗi độc giả, viết bậy như Minh Võ. Minh Võ có biết là thành phần, không phải là hơn một triệu, mà là gần một triệu, của số người di cư từ Bắc vào Nam là như thế nào không. Hãy đọc Bernard Fall trong “The Two Viet-nams”, trang 154:

“Trong số 860000 người chạy vào Nam, 600000 người là tín đồ Công Giáo. Tuy 65% trên tổng số người Công giáo (ở ngoài Bắc) bỏ Bắc Việt Nam, hơn 99.5 % những người không Công Giáo ở lại.”

(Of the 860000 who fled South at this time, 600000 were Catholics. Although 65 percent of the total Catholic population left North Viet-Nam, more than 99.5 percent of the non-Catholics stayed put.)

Tại sao tỷ lệ những người Công Giáo chạy vào Nam lại cao như vậy? Fall giải thích:

“Những khẩu hiệu và truyền đơn tuyên truyền kêu gọi những tín đồ Công Giáo sùng tín là “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”; cho nên, toàn thể các xứ đạo – thí dụ như Bùi Chu và Phát Diệm – từ những ông giám mục cho đến hầu như ông linh mục cuối cùng trong làng và giáo dân đã gói ghém mọi đồ đạc [để đi theo Chúa và Đức Mẹ]”

(Propaganda slogans and leaflets appealed to the devout Catholics with such themes as “Christ has gone to the South” and the Virgin Mary has departed from the North”; and whole bishoprics – Bui Chu and Phat Diem, for example, packed up lock, stock, and barrel, from the bishops to almost the last village priest and faithful.)

Chúng ta cũng không nên quên rằng Bùi Chu, Phát Diệm là những khu “Công giáo tự trị”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để chống Việt Minh. Vậy chính cái mặc cảm phản bội dân tộc cộng với trình độ quá thấp đến độ bị mấy tên xảo quyệt như Lansdale và “bề trên” tuyên truyền láo: “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”, một sự sự mê tín mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh phải lắc đầu kêu trời trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm” đã khiến cho số người Công Giáo trên di cư vào Nam. Phần còn lại là công chức, quân nhân trong quân đội liên hiệp Pháp. Còn tỷ lệ những người dân thường không đáng kể. Ông Minh Võ dốt sử nên không hiểu rằng cuộc di cư của số người Công Giáo này thực ra là có lợi cho chính quyền miền Bắc: có thêm ruộng đất để chia cho nông dân nghèo, và đỡ đi phần nào của mối lo về một số người thuộc một thế lực “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.” ở lại miền Bắc.

Viết bài này, tôi không có ý biện hộ hay bênh vực ông Hồ Chí Minh trước cuộc “thánh chiến chống Cộng” ở hải ngoại, mà chỉ viết theo sự hiểu biết của mình qua sự tổng hợp một số tài liệu. Lịch sử đã rõ ràng, không ai cần đến tôi làm việc này. Nhưng thấy trình độ và những thủ đoạn hạ bệ ông Hồ Minh Võ cũng như của một số đồng bọn ở đây thấp kém và ấu trĩ quá, mà lại cứ thích viết bậy, có những hành động làm nhục lây cả những người Quốc Gia như tôi, nên tôi buộc lòng phải viết lên vài điều để cảnh tỉnh những người muốn dùng những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử cho những mục đích chính trị của mình. Viết về ông Hồ, chúng ta không thể chỉ kể ra những chi tiết lặt vặt trong đời tư của ông mà phải nhìn vấn đề trên bình diện rộng hơn. Ít nhất là phải phân tích những hoạt động của ông ở ngoại quốc trước khi ông biết đến chủ thuyết Mác-Lênin, ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles, ở các Hội Nghị Quốc Tế, phải đọc những bài ông Hồ Chí Minh, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, viết trên những tờ L’Humanité, La Vie Ouvrière, Le Paria v..v.., nội dung ra sao, ông đã thành lập và tổ chức Việt Minh từ bao giờ, để làm gì, đã có những hoạt động chống Nhật và Pháp như thế nào, và sau cùng, đường lối chính trị của ông sau 1945 cho đến khi ông qua đời v..v.. thì mới có thể đánh giá đúng ông Hồ được.

Vài lời cuối với ông Minh Võ và những người có ý định phá bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh” như ông Minh Võ: Cái di sản mà ông Hồ Chí Minh để lại cho người dân Việt Nam là một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là công của mình ông Hồ mà là của toàn dân, ít ra là của đại đa số người Việt đã coi ông Hồ như là biểu tượng truyền thống yêu nước của người Việt Nam, do đó đã không ngại mọi hi sinh để đạt thành. Nhưng quan trọng hơn là thế giới đã biết nhiều hơn về Việt Nam và không còn dám coi thường Việt Nam tuy Việt Nam vẫn còn là một nước tương đối nghèo và kém phát triển. Xin đừng có coi thường độc giả. Đừng có hi vọng họ tin tất cả những điều mình viết. Ngay cả giới trẻ ngày nay cũng sáng suốt lắm. Họ không để cho bị bịp bởi những luận điệu vô căn cứ, thuần túy viết theo thiên kiến và cảm tính đâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì đối với thế giới và đại đa số người dân Việt Nam, đúng như Jules Archer đã viết:

“Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông, coi ông như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”

“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này.”



TRẦN CHUNG NGỌC

(Đọc thêm: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/hagiang-hochiminh.htm)


COMPILED BY TRAN HO DUNG . SAIGON-VIETNAM .2009 .