Con Đường Chuyển Hóa
Hay Tản Mạn về... Phật & Giêsu
Trần Chung Ngọc
nctran@juno.com
Năm 1969, John H. Garabedian và Orde Coombs viết một cuốn sách nhan đề Những Tôn Giáo Đông Phương Trong Thời Đại Điện Tử (Eastern Religions In The Electric Age, Tempo Books, New York, 1969), ngoài bìa có in hình một hàng chữ lớn viết trên tường: "Chúa Đã Chết - Phật Còn Sống" (CHRIST IS DEAD - BUDDHA LIVES). Trong cuốn sách này, hai tác giả giải thích "tại sao hàng triệu giới trẻ ở Mỹ đang vứt bỏ truyền thống tôn giáo của họ để đi tìm những giải đáp cho cuộc đời trong những tư tưởng và tôn giáo của Đông phương" (why millions of young people are rejecting their own traditions and seeking new answers in the ideas and religions of the East).
Năm 1995, Thầy Nhất Hạnh cho ra đời tác phẩm Phật Sống, Chúa Sống (Living Buddha, Living Christ, Riverhead Books, New York, 1995), mở cửa cho một cuộc đối thoại giữa Phật và Chúa Ki Tô, tuy trong cuốn này có vài đoạn Thầy chỉ trích tính chất hẹp hòi, bất khoan dung của Ki Tô Giáo, và một đoạn phê bình Giáo Hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II) về nhận định của ông về tính cách "duy nhất" của Giêsu.
Cuối năm 1999, Thầy Nhất Hạnh tiến thêm bước nữa, thực hiện Bồ Tát hóa thân, một mình đóng hai vai, Phật và Giêsu, cho Phật và Giêsu ngồi cùng với nhau như anh em và bàn về sự tương đồng của một số triết lý Phật Giáo và Ki Tô Giáo qua lăng kính của Phật Giáo, trong tác phẩm Về Nhà. Giê-su và Phật Như Là Anh Em (Going Home. Jesus and Buddha as Brothers, Riverhead Books, New York, 1999). Trong lời giới thiệu ngoài bìa cuốn sách này có đoạn:
Trong cuốn Going Home, Phật và Giêsu ngồi cùng nhau và bàn về những lời cầu nguyện và lễ tiết của mỗi tôn giáo. Hai người hỏi có thể làm được gì để tạo một sức sống mới cho mỗi truyền thống, nhìn vào sự gặp nhau của những quan niệm như phục sinh và sự thực hành chánh niệm hay tỉnh thức, vào chỗ gặp nhau của sự hiểu biết về bản chất thực tại của Phật Giáo và quan niệm về Thượng đế của Ki Tô Giáo.
(In Going Home, they (Buddha and Jesus) sit down and talk about each other's prayers and rituals. They ask how they can help renew each other's traditions. They look at the convergence of concepts such as resurrection and the practice of mindfulness. They see where the Buddhist understanding of the nature of reality and the concept of God come together)
Chỉ có điều, quan niệm về Thượng đế trong Ki Tô Giáo đã phải thay đổi rất nhiều qua dòng thời gian và tiến hóa cùng với trí tuệ của nhân loại. Sự tiến hóa của nhân loại vẫn chưa ngừng nên quan niệm về Thượng đế còn phải thay đổi, do đó, khi sự hiểu biết trong Phật Giáo về bản chất thực tại bắt đầu gặp quan niệm về Thượng đế thì có thể đó cũng là lúc bắt đầu xa nhau.
Tuy không phải là một đệ tử của Thầy Nhất Hạnh, nhưng có thể nói, tôi đã coi Người như là Thầy của tôi từ lâu rồi. Tôi đã đọc khá nhiều tác phẩm của Thầy và nhờ đó tôi đã hiểu rõ đạo Phật hơn, về lý thuyết cũng như thực hành. Hai tác phẩm của Thầy mà tôi thấy thấm thía nhất là bộ "Đường Xưa Mây Trắng" và truyện ngắn "Tùng" Thầy viết cách đây đã lâu. Cũng vì vậy mà tôi đã giới thiệu cuốn Đường Xưa Mây Trắng và đưa truyện Tùng lên diễn đàn điện tử Vietnet cho giới trẻ đọc. Tôi đã đọc khá nhiều tác phẩm viết về Phật Giáo của những tác giả ngoại quốc cũng như Việt Nam. Tôi chưa thấy ai viết về Phật Giáo một cách trong sáng và thoải mái như Thầy Nhất Hạnh. Qua những tác phẩm viết về Phật Giáo của Thầy, Phật tử Việt Nam nên cảm thấy hãnh diện về Thầy, không phải vì Thầy rất nổi tiếng ở ngoại quốc, không phải vì Thầy có nhiều đệ tử trong nhiều quốc gia, mà vì Thầy đã để lại cho kho tàng văn hóa Việt Nam một gia tài Pháp bảo. Chúng ta cảm thấy hãnh diện vì chúng ta là những Phật tử Việt Nam bình thường, chưa đạt được đến trình độ "tám gió thổi không làm cho mình lay động." Còn đối với Thầy, tôi tin chắc, đã là tác giả truyện Tùng thì không thể khởi động một niệm tự hào nào.
Tùng là câu chuyện rất cảm động về Pháp sư Tri Huyền tức Quốc Sư Ngộ Đạt, trong đó có nhiều đoạn rất hay hợp với tinh thần và giáo lý Phật Giáo, thí dụ như đoạn vị Tăng người Ấn Độ tên là Kaniska nói với Tri Huyền trước khi Tri Huyền nổi tiếng và được Vua Ý Tông phong làm Quốc Sư với danh hiệu Ngộ Đạt: "Tôi biết thầy là người thông tuệ; sự tu học của thầy sẽ thành công lớn. Rồi đây thầy sẽ trở thành một vị cao tăng, tiếng tăm lừng lẫy. Tôi xin phép nhắc với thầy rằng mục đích của sự tu hành là để đạt tới giải thoát chớ không phải là để nổi tiếng..." Một đoạn khác tả lúc Tri Huyền nhớ lại lúc mình lên tới tột đỉnh danh vọng và "lúc mình bước lên ngồi vào Pháp tọa trầm hương, trong khi hàng chục ngàn người cúi rạp mình làm lễ, trong đó có Vua Đường Ý Tông. Thấy mình là người tu hành mà đạt đến một địa vị cao tột trong nhân gian như thế, Ngộ Đạt, trong một giây phút ngắn ngủi, bỗng thấy một niềm tự hào dâng lên trong lòng. Quốc sư biết là tà niệm đã khởi, mặt đỏ bừng, liền ngồi xuống pháp tọa và nhiếp mình vào chánh niệm. Nhưng chậm mất rồi. Bỗng dưng, trong khoảng không có một vật gì nhỏ bé, nhỏ bằng một hạt cát, sáng trưng, bay xẹt xuống, trúng vào bắp đùi bên trái của quốc sư làm đau nhói tới xương tủy..."
Vết thương trên đùi trở thành một mụn ghẻ lớn hành hạ Tri Huyền nhiều năm, sau nhờ Kaniska chỉ điểm dùng nước suối Giải Oan rửa vết thương mới lành và mới giải được nghiệp cũ. Vài hàng tóm tắt một phần nhỏ những điều hay trong tác phẩm Tùng. Xin độc giả hãy tìm đọc cho được tuyệt phẩm này của Thầy Nhất Hạnh.
Điều rõ ràng hai tác phẩm Living Buddha, Living Christ và Going Home... của Thầy Nhất Hạnh đã được viết trong tâm cảnh của một Bồ Tát Thiền Sư với chủ đích hòa hợp Phật Giáo - Ki Tô Giáo trong tinh thần đối thoại tôn giáo. Lòng từ bi của Thầy đã được thể hiện trọn vẹn trong hai tác phẩm này. Và, trong hai cuốn sách trên, Thầy đã sử dụng phương tiện quyền xảo (skill in means) trong Phật Giáo, có lẽ với hi vọng có thể chuyển hóa Ki Tô Giáo, thay đổi tận gốc rễ nền Thần học Ki Tô, ngõ hầu đưa đến sự hòa hợp tư tưởng giữa Phật Giáo và Ki Tô Giáo. Sự hòa hợp tư tưởng sẽ đưa đến sự hòa hợp trong xã hội. Mục đích cao cả này là sự mong đợi của tất cả mọi người trong thế giới tiến bộ, và cũng là sự mong đợi của những người Việt Nam yêu nước mà hoàn cảnh bi thảm của một giai đoạn lịch sử cận đại đã đưa đến sự chia rẽ dân tộc thành hai khối Lương Giáo với "nhiều e dè nghi kỵ, xem ra không sao xóa sạch được," theo như nhận xét của Linh Mục Lương Kim Định trong cuốn Triết Việt. Chúng ta cầu mong thiện tâm và mục đích của Thầy Nhất Hạnh được viên thành.
Tuy nhiên, theo tôi, con đường chuyển hóa trên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Phần lớn những khó khăn này thuộc bản chất và giáo lý Ki-Tô. Sau đây, tôi sẽ trình bày một vài điểm khó khăn để chúng ta thấy rõ vấn đề và tìm phương cách giải quyết chứ không phải để làm nản lòng những người đang bước trên con đường hòa hợp.
Bài viết này chỉ có mục đích trình bày những suy tư của tôi về Phật và Giêsu, những suy tư của một Phật tử bình thường, sống trong thế giới các hiện tượng (world of phenomena), danh từ Phật Giáo gọi là Sự Pháp Giới. Đây chỉ là những suy tư cá nhân, được trình bày hết sức thành thực trong mức độ hiểu biết rất giới hạn của tôi. Phần lớn những suy tư này dựa trên sự kiện (facts) và thực tế chứ không dựa trên cảm tính.
Hiện nay, Phật Giáo đang bành trướng mạnh trên khắp thế giới. Nhiều tín đồ Ki Tô Giáo đã nhận ra chân giá trị của Phật Giáo và học hỏi được khá nhiều từ Phật Giáo. Tuy nhiên, khi họ nhìn Ki Tô Giáo qua lăng kính Phật Giáo, điều này có thể rất hấp dẫn đối với một số người Tây phương trong cơn khủng khoảng đức tin về những tôn giáo truyền thống của họ, thì Ki Tô Giáo không còn là Ki Tô Giáo nữa. Do đó, cái mà họ nhận thức được không phải là chân tinh thần của giáo lý Ki Tô, vì giáo lý này đã biến chất, tùy theo họ nhìn giáo lý đó qua lăng kính nào.
Trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, với trí tuệ của con người tiến hóa và phát triển qua nhiều thời đại, với những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, đầu óc con người đã mở mang trên mọi địa hạt, đối thoại tôn giáo là điều tất yếu, không có không được (sine qua non). Tại sao? Nhận định sau đây của nhà Thần học nổi danh Hans Kung trong cuốn Ki Tô Giáo: Tinh Chất, Lịch Sử, Tương Lai (Christianity: Essence, History, Future, Continuum Pub. Co., New York, 1995, trg. 783), hi vọng sẽ giúp chúng ta thấy rõ vấn đề:
Không có hòa bình giữa các tôn giáo thì sẽ có chiến tranh giữa các nền văn minh khác nhau. Không thể có hòa bình giữa các tôn giáo nếu không có sự đối thoại giữa các tôn giáo. Không thể có sự đối thoại giữa các tôn giáo mà không có sự nghiên cứu về những nền tảng của các tôn giáo.
(Without peace between the religions, war between the civilizations. No peace among the religions without dialogue between the religions. No dialogue between the religions without investigation of the foundations of the religions).
Như vậy, điều kiện cần và đủ để cho một cuộc đối thoại tôn giáo hữu hiệu là chúng ta phải nghiên cứu để biết rõ nền tảng của mỗi tôn giáo trong tinh thần của tôn giáo đó. Giáo Hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II) đã vấp phải một sai lầm nghiêm trọng khi viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng (Crossing The Threshold of Hope) vì không nghiên cứu về nền tảng của Phật Giáo trong tinh thần Phật Giáo, do đó đã đưa ra những nhận định phiến diện về Phật Giáo qua lăng kính của Ki Tô Giáo.
Theo định nghĩa, đối thoại là sự trao đổi những ý kiến và quan niệm (an exchange of ideas and opinions), có thể rất khác nhau, để đi tới sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Đối thoại không có nghĩa là tương đồng hóa những ý kiến và quan niệm. Cho nên, một trong những sai lầm lớn trong căn bản đối thoại tôn giáo là cho rằng về bản chất, tôn giáo nào cũng giống nhau, nói một cách rất đơn sơ và phiến diện là tôn giáo nào cũng dạy làm điều lành, tránh ác, do đó chúng ta chỉ cần khai triển sự tương đồng đó là có thể đi tới sự hòa hợp tôn giáo. Chúng ta không sống trong thế giới của những nguyên lý mà sống trong thế giới của những hiện tượng뮠Giáo lý tôn giáo tự nó vô nghĩa nếu chúng ta không áp dụng nó trong cuộc đời, trong xã hội, trong sự giao tiếp giữa con người với con người. Do đó, chúng ta không thể bảo mọi tôn giáo căn bản đều như nhau trừ khi chúng đều có ảnh hưởng trên xã hội như nhau. Chúng ta cần phải biết rõ giáo lý của mỗi tôn giáo, và tôn giáo đó đã mang lại những gì cho nhân loại, rồi từ đó mới có thể có một căn bản để đối thoại. Một sai lầm khác là toan tính đưa tín ngưỡng của mọi tôn giáo qui về một mối, một nguồn, thí dụ như Allah và Chúa là một, Phật Tánh và Thượng Đế không khác, Nước Chúa và Niết bàn như nhau v..v... Cách nhìn sự việc như trên có thể đúng trong quan niệm về Tính Không, Tâm Chân Như, Tương Duyên, Tương Tức v..v.. của Phật Giáo, trong thế giới của Lý, nhưng không hẳn là đúng trong tinh thần của các tôn giáo khác, trong thế giới của Sự. Phải chăng vì đã nhận thức rõ vấn đề nên Hans Kung đã mở đầu cuốn Ki Tô Giáo ... (Ibid., trg. 1) bằng câu:
Chỉ có những người không biết gì mới có thể cho rằng mọi tôn giáo đều giống nhau. Trái lại, thật là vô cùng quan trọng cho những tín đồ của mỗi tôn giáo, và nhất là cho mỗi tôn giáo thuộc loại tiên tri, dù là Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo hay Hồi Giáo, tự hỏi: "Sự khác biệt giữa tôn giáo của mình và các tôn giáo khác là gì? Cái gì là tính chất đặc thù, chuyên biệt, điển hình, nghĩa là "Tinh Chất" của tôn giáo này hay tôn giáo nọ?
(Only the ignorant can claim that all religions are the same. On the contrary, it is extremely important for members of every religion and especially every prophetic religion, whether Christianity, Judaism or Islam, to ask, "What is the difference between my religion and other religions? What is the special, the typical, the specific, the essential character, indeed the "essence" of this or that religion?)
Chúng ta vừa thấy, giữa Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo, tuy từ một gốc mà ra, đã có những sự khác biệt đến độ đưa đến những cảnh tàn sát lẫn nhau không chút nương tay, kéo dài cho đến tận ngày nay, số mạng sống con người bị hủy diệt vì chiến tranh tôn giáo lên đến cả trăm triệu, như lịch sử đã chứng minh. Phật Giáo, một tôn giáo Đông phương mà trong quá trình phát triển trong hơn 2500 năm không hề làm đổ một giọt máu, tất nhiên phải khác, khác về giáo lý, vì giáo lý đưa đến thực hành. Giáo lý căn bản của Phật Giáo là Từ, Bi, Hỉ, Xả cho nên sự phát triển của Phật Giáo trên thế giới là một tiến trình hòa bình, tôn trọng mọi tín ngưỡng khác, chưa hề mang lại hệ lụy nào cho nhân loại.
Thầy Nhất Hạnh cũng đã thấy rõ vấn đề nên Thầy đã viết, Going Home..., trang 143:
Chúng ta hãy nhớ rằng Giáo hội (Ki-Tô) đã gây nên quá nhiều đau khổ, quá nhiều chiến tranh. Vậy nhiệm vụ của chúng ta là phải xây dựng một Tăng đoàn, xây dựng một Giáo hội sao cho Thánh Linh, sự tỉnh thức đó, phải thắng để có thể có sự khoan dung ngõ hấu có thể phát triển lòng từ bi.
(Remember that the Church has been responsible for so much suffering, so much war. It is our task to build a Shanga, to build a Church in such a way that the Holy Spirit, that mindfulness, should prevail so that tolerance becomes possible in order to make compassion possible).
Hiển nhiên, nếu điều này thực hiện được, thì cả thế giới sẽ được nhờ và hân hoan đón nhận, vì then chốt của hòa bình trên thế giới là mọi tôn giáo đều thực hành đức khoan dung và hạnh từ bi. Điều khó khăn ở đây là, nếu Ki Tô Giáo thay đổi như vậy, chuyển đổi để trở thành giống như Phật Giáo, thì phải thay đổi tận gốc rễ, không còn là Ki Tô Giáo nữa. Bởi vì, căn bản, Phật Giáo và Ki Tô Giáo rất khác nhau.
Sự khác biệt căn bản giữa Phật Giáo và Ki Tô Giáo là gì? Về phương diện nhân loại, chúng ta có thể quan niệm Phật và Giêsu như là anh em, vì cả hai đều do tinh cha huyết mẹ sinh thành và gồm có 46 sắc tố (chromosome), 23 sắc tố thuộc cha và 23 sắc tố thuộc mẹ (trừ khi chúng ta gạt bỏ mọi bằng chứng khoa học để chấp nhận huyền thoại Thánh Linh có thể làm cho bà Maria thụ thai rồi sinh ra Giê-su), cùng nằm trong tiến trình tiến hóa của những sinh thể ban khai trải qua một thời gian nhiều tỷ năm, thân xác đều gồm có hơn 65% là nước, máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn v..v.... Nhưng về phương diện giáo lý tôn giáo và hành trì thì: Phật đi Bắc thì Giêsu xuống Nam, Phật đi Đông thì Giêsu đi Tây, Phật nói một đàng thì Giêsu nói một nẻo. Chứng minh?
Về căn bản, mọi người chúng ta đều biết, Phật Giáo là đạo của Trí Tuệ và Lý Trí, thường được biết dưới tên quen thuộc là đạo "Giác Ngộ." Còn Ki Tô Giáo là đạo của Đức Tin, thường được Theo học giả Gia Tô Joseph L. Daleiden thì Lý Trí và Đức Tin tượng trưng cho hai con đường: "Con đường đi tới hiểu biết đối với con đường đi tới mê tín" (The Final Superstition, p. 238: Reason Versus Faith: A path to knowledge, a path to superstition")
Theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the improbable). Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief in something for which there is no proof). Định nghĩa của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought, inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment, sound sense). Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên Đức Tin và Lý Trí là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, thì lý trí trở nên thừa thãi. Mặt khác, trong Phật Giáo cũng có lòng tin, nhưng chúng ta không nên coi lòng tin này như là đức tin trong Ki Tô Giáo. Kinh Phật nói cho người dân Kalama đã chứng tỏ điều này (Thích Nhất Hạnh, Đường Xưa Mây Trắng, trg. 698):
Này các bạn, các bạn đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó là điều mà người ta thường nói đến luôn, dù điều đó có trong kinh điển, dù điều đó là do một bậc thầy mà thiên hạ tôn sùng nói ra. Các bạn chỉ nên chấp nhận và tin vào những điều mà các bạn thấy hợp với lý trí của các bạn, những điều được các bậc hiền nhân đồng ý, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới những kết quả tốt đẹp cho đời sống. Còn những điều không hợp với lý trí, những điều bị các hiền nhân chê trách, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới khổ đau và đổ vỡ, những điều đó các bạn nên bác bỏ, đừng chấp nhận.
Lý trí và trí tuệ Phật Giáo được thể hiện trong lời nói cuối cùng của Đức Phật trước khi Người nhập Niết Bàn: "Các vị khất sĩ, hãy nghe Như Lai nói đây: vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các vị hãy tinh tiến lên để đạt tới giải thoát." Nói xong Phật nhắm mắt. (Thích Nhất Hạnh, Đường Xưa Mây Trắng, trg. 917).
Đức tin trong Ki Tô Giáo được thể hiện qua lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su trước khi Người tắt hơi: "Chúa Giê-su kêu lớn: "Thượng đế ơi! Thượng đế ơi! Sao Ngài lìa bỏ con?."..Chúa Giê-su kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt hơi. " (Thánh Kinh: Matthew 27: 46, 50; Mark 15: 34, 37)
Điều rõ ràng là trước khi tịch diệt, Đức Phật vẫn còn quan tâm đến những đệ tử của mình và nhắc nhở cho những đệ tử về chân lý vô thường cùng khuyên các đệ tử phải cố gắng tu tập, tiến tới giải thoát. Nhưng Chúa Giêsu thì vì sống trong một đức tin, tin rằng mình là con của Thượng đế, tin rằng sẽ có những thiên thần Thượng đế sai xuống để giải cứu mình v...v.., nên khi sắp tắt hơi mới tỉnh ngộ và thốt ra những lời than đầy đau khổ và thất vọng.
Phải chăng vì vậy mà trong Phật Giáo có lý tưởng Bồ Tát cứu độ chúng sinh không phân biệt, sẵn sàng vén tay áo, sắn ống quần, nhảy vào địa ngục cứu vớt chúng sinh; trong khi Ki Tô Giáo cổ súy sự cứu rỗi cá nhân qua đức tin (salvation by faith), bất kể là cha mẹ, bà con, họ hàng, bạn bè v..v..có thể bị đầy hỏa ngục đời đời kiếp kiếp vì không đủ đức tin (theo giáo lý Ki Tô).
Có lẽ, với lòng từ bi của một Bồ Tát trong ý định chuyển hóa Ki Tô Giáo, nên Thầy Nhất Hạnh đã:
Đề nghị cùng các bạn trong Ki Tô Giáo gồm Gia Tô, Tin Lành và Chính Thống, trở lại con đường nhận thức Giêsu như là một bậc Thầy và học Giáo Pháp của Giêsu, vì đó mới là Giêsu chân thật, không phải là một danh xưng, một ý niệm, mà là một thực tại sống động."
(Going Home ....trg. 139: It is suggested to our friends that we all go back and rediscover Jesus as a teacher. Many of our Catholic, Protestant, Orthodox friends have that intention. They want very much to rediscover Jesus as a teacher and to learn from him the Dharma. And that is the true Jesus, the Jesus not merely as a name, as a concept, but as a living reality).
Rồi Thầy giải thích thêm ở trang 140:
Chúng ta quan tâm đến sự hiểu biết Thân của Giêsu như là một giáo pháp, vì điều này có tính quyết định đối với chúng ta. Vì đó là điều chúng ta muốn từ một bậc Thầy. Một bậc Thầy có một giáo pháp, và chúng ta biết nếu chúng ta không có được giáo pháp đó thì chúng ta không có ông Thầy.
Giáo pháp của Giêsu, phương cách ông ta đề nghị cho chúng ta để chúng ta ra khỏi sự khổ đau, gọi là Pháp Thân. Pháp Thân là giáo pháp."
(We are interested in knowing his Body as a teaching, because that is very crucial to us. Because that is what we want from a teacher. A teacher has a teaching to offer, and we know that if we cannot get that teaching, then we do not have the teacher.
The teaching of Jesus Christ, the way proposed by him for us to get out of our suffering, is called the Teaching Body, the Dharmakaya - The Dharma Body is the teaching).
Đây là một đề nghị rất hay, có thể chuyển hóa Ki Tô Giáo từ một tôn giáo "cứu rỗi" thành một tôn giáo "giác ngộ" như Phật Giáo, nhưng tôi nghĩ rằng sẽ rất khó thực hiện. Qua nhiều thế kỷ, các nhà Thần Học Ki Tô Giáo đã cố gắng đi theo con đường này nhưng đã không thành công vì họ không thể nào dung hòa hình ảnh của một bậc Thầy với những điều viết trong Thánh Kinh về Giêsu, được coi là những lời "mặc khải" không thể sai lầm của Thượng đế hay Thánh Linh.
Để hiểu sự khó khăn của các nhà Thần Học Ki Tô trong việc thay đổi hình ảnh của Giêsu, tôi xin trích dẫn vài đoạn sau đây của Tiến Sĩ George Dennis O'Brien, Giáo sư Triết, Viện Trưởng Viện Đại Học Rochester, trong cuốn "Thần Và Đường Xe Lửa ở New Haven. Và Tại Sao Cả Hai Đều Chẳng Mấy Thành Công" ("God and The New Haven Railway. And Why Neither One Is Doing Very Well," Beacon Press, Boston, MA., 1986, trg. 101-108). Chúng ta nên để ý rằng, cũng như Bertrand Russell, Giáo sư O'Brien đã so sánh Giêsu với Socrates và Đức Phật, nhưng dưới một khía cạnh khác, ngả về trí tuệ thay vì đạo đức:
Một tôn giáo "giác ngộ" tăng tiến trí tuệ tâm linh hoặc đạo đức của chúng ta bằng một giáo pháp nào đó. Một tôn giáo "cứu rỗi" cải đổi đời sống của chúng ta bằng cách dẫn chúng ta sống đời sống của chúng ta trong một người khác.
...Khi bậc Thầy xuất chúng qua đời, giáo pháp của ông ta có thể tiếp tục sống.. Ông ta có thể có một giáo pháp như Tám Thánh Đạo khiến cho trí tuệ chuyên biệt của ông ta tồn tại vĩnh viễn. Ngay cả khi bậc Thầy không để lại một giáo pháp nào mà chỉ là mẫu mực của một trí tuệ tìm tòi và lý tưởng về tính Thiện, như Socrates, cái gương sáng của ông Thầy tồn tại và làm chỉ tiêu cố gắng cho những đệ tử sau này. Tất cả những phương tiện trên để tiếp nối "đời sống của Sư Phụ" đều có ý thức cao và được áp dụng rộng rãi... Nhưng cái khung truyện đó không phải là chủ trương của Tân Ước. Không phải là giáo pháp của ông Thầy tồn tại, mà là chính "ông Thầy." Mà dù như vậy đi chăng nữa thì cũng không có "ông Thầy" mà chỉ có "ông cứu thế." Vì cách duy nhất để có một tôn giáo cứu rỗi là qua sự xâm nhập vào đời sống của tôi của một người có ý nghĩa lạ lùng khác, cái "người khác" này thật là cần thiết để cho câu chuyện có thể tiếp tục. Không có sự "sống lại" thì không thể có chuyện để mà kể.
Do đó, tôn giáo cứu rỗi tùy thuộc ở "cải đổi," "sống lại," "thay đổi tận gốc rễ" trên căn bản một đời sống sống với một người khác.
...Trong một tôn giáo cứu rỗi, ta không thể đạt được một trình độ tâm linh cao bằng cách học hỏi về một chân lý nào đó, một sự kiện nào đó, một con người nào đó. Tất cả những điều trên đều có tính cách giáo dục và cao quý, nhưng đó không thuộc một truyện phim thuộc loại cứu rỗi. Trong câu chuyện về tội lỗi và cứu rỗi, con người tới một trạng thái mới bằng cách sống với một người khác.
Giêsu có hội đủ những tiêu chuẩn của những bậc Thầy xuất chúng về tâm linh không? Không đâu. Chỉ tiêu của sự siêu quần về tâm linh là con người phải là một bậc Thầy xuất chúng về tỉnh thức, về trí tuệ tâm linh, hoặc một tâm bình lặng. Giêsu không phải là một ông Thầy, mà là một ông cứu thế.
Chúng ta hãy coi một bậc Thầy xuất chúng. Socrates là một thí dụ tốt. Socrates là một đại sư về tỉnh thức tâm linh. Ông ta cho rằng ông không biết gì cả, chỉ đặt cho học trò vài câu hỏi có tính cách mưu mẹo, thách đố. Socrates muốn chắc rằng học trò bám vào chân lý chứ không bám vào Socrates.
Đức Phật là một thí dụ về một bậc Thầy "tôn giáo" xuất chúng cũng có cùng giáo pháp tự chứng như Socrates.
Đức Phật không phải là một đấng cứu rỗi, Người là Đấng Giác Ngộ. Người đã chứng được những chân lý về nhân sinh, và Người đã đưa ra Tám Thánh Đạo để hướng dẫn con người đạt tới cùng sự giác ngộ như Người và do đó thoát khỏi khổ đau..
Tương phản với những bậc Thầy xuất chúng kể trên, chúng ta phải nói rằng Giêsu hiển nhiên hiểu lầm về vai trò của một giáo pháp. Giêsu không có học trò (hay đệ tử) mà chỉ có môn đồ (hay tông đồ). Và điều này không phải là ngẫu nhiên. Giêsu nói: "Kẻ nào "tin vào" ta thì sẽ được sống đời đời." Không phải là tin vào giáo pháp của ta mà tin vào chính TA... Cái mà Giêsu "biết" không phải là sự giác ngộ, Giêsu chỉ biết Chúa Cha: "Chỉ có con mới biết Cha," "Kẻ nào biết TA sẽ biết Cha," "Chỉ có thể đến với Cha ta qua TA."
Bất cứ Ki-Tô Giáo có thể là cái gì khác, có vẻ như là ở ngoài mặt rõ ràng đó là một tôn giáo thuyết giáo về sự cứu rỗi và một đấng cứu rỗi. Trước khi chúng ta cảm thấy chán ngấy với ý tưởng này, điều quan trọng là chúng ta phải nhớ rằng hầu hết những chủ lực tinh thần lớn khác, không những là không thuyết giáo về sự cứu rỗi mà trong vài trường hợp, còn thực sự khinh ghét ý tưởng này. Hồi Giáo là một trường hợp điển hình... Người theo Hồi Giáo thấy rằng cái khái niệm Ki-Tô về một đấng cứu rỗi đã làm hạ phẩm giá của cả đấng cứu rỗi lẫn người được cứu rỗi.
Để sống đạo hạnh và tiến tới Giác Ngộ, con người cần những bậc Thầy chứ không cần tới các đấng cứu rỗi. Sự khác biệt thật là quan trọng. Xét về toàn diện, những tôn giáo đạo đức hay giác ngộ thì hợp với xu hướng của người Mỹ ngày nay hơn. Những tôn giáo này có hai lợi thế rõ rệt so với những tôn giáo dựa theo Thánh Kinh. Trước hết là những tôn giáo này có vẻ như là những con đường tâm linh tự lực Điều này hợp với tinh thần độc lập và tự tin của người Mỹ. Tuy rằng các bậc Thầy xuất chúng rất là đáng quý trong các tôn giáo này, nhưng họ cũng có thể được để qua một bên, và con người có thể tự học lấy. Người ta không thể tự cứu rỗi trong tôn giáo dựa vào Thánh Kinh. Lợi thế thứ nhì của các tôn giáo giác ngộ và đạo đức là những tôn giáo này có thể dẹp bỏ phần lớn cái mưu toan thần học. Nếu thực sự có các Thần - và trong Phật Giáo có vẻ như là không hề có - thì vai trò của các Thần là những bậc Thầy hữu ích (nhưng có thể bỏ qua), hoặc là những lý tưởng hay những nhân vật gương mẫu. Chân lý nằm trong giáo pháp chứ không nằm trong ÔngThầy - Cứu rỗi."
(A religion of enlightenment improves our spiritual wisdom or our moral behavior by some teaching. A salvational religion converts our life by leading us to live our lives in another.
...When the great teacher dies, his teaching may well live on...He may have a teaching like the Noble Eightfold Path, which perpetuates his special wisdom. Even if the teacher leaves no teaching but only the example of an inquisitive mind and the ideal of the Good, like Socrates, the example of the teacher remains to be emulated by later students. All of those means of continuing "the life of the teacher" are eminently sensible and as broadly practiced... But that scenario is not the New Testament line. It isn't the teacher's teaching that lives on, it is the "teacher." But if that how it is, it is no "teacher" but "savior." Since the only way to have a salvational religion is through the intrusion in my life of a strangely significant other, this "other" is indispensable for the ongoing story. Without "resurrection" the story cannot be told.
...Salvational religion depends, then, on "conversion," "resurrection," "radical change" on the basis of a life lived with another.
...In a salvational religion, one does not spiritual 10 by learning about some truth, fact, or person. All that is teacherly and noble, but it is not part of a salvational scenario. In a sin and salvation story, one comes to a new state by living with another.
...Does Jesus conform to the pattern of the great spiritual masters? He does not. The norm for spiritual masterhood is that one be a great teacher of enlightenment, spiritual wisdom, or the tranquil mind. Jesus is not a teacher, he is a savior.
Consider a great teacher. Socrates is a good example. Socrates is a master of spiritual enlightenment...He claims to know nothing; he only asks a few tricky questions...Socrates wants to make sure that the pupil is attached to the truth, not to Socrates.
Buddha is an examplar of a great "religious" teacher under the same Socratic self discipline.
Buddha is not a savior, He is the Enlightened One. He has seen the truths of human life, and he offers the Noble Eightfold Path as a guide to similar enlightenment and release from suffering..
In contrast to these great teachers, one would have to say that Jesus evidently misunderstands how teaching is played out. Jesus doesn't have students, he has disciples. And not accidentally. Jesus says, "he who believes in ME shall never die." Not who believes in my teaching, but who believes in ME... What Jesus "knows" is not enlightenment; he knows the Father. "Only the Son knows the Father. He who knows ME knows the Father. Only through ME can one come to the Father.
Whatever else Christianity may be, it seems on its face clearly to be a religion which preaches salvation and a savior. Before one becomes instantly bored with that idea, it is important to note that most other significanr spiritual contenders not only don't preach salvation, in some cases they positively dislike it. Islam is a case in point. Muslims find the Christian notion of a savior demeaning both to the saver and the saved.
...For enlightenment and morality one needs teachers, not saviors. The distinction is crucial. On the whole, religions of morality or enlightenment are much more palatable to contemporary American taste. They have two distinct advantages over the Biblical tradition. In the first place they appear to be do-it-yourself spiritualities. This conforms to an American taste for independence and self-reliance. Although great teachers are valuable in these traditions, they are also dispensable, and one can be self-taught. One cannot be self-saved in the Biblical story. The second advantage of religions of enlightenment and morality is that they can dispense of most theological machinery. If there are Gods at all - and in Buddhism there appear to be none - then their role is either as helpful (but dispensable) teachers or as ideals and examplars. The truth is in the teaching, not in the teacher-savior).
Với nhận định trên, phải chăng Giêsu không thuyết giảng một giáo pháp nào cho nên không xứng đáng mang danh hiệu Thầy? Không hẳn vậy, tất cả những điều mà người ta cho là giáo pháp của Giêsu được gói ghém trong Bài Giảng Trên Núi (Sermon on the Mount). Về bài giảng này, Kenneth C. Davis viết như sau trong cuốn Don't Know Much About The Bible: Everything You Need to Know About the Good Book But Never Learned, Eagle Brook, New York, 1998, trg. 374:
Một trong những bài giảng chính của Giêsu là một bài dài mà Augustine gọi là "Bài Giảng Trên Núi." "Bài Giảng Trên Núi" được trình bày toàn phần trong Phúc Âm Matthew (hơn 100 câu) và dưới dạng một bản rút ngắn trong Phúc Âm Luke. Trong Luke bài giảng này tương tự như trong Matthew, tuy ngắn hơn (khoảng 30 câu), và được nói ở đồng bằng khi Giêsu cầu nguyện xong và xuống núi.
Những sự khác nhau trong hai bài giảng này đã đưa đến sự đồng thuận của các học giả là bài giảng trong Matthew là kết quả góp nhặt từ nhiều bài giảng của Giêsu thành một bài dài có thể nhớ được. Nói khác đi, đó là những lời giảng của Giêsu được ghi lại một cách trung thực và là "Những Lời Hay Ý Đẹp Nhất của Giêsu" được gom lại thành một bài."
(One of the centerpieces of Jesus' teaching is an extensive talk that Augustin labeled the "Sermon on the Mount." The "Sermon on the Mount" appears its entirely in Matthew (more than one hundred verses long) and in a somewhat abbreviated version in Luke. In Luke this teaching session is similar, though shorter (about thirty verses), and is delivered "on a level place" after Jesus comes downs from the mountain where he had been praying.
The differences between the two versions have led scholars to contend that the version in Matthew represents a compilation of many of Jesus' teachings compressed into one long and memorable discourse. In other words, while it faithfully captures the words and teachings of Jesus, the sermon was a "Best of Jesus," edited into a single speech).
Đây cũng là bài giảng mà các tín đồ Ki Tô thường ca tụng là hay nhất tuy họ chẳng bao giờ đọc Thánh Kinh. Vậy tại sao, với bài giảng này, các nhà Thần Học Ki Tô không thể kết hợp nó với hình ảnh của Giêsu như là một bậc Thầy. Lý do là, tuy bài giảng có một số điều hay nhưng những điều này không có gì độc đáo, có thể coi là sáng tác đặc biệt của Giêsu. Ngoài ra, trong bài giảng còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, không thể áp dụng được, hoặc bắt nguồn từ một đầu óc không được bình thường v..v... Chứng minh?
Joseph L. Daleiden (Ibid., trg. 174) tóm tắt thực chất giáo pháp của Giêsu trong đoạn sau đây:
Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ... Một điều rõ ràng: Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm, Joseph McCabe (Một Linh Mục Gia Tô. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và y hệt của các tác giả Do Thái và dân gian"
(There is very little, if anything, that is original in the teaching attributed to Jesus. Like the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be found in the ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, Hindu religions...One thing is certain: Christianity, a late-comer in the history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so-called pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels, Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan writers).
Chúng ta hãy đi vào vài chi tiết trong Phúc Âm để vấn đề được rõ ràng hơn:
Một trong những điều giảng dạy của Giêsu mà các tín đồ cho là hay nhất là câu mà các nhà truyền giáo gọi là "Luật Vàng" (Golden Rule), Matthew 7: 12: "Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình." Nhưng đây không phải là một luật do Giêsu sáng tác, vì ngay sau đó Giê su khẳng định đó không phải là luật của mình nghĩ ra: "Câu này đúc kết luật pháp Mai-sen và các sách tiên tri." Chúng ta cũng biết rằng, hơn 500 năm trước khi Giêsu sinh ra đời thì Đức Khổng Tử cũng đã nói luật trên nhưng dưới một dạng khác: "Những điều mà mình không muốn người ta làm cho mình thì đừng có làm cho người khác" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Và trong kinh Talmud của Do Thái cũng có câu (Sabbath 31: 1): "Cái gì mà mình không thích thì đừng có làm cho người khác" (What thou does not like, do thou not to thy neighbor).
Luật Vàng mà các tín đồ Ki Tô thường cho là của Giêsu, không được hoàn hảo, vì điều mà mình muốn người khác làm cho mình chưa chắc đã là điều mà người khác cần đến, hoặc muốn mình làm cho họ, khoan kể là những điều mình muốn người khác làm cho mình không nhất định phải là đúng. Phân tích câu này, William Floyd cho rằng đó chỉ là một cách xử thế thuộc loại "có đi có lại mới toại lòng nhau" của người xưa (the desirability of reprocity of the ancients) chứ không phải là một tiêu chuẩn đạo đức có tính cách phổ quát. Trái lại, luật của Đức Khổng Tử có tính cách luân lý rộng lớn, khuyên ngăn chúng ta không nên làm cho người khác những điều họ có thể không muốn, vì chính mình cũng không muốn những điều này. Đây là một cách xử thế khôn ngoan, tránh gây bất hòa, vì "đừng làm" ngụ ý thận trọng, trong khi "hãy làm" thường có tính cách áp đặt.
Charles Bradlaugh, một tư tưởng gia tự do (freethinker) nổi tiếng của Anh Quốc, đã phân tích những điều giảng dạy của Giêsu trong một bài viết đặc sắc: Giêsu Đã Dạy Những Gì? (What Did Jesus Teach?). Độc giả có thể lấy bài này trong Internet. Bài viết này không có mục đích phân tích Thánh Kinh nên tôi chỉ trích dẫn sau đây vài luận điểm của Charles Bradlaugh về Tám Mối Phúc Thật trong Phúc Âm Luke mà một số trí thức Gia Tô cho đó là phản ánh đỉnh cao trí tuệ của loài người:
Phúc cho các con đang nghèo khổ, vì Nước Trời thuộc về các con" (Luke 6: 20); "Nhưng khốn cho các con đang giàu có, vì các con đã được an ủi rối" (Luke 6: 24). Giêsu đưa ra hình ảnh của một người xuống địa ngục, cái tội duy nhất của người này là giàu có; và một người khác lên thiên đường, đức tính duy nhất của người này là nghèo khổ. Sau đó Giêsu còn khẳng định là: "Người giàu vào Nước Trời thật khó. Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Trời." (Luke 18: 25) Ý định duy nhất của một giáo lý như vậy có thể là làm cho người nghèo khổ an phận nghèo khổ trong đời sống này trong hi vọng sẽ được đền bù trong đời sau...
Giêsu dạy những gì? "Phúc cho các con đang đói, rồi các con sẽ no."(Matthew 6: 21) Ông ta không nói bao giờ thì sẽ đư?c no. Hiển nhiên là thời điểm sẽ no đã được hoãn lại cho đến khi con người không còn dạ dày đâu để mà đầy bụng. Không phải là trong đời sống này mà người đói sẽ no. "Phúc cho các con đang than khóc, rồi các con sẽ vui cười" (Matthew 6: 21), Thật vậy sao? Nếu thật thì bao giờ sẽ vui cười?
Giêsu dạy: Những người nghèo, đói, khốn khổ, sẽ được ân sủng của Thần Ki Tô, nhưng ân sủng này chỉ tới khi họ đã hết nghèo, hết đói, hết khốn khổ (nghĩa là đã chết. TCN).
("Blessed are you poor, for yours is the kingdom of God." (Luke 6: 20); "But woe to you who are rich, for you have received your consolation." (Luke 6: 24). Jesus pictures one in hell, whose only related vice is that in life he was rich; and another in heaven, whose only related virtue is that in life he was poor. He affirms it is more difficult for a rich man to get into heaven, than for a camel to go through the eye of a needle (Luke 18: 25). The only intent of such teaching could be to induce the poor to remain content in this life with the want and misery of their wetched state in the hope of higher recompense in some fututre life...
What does Jesus teach? "Blessed are you who hunger now, for you shall be filled" (Luke 6: 21). He does not say when the filling shall take place. The date is evidently posponed until men will have no stomachs to replenish. It is not in this life that the hunger is to be sated..."Blessed are you who weep now, for you shall laugh" (Luke 6: 21). Is this true, and, if true, when shall the laugher come?....
Jesus teaches that the poor, the hungry, and the wretched shall be blessed. But blessing only comes when they cease to be poor, hungry, and wretched..).
Qua những trích dẫn ở trên, theo ý tôi, việc đi kiếm hình ảnh một ông Thầy xuất chúng về tâm linh, tương tự như hình ảnh Đức Phật hay Socrates, trong nhân vật lịch sử Giêsu quả thật khó khăn, vì chúng ta không thể dựa vào Thánh Kinh để có thể đạt được mục đích này. Mặt khác, trong những lời giảng dạy của Giêsu lại có quá nhiều mâu thuẫn, những điều không hợp lý, và không tưởng. Thí dụ, các nhà truyền giáo Ki Tô thường đưa ra những điều mà họ cho là "lời hay, ý đẹp" của Giêsu, nhưng họ chỉ đưa ra một phần những lời Giêsu nói mà bỏ qua nhiều lời khác có tính cách mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất, và nhiều khi phản ánh con người thật của Giêsu.
Họ thường nhắc đến những câu Giêsu dạy "Phải hiếu kính với cha mẹ và yêu thương láng giềng như chính bản thân" (Matthew 19: 19: Honor your father and your mother, and, you shall love your neighbor as yourself), và "Phải yêu kẻ thù" (Matthew 5: 44: Love your enemies), nhưng chẳng bao giờ nhắc đến câu Giêsu trả lời mẹ khi bà nói với Giêsu là rượu đã hết trong một tiệc cưới: "Người đàn bà kia, sự quan tâm của bà có liên quan gì tới Ta? Chưa đến lúc Ta trổ tài" (John 2: 4: Woman, what does your concern have to do with Me? My hour has not yet come). Tài gì? Tài biến nước thành rượu. Đây có phải là lời lẽ của một người con hiếu kính cha mẹ? Và khi một đệ tử của Giêsu nói "Xin để con đi chôn cất cha con xong con sẽ đi theo Ngài" Giêsu trả lời: "Hãy đi theo ta ngay, hãy để cho người chết (người không đi theo Giêsu. TCN) lo mai táng người chết của họ" (Matthew 8: 21-22: Then another of His disciples said to Him: "Lord, let me first go and bury my father." But Jesus said to him, "Follow me, and let the dead bury their own dead.") Phải chăng đây là sự khuyến khích lòng hiếu kính đối với cha mẹ? Các nhà truyền giáo cũng chẳng bao giờ nhắc đến câu Chúa phán: "Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những kẻ không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta" (Luke 19: 27: Bring here those enemies of mine who did not want Me to reign over them, and slay them before Me).. Phải chăng đây là sự thực hành điều dạy "Hãy yêu thương kẻ thù"?
Trong Thánh Kinh còn có những lời Giêsu nói hỗn hào với cha mẹ, anh chị em, và những lời nói ác độc cũng như hành động ác độc đối với người, súc vật, cây cỏ v...v..., nhất là đối với những người không chịu tin Giêsu. Đây là những điều đã được viết rõ ràng trong Thánh Kinh. Nếu ta cho rằng những lời này không phải do Giêsu nói thì có gì bảo đảm là những lời khác do Giêsu nói? Vậy giáo pháp của "Ông Thầy Giêsu" là giáo pháp nào? Không có giáo pháp thì không có ông Thầy. Đúng vậy, và cũng vì vậy mà tuy cố gắng, các nhà Thần học Ki Tô vẫn không thể tìm ra cách nào để hòa hợp quan niệm về một ông Thầy Giêsu với một giáo pháp nhất quán về vấn đề luân lý, đạo đức, hay tu tập.
Nhà văn Dương Thu Hương có viết ở đâu đó một câu rất hay: "Một nửa cái bánh mì thì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải là sự thật." Chúng ta vẫn có thể tạo cho Giêsu hình ảnh của một ông Thầy với một giáo pháp nào đó cho những người không hề đọc Thánh Kinh, và nếu chúng ta tự mãn với một phần của sự thật. Nếu một nửa chiếc bánh mì có thể giúp chúng ta đỡ đói thì một nửa sự thật cũng có thể là một món ăn tinh thần giúp lương tâm chúng ta yên ổn một phần trong một định chế tôn giáo. Có người trách tôi tại sao chỉ đưa ra những khía cạnh tiêu cực của Gia Tô Giáo mà không nhắc tới những khía cạnh tích cực của tôn giáo này trong cuốn Công Giáo Chính Sử, như vậy phải chăng tôi chỉ đưa ra một nửa sự thật? Câu trả lời của tôi thật là đơn giản: "Giáo hội Gia Tô đã đưa ra những khía cạnh tích cực của Gia Tô La Mã Giáo nhiều rồi, nhưng đó mới chỉ là một phần nhỏ của sự thật, khoan kể đó có phải thực sự chính là sự thật hay không? Tôi đưa ra phần còn lại để chúng ta có một cái nhìn đầy đủ về toàn bộ của sự thật."
Với mục đích chuyển hóa Ki Tô Giáo, không những cho "Như thực tri kiến" trong Phật Giáo gặp quan niệm về Thượng đế, Thầy Nhất Hạnh còn đi xa hơn nữa, đồng hóa đức tin Ki Tô với Niết Bàn. Trong cuốn Going Home..., thầy viết, trang 137:
Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Câu này tương đương với chiều kích rốt ráo của thực tại, tức là Niết Bàn.
(I believe in God, the Father Almighty, creator of heaven and earth. This is equivalent of the ultimate dimension of reality, namely Nirvana).
Một khẳng định về đức tin (a statement of faith) trong Ki Tô Giáo nay đã được nâng lên tương đương với một trạng thái tâm linh rốt ráo trong Ph?t Giáo: Niết Bàn. Chúng ta hãy tìm hiểu câu trên trong tinh thần Ki Tô Giáo.
Đây là câu đầu tiên trong bản Kinh Tin Kính của các tông đồ (Apostle's Creed) thường gọi tắt là Kinh Tin Kính, đặt ra khoảng năm 150, để đưa ra những khẳng định về những đức tin chính trong Gia Tô Giáo. Trong thời đại đế Constantine, qua công đồng Nicene năm 325, kinh này được thêm vào vài đoạn nâng Giêsu Kitô lên cùng hàng với Chúa Cha với những lời vô nghĩa như "Thần của Thần, ánh sáng của ánh sáng" (God of God, light of light) v..v.. Kinh này đưa đến một sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa giáo hội miền Đông và giáo hội miền Tây. Đến thế kỷ thứ 7, kinh này lại được thay đổi nữa, dài hơn kinh Tông đồ và kinh Nicene nhiều, trong đó thuyết Chúa Ba Ngôi và nhiều điều hoang đường khác được thêm thắt vào. Kinh này có tên là kinh Tin Kính Athanasius. Vì kinh này dài và lủng củng nên chẳng có mấy ai đọc nó. Anh Giáo thường dùng kinh Nicene làm căn bản và Công Giáo dùng kinh Tông đồ làm căn bản. Trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam chỉ có kinh Tin Kính của Tông đồ chứ không có những kinh Nicene hay Athanasius.
Các tín đồ Gia Tô được dạy phải đọc Kinh Tin Kính hàng ngày để giữ vững đức tin gồm có: tin rằng Thượng đế phép tắc vô cùng, đã dựng nên trời đất; tin rằng Giêsu là con một của Thượng đế; tin rằng do Thánh Linh mà bà Maria đồng trinh mang thai sinh ra Giêsu; tin rằng Giêsu đã chết, xuống ngục tổ tông, nhưng sau ba ngày lại sống lại và bay lên trời lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; tin rằng Giêsu ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết; tin rằng có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này; tin ở phép tha tội, và tin xác loài người ngày sau sống lại. Do đó, Kinh Tin Kính không phải là những đề tài quán chiếu, và câu đầu trong Kinh Tin Kính chỉ là một trong số những niềm tin của Gia Tô Giáo được ghi trong Kinh.
Tưởng chúng ta cũng nên biết, Giám Mục John Shelby Spong đã viết một cuốn khảo luận nhan đề Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hoặc Chết (Why Christianity Must Change or Die, Harper San Francisco, 1998). Theo cái nhìn của Giám Mục Spong thì sự thay đổi của Ki Tô Giáo không phải là sự thay đổi từ một nền Thần học siêu hình này sang một nền Thần học siêu hình khác, mà là sự thay đổi sao cho phù hợp với trí tuệ của con người nằm trong định luật tiến hóa.
Nhận định về Kinh Tin Kính, Giám Mục Spong viết (Ibid., trang 4):
Những lời trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ, và sau đó được khai triển thành Kinh Tin Kính Nicene, được nặn ra trong một thế giới quan mà ngày nay không còn hiện hữu. Thật vậy, thế giới quan này thật là xa lạ đối với thế giới mà tôi đang sống trong đó. Cách nhận thức thực tại khi những Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo được đề ra thì nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người..
(The words of the Apostles' Creed, and its later expansion known as the Nicene Creed, were fashioned inside a worldview that no longer exists. Indeed, it is quite alien to the world in which I live. The way reality was perceived when the Christian creeds were formulated has been obliterated by the expansion of knowledge..).
Trở lại câu đầu trong Kinh Tin Kính: "Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất."
Với sự hiểu biết của con người hiện nay thì câu trên trở thành vô nghĩa và huyền hoặc, không hợp với thực tế. Người Gia Tô Giáo dịch God là Đức Chúa Trời trong khi, như chúng ta đã biết, God trong Ki Tô Giáo chỉ là một vị Thần của một dân tộc hay một bộ lạc Do Thái cổ xưa. Mặt khác, người Gia Tô hiểu rằng Trời là trụ xứ của Thần Ki Tô (God) như được mô tả trong Thánh Kinh, nghĩa là ở trên các tầng mây một chút, vì vậy họ thường ngẩng mặt cầu nguyện "Lạy Cha chúng tôi ở trên Trời." Cũng vì vậy mà họ gọi cái "nhà ở trên trời," nơi Chúa ngự, là "Thiên đường," đường tiếng Hán có nghĩa là cái nhà.
"Chúa Trời" bây giờ được gọi là Cha, nghĩa là giống đực. Tại sao lại là Cha mà không phải là Mẹ? Căn bản giống đực của "Chúa Trời" dựa vào đâu? Chữ "Cha" trong câu kinh này chẳng qua chỉ là sản phẩm của những người sống trong thời đại và địa phương theo chế độ phụ hệ, kỳ thị và coi rẻ phái nữ. Chính chữ "Cha" này đã được các giáo hội Ki Tô dùng làm căn bản "truyền thống thiêng liêng của giáo hội" (sacred tradition of the Church) trong suốt 20 thế kỷ nay để biện minh cho đường lối coi thường và đàn áp phái nữ, kéo dài cho tới tận ngày nay.
Giám Mục Spong cho rằng chữ "Cha" trong kinh Tin Kính đã được dùng trong nhiều ngàn năm để biện minh cho sự đàn áp phụ nữ của các định chế tôn giáo (Ibid., trang 5): "The word Father...shouts of the masculinity of the deity, a concept that has been used for thousands of years to justify the oppression of women by religious institutions..."
"Phép tắc vô cùng" là dịch sai từ chữ "Almighty." Vì "phép tắc vô cùng" làm ta liên tưởng đến Tề Thiên Đại Thánh, đệ tử của Đường Tăng Trần Huyền Trang, theo Thầy đi Thiên Trúc thỉnh Kinh Phật. Giám mục John Shelby Spong giảng Almighty, theo nghĩa Thần học của Giáo hội, có nghĩa là Toàn Năng và Toàn Trí (Almighty has been translated theologically by the Church into such concepts as omnipotence (all-powerful) and omniscience (all-knowing)), nghĩa là "làm gì cũng được," và "cái gì cũng biết," kể cả quá khứ vị lai.
Những tín đồ Ki Tô tin vào một vị Thần toàn năng trong khi họ không hiểu toàn năng là gì. Họ không thể hiểu được rằng, theo định nghĩa, không làm gì có chuyện toàn năng. Vì toàn năng nghĩa là có khả năng làm bất cứ điều gì mà con người có thể tưởng tượng được, thí dụ, làm cho một cặp vợ chồng da đen sinh ra một đứa con da trắng, làm ra một con rùa có lông, hay con thỏ có sừng, hay một cây mít sinh ra trái soài v...v.. Có người đã đặt một câu hỏi rất ý nhị về thuộc tính toàn năng của Thần Ki Tô: "Thần có thể tạo ra một phiến đá nặng đến nỗi chính Thần cũng không vác nổi không?" Đây là một câu hỏi không một nhà thần học Ki Tô nào trả lời nổi, vì trả lời "có" hoặc "không" đều đương nhiên bác bỏ thuộc tính toàn năng của Thần. Kết luận: thuộc tính toàn năng không thể có. Nếu thuộc tính toàn năng không thể có thì một vị Thần toàn năng cũng không thể nào có. Mặt khác, toàn năng và toàn trí (cái gì cũng biết) là hai thuộc tính có tính chất loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, cho nên một vị Thần kiêm cả hai thuộc tính toàn năng và toàn trí là điều không tưởng. Thật vậy, nếu Thần "biết" cái gì sẽ xảy ra trong tương lai và Thần không thể thay đổi được sự việc đó, điều này rất rõ ràng trước những thực tế và quy luật thiên nhiên ở ngoài đời, thì làm sao có thể gọi là "Thần toàn năng" được? Ngược lại, nếu Thần có khả năng thay đổi sự việc nhưng lại không biết những gì sẽ xảy ra để mà thay đồi, vậy thì "toàn trí" ở chỗ nào? Nói tóm lại, một vị Thần toàn năng, toàn trí chỉ có trong niềm tin của những người không hiểu thế nào là toàn năng, toàn trí.
Câu tiếp theo "Dựng nên trời đất" cũng không còn ý nghĩa trong thời đại này. Giám Mục Spong phê bình câu trên như sau (Ibid., trg. 10):
Thế rồi, câu khẳng định đức tin này gọi Thần Ki Tô là đấng dựng nên trời đất. Trời là gì? Đâu là trời? Điều rõ ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Thần Ki Tô dựng nên được nghĩ là nơi ăn chốn ở của Thần, và nó ở trên quá vòm trời. Nhưng chúng ta trong hế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới mà cũng chẳng phải sàn nhà của Thiên đường. Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta khẳng định là Thần Ki Tô toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng chúng ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết ra, không một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào?
Gán cho Thần Ki Tô quyền năng tạo ra trái đất cũng vấp phải nhiều khó khăn đối với con người hiện đại. Ngày nay, qua cách định tuổi vật chất bằng tia phóng xạ, chúng ta có thể định tuổi của hành tinh này một cách khá chính xác là khoảng 4 tỷ rưỡi năm. Sự hiểu biết trong Thánh Kinh đặt sự sáng tạo ra thế giới này vào một thời điểm khoảng 6000 năm. Đó là theo sự tính toán của Giám Mục James Ussher ở Ái Nhĩ Lan, dựa vào những dữ kiện trong Thánh Kinh...Vậy, hiển nhiên là khi con người trong thế hệ này nghĩ về nguồn gốc của vũ trụ của chúng ta, chúng ta không thể mang Thánh Kinh ra làm nguồn hiểu biết về cái vũ trụ đó...Vậy, bảo Thần Ki Tô đã tạo dựng nên trời đất thì có ý nghĩa gì?"
(Next, this statement of faith calls God :the "creator of heaven and earth." What is heaven? Where is heaven? It is clear that in this ancient world the heaven that God created was thought of as God's home, and it was located beyond the sky. But those of us in this generation know that the sky is neither the roof of the world nor the floor of heaven. So what are we referring to when we assert that this almighty God created heaven? Are we talking about that almost infinite universe that no one living knew anything about when the Bible was written?
To ascribe to God the power to have created the earth also presents modern men and women with difficulties. We can now date the birth of this planet, rather accurately, by radioactive particles to be four and one-half to five billion years old. The biblical understanding of creation placed the birth of this world at a point a little more than six thousand years ago. That was the calculation arrived at by Bishop James Ussher of Ireland from biblical data... So inevitably, when members of this generation think about the origins of our universe, we do not bring biblical content to our understanding of that universe. In what sense, then, is God the creator of heaven or the creator of the earth?)
Trên đây chỉ là vài ý kiến của tôi về những khó khăn mà Ki Tô Giáo sẽ phải đối diện nếu muốn chuyển đổi theo lý tưởng của Thầy Nhất Hạnh để đi tới một sự đối thoại và hòa hợp giữa Phật Giáo và Ki Tô Giáo. Bài viết này tuyệt đối không phải là bài phê bình hai cuốn Living Buddha, Living Christ và Going Home của Thầy Nhất Hạnh. Dựa theo tinh thần của hai cuốn này, tôi chợt tưởng tượng ra một cuộc đối thoại nhỏ giữa Phật và Giêsu, như là hai anh em, về một vài phép lạ Giêsu đã thực hiện, như được viết trong Thánh Kinh, và về quan niệm mới nhất về Thiên đường và Hỏa ngục của Giáo Hoàng Gion Pôn Hai.
Địa điểm: Chùa Lá Vàng, Quảng Trị.
Thời điểm: Phật Lịch 2544, Thường Lịch 2000
-oOo-
Giêsu: Chào Đại Ca. Đại Ca vẫn mạnh?
Phật: Chào Chú. Cám ơn Chú. Chú dùng gì?
Giêsu: Anh cho Em ly rượu.
Phật: Rượu có tác dụng làm đầu óc con người kém minh mẫn. Anh đã không uống rượu từ khi Anh xuất gia. Chú uống tạm ly nước lã. Tuy nhiên, nếu Chú muốn, Chú có thể biến nó thành rượu như khi xưa chú đã biến 600 lít nước lã trong 6 cái chum thành rượu (John: 2), Anh không phản đối.
Giêsu: Anh nhắc chuyện nhỏ đó làm gì. Đó chỉ là phép lạ đầu tiên chứng tỏ quyền năng siêu nhiên của Em để cho các môn đồ tin Em là Chúa Cứu Thế (John: 2: 11).
Phật: Chú nói đó là phép lạ đầu tiên? Vậy Chú còn nhiều phép lạ nữa hay sao?
Giêsu: Có chứ! Em có thể đi trên sóng. (Matthew: 14: 25)
Phật: Em muốn sang sông thì cứ việc bỏ ra vài đồng tiền, lái đò sẽ chở Em qua, tội gì mà phải vất vả như vậy?
Giêsu: Em có thể đuổi quỷ từ trong người bị quỷ ám cho chúng nhập vào 2000 con heo rồi bắt đàn heo rông xuống biển chết đuối hết. (Matthew: 8: 32).
Phật: Mô Phật! Tội lỗi! Tội lỗi! Thế là cả đàn heo 2000 con chết oan uổng. (Thở dài) Pờ-liz công-ti-niu "Please continue."
Giêsu: Anh nói gì, Em không hiểu.
Phật: À, không có gì. Anh buột mồm nói tiếng Mỹ. Chú kể tiếp đi.
Giêsu: Em chỉ rủa một tiếng là cây sung phải chết héo queo. Số là hôm đó Em đang đói, nhìn đàng xa thấy một cây sung, nhưng tới gần chẳng thấy có quả nào, Em nổi sùng rủa một tiếng, thế là cây sung chết héo queo, không bao giờ có thể ra trái nữa. (Matthew: 21: 18,19)
Phật: Chú có biết lúc đó trái mùa nên cây sung không thể có trái không?
Giêsu: Em biết chứ.
Phật: Vậy thì mục đích Chú làm cho cây sung chết héo queo ngay chắc là để dọa mấy môn đồ của Chú: "Hãy coi chừng. Kẻ nào dám phật ý Ta. Hãy xem gương cây sung đó."
Giêsu: Chịu anh thôi. Anh có "Tha Tâm Thông" nên biết rõ bụng dạ em.
Phật: Hình như sau đó Chú còn bảo các môn đồ nếu có đức tin thì không những cũng có thể rủa cho cây chết héo queo được như Chú mà còn có thể ra lệnh cho núi tự động bò xuống biển? (Matthew: 21: 21).
Giêsu: Đúng vậy. Thánh Kinh đã viết như vậy thì làm sao còn sai lầm được.
Phật: Thế trong 2000 năm nay, Chú có thấy tín đồ nào của Chú làm được như vậy không?
Giêsu: Đó là bí quyết chiêu dụ môn đồ của Em. Họ tin lời hứa hẹn của Em nhưng họ làm không được, vì họ không biết rằng đó chỉ là một khẳng định bỏ ngỏ, vô trách nhiệm (affirmatiom gratuite). Nếu ai làm không được đến chất vấn, Em chỉ cần trả lời: tại ngươi chưa đủ đức tin. Thế là Em hết trách nhiệm. Không ai có thể kết án Em là Em nói láo. Cũng như trong Tám Mối Phúc Thật, Em nói "Phúc cho các con đang đói, rồi các con sẽ no," "Phúc cho các con đang than khóc, rồi các con sẽ vui cười" (Matthew 6: 21), nhưng Em có xác định là bao giờ họ sẽ no, hay bao giờ họ sẽ vui cười đâu? Anh biết không? Ngày nay các tôi tớ của Em đều theo cách hứa hẹn bỏ ngỏ này để truyền đạo và họ rất thành công.
Phật: Chú khôn thật. Chú có biết tại sao người ta đóng đinh Chú trên thập giá không?
Giêsu: Tại vì họ không tin em là Vua của dân Do Thái, là Con Một của Thượng Đế, là Đấng Cứu Thế của dân Do Thái, thuộc giòng dõi Vua David, mà họ từng mong đợi.
Phật: Không phải đâu. Vì nghiệp của Chú nặng quá. Anh thương Chú lắm nhưng Anh cũng chịu, nghiệp của Chú chỉ có Chú mới giải được.
Giêsu: Làm sao giải nghiệp, Anh chỉ cho Em đi.
Phật: Đơn giản thôi. Đừng làm các việc ác. Hãy làm mọi việc thiện. Giữ tâm cho thanh tịnh. Anh dạy chỉ có thế. (Kinh Pháp Cú: Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo).
Giêsu: Chỉ có vậy thôi à?
Phật: Chỉ có vậy. Thôi, để Anh mách Chú vài bí quyết để chuyển đổi tôn giáo "cứu rỗi" của Chú thành một tôn giáo "giác ngộ."
Giêsu: Tại sao Em lại phải đổi tôn giáo của Em thành một tôn giáo giác ngộ.
Phật: Chú quên rồi sao. Vị đại diện của Chú ở trên trần, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai, vừa tuyên bố: "chẳng làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây, mà cũng chẳng làm gì có hỏa ngục ở trong lòng đất, tất cả đều do tâm mà ra." Như vậy là Giáo Hoàng đã cho Chú nghỉ dài hạn không lương, Chú cần phải đổi gióp (job) "cứu rỗi" thành gióp "giác ngộ" cho nó hợp với đà tiến bộ của nhân loại. Anh chỉ muốn giúp Chú thôi.
Giêsu: Cám ơn Anh nhiều. Nhưng làm sao đổi được.
Phật: Đơn giản thôi. Chú chỉ việc nghe theo Thiền Sư Nhất Hạnh, biến Cha Chú, Thượng Đế, thành Phật Tánh, đổi danh hiệu "Đấng Cứu Thế" của Chú thành "Đại Sư," đồng hóa Thánh Linh với Tỉnh Thức hay Niết Bàn, thế là xong.
Giêsu: Dạ vâng. Nhưng khó quá Anh ơi. Vì bản chất những thứ trên hoàn toàn khác biệt.
Phật: Chú "phép tắc vô cùng," làm gì chẳng được.
Giêsu: Ờ nhỉ. Em quên khuấy đi mất.
Phật: Thế thì Chú yên tâm rồi nhé. Thôi, để khi khác chúng mình nói chuyện tiếp. Anh phải đi Tọa Thiền.
Giêsu: Chào Anh. Em cũng phải về ngồi cạnh Cha Em ở trên Thiên đường, à quên, ở trong Tâm của Em.
Trần Chung Ngọc
Phật Lịch 2544
Thường Lịch 2000
http://www.buddhismtoday.com/viet/doi/002-chuyenhoa.htm
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Chung Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Chung Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
29/1/10
10/9/09
Trần Chung Ngọc : Phật giáo, Khoa học và những Yếu tính ....
Phật giáo, Khoa học và những Yếu tính
của nền Thần học Độc thần giáo
Trần Chung Ngọc
08 tháng 8, 2009
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm Trước Tây Lịch (TTL), còn được gọi là "thời đại hoang mang" (560 B(efore) C(onfusion): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
Khi sinh ra đời, về bản chất, con người của Thái Tử Tất Đạt Đa không khác gì con người của bất cứ ai trong chúng ta: nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ v..v.. Tuy nhiên, trước những cảnh khổ hiển nhiên của con người: sinh, lão, bệnh, tử, Thái tử Tất Đạt Đa, với một nghị lực phi thường, đã từ bỏ nơi quyền quý giàu sang vật chất, đi tìm con đường giải thoát cho chúng sinh qua một quá trình tu tập gian khổ kiên trì trong 6 năm, cuối cùng đã tìm ra chân lý và trở thành Phật, nghĩa là Bậc Giác Ngộ hay Bậc Tỉnh Thức: tổng hợp của một kiến thức siêu việt với một tâm từ bi vô lượng. Trong lịch sử loài người, chúng ta khó có thể thấy trên thế gian một khuôn mặt nào đặc biệt và cao cả như Đức Phật.
Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật là vị Giáo Chủ tôn giáo duy nhất trên thế gian đưa ra một khẳng định tuyệt đối bình đẳng: "Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành", nghĩa là về bản chất, Giáo Chủ và tín đồ không có gì khác nhau. Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật đã không hề bắt buộc bất cứ ai phải tin vào Phật hay những điều giảng dạy của Phật một cách mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Đặc biệt hơn cả là Đức Phật đã thấy rõ sự vận hành của vạn Pháp (Như Thực tri Kiến: to see things as they really are) và đã để lại cho hậu thế một giáo lý không có giáo lý nào hơn, không có giáo lý nào bằng. Đây không phải là nhận định vô căn cứ của một tín đồ Phật Giáo để khoa trương tán tụng tôn giáo của mình, mà là kết quả khảo sát tư tưởng, giáo lý Phật Giáo trong sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những phần sau. Trong phần chứng minh này, chúng ta sẽ thấy, giá trị của một tôn giáo không thể dựa trên số tín đồ của tôn giáo đó đông hay không đông, mà dựa trên những tư tưởng hoặc phúc lợi mà tôn giáo đó đã mang đến cho nhân loại.
Thường thì giới Phật tử thông thường chúng ta chỉ biết đến vài giáo lý căn bản của Phật Giáo xuyên qua các triết lý về Tam Độc, Tam Pháp Ấn (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã), Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo. Nếu chúng ta để tâm nghiên cứu và tìm hiểu về Phật Giáo thì chúng ta sẽ khám phá ra rằng, tư tưởng Phật Giáo và "tri kiến" của Đức Phật đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng và sự hiểu biết của nhân loại khá lâu, và, tuy rằng với một tinh thần khoa học, Phật Giáo sẵn sàng chấp nhận những sai lầm, nếu có, nhưng cho tới ngày nay, Phật Giáo chưa từng phải xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những tiến bộ về tư tưởng cũng như những khám phá mới của khoa học.
Sau đây tôi sẽ đưa ra một số kiến thức Phật Giáo để quý độc giả thấy rõ tư tưởng Phật Giáo đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại như thế nào. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ có thể liệt kê một số vấn đề điển hình một cách ngắn gọn chứ không thể khai triển để chứng minh vì mỗi vấn đề đòi hỏi một sự trình bày sâu xa và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, trước hết, chúng ta cần biết một điều căn bản: Đức Phật không phải là một khoa học gia, Người không có theo các phương pháp khoa học như thu thập dữ kiện, đặt giả thuyết hay lý thuyết, rồi dựa vào những dụng cụ trong phòng thí nghiệm để kiểm nghiệm và thực chứng lý thuyết đó. Tất cả những hiểu biết của Người là từ Thiền quán.
Chúng ta đều biết rằng, khi xưa Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước. Người còn khẳng định trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số 84000 trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác. Hơn 22 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 17, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt nước có một số lớn các vi sinh vật.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là trong đó có vô số những thế giới có hình dạng khác nhau với vô số chúng sinh khác nhau. Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16, Giordano Bruno cũng đưa ra quan niệm về một vũ trụ bao la vô cùng tận trong đó, ngoài thế giới của chúng ta, có thể còn có vô số các thế giới khác nhau với vô số dạng sống (life-forms) khác nhau. Chúng ta đã biết, quan điểm này trái với những lời gọi là “mạc khải” trong thánh kinh mà các tín đồ Ki Tô Giáo tin rằng không thể sai lầm của Thiên Chúa Ki Tô Giáo, một vị thần mà theo niềm tin của những tín đồ Ki Tô, là bậc Toàn Năng, nghĩa là làm gì cũng được, và Toàn Trí, nghĩa là cái gì cũng biết. Do đó, Bruno đã phải trả một giá rất đắt cho kiến thức rất đúng của mình. Ông ta bị định chế Công giáo trong đó có giáo hoàng, vị đại diện của Chúa trên trần, và các linh mục, những người được Chúa dạy là phải thương yêu kẻ thù [Bruno không phải là kẻ thù của Giáo hội] như chính mình, lên án và chính các linh mục đã đưa ông lên giàn hỏa để thiêu sống. Thế kỷ 16 mở đầu cho cuộc cách mạng khoa học. Sự phát minh ra kính thiên văn của Galileo Galilei ở đầu thế kỷ 17, và khoa vũ trụ học ngày nay đã chứng minh quan điểm của Phật Giáo về vũ trụ cũng như của Giordano Bruno 21 thế kỷ sau là đúng. Một trong 10 danh hiệu mà người đời tôn vinh Đức Phật khi Người còn tại thế : Thiên Nhân Sư (Teacher of Gods and men), bậc Thầy của các Thiên Chúa và của con người, không phải là không có giá trị thuyết phục.
Thuyết Duyên Sinh hay Duyên Khởi là thuyết căn bản nhất trong Phật Giáo. Giữa thế kỷ 19, Charles Darwin đưa ra thuyết Tiến Hóa, và ngày nay, càng ngày chúng ta càng thấy thuyết này rất phù hợp với thuyết Duyên Sinh. Vạn Pháp trong vũ trụ đều do đủ duyên mà thành, hết duyên thì diệt, và đây cũng là căn bản của thuyết Tiến Hóa, từ sự xuất hiện của các cây cỏ cho đến con người. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận viết trong cuốn “L'Infini Dans La Paume de la Main”: "Tiến hóa từ những cát bụi của những ngôi sao, chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những con sư tử trong những vùng hoang mạc và những bông hoa tỏa mùi thơm" (Poussières d'étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des savanes et les fleurs de lavande). Tôi sẽ nói thêm về cuốn sách rất có giá trị này trong một đoạn sau.
Thuyết Vô Thường của Phật Giáo là một hệ luận của thuyết Duyên Sinh. Các tín đồ Ki Tô Giáo thường cho rằng Thiên Chúa của họ là bậc thường hằng (omnipresent), nghĩa là có mặt khắp nơi. Đây chỉ là một niềm tin tôn giáo chứ không phải là một sự hiểu biết dựa trên những sự thật bất khả phủ bác. Ngày nay, tuyệt đại đa số các khoa học gia đã gạt bỏ quan niệm về một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài, cho rằng vai trò "sáng tạo" của Thiên Chúa không cần thiết, cũng như ngày xưa, khi hoàng đế Napoléon hỏi Pierre Simon de Laplace là sao trong tác phẩm nghiên cứu khoa học về Cơ Học Các Thiên Thể (Celestial Mechanics) của ông ta không thấy nói gì đến Thiên Chúa, Laplace đã trả lời: "Tôi không cần đến cái giả thuyết đó". Điều rõ ràng là trên thế giới và trong vũ trụ ngày nay, cái thường hằng, có mặt khắp nơi, chính là tính vô thường của vạn pháp. Từ một vi sinh vật nhỏ nhoi như một vi khuẩn cho đến con người, một ngôi sao, một thiên hà trong vũ trụ, không có gì có thể đi ra ngoài luật vô thường. Thiên Chúa của Ki Tô Giáo cũng không thoát khỏi luật vô thường, vì quan niệm về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo đã thay đổi rất nhiều qua thời gian với những lý luận thần học khác nhau. Thật vậy, định luật “vô thường” có thể áp dụng cho chính Thiên Chúa của Ki Tô Giáo và có thể kiểm chứng qua nhiều lần than phiền của Giáo hoàng Benedict XVI, rằng: “Âu Châu [cái nôi của Thiên Chúa Giáo] ngày nay sống như là không có Thiên Chúa và cũng chẳng cần đến Chúa Giê-su nữa.” Ngoài ra, “Trong một Hội Nghị đặc biệt vào năm 1999, các Giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu”. (JOHN CORNWELL, in Breaking Faith: The Pope, The People, and the Fate of Catholicism At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)
Phật Giáo đưa ra những thuyết Tương Duyên, Tương Tức, Dung Thông Vô Ngại, Một là Tất Cả v..v.., đặc biệt là trong Kinh Hoa Nghiêm. Khoa học ngày nay, nhất là khoa Vật Lý Nguyên Lượng (Quantum Physics), nghĩa là môn vật lý khảo sát thế giới của các hạt "Tiềm Nguyên Tử" (Subatomic particles) cũng đã chứng minh rằng mọi vật đều liên hệ tới nhau, không có cái gì có thể có tự tính, nghĩa là độc lập, không tùy thuộc bất cứ cái gì khác. Đây cũng là căn bản thuyết Vô Ngã của nhà Phật.
Chúng ta đều biết Phật Giáo là một tôn giáo trị liệu, nghĩa là một tôn giáo chữa những căn bệnh gốc của thế gian. Luận Tỳ Bà Đạt Ma cũng như Duy Thức Luận và nhiều Kinh Điển khác, tất cả đều có tính cách trị liệu. Không ai có thể phủ nhận Thiền là một phương pháp trị liệu tâm thần hữu hiệu mà ngày nay nhiều người Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo v..v.. áp dụng. Tôi muốn nhắc lại lời của nhà phân tâm học nổi tiếng của Anh Quốc, Tiến sĩ Graham Howe: "Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng: từ 2500 năm trước, các Phật tử đã biết những vấn đề hiện đại về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường đánh giá họ. Phật Giáo nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông Phương" (To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have yet been given credit for. They studied these problems long ago and found answers too. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East).
Chúng ta đã thấy, qua vài tư tưởng điển hình của Phật Giáo, cái biết của Phật Giáo đã đi trước cái biết của nhân loại như thế nào. Lẽ dĩ nhiên, các tư tưởng Phật Giáo không chỉ có vậy, mà còn vô số các điều khác nằm trong rừng Kinh Điển Phật Giáo. Nhưng hiển nhiên, trong khuôn khổ một bài viết, không ai có thể trình bày tất cả những tư tưởng của Phật Giáo cho đầy đủ.
Sau đây tôi xin trình bày một khía cạnh khác thuộc loại "đi trước thời gian" của Phật Giáo, đó là khía cạnh tôn giáo và xã hội.
Trong các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có Phật Giáo là tôn giáo nhân bản và nhân chủ. Các tôn giáo khác như Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, và Ki Tô Giáo đều là Thần giáo. Nhân bản là đặt căn bản trên con người, và nhân chủ là con người làm chủ chính mình, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chứ không trông ngóng hay nương tựa ở bất cứ Thần quyền nào. Vì vậy, Phật Giáo quan tâm đến những chuyện thực tế của con người chứ không suy luận viển vông đến những vấn đề siêu hình không có ích lợi thiết thực cho con người ngay trong đời sống này. Từ bản chất nhân bản và nhân chủ, giáo lý Phật Giáo là, theo như một số học giả, một cuộc cách mạng tư tưởng. Tôi thấy danh từ cách mạng không đúng, vì cách mạng có nghĩa chống lại cái cũ thay bằng cái mới. Theo tôi, chúng ta phải nói rằng tư tưởng Phật Giáo rất đặc thù và trên thực tế đã mở đường cho những cải cách tư duy trong các Thần giáo cùng những khám phá khoa học về vũ trụ. Thật vậy, các học giả Tây phương nghiên cứu đứng đắn về Phật Giáo đều công nhận Phật Giáo là một tôn giáo thực nghiệm (empirical), khoa học (scientific), thực tế (pragmatic), và nhất là dân chủ (democratic). Những đặc tính này của Phật Giáo là những đặc tính mà chúng ta không thể thấy trong các Thần Giáo. Tại sao? Vì các Thần giáo đều phải dựa vào 4 đặc tính chung như sau để tồn tại: quyền lực; sự hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một vị Thần hay Thiên Chúa; truyền thống tôn giáo; và những huyền bí và siêu nhiên trong tôn giáo.
Chúng ta hãy xét từng đặc tính một ở trên để xem quan điểm của Phật Giáo đối với các đặc tính trên như thế nào.
1. Vấn đề Quyền Lực.
Quyền Lực thường được tạo trên đám tín đồ kém hiểu biết. Trong các Thần Giáo, giới giáo sĩ, thí dụ Linh Mục trong Công Giáo, Mục Sư trong Tin Lành Giáo, các giáo sĩ trong Hồi Giáo, các Rabbi trong Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn trong Ấn Độ Giáo, đều là những người tự cho mình là thông thái hơn đám tín đồ ở dưới, chỉ có họ mới đủ khả năng để hiểu và diễn giải Kinh Điển trong tôn giáo của họ. Từ điều này họ tạo thành một quyền lực trên đám tín đồ và tạo nên giáo điều "quên mình trong vâng phục" mà các tín đồ phải tin theo.
Cấu trúc toàn trị của Công Giáo là một thí dụ, dù rằng lịch sử đã chứng minh rằng sự hiểu biết và diễn giải Thánh Kinh của các giới lãnh đạo Công giáo, từ Giáo Hoàng trở xuống, nhiều khi rất sai lầm, luôn luôn ở trong tình trạng "sửa đâu sai đó". Bởi vậy cho nên nền thần học Ki Tô Giáo đã phải thay đổi rất nhiều qua thời gian. Lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những sai lầm thần học là nguyên nhân của những tác hại mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại trong gần 20 thế kỷ, điển hình là những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống phù thủy, những cuộc chiến tranh tôn giáo, những liên minh với thực dân để đi truyền đạo trong các nước kém mở mang v..v... Vụ xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo gần đây là một bằng chứng hiển nhiên nhất. Tuy vậy mà các tín đồ vẫn luôn luôn được dạy giáo hội Công giáo là giáo hội duy nhất, thánh thiện, tông truyền, và giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nên các tín đồ phải "quên mình trong vâng phục".
Quyền lực của Tin Lành nằm trong Thánh Kinh. Tin Lành chủ trương "Chỉ bằng vào Đức Tin vào Giê-su, con người sẽ được Thiên Chúa coi như người công chính và do đó được sống trên thiên đường vĩnh hằng trong Chúa Ki Tô” [Justification by faith = The just (justified, saved) shall live [have eternal life] by faith [in Christ]” (Rom 1: 17)] và Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Trên thực tế Tin Lành đã áp dụng đức tin trên để “biện minh cho tất cả" những việc ác ở trên đời như săn lùng phù thủy, thiêu sống thổ dân Mỹ vì không chịu theo Tin Lành, gọi là để cứu vớt linh hồn họ. Vì tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa, nên không thể sai lầm, cho nên, đối với Tin Lành, nếu thực tế sai với Thánh Kinh thì phải loại bỏ thực tế, dù rằng ngày nay nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh rằng trong Thánh Kinh có vô số những điều sai lầm về Thần Học cũng như Khoa Học. Tin Lành không ngăn cấm tín đồ đọc và tìm hiểu Thánh Kinh Ki Tô Giáo nhưng chỉ được hiểu theo sự diễn giảng của giới Mục Sư. Cũng vì vậy mà cho đến tận ngày nay phái bảo thủ Tin Lành vẫn còn chống đối thuyết Tiến Hóa, phát minh ra những lý thuyết thần học quái gở như “khoa học sáng tạo” (creation science) và rồi “thiết kế thông minh” (intelligent design) để biện minh cho tác phẩm sáng tạo của Thiên Chúa của họ.
Địa vị và quyền lực của các giáo sĩ trong Hồi Giáo là một thí dụ khác. Chúng ta không còn lạ gì những đạo luật rất khắc nghiệt của Hồi Giáo đối với giới phụ nữ và đối với những vi phạm luân lý nhỏ nhoi không đáng kể trong những xã hội Tây phương.
Đức Phật đã đưa ra một giáo lý trong đó không có quyền lực. Từ hơn 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã đi tiên phong trong vấn đề bác bỏ quyền lực tôn giáo, không những quyền lực của cá nhân mà còn của cả Kinh Điển nữa. Trong mục 3, Vấn Đề Truyền Thống, tôi sẽ khai triển thêm điều này. 21 thế kỷ sau, Martin Luther của Ki Tô Giáo đã theo gót Đức Phật, bác bỏ quyền lực trong cấu trúc toàn trị của Công giáo để lập ra đạo Tin Lành. Nhưng thực tế là Tin Lành đã thay thế quyền lực của Giáo Hoàng Công giáo bằng quyền lực của Thánh Kinh. Cho nên, người ta bảo rằng các tín đồ Công giáo là nô lệ của giáo hoàng, còn các tín đồ Tin Lành là nô lệ của Thánh Kinh. Phật giáo quan niệm, dù nô lệ vật chất hay nô lệ tinh thần cũng đều là nô lệ, làm mất phẩm giá con người.
2. Vấn đề hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một Thiên Chúa.
Mỗi Thần giáo đều có một quan niệm riêng về Thiên Chúa của mình. Về bản chất, những Thiên Chúa này không khác gì những Thần linh trong dân gian, thí dụ như thần cây đa, thần sông, thần núi của dân Việt Nam khi xưa, vì tất cả đều nằm trong niềm tin của con người chứ không phải là một thực thể. Những cuốn sách khảo cứu về quan niệm các Thiên Chúa trên thế gian, thí dụ như cuốn Một Lịch Sử Về Thiên Chúa (A History of God) của Nữ Tu Ca-Tô Karen Armstrong, cuốn Một Thế Giới Đầy Những Thiên Chúa (A World Full of Gods) của Keith Hopkins v..v.. đã chứng minh sự kiện này. Cho nên, quan niệm Thiên Chúa này hay Thiên Chúa kia là duy nhất, là toàn năng, là lòng lành vô cùng v..v.. là một quan niệm đã lỗi thời. Để thấy rõ vấn đề hơn, có lẽ chúng ta cũng nên biết quan niệm về Thiên Chúa quyền phép vô cùng từ đâu mà ra.
Chúng ta hãy đi ngược trở lại thời tiền sử. Khi đó con người cảm thấy yếu đuối và sợ hãi trước thiên nhiên, từ những cơn bão tố sấm sét, những cuộc động đất, lụt lội, những kỳ núi lửa phun ra nham thạch v..v.. những hiện tượng con người khi đó không thể giải thích vì chưa đủ trí tuệ để hiểu. Ngoài ra con người còn phải đối diện với trăm thứ bệnh tật, bất an trong cuộc đời. Cho nên, thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy con người thời đó nghĩ rằng, chắc những thiên tai, bệnh tật kể trên phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó nằm ngoài sự hiểu biết của họ, và họ đã qui mọi hiện tượng thiên nhiên cho hoạt động của những bậc siêu nhiên mà họ gọi là Thần (Gods) (Người Ki Tô giáo gọi Thần của họ (Christian God) là Thượng Đế hay Thiên Chúa). Thí dụ, sét được coi như là những lưỡi gươm của Thiên Chúa giáng xuống nhân loại, sấm được coi như là tiếng nói trong cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, những bệnh dịch tả, dịch hạch, vì có tính truyền nhiễm nên làm chết hại nhiều ngàn người vì chưa có thuốc phòng ngừa hay chữa chạy, cũng được coi như là họa của Thiên Chúa giáng xuống đầu con người để trừng phạt con người vì tội đã làm phật ý Thiên Chúa. Nhưng con người lại không chịu dậm chân tại chỗ, cho nên ngày nay, chúng ta đã hiểu, và hiểu rất rõ, bệnh tật từ đâu mà ra, tại sao có sấm, sét, và tiên đoán được khi nào có sấm, sét và có ở đâu v...v... Do đó, những quan niệm thuộc loại mê tín như Thiên Chúa có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại là những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với những thực tế ở ngoài đời. Ngày nay, khi trời sấm sét, chó và mèo còn cúp đuôi chạy trốn, nhưng con người thì bình thản ngồi viết bài chống mê tín dị đoan, chống những chuyện hoang đường phản khoa học, phi lý trí.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao ngày nay vẫn còn nhiều người tin vào một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí? Phật Giáo đã nhìn thấy rõ vấn đề này. Đức Phật đã thấy rõ chúng sinh thì vô lượng, nhưng căn trí thì bất đồng. Bởi vậy giáo lý của người là để khai sáng, chuyển hóa con người chứ không chống đối bất cứ niềm tin nào của con người. Vì căn trí bất đồng nên có người theo được con đường Bi, Trí, Dũng của Phật Giáo, tự mình bước đi những bước chân vững chãi trên con đường giải thoát, mở mang trí tuệ, tự tu, tự chứng. Và cũng có những người hoặc do truyền thống tôn giáo, gia đình, hoặc từ khi sinh ra đã sống trong môi trường khép kín về trí tuệ, tư duy, nên được nhào nặn để dựa trên một cặp nạng Thần quyền lê lết tạm bợ trên trường đời, chốn chim muông cầm thú, chờ ngày về quê thật với ông Thánh David (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 73: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo)). Thật là tội nghiệp, những tín đồ Công giáo Việt Nam đầu óc mù mịt bị những ông linh mục xứ đầu óc cũng không hơn họ bao nhiêu, nhồi sọ từ nhỏ và chưa hề biết đến cuốn Thánh Kinh nên không biết rằng trong Thánh Kinh, David chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp, đến khi lên làm Vua thì hoang dâm vô độ, vô đạo đức, cướp vợ của thuộc hạ v..v… Người Do Thái tôn vinh David vì hắn có công với Do Thái chứ chẳng liên quan gì đến dân Việt Nam. Tín đồ Công giáo Việt Nam được bề trên dạy sao thì tụng vậy, chứ có biết gì về David và tại sao lại phải về quê thật với một tên Vua Do Thái vô đạo đức, xuất thân từ một tên tướng cướp.
Chúng ta cũng nên biết, nền Thần Học Ki Tô Giáo, để theo kịp sự tiến hóa của nhân loại, đã phải giải thích lại nhiều lần quan niệm về một Thiên Chúa. Nhưng ngày nay những giải thích này đều bị bác bỏ, vì nền Thần Học Ki Tô Giáo đặt tiền đề trên sự hiện hữu của một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, toàn thiện rồi dùng lý luận thần học để thuyết phục con người là một Thiên Chúa với những thuộc tính như vậy hiện hữu. Nhưng nền thần học Ki Tô Giáo không thể thuyết phục được những người có đầu óc trong thời đại này vì nó chứa rất nhiều mâu thuẫn và phi lý. Nó chỉ còn hợp với những người mà đầu óc so với đầu óc của những người cách đây trên 2000 năm cũng chưa tiến bộ được bao nhiêu. Thật vậy, chúng ta đều biết đến lời phát biểu của vật lý gia nổi tiếng nhất thế kỷ 20 là Albert Einstein như sau:
Tôi không thể quan niệm được một Thiên Chúa thưởng phạt những tạo vật của mình.. Ý tưởng về một đấng can thiệp vào những sự việc xảy ra trong thế gian thì tuyệt đối không thể nào có.
(I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures.. The idea of a being who interferes with the sequences of events in the world is absolutely impossible.)
Nhận định sau đây của James A. Haught trong cuốn 2000 years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt, trang 324, có thể cho chúng ta thấy rõ vấn đề hơn:
Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thiên Chúa ở trên trời với lòng thương yêu nhất mực không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ.
(Through logic, you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doens't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDS, Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He mandated foxes to rip rabbits apart and cheetahs ro slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.)
Chúng ta hãy tự đặt một câu hỏi, trong thời đại này, chúng ta còn có thể tin được luận điệu thần học Ki Tô Giáo cho rằng, chỉ vì Adam và Eve cưỡng lời Thiên Chúa ăn một trái trên cây hiểu biết để có trí tuệ bằng Thiên Chúa nên cả nhân loại đều bị Thiên Chúa đày đọa? Điều hiển nhiên là trí tuệ loài người ngày nay đã vượt xa về hiểu biết cũng như về đạo đức của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Hơn nữa, người Việt Nam chúng ta có câu "Con hơn cha là nhà có phúc", nếu không như vậy thì thế giới làm gì có tiến bộ? Nếu cứ như ý định của Thiên Chúa thì loài người sẽ triền miên sống trong sự tối tăm, trí tuệ và đạo đức thấp kém. Bởi vậy, nếu chúng ta đọc những cuốn sách viết về cuộc chiến giữa khoa học và nền thần học Ki Tô Giáo trong hơn một thế kỷ nay thì chúng ta sẽ thấy nền thần học Ki Tô Giáo đã không còn chỗ đứng trong giới trí thức, ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, khoan kể đến tuyệt đại đa số các khoa học gia. Ngoài ra, nếu chúng ta đọc những cuốn nghiên cứu phê bình Thiên Chúa điển hình như cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo; hoặc cuốn Thiên Chúa là Cái Gì? (What is God?), biên tập bởi Kenneth G. Lucey, trong đó có những bài khảo luận của Richard R. La Croix, thì chúng ta sẽ thấy mọi lý luận thần học về sự hiện hữu của một Thiên Chúa với những thuộc tính toàn năng, toàn trí, toàn thiện, thí dụ như của Thomas Aquinas, Augustine, Descartes v..v.. đều đã bị bác bỏ dứt khoát. Thật vậy, trong phần Tựa của cuốn Critiques of God, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:
Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ niềm tin chắc đại cương nào về Thiên Chúa cũng đang trỏ thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (không đực không cái). Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới.
(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture. Any general serious belief in God is fading in our culture. God has lost his spatial location as a monarch in heaven. He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo. It is not God is being relegated to a remote region. It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It). It is te realization that there is no God to which to relate.)
Sau đây là một đoạn trong phần Dẫn Nhập trong cuốn A History of God của nữ tu Công giáo Karen Armstrong:
Thiên Chúa là một khuôn mặt khá mù mờ, được định nghĩa trong những trừu tượng trí thức thay vì những hình ảnh rõ ràng. Khi tôi mới lên chừng 8 tuổi, tôi phải nhớ câu trả lời theo giáo lý của câu hỏi, "Thiên Chúa là cái gì?: "Thiên Chúa là Thần Linh cao nhất, tự hiện hữu và vô cùng hoàn hảo trên mọi phương diện." Không lạ gì, lời giải thích trên chẳng có mấy ý nghĩa đối với tôi, và tôi phải nói rằng ngày nay định nghĩa trên cũng chẳng có gì hấp dẫn. Đó vẫn là một định nghĩa đơn thuần khô khan, huênh hoang, và kiêu căng. Tuy nhiên, từ khi tôi viết cuốn sách này, nay tôi đã tin rằng định nghĩa trên cũng còn sai lầm nữa.
(God…was a somewhat shadowy figure, defined in intellectual abstractions rather than images. When I was about eight years old, I had to memorize this catechism answer to the question, "What is God?": "God is the Supreme Spirit, Who alone exists of Himself and is infinite in all perfections." Not surprisingly, it meant little to me, and I am bound to say that it still leaves me cold. It has always seemed a singularly arid, pompous and arrogant definition. Since writng this book, however, I have come to believe that it is also incorrect.)
Và trong cuốn Sự Vô Tận Ở Trong Lòng Bàn Tay (L'infini Dans La Paume de la Main) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận (tôi sẽ trở lại 2 tác giả này trong đoạn kết), trang 51, Matthieu Ricard đưa ra nhận định:
Mọi tôn giáo (thần giáo) và mọi triết thuyết đều thất bại trên vấn đề sáng tạo...Khoa học đã loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về Thiên Chúa Sáng Tạo mà khoa học không cần đến và Phật Giáo cũng vậy, loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về một sự bắt đầu.
(Toutes les religions et les philosophies ont buté sur ce problème de la création. La science s'en est débarrassée en éliminant la notion de dieu créateur dont elle n'a pas besoin et le bouddhisme en éliminant la notion même d'un début.)
Như vậy, 25 thế kỷ sau thời Phật tại thế, con người mới dần dần đi đến sự nhận thức là chẳng làm gì có Thiên Chúa toàn năng toàn trí, sáng tạo ra muôn loài và có quyền thưởng phạt con người. Đức Phật đã nhận thức được như vậy, do đó Phật Giáo, từ hơn 2500 năm nay, là tôn giáo không chấp nhận thuyết sáng tạo cũng như thần quyền thưởng phạt hoang đường. Quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là vô thỉ vô chung. Đức Phật cũng đã thấy rõ sự vận hành của thuyết Tiến Hóa. Người đã biết chúng sinh căn tính bất đồng cho nên Người đã đưa ra nhiều Pháp môn để dẫn dắt con người, tùy theo căn trí, tiến tới giác ngộ. Chúng ta thường nhắc đến con số 84000 Pháp môn, tượng trưng cho một con số lớn. Người đời thường cho Đức Phật là một vị lương y giỏi, tùy bệnh mà cho thuốc. Không có gì hoang đường và phản khoa học bằng quan niệm chỉ cần có một phương thuốc, bất kể nó tên là gì, "Đức Tin" hay "Cứu rỗi", là có thể chữa được mọi căn bệnh của chúng sinh với căn tính bất đồng.
3. Vấn đề truyền thống.
Truyền thống, nói một cách đại cương, là những gì thuộc trí tuệ, kinh nghiệm, nếp sống v..v.. mà con người trong một xã hội, một nền văn hóa, truyền lại từ đời này sang đời khác. Qua thời gian, do sự mở mang trí tuệ, do những sáng kiến mới của con người, truyền thống có thể thay đổi, cải tiến, để phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. Tuy nhiên, trong các thần giáo, truyền thống lại thường là những giây xích buộc chặt con người trong vòng "quên mình trong vâng phục" và do đó, thường có tác dụng ngăn chận sự tiến bộ của con người.
Truyền thống trong Công Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The Pope's Catechism, p.80):
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Công giáo dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh.
Vì Truyền Thống Công giáo (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải.
(A Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not.
Because Catholic Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Bởi vậy mà khi giáo hội Công giáo dạy Đức Mẹ, sau khi sinh nở ít nhất là 7 lần, vẫn còn đồng trinh, hay Đức Mẹ cả hồn lẫn xác bay lên trời, hay giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nắm trong tay chìa khóa mở cửa thiên đường, không thể sai lầm v..v..thì giáo dân cũng bắt buộc phải tin, dù những điều này không hề có trong Thánh Kinh. Và, khi vào Việt Nam, giáo hội bắt giáo dân phải dẹp bàn thờ ông bà, tổ tiên trong hơn 400 năm, thì giáo dân cũng phải tin theo và làm đúng như vậy. Sau Công Đồng Vatican II, giáo hội "cho phép" thờ cúng tổ tiên để nhặt thêm tín đồ thì giáo dân cũng lác đác tin theo, vì vẫn có ông linh mục cho rằng cúng giỗ là "làm chay cúng ruồi".
Truyền thống trong Tin Lành là phải tuyệt đối tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su (Justification by Faith). (Xin đọc Rubem Alves, Protestantism and Repression, p. 34)
Truyền thống trong Ấn Độ Giáo là phải tôn trọng sự phân chia giai cấp.
Truyền thống trong Hồi Giáo thì tôi xin miễn bàn.
Đức Phật đã thấy trước sự tai hại của các truyền thống tôn giáo như trên nên Người đã đưa ra một giáo lý trong đó không có truyền thống. Chúng ta hãy đọc "Kinh Nền Tảng Đức Tin" của Phật Giáo, thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99):
...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về 10 nền tảng của đức tin chân chánh:
Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo.
Với Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là đạo của trí tuệ quả nhiên không sai. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà theo tôi, tuyệt vời nhất trong mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ của con người đúng nghĩa là một con người. Nếu con người từ bỏ thân phận làm người của mình để "cúi đầu trong vâng phục", "bảo sao nghe vậy", "chỉ đâu đi dó", "tin mà không cần biết, không cần hiểu", thì thực chất không khác gì một con cừu, rút cuộc cũng chỉ bị đưa vào lò sát sinh mà thôi.
Kinh Nền Tảng Đức Tin của Phật Giáo đã mở một chân trời mới cho người Tây phương. Bắt đầu từ đây, người Tây phương đã có thể, theo như Mục sư Harry Willson, tháo gỡ những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, cất đi gánh nặng Thượng đế trên vai họ, để được hít thở bầu không khí trong sạch. Và cũng từ đây, tâm thức Tây phương đã mở để đón nhận một luồng gió tư tưởng mới từ Đông phương thổi tới. Luồng gió này chính là các tư tưởng từ bi hỉ xả, vị tha, nhân bản, rộng rãi, khoan dung, tiến bộ, và phù hợp với các suy lý khoa học của Phật Giáo.
Đến đây chúng ta đã hiểu tại sao trong quá trình truyền đạo của Phật Giáo không hề có một giọt máu đổ. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo không thể nào có những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc xâm lăng để cưỡng bách người ngoại đạo phải theo đạo, những vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trong lịch sử loài người. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo không bao giờ có thể có được chế độ giáo hoàng, chế độ của các giáo sĩ Hồi giáo, Rabbi Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn, hay quyền lực của Kinh điển.
Như trên đã nói, Phật Giáo dứt khoát phá đổ chế độ giai cấp trong các Thần Giáo, chế độ xây dựng trên niềm hoang tưởng, cho rằng giáo sĩ là giai cấp ở trên, thông thái, độc quyền diễn giải Kinh điển và do đó là giai cấp ngự trị, các tín đồ ở dưới chỉ có quyền vâng phục. Thật vậy, trong Kinh Duy Ma, Cư sĩ Duy Ma Cật là bậc có trí tuệ vượt hơn nhiều đệ tử xuất gia của Phật, và trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử đi cầu đạo đã gặp 53 vị Thiện-Tri-Thức, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, và được dạy cho 53 Pháp môn tiến tới giải thoát khác nhau. Ngày nay, có nhiều dấu hiệu cho thấy các Thần giáo cũng đang dần dần chuyển hóa đến tinh thần dân chủ trong Phật Giáo.
4. Vấn đề Huyền Bí và Siêu Nhiên.
Trong các Thần Giáo bao giờ chúng ta cũng thấy không ít thì nhiều những sắc thái thuộc loại huyền bí hay huyền nhiệm, nghĩa là những điều không thể giải thích được mà tín đồ chỉ có việc tin, không cần biết, không cần hiểu. 7 bí tích trong Công Giáo Rô-ma và 2 bí tích trong Tin Lành thuộc loại này. Ngoài ra còn những phép lạ hay tác dụng lạ lùng của những thánh tích, phần lớn là ngụy tạo, cũng thuộc loại này. Huston Smith, giáo sư triết tại đại học nổi tiếng MIT, đã đưa ra một nhận định sâu sắc trong cuốn The Religions of Man, trang 104, về tác dụng của những sự huyền bí trong tôn giáo. Giáo sư Smith cho rằng những cái gọi là huyền nhiệm và phép lạ đã biến tôn giáo trở thành "một kỹ thuật để phỉnh phờ hay ép buộc vô số những đứa trẻ ít hiểu biết trong vũ trụ làm những điều mà người ta muốn chúng làm" (a technique for cajoling or coercing innumerable cosmic bellhops to do what you wanted them to).
Chúng ta đều biết rằng Phật Giáo không coi trọng những chuyện huyền bí và siêu nhiên. Có 2 câu chuyện thú vị trong Phật Giáo chứng tỏ điều này. Câu chuyện thứ nhất là có một đệ tử trổ tài đi trên nước qua sông, cũng như gần 600 năm sau Chúa Giê-su trổ tài đi vài bước trên nước, hay Thánh Francois de Salle đi trên sóng. Đức Phật chỉ nhẹ nhàng nói: "Thật là tội nghiệp cho ngươi quá, mất công tập luyện nhiều năm chỉ để làm như vậy. Ta chỉ cần bỏ ra vài đồng tiền là ông lái đò có thể chở ta qua sông." Chuyện thứ hai là có một đệ tử trổ tài nhào lộn trên cây, Đức Phật bèn quở trách đệ tử đó. Trong cả hai chuyện, Đức Phật đã cho rằng những hành động siêu nhiên chẳng nói lên được điều gì, chẳng chứng tỏ được gì, và cũng chẳng có ích lợi gì cho việc tu tập trên con đường giải thoát, nhiều nhất chỉ là để mê hoặc những người trí tuệ thấp kém.
Giới giáo sĩ trong các Thần giáo thường dạy các tín đồ là kinh điển trong tôn giáo của họ chứa những điều huyền nhiệm mà chỉ có họ là hiểu được, và chỉ có họ là có thể diễn giảng đúng tinh thần của kinh điển. Và, để giữ độc quyền này, họ không muốn cho tín đồ tự mình đọc những kinh điển, sợ rằng tín đồ sẽ hiểu sai. Điều này rõ ràng nhất trong Công giáo Rô-ma. Lịch sử Công giáo cho biết, giáo hội cấm không cho dịch Thánh Kinh từ tiếng La-Tinh ra tiếng địa phương, và cấm luôn cả tín đồ không được tự mình đọc Thánh Kinh. Vi phạm điều này có thể bị tuyệt thông, hoặc tịch thu tài sản, hoặc bị xử tử. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ cho rằng Giáo hội sợ tín đồ nhận ra những điều sai lầm và mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
Phật Giáo trái hẳn lại. Đức Phật đã khuyên các đệ tử nên dùng ngôn ngữ, văn tự địa phương để truyền bá đạo Phật. Đi đến đâu, Kinh điển Phật Giáo cũng đều được dịch ra tiếng địa phương. Điển hình là ở Trung Hoa, Nhật Bản v..v.., ngay từ những thế kỷ đầu của thời đại này, các kinh điển Phật Giáo đã được dịch ra tiếng địa phương. Ở Âu Châu, đến thế kỷ 16, Martin Luther mới theo gót tinh thần khai phóng và dân chủ của Phật Giáo, chống lại chế độ giáo hoàng toàn trị của Công giáo và bắt đầu dịch Thánh Kinh sang tiếng Đức. Và từ đó, Ki-Tô giáo mới có những cuốn Thánh Kinh bằng tiếng địa phương, và cũng từ đó mà Ki Tô Giáo bắt đầu suy thoái vì đầu óc tiến bộ của con người không còn có thể chấp nhận những chuyện hoang đường ở trong Thánh Kinh không còn phù hợp với sự hiểu biết của nhân loại ngày nay.
Vài Lời Kết.
Viết bài này, tôi chỉ có mục đích duy nhất là trình bày cùng quý độc giả sự kiện là về các lãnh vực khoa học, tôn giáo và xã hội, nhiều tư tưởng Phật Giáo đã đi trước nhân loại khá xa. Bài viết này không có mục đích chống đối niềm tin của bất cứ ai trong bất cứ tôn giáo nào. Hiểu rõ là chúng sinh thì căn trí bất đồng nên tôi không có lý do gì để chống niềm tin của người khác mà tôi cho đó là quyền tuyệt đối của con người. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, trong thời đại này, chúng ta không thể tự cho phép quay trở về thời Trung Cổ, làm ngơ trước những tiến bộ tư tưởng của con người. Cho nên bài viết này chẳng qua chỉ là trình bày phần nào một khía cạnh tiến hóa của tư duy nhân loại, dựa trên những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy của những bậc thức giả trong mọi tôn giáo và trong khoa học.
Thay vì có vài lời kết luận, tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả một cuốn sách có giá trị cao, đó là cuốn Sự Vô Tận Nằm Trong Lòng Bàn Tay: Từ Big Bang đến sự Tỉnh Thức (L'Infini Dans La Paume De La Main: Du Big Bang à L'Éveil) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, xuất bản năm 2000 tại Pháp. Cuốn sách này nay đã được dịch sang tiếng Anh với tên: Một Cuộc Hành Trình Tới Những Tận Cùng Kiến Thức Ở Đó Khoa Học và Phật Giáo Gặp Nhau: Nguyên Lượng và Hoa Sen (A Journey To The Frontiers Where Science and Buddhism Meet: The Quantum and the Lotus) với đôi chút thay đổi trong bố cục và văn tự, xuất bản tại Mỹ năm 2001. Tuy nhiên, tôi phải nói ngay rằng, giá trị của cuốn sách này tùy thuộc trình độ hiểu biết của người đọc trong cả hai lãnh vực: khoa học và tôn giáo, nhất là Phật Giáo. Matthieu Ricard là đồng tác giả với ông bố Jean-Francois Revel trong cuốn sách nổi tiếng Le Moine et le Philosophe xuất bản năm 1998 ở Pháp. Cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Việt: Tăng Sĩ và Triết Gia, và sang tiếng Anh: The Monk and the Philosopher. Matthieu là một khoa học gia trở thành một tăng sĩ Phật Giáo. Còn Trịnh Xuân Thuận, sinh trưởng trong một gia đình Phật Giáo, là giáo sư khoa học nghiên cứu các thiên thể (thiên văn học) , đại học Virginia. Nội dung cuốn L'Infini Dans La Paume de la Main là những trao đổi ý kiến giữa Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận về khoa học Tây phương và triết lý Phật Giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cho rằng cuốn sách này là một đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết rõ hơn bản chất thật của thế giới của chúng ta và đạo chúng ta sống trong đó.
Trong phần kết luận, khoa học gia Trịnh Xuân Thuận cho chúng ta biết rằng, tuy đã biết và đánh giá cao khía cạnh thực hành của Phật Giáo, giáo sư Thuận không tin rằng có thể có sự đối chiếu giữa khoa học và Phật Giáo, vì con đường thực nghiệm của khoa học và con đường quán chiếu nội tâm của Phật Giáo hoàn toàn khác nhau, cho nên Phật Giáo chẳng có gì mấy để nói về thế giới các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu của khoa học. (Je n'étais donc pas du tout sur qu'une démarche consistant à confronter la science et le bouddhisme puisse avoir un sens. Je redoutais que le bouddhisme n'ait que peu à dire sur la nature du monde phénoménal, car ce n'est pas sa préoccupation principale, alors que c'est fondamentalement celle de la science.)
Tuy nhiên, sau khi trao đổi ý kiến với Matthieu Ricard, giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thay đổi ý kiến và ông viết:
Trong cuộc trao đổi ý kiến của chúng tôi, tôi đã nhận ra rằng sự e ngại của tôi là vô căn cứ: không những Phật Giáo suy tư về bản chất của thế giới, mà còn suy tư một cách sâu sắc và đặc thù...
Điều chính mà tôi học được từ cuộc đối thoại này là, không còn nghi ngờ gì nữa, có một sự hội tụ và cộng hưởng giữa hai cách nhìn thực tại của Phật Giáo và của khoa học. Một vài khẳng định của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã đem đến một cách kỳ lạ những ý tưởng tiềm ẩn trong khoa học vật lý hiện đại, đặc biệt là hai lý thuyết vĩ đại, cột trụ của vật lý hiện đại: cơ học nguyên lượng - khoa vật lý về những vật vô cùng nhỏ - (nguyên tử và các hạt tiềm nguyên tử như điện tử, quark v..v.. TCN) và thuyết tương đối - khoa vật lý về những vật vô cùng lớn (vũ trụ học: sao, thiên hà v..v... TCN).
(À mesure que nos conversations se sont poursuivies, je me suis rendu compte que mes craintes n'étaient pas fondées: non seulement le bouddhisme a réfléchi sur la nature du monde, mais il l'a fait de facon profonde et original..
L'enseignement principal que j'en ai retiré est qu'il existe une convergence et une résonace certaines entre les deux visions, bouddhiste et scientifique, du réel. Certains énoncés du bouddhisme à propos du monde des phénomènes évoquent de manière étonante telles ou telles idées sous-jacentes de la physique moderne, en particulier des deux grandes théories qui en constituent les piliers: la mécanique quantique - physique de l'infiniment petit -, et la relativité - physique de l'infini grand.)
Tôi nghĩ, có lẽ chúng ta cũng không nên quên rằng, những tư tưởng và hiểu biết của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã có từ cách đây trên 25 thế kỷ, trong khi hai thuyết vĩ đại nhất trong vật lý hiện đại, thuyết nguyên lượng và thuyết tương đối, mới chỉ được trí tuệ Tây phương nghĩ ra trong thế kỷ 20.
Trên đây tôi đã trình bày những quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ nhân sinh, cùng những tư tưởng khai phóng của Phật Giáo về tôn giáo, xã hội và chứng minh là nhiều tư tưởng của Phật Giáo đã đi trước tôn giáo và khoa học Tây phương như thế nào. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi càng ngày thế giới, nhất là các xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ, càng nhận ra chân giá trị của Phật Giáo. Một câu hỏi được đặt ra: Làm sao mà những tư tưởng Phật Giáo lại có thể đi trước khoa học Tây phương khi mà Phật Giáo không hề có và không hề dùng đến những dụng cụ đo lường khoa học? Làm sao mà Phật Giáo lại có thể đi trước những Thần Giáo trong đó có cả tôn giáo được thần linh mạc khải? Thật khó mà có thể trả lời nếu chúng ta không tin rằng do Thiền và Quán Chiếu nên Đức Phật đã nắm được bản chất, sự vận hành của vạn pháp, nghĩa là đã đạt đến mức "Như thực tri kiến". Đây là cách nhìn sự vật của Đức Phật mà mọi giáo lý Phật Giáo đều hướng đến mục đích dẫn dắt chúng ta đạt đến. "Như thực tri kiến" cũng là mục đích tối hậu của khoa học. Điểm hội tụ của Phật Giáo và Khoa Học chính là ở điểm này. Tuy nhiên, Phật Giáo còn đi xa hơn nữa, vì trong Phật Giáo, "Như thực tri kiến" không không đủ, mà chúng ta còn phải có một tâm từ bi vô lượng. Không có tâm từ bi thì không có Phật Giáo. Không có tâm từ bi thì Đức Phật đã không để lại cho chúng ta một giáo lý vô thượng vô đẳng. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Từ bi trong Phật Giáo tuyệt đối không có nghĩa là nếu người ta tát má này thì đưa má kia cho người ta tát thêm. Phật Giáo không có dạy chúng ta áp dụng từ bi để dung dưỡng bất công và bạo hành. Từ bi cũng không có nghĩa là hiểu sai "ái ngữ", nói lên những lời giả dối, sai sự thật, ve vuốt người khác với ảo tưởng là có thể gây sự hòa hợp một chiều. Một trong 5 giới căn bản của một Phật tử là không được nói sai sự thật. Đức Phật, sau khi giác ngộ, chẳng làm gì hơn là nói lên những sự thật liên hệ đến con người ngay trong đời sống này, giúp cho con người thấy được sự vật như chúng là như vậy, từ đó sẽ thoát khổ. Đây chính là cho vui và cứu khổ.
Viết bài này, tôi cũng không làm điều gì khác hơn là, trong phạm vi hiểu biết của tôi, cố gắng trình bày những điều mà tôi đã để tâm nghiên cứu và tin rằng ít ra chúng cũng không xa sự thật là bao.
--------------------------------------------------------------------------------
Source : Trang Trần Chung Ngọc
của nền Thần học Độc thần giáo
Trần Chung Ngọc
08 tháng 8, 2009
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm Trước Tây Lịch (TTL), còn được gọi là "thời đại hoang mang" (560 B(efore) C(onfusion): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
Khi sinh ra đời, về bản chất, con người của Thái Tử Tất Đạt Đa không khác gì con người của bất cứ ai trong chúng ta: nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ v..v.. Tuy nhiên, trước những cảnh khổ hiển nhiên của con người: sinh, lão, bệnh, tử, Thái tử Tất Đạt Đa, với một nghị lực phi thường, đã từ bỏ nơi quyền quý giàu sang vật chất, đi tìm con đường giải thoát cho chúng sinh qua một quá trình tu tập gian khổ kiên trì trong 6 năm, cuối cùng đã tìm ra chân lý và trở thành Phật, nghĩa là Bậc Giác Ngộ hay Bậc Tỉnh Thức: tổng hợp của một kiến thức siêu việt với một tâm từ bi vô lượng. Trong lịch sử loài người, chúng ta khó có thể thấy trên thế gian một khuôn mặt nào đặc biệt và cao cả như Đức Phật.
Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật là vị Giáo Chủ tôn giáo duy nhất trên thế gian đưa ra một khẳng định tuyệt đối bình đẳng: "Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành", nghĩa là về bản chất, Giáo Chủ và tín đồ không có gì khác nhau. Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật đã không hề bắt buộc bất cứ ai phải tin vào Phật hay những điều giảng dạy của Phật một cách mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Đặc biệt hơn cả là Đức Phật đã thấy rõ sự vận hành của vạn Pháp (Như Thực tri Kiến: to see things as they really are) và đã để lại cho hậu thế một giáo lý không có giáo lý nào hơn, không có giáo lý nào bằng. Đây không phải là nhận định vô căn cứ của một tín đồ Phật Giáo để khoa trương tán tụng tôn giáo của mình, mà là kết quả khảo sát tư tưởng, giáo lý Phật Giáo trong sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những phần sau. Trong phần chứng minh này, chúng ta sẽ thấy, giá trị của một tôn giáo không thể dựa trên số tín đồ của tôn giáo đó đông hay không đông, mà dựa trên những tư tưởng hoặc phúc lợi mà tôn giáo đó đã mang đến cho nhân loại.
Thường thì giới Phật tử thông thường chúng ta chỉ biết đến vài giáo lý căn bản của Phật Giáo xuyên qua các triết lý về Tam Độc, Tam Pháp Ấn (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã), Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo. Nếu chúng ta để tâm nghiên cứu và tìm hiểu về Phật Giáo thì chúng ta sẽ khám phá ra rằng, tư tưởng Phật Giáo và "tri kiến" của Đức Phật đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng và sự hiểu biết của nhân loại khá lâu, và, tuy rằng với một tinh thần khoa học, Phật Giáo sẵn sàng chấp nhận những sai lầm, nếu có, nhưng cho tới ngày nay, Phật Giáo chưa từng phải xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những tiến bộ về tư tưởng cũng như những khám phá mới của khoa học.
Sau đây tôi sẽ đưa ra một số kiến thức Phật Giáo để quý độc giả thấy rõ tư tưởng Phật Giáo đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại như thế nào. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ có thể liệt kê một số vấn đề điển hình một cách ngắn gọn chứ không thể khai triển để chứng minh vì mỗi vấn đề đòi hỏi một sự trình bày sâu xa và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, trước hết, chúng ta cần biết một điều căn bản: Đức Phật không phải là một khoa học gia, Người không có theo các phương pháp khoa học như thu thập dữ kiện, đặt giả thuyết hay lý thuyết, rồi dựa vào những dụng cụ trong phòng thí nghiệm để kiểm nghiệm và thực chứng lý thuyết đó. Tất cả những hiểu biết của Người là từ Thiền quán.
Chúng ta đều biết rằng, khi xưa Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước. Người còn khẳng định trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số 84000 trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác. Hơn 22 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 17, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt nước có một số lớn các vi sinh vật.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là trong đó có vô số những thế giới có hình dạng khác nhau với vô số chúng sinh khác nhau. Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16, Giordano Bruno cũng đưa ra quan niệm về một vũ trụ bao la vô cùng tận trong đó, ngoài thế giới của chúng ta, có thể còn có vô số các thế giới khác nhau với vô số dạng sống (life-forms) khác nhau. Chúng ta đã biết, quan điểm này trái với những lời gọi là “mạc khải” trong thánh kinh mà các tín đồ Ki Tô Giáo tin rằng không thể sai lầm của Thiên Chúa Ki Tô Giáo, một vị thần mà theo niềm tin của những tín đồ Ki Tô, là bậc Toàn Năng, nghĩa là làm gì cũng được, và Toàn Trí, nghĩa là cái gì cũng biết. Do đó, Bruno đã phải trả một giá rất đắt cho kiến thức rất đúng của mình. Ông ta bị định chế Công giáo trong đó có giáo hoàng, vị đại diện của Chúa trên trần, và các linh mục, những người được Chúa dạy là phải thương yêu kẻ thù [Bruno không phải là kẻ thù của Giáo hội] như chính mình, lên án và chính các linh mục đã đưa ông lên giàn hỏa để thiêu sống. Thế kỷ 16 mở đầu cho cuộc cách mạng khoa học. Sự phát minh ra kính thiên văn của Galileo Galilei ở đầu thế kỷ 17, và khoa vũ trụ học ngày nay đã chứng minh quan điểm của Phật Giáo về vũ trụ cũng như của Giordano Bruno 21 thế kỷ sau là đúng. Một trong 10 danh hiệu mà người đời tôn vinh Đức Phật khi Người còn tại thế : Thiên Nhân Sư (Teacher of Gods and men), bậc Thầy của các Thiên Chúa và của con người, không phải là không có giá trị thuyết phục.
Thuyết Duyên Sinh hay Duyên Khởi là thuyết căn bản nhất trong Phật Giáo. Giữa thế kỷ 19, Charles Darwin đưa ra thuyết Tiến Hóa, và ngày nay, càng ngày chúng ta càng thấy thuyết này rất phù hợp với thuyết Duyên Sinh. Vạn Pháp trong vũ trụ đều do đủ duyên mà thành, hết duyên thì diệt, và đây cũng là căn bản của thuyết Tiến Hóa, từ sự xuất hiện của các cây cỏ cho đến con người. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận viết trong cuốn “L'Infini Dans La Paume de la Main”: "Tiến hóa từ những cát bụi của những ngôi sao, chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những con sư tử trong những vùng hoang mạc và những bông hoa tỏa mùi thơm" (Poussières d'étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des savanes et les fleurs de lavande). Tôi sẽ nói thêm về cuốn sách rất có giá trị này trong một đoạn sau.
Thuyết Vô Thường của Phật Giáo là một hệ luận của thuyết Duyên Sinh. Các tín đồ Ki Tô Giáo thường cho rằng Thiên Chúa của họ là bậc thường hằng (omnipresent), nghĩa là có mặt khắp nơi. Đây chỉ là một niềm tin tôn giáo chứ không phải là một sự hiểu biết dựa trên những sự thật bất khả phủ bác. Ngày nay, tuyệt đại đa số các khoa học gia đã gạt bỏ quan niệm về một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài, cho rằng vai trò "sáng tạo" của Thiên Chúa không cần thiết, cũng như ngày xưa, khi hoàng đế Napoléon hỏi Pierre Simon de Laplace là sao trong tác phẩm nghiên cứu khoa học về Cơ Học Các Thiên Thể (Celestial Mechanics) của ông ta không thấy nói gì đến Thiên Chúa, Laplace đã trả lời: "Tôi không cần đến cái giả thuyết đó". Điều rõ ràng là trên thế giới và trong vũ trụ ngày nay, cái thường hằng, có mặt khắp nơi, chính là tính vô thường của vạn pháp. Từ một vi sinh vật nhỏ nhoi như một vi khuẩn cho đến con người, một ngôi sao, một thiên hà trong vũ trụ, không có gì có thể đi ra ngoài luật vô thường. Thiên Chúa của Ki Tô Giáo cũng không thoát khỏi luật vô thường, vì quan niệm về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo đã thay đổi rất nhiều qua thời gian với những lý luận thần học khác nhau. Thật vậy, định luật “vô thường” có thể áp dụng cho chính Thiên Chúa của Ki Tô Giáo và có thể kiểm chứng qua nhiều lần than phiền của Giáo hoàng Benedict XVI, rằng: “Âu Châu [cái nôi của Thiên Chúa Giáo] ngày nay sống như là không có Thiên Chúa và cũng chẳng cần đến Chúa Giê-su nữa.” Ngoài ra, “Trong một Hội Nghị đặc biệt vào năm 1999, các Giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu”. (JOHN CORNWELL, in Breaking Faith: The Pope, The People, and the Fate of Catholicism At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)
Phật Giáo đưa ra những thuyết Tương Duyên, Tương Tức, Dung Thông Vô Ngại, Một là Tất Cả v..v.., đặc biệt là trong Kinh Hoa Nghiêm. Khoa học ngày nay, nhất là khoa Vật Lý Nguyên Lượng (Quantum Physics), nghĩa là môn vật lý khảo sát thế giới của các hạt "Tiềm Nguyên Tử" (Subatomic particles) cũng đã chứng minh rằng mọi vật đều liên hệ tới nhau, không có cái gì có thể có tự tính, nghĩa là độc lập, không tùy thuộc bất cứ cái gì khác. Đây cũng là căn bản thuyết Vô Ngã của nhà Phật.
Chúng ta đều biết Phật Giáo là một tôn giáo trị liệu, nghĩa là một tôn giáo chữa những căn bệnh gốc của thế gian. Luận Tỳ Bà Đạt Ma cũng như Duy Thức Luận và nhiều Kinh Điển khác, tất cả đều có tính cách trị liệu. Không ai có thể phủ nhận Thiền là một phương pháp trị liệu tâm thần hữu hiệu mà ngày nay nhiều người Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo v..v.. áp dụng. Tôi muốn nhắc lại lời của nhà phân tâm học nổi tiếng của Anh Quốc, Tiến sĩ Graham Howe: "Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng: từ 2500 năm trước, các Phật tử đã biết những vấn đề hiện đại về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường đánh giá họ. Phật Giáo nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông Phương" (To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have yet been given credit for. They studied these problems long ago and found answers too. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East).
Chúng ta đã thấy, qua vài tư tưởng điển hình của Phật Giáo, cái biết của Phật Giáo đã đi trước cái biết của nhân loại như thế nào. Lẽ dĩ nhiên, các tư tưởng Phật Giáo không chỉ có vậy, mà còn vô số các điều khác nằm trong rừng Kinh Điển Phật Giáo. Nhưng hiển nhiên, trong khuôn khổ một bài viết, không ai có thể trình bày tất cả những tư tưởng của Phật Giáo cho đầy đủ.
Sau đây tôi xin trình bày một khía cạnh khác thuộc loại "đi trước thời gian" của Phật Giáo, đó là khía cạnh tôn giáo và xã hội.
Trong các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có Phật Giáo là tôn giáo nhân bản và nhân chủ. Các tôn giáo khác như Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, và Ki Tô Giáo đều là Thần giáo. Nhân bản là đặt căn bản trên con người, và nhân chủ là con người làm chủ chính mình, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chứ không trông ngóng hay nương tựa ở bất cứ Thần quyền nào. Vì vậy, Phật Giáo quan tâm đến những chuyện thực tế của con người chứ không suy luận viển vông đến những vấn đề siêu hình không có ích lợi thiết thực cho con người ngay trong đời sống này. Từ bản chất nhân bản và nhân chủ, giáo lý Phật Giáo là, theo như một số học giả, một cuộc cách mạng tư tưởng. Tôi thấy danh từ cách mạng không đúng, vì cách mạng có nghĩa chống lại cái cũ thay bằng cái mới. Theo tôi, chúng ta phải nói rằng tư tưởng Phật Giáo rất đặc thù và trên thực tế đã mở đường cho những cải cách tư duy trong các Thần giáo cùng những khám phá khoa học về vũ trụ. Thật vậy, các học giả Tây phương nghiên cứu đứng đắn về Phật Giáo đều công nhận Phật Giáo là một tôn giáo thực nghiệm (empirical), khoa học (scientific), thực tế (pragmatic), và nhất là dân chủ (democratic). Những đặc tính này của Phật Giáo là những đặc tính mà chúng ta không thể thấy trong các Thần Giáo. Tại sao? Vì các Thần giáo đều phải dựa vào 4 đặc tính chung như sau để tồn tại: quyền lực; sự hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một vị Thần hay Thiên Chúa; truyền thống tôn giáo; và những huyền bí và siêu nhiên trong tôn giáo.
Chúng ta hãy xét từng đặc tính một ở trên để xem quan điểm của Phật Giáo đối với các đặc tính trên như thế nào.
1. Vấn đề Quyền Lực.
Quyền Lực thường được tạo trên đám tín đồ kém hiểu biết. Trong các Thần Giáo, giới giáo sĩ, thí dụ Linh Mục trong Công Giáo, Mục Sư trong Tin Lành Giáo, các giáo sĩ trong Hồi Giáo, các Rabbi trong Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn trong Ấn Độ Giáo, đều là những người tự cho mình là thông thái hơn đám tín đồ ở dưới, chỉ có họ mới đủ khả năng để hiểu và diễn giải Kinh Điển trong tôn giáo của họ. Từ điều này họ tạo thành một quyền lực trên đám tín đồ và tạo nên giáo điều "quên mình trong vâng phục" mà các tín đồ phải tin theo.
Cấu trúc toàn trị của Công Giáo là một thí dụ, dù rằng lịch sử đã chứng minh rằng sự hiểu biết và diễn giải Thánh Kinh của các giới lãnh đạo Công giáo, từ Giáo Hoàng trở xuống, nhiều khi rất sai lầm, luôn luôn ở trong tình trạng "sửa đâu sai đó". Bởi vậy cho nên nền thần học Ki Tô Giáo đã phải thay đổi rất nhiều qua thời gian. Lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những sai lầm thần học là nguyên nhân của những tác hại mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại trong gần 20 thế kỷ, điển hình là những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống phù thủy, những cuộc chiến tranh tôn giáo, những liên minh với thực dân để đi truyền đạo trong các nước kém mở mang v..v... Vụ xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo gần đây là một bằng chứng hiển nhiên nhất. Tuy vậy mà các tín đồ vẫn luôn luôn được dạy giáo hội Công giáo là giáo hội duy nhất, thánh thiện, tông truyền, và giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nên các tín đồ phải "quên mình trong vâng phục".
Quyền lực của Tin Lành nằm trong Thánh Kinh. Tin Lành chủ trương "Chỉ bằng vào Đức Tin vào Giê-su, con người sẽ được Thiên Chúa coi như người công chính và do đó được sống trên thiên đường vĩnh hằng trong Chúa Ki Tô” [Justification by faith = The just (justified, saved) shall live [have eternal life] by faith [in Christ]” (Rom 1: 17)] và Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Trên thực tế Tin Lành đã áp dụng đức tin trên để “biện minh cho tất cả" những việc ác ở trên đời như săn lùng phù thủy, thiêu sống thổ dân Mỹ vì không chịu theo Tin Lành, gọi là để cứu vớt linh hồn họ. Vì tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa, nên không thể sai lầm, cho nên, đối với Tin Lành, nếu thực tế sai với Thánh Kinh thì phải loại bỏ thực tế, dù rằng ngày nay nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh rằng trong Thánh Kinh có vô số những điều sai lầm về Thần Học cũng như Khoa Học. Tin Lành không ngăn cấm tín đồ đọc và tìm hiểu Thánh Kinh Ki Tô Giáo nhưng chỉ được hiểu theo sự diễn giảng của giới Mục Sư. Cũng vì vậy mà cho đến tận ngày nay phái bảo thủ Tin Lành vẫn còn chống đối thuyết Tiến Hóa, phát minh ra những lý thuyết thần học quái gở như “khoa học sáng tạo” (creation science) và rồi “thiết kế thông minh” (intelligent design) để biện minh cho tác phẩm sáng tạo của Thiên Chúa của họ.
Địa vị và quyền lực của các giáo sĩ trong Hồi Giáo là một thí dụ khác. Chúng ta không còn lạ gì những đạo luật rất khắc nghiệt của Hồi Giáo đối với giới phụ nữ và đối với những vi phạm luân lý nhỏ nhoi không đáng kể trong những xã hội Tây phương.
Đức Phật đã đưa ra một giáo lý trong đó không có quyền lực. Từ hơn 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã đi tiên phong trong vấn đề bác bỏ quyền lực tôn giáo, không những quyền lực của cá nhân mà còn của cả Kinh Điển nữa. Trong mục 3, Vấn Đề Truyền Thống, tôi sẽ khai triển thêm điều này. 21 thế kỷ sau, Martin Luther của Ki Tô Giáo đã theo gót Đức Phật, bác bỏ quyền lực trong cấu trúc toàn trị của Công giáo để lập ra đạo Tin Lành. Nhưng thực tế là Tin Lành đã thay thế quyền lực của Giáo Hoàng Công giáo bằng quyền lực của Thánh Kinh. Cho nên, người ta bảo rằng các tín đồ Công giáo là nô lệ của giáo hoàng, còn các tín đồ Tin Lành là nô lệ của Thánh Kinh. Phật giáo quan niệm, dù nô lệ vật chất hay nô lệ tinh thần cũng đều là nô lệ, làm mất phẩm giá con người.
2. Vấn đề hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một Thiên Chúa.
Mỗi Thần giáo đều có một quan niệm riêng về Thiên Chúa của mình. Về bản chất, những Thiên Chúa này không khác gì những Thần linh trong dân gian, thí dụ như thần cây đa, thần sông, thần núi của dân Việt Nam khi xưa, vì tất cả đều nằm trong niềm tin của con người chứ không phải là một thực thể. Những cuốn sách khảo cứu về quan niệm các Thiên Chúa trên thế gian, thí dụ như cuốn Một Lịch Sử Về Thiên Chúa (A History of God) của Nữ Tu Ca-Tô Karen Armstrong, cuốn Một Thế Giới Đầy Những Thiên Chúa (A World Full of Gods) của Keith Hopkins v..v.. đã chứng minh sự kiện này. Cho nên, quan niệm Thiên Chúa này hay Thiên Chúa kia là duy nhất, là toàn năng, là lòng lành vô cùng v..v.. là một quan niệm đã lỗi thời. Để thấy rõ vấn đề hơn, có lẽ chúng ta cũng nên biết quan niệm về Thiên Chúa quyền phép vô cùng từ đâu mà ra.
Chúng ta hãy đi ngược trở lại thời tiền sử. Khi đó con người cảm thấy yếu đuối và sợ hãi trước thiên nhiên, từ những cơn bão tố sấm sét, những cuộc động đất, lụt lội, những kỳ núi lửa phun ra nham thạch v..v.. những hiện tượng con người khi đó không thể giải thích vì chưa đủ trí tuệ để hiểu. Ngoài ra con người còn phải đối diện với trăm thứ bệnh tật, bất an trong cuộc đời. Cho nên, thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy con người thời đó nghĩ rằng, chắc những thiên tai, bệnh tật kể trên phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó nằm ngoài sự hiểu biết của họ, và họ đã qui mọi hiện tượng thiên nhiên cho hoạt động của những bậc siêu nhiên mà họ gọi là Thần (Gods) (Người Ki Tô giáo gọi Thần của họ (Christian God) là Thượng Đế hay Thiên Chúa). Thí dụ, sét được coi như là những lưỡi gươm của Thiên Chúa giáng xuống nhân loại, sấm được coi như là tiếng nói trong cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, những bệnh dịch tả, dịch hạch, vì có tính truyền nhiễm nên làm chết hại nhiều ngàn người vì chưa có thuốc phòng ngừa hay chữa chạy, cũng được coi như là họa của Thiên Chúa giáng xuống đầu con người để trừng phạt con người vì tội đã làm phật ý Thiên Chúa. Nhưng con người lại không chịu dậm chân tại chỗ, cho nên ngày nay, chúng ta đã hiểu, và hiểu rất rõ, bệnh tật từ đâu mà ra, tại sao có sấm, sét, và tiên đoán được khi nào có sấm, sét và có ở đâu v...v... Do đó, những quan niệm thuộc loại mê tín như Thiên Chúa có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại là những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với những thực tế ở ngoài đời. Ngày nay, khi trời sấm sét, chó và mèo còn cúp đuôi chạy trốn, nhưng con người thì bình thản ngồi viết bài chống mê tín dị đoan, chống những chuyện hoang đường phản khoa học, phi lý trí.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao ngày nay vẫn còn nhiều người tin vào một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí? Phật Giáo đã nhìn thấy rõ vấn đề này. Đức Phật đã thấy rõ chúng sinh thì vô lượng, nhưng căn trí thì bất đồng. Bởi vậy giáo lý của người là để khai sáng, chuyển hóa con người chứ không chống đối bất cứ niềm tin nào của con người. Vì căn trí bất đồng nên có người theo được con đường Bi, Trí, Dũng của Phật Giáo, tự mình bước đi những bước chân vững chãi trên con đường giải thoát, mở mang trí tuệ, tự tu, tự chứng. Và cũng có những người hoặc do truyền thống tôn giáo, gia đình, hoặc từ khi sinh ra đã sống trong môi trường khép kín về trí tuệ, tư duy, nên được nhào nặn để dựa trên một cặp nạng Thần quyền lê lết tạm bợ trên trường đời, chốn chim muông cầm thú, chờ ngày về quê thật với ông Thánh David (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 73: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo)). Thật là tội nghiệp, những tín đồ Công giáo Việt Nam đầu óc mù mịt bị những ông linh mục xứ đầu óc cũng không hơn họ bao nhiêu, nhồi sọ từ nhỏ và chưa hề biết đến cuốn Thánh Kinh nên không biết rằng trong Thánh Kinh, David chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp, đến khi lên làm Vua thì hoang dâm vô độ, vô đạo đức, cướp vợ của thuộc hạ v..v… Người Do Thái tôn vinh David vì hắn có công với Do Thái chứ chẳng liên quan gì đến dân Việt Nam. Tín đồ Công giáo Việt Nam được bề trên dạy sao thì tụng vậy, chứ có biết gì về David và tại sao lại phải về quê thật với một tên Vua Do Thái vô đạo đức, xuất thân từ một tên tướng cướp.
Chúng ta cũng nên biết, nền Thần Học Ki Tô Giáo, để theo kịp sự tiến hóa của nhân loại, đã phải giải thích lại nhiều lần quan niệm về một Thiên Chúa. Nhưng ngày nay những giải thích này đều bị bác bỏ, vì nền Thần Học Ki Tô Giáo đặt tiền đề trên sự hiện hữu của một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, toàn thiện rồi dùng lý luận thần học để thuyết phục con người là một Thiên Chúa với những thuộc tính như vậy hiện hữu. Nhưng nền thần học Ki Tô Giáo không thể thuyết phục được những người có đầu óc trong thời đại này vì nó chứa rất nhiều mâu thuẫn và phi lý. Nó chỉ còn hợp với những người mà đầu óc so với đầu óc của những người cách đây trên 2000 năm cũng chưa tiến bộ được bao nhiêu. Thật vậy, chúng ta đều biết đến lời phát biểu của vật lý gia nổi tiếng nhất thế kỷ 20 là Albert Einstein như sau:
Tôi không thể quan niệm được một Thiên Chúa thưởng phạt những tạo vật của mình.. Ý tưởng về một đấng can thiệp vào những sự việc xảy ra trong thế gian thì tuyệt đối không thể nào có.
(I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures.. The idea of a being who interferes with the sequences of events in the world is absolutely impossible.)
Nhận định sau đây của James A. Haught trong cuốn 2000 years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt, trang 324, có thể cho chúng ta thấy rõ vấn đề hơn:
Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thiên Chúa ở trên trời với lòng thương yêu nhất mực không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ.
(Through logic, you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doens't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDS, Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He mandated foxes to rip rabbits apart and cheetahs ro slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.)
Chúng ta hãy tự đặt một câu hỏi, trong thời đại này, chúng ta còn có thể tin được luận điệu thần học Ki Tô Giáo cho rằng, chỉ vì Adam và Eve cưỡng lời Thiên Chúa ăn một trái trên cây hiểu biết để có trí tuệ bằng Thiên Chúa nên cả nhân loại đều bị Thiên Chúa đày đọa? Điều hiển nhiên là trí tuệ loài người ngày nay đã vượt xa về hiểu biết cũng như về đạo đức của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Hơn nữa, người Việt Nam chúng ta có câu "Con hơn cha là nhà có phúc", nếu không như vậy thì thế giới làm gì có tiến bộ? Nếu cứ như ý định của Thiên Chúa thì loài người sẽ triền miên sống trong sự tối tăm, trí tuệ và đạo đức thấp kém. Bởi vậy, nếu chúng ta đọc những cuốn sách viết về cuộc chiến giữa khoa học và nền thần học Ki Tô Giáo trong hơn một thế kỷ nay thì chúng ta sẽ thấy nền thần học Ki Tô Giáo đã không còn chỗ đứng trong giới trí thức, ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, khoan kể đến tuyệt đại đa số các khoa học gia. Ngoài ra, nếu chúng ta đọc những cuốn nghiên cứu phê bình Thiên Chúa điển hình như cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo; hoặc cuốn Thiên Chúa là Cái Gì? (What is God?), biên tập bởi Kenneth G. Lucey, trong đó có những bài khảo luận của Richard R. La Croix, thì chúng ta sẽ thấy mọi lý luận thần học về sự hiện hữu của một Thiên Chúa với những thuộc tính toàn năng, toàn trí, toàn thiện, thí dụ như của Thomas Aquinas, Augustine, Descartes v..v.. đều đã bị bác bỏ dứt khoát. Thật vậy, trong phần Tựa của cuốn Critiques of God, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:
Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ niềm tin chắc đại cương nào về Thiên Chúa cũng đang trỏ thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (không đực không cái). Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới.
(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture. Any general serious belief in God is fading in our culture. God has lost his spatial location as a monarch in heaven. He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo. It is not God is being relegated to a remote region. It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It). It is te realization that there is no God to which to relate.)
Sau đây là một đoạn trong phần Dẫn Nhập trong cuốn A History of God của nữ tu Công giáo Karen Armstrong:
Thiên Chúa là một khuôn mặt khá mù mờ, được định nghĩa trong những trừu tượng trí thức thay vì những hình ảnh rõ ràng. Khi tôi mới lên chừng 8 tuổi, tôi phải nhớ câu trả lời theo giáo lý của câu hỏi, "Thiên Chúa là cái gì?: "Thiên Chúa là Thần Linh cao nhất, tự hiện hữu và vô cùng hoàn hảo trên mọi phương diện." Không lạ gì, lời giải thích trên chẳng có mấy ý nghĩa đối với tôi, và tôi phải nói rằng ngày nay định nghĩa trên cũng chẳng có gì hấp dẫn. Đó vẫn là một định nghĩa đơn thuần khô khan, huênh hoang, và kiêu căng. Tuy nhiên, từ khi tôi viết cuốn sách này, nay tôi đã tin rằng định nghĩa trên cũng còn sai lầm nữa.
(God…was a somewhat shadowy figure, defined in intellectual abstractions rather than images. When I was about eight years old, I had to memorize this catechism answer to the question, "What is God?": "God is the Supreme Spirit, Who alone exists of Himself and is infinite in all perfections." Not surprisingly, it meant little to me, and I am bound to say that it still leaves me cold. It has always seemed a singularly arid, pompous and arrogant definition. Since writng this book, however, I have come to believe that it is also incorrect.)
Và trong cuốn Sự Vô Tận Ở Trong Lòng Bàn Tay (L'infini Dans La Paume de la Main) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận (tôi sẽ trở lại 2 tác giả này trong đoạn kết), trang 51, Matthieu Ricard đưa ra nhận định:
Mọi tôn giáo (thần giáo) và mọi triết thuyết đều thất bại trên vấn đề sáng tạo...Khoa học đã loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về Thiên Chúa Sáng Tạo mà khoa học không cần đến và Phật Giáo cũng vậy, loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về một sự bắt đầu.
(Toutes les religions et les philosophies ont buté sur ce problème de la création. La science s'en est débarrassée en éliminant la notion de dieu créateur dont elle n'a pas besoin et le bouddhisme en éliminant la notion même d'un début.)
Như vậy, 25 thế kỷ sau thời Phật tại thế, con người mới dần dần đi đến sự nhận thức là chẳng làm gì có Thiên Chúa toàn năng toàn trí, sáng tạo ra muôn loài và có quyền thưởng phạt con người. Đức Phật đã nhận thức được như vậy, do đó Phật Giáo, từ hơn 2500 năm nay, là tôn giáo không chấp nhận thuyết sáng tạo cũng như thần quyền thưởng phạt hoang đường. Quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là vô thỉ vô chung. Đức Phật cũng đã thấy rõ sự vận hành của thuyết Tiến Hóa. Người đã biết chúng sinh căn tính bất đồng cho nên Người đã đưa ra nhiều Pháp môn để dẫn dắt con người, tùy theo căn trí, tiến tới giác ngộ. Chúng ta thường nhắc đến con số 84000 Pháp môn, tượng trưng cho một con số lớn. Người đời thường cho Đức Phật là một vị lương y giỏi, tùy bệnh mà cho thuốc. Không có gì hoang đường và phản khoa học bằng quan niệm chỉ cần có một phương thuốc, bất kể nó tên là gì, "Đức Tin" hay "Cứu rỗi", là có thể chữa được mọi căn bệnh của chúng sinh với căn tính bất đồng.
3. Vấn đề truyền thống.
Truyền thống, nói một cách đại cương, là những gì thuộc trí tuệ, kinh nghiệm, nếp sống v..v.. mà con người trong một xã hội, một nền văn hóa, truyền lại từ đời này sang đời khác. Qua thời gian, do sự mở mang trí tuệ, do những sáng kiến mới của con người, truyền thống có thể thay đổi, cải tiến, để phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. Tuy nhiên, trong các thần giáo, truyền thống lại thường là những giây xích buộc chặt con người trong vòng "quên mình trong vâng phục" và do đó, thường có tác dụng ngăn chận sự tiến bộ của con người.
Truyền thống trong Công Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The Pope's Catechism, p.80):
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Công giáo dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh.
Vì Truyền Thống Công giáo (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải.
(A Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not.
Because Catholic Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Bởi vậy mà khi giáo hội Công giáo dạy Đức Mẹ, sau khi sinh nở ít nhất là 7 lần, vẫn còn đồng trinh, hay Đức Mẹ cả hồn lẫn xác bay lên trời, hay giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nắm trong tay chìa khóa mở cửa thiên đường, không thể sai lầm v..v..thì giáo dân cũng bắt buộc phải tin, dù những điều này không hề có trong Thánh Kinh. Và, khi vào Việt Nam, giáo hội bắt giáo dân phải dẹp bàn thờ ông bà, tổ tiên trong hơn 400 năm, thì giáo dân cũng phải tin theo và làm đúng như vậy. Sau Công Đồng Vatican II, giáo hội "cho phép" thờ cúng tổ tiên để nhặt thêm tín đồ thì giáo dân cũng lác đác tin theo, vì vẫn có ông linh mục cho rằng cúng giỗ là "làm chay cúng ruồi".
Truyền thống trong Tin Lành là phải tuyệt đối tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su (Justification by Faith). (Xin đọc Rubem Alves, Protestantism and Repression, p. 34)
Truyền thống trong Ấn Độ Giáo là phải tôn trọng sự phân chia giai cấp.
Truyền thống trong Hồi Giáo thì tôi xin miễn bàn.
Đức Phật đã thấy trước sự tai hại của các truyền thống tôn giáo như trên nên Người đã đưa ra một giáo lý trong đó không có truyền thống. Chúng ta hãy đọc "Kinh Nền Tảng Đức Tin" của Phật Giáo, thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99):
...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về 10 nền tảng của đức tin chân chánh:
Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo.
Với Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là đạo của trí tuệ quả nhiên không sai. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà theo tôi, tuyệt vời nhất trong mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ của con người đúng nghĩa là một con người. Nếu con người từ bỏ thân phận làm người của mình để "cúi đầu trong vâng phục", "bảo sao nghe vậy", "chỉ đâu đi dó", "tin mà không cần biết, không cần hiểu", thì thực chất không khác gì một con cừu, rút cuộc cũng chỉ bị đưa vào lò sát sinh mà thôi.
Kinh Nền Tảng Đức Tin của Phật Giáo đã mở một chân trời mới cho người Tây phương. Bắt đầu từ đây, người Tây phương đã có thể, theo như Mục sư Harry Willson, tháo gỡ những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, cất đi gánh nặng Thượng đế trên vai họ, để được hít thở bầu không khí trong sạch. Và cũng từ đây, tâm thức Tây phương đã mở để đón nhận một luồng gió tư tưởng mới từ Đông phương thổi tới. Luồng gió này chính là các tư tưởng từ bi hỉ xả, vị tha, nhân bản, rộng rãi, khoan dung, tiến bộ, và phù hợp với các suy lý khoa học của Phật Giáo.
Đến đây chúng ta đã hiểu tại sao trong quá trình truyền đạo của Phật Giáo không hề có một giọt máu đổ. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo không thể nào có những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc xâm lăng để cưỡng bách người ngoại đạo phải theo đạo, những vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trong lịch sử loài người. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo không bao giờ có thể có được chế độ giáo hoàng, chế độ của các giáo sĩ Hồi giáo, Rabbi Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn, hay quyền lực của Kinh điển.
Như trên đã nói, Phật Giáo dứt khoát phá đổ chế độ giai cấp trong các Thần Giáo, chế độ xây dựng trên niềm hoang tưởng, cho rằng giáo sĩ là giai cấp ở trên, thông thái, độc quyền diễn giải Kinh điển và do đó là giai cấp ngự trị, các tín đồ ở dưới chỉ có quyền vâng phục. Thật vậy, trong Kinh Duy Ma, Cư sĩ Duy Ma Cật là bậc có trí tuệ vượt hơn nhiều đệ tử xuất gia của Phật, và trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử đi cầu đạo đã gặp 53 vị Thiện-Tri-Thức, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, và được dạy cho 53 Pháp môn tiến tới giải thoát khác nhau. Ngày nay, có nhiều dấu hiệu cho thấy các Thần giáo cũng đang dần dần chuyển hóa đến tinh thần dân chủ trong Phật Giáo.
4. Vấn đề Huyền Bí và Siêu Nhiên.
Trong các Thần Giáo bao giờ chúng ta cũng thấy không ít thì nhiều những sắc thái thuộc loại huyền bí hay huyền nhiệm, nghĩa là những điều không thể giải thích được mà tín đồ chỉ có việc tin, không cần biết, không cần hiểu. 7 bí tích trong Công Giáo Rô-ma và 2 bí tích trong Tin Lành thuộc loại này. Ngoài ra còn những phép lạ hay tác dụng lạ lùng của những thánh tích, phần lớn là ngụy tạo, cũng thuộc loại này. Huston Smith, giáo sư triết tại đại học nổi tiếng MIT, đã đưa ra một nhận định sâu sắc trong cuốn The Religions of Man, trang 104, về tác dụng của những sự huyền bí trong tôn giáo. Giáo sư Smith cho rằng những cái gọi là huyền nhiệm và phép lạ đã biến tôn giáo trở thành "một kỹ thuật để phỉnh phờ hay ép buộc vô số những đứa trẻ ít hiểu biết trong vũ trụ làm những điều mà người ta muốn chúng làm" (a technique for cajoling or coercing innumerable cosmic bellhops to do what you wanted them to).
Chúng ta đều biết rằng Phật Giáo không coi trọng những chuyện huyền bí và siêu nhiên. Có 2 câu chuyện thú vị trong Phật Giáo chứng tỏ điều này. Câu chuyện thứ nhất là có một đệ tử trổ tài đi trên nước qua sông, cũng như gần 600 năm sau Chúa Giê-su trổ tài đi vài bước trên nước, hay Thánh Francois de Salle đi trên sóng. Đức Phật chỉ nhẹ nhàng nói: "Thật là tội nghiệp cho ngươi quá, mất công tập luyện nhiều năm chỉ để làm như vậy. Ta chỉ cần bỏ ra vài đồng tiền là ông lái đò có thể chở ta qua sông." Chuyện thứ hai là có một đệ tử trổ tài nhào lộn trên cây, Đức Phật bèn quở trách đệ tử đó. Trong cả hai chuyện, Đức Phật đã cho rằng những hành động siêu nhiên chẳng nói lên được điều gì, chẳng chứng tỏ được gì, và cũng chẳng có ích lợi gì cho việc tu tập trên con đường giải thoát, nhiều nhất chỉ là để mê hoặc những người trí tuệ thấp kém.
Giới giáo sĩ trong các Thần giáo thường dạy các tín đồ là kinh điển trong tôn giáo của họ chứa những điều huyền nhiệm mà chỉ có họ là hiểu được, và chỉ có họ là có thể diễn giảng đúng tinh thần của kinh điển. Và, để giữ độc quyền này, họ không muốn cho tín đồ tự mình đọc những kinh điển, sợ rằng tín đồ sẽ hiểu sai. Điều này rõ ràng nhất trong Công giáo Rô-ma. Lịch sử Công giáo cho biết, giáo hội cấm không cho dịch Thánh Kinh từ tiếng La-Tinh ra tiếng địa phương, và cấm luôn cả tín đồ không được tự mình đọc Thánh Kinh. Vi phạm điều này có thể bị tuyệt thông, hoặc tịch thu tài sản, hoặc bị xử tử. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ cho rằng Giáo hội sợ tín đồ nhận ra những điều sai lầm và mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
Phật Giáo trái hẳn lại. Đức Phật đã khuyên các đệ tử nên dùng ngôn ngữ, văn tự địa phương để truyền bá đạo Phật. Đi đến đâu, Kinh điển Phật Giáo cũng đều được dịch ra tiếng địa phương. Điển hình là ở Trung Hoa, Nhật Bản v..v.., ngay từ những thế kỷ đầu của thời đại này, các kinh điển Phật Giáo đã được dịch ra tiếng địa phương. Ở Âu Châu, đến thế kỷ 16, Martin Luther mới theo gót tinh thần khai phóng và dân chủ của Phật Giáo, chống lại chế độ giáo hoàng toàn trị của Công giáo và bắt đầu dịch Thánh Kinh sang tiếng Đức. Và từ đó, Ki-Tô giáo mới có những cuốn Thánh Kinh bằng tiếng địa phương, và cũng từ đó mà Ki Tô Giáo bắt đầu suy thoái vì đầu óc tiến bộ của con người không còn có thể chấp nhận những chuyện hoang đường ở trong Thánh Kinh không còn phù hợp với sự hiểu biết của nhân loại ngày nay.
Vài Lời Kết.
Viết bài này, tôi chỉ có mục đích duy nhất là trình bày cùng quý độc giả sự kiện là về các lãnh vực khoa học, tôn giáo và xã hội, nhiều tư tưởng Phật Giáo đã đi trước nhân loại khá xa. Bài viết này không có mục đích chống đối niềm tin của bất cứ ai trong bất cứ tôn giáo nào. Hiểu rõ là chúng sinh thì căn trí bất đồng nên tôi không có lý do gì để chống niềm tin của người khác mà tôi cho đó là quyền tuyệt đối của con người. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, trong thời đại này, chúng ta không thể tự cho phép quay trở về thời Trung Cổ, làm ngơ trước những tiến bộ tư tưởng của con người. Cho nên bài viết này chẳng qua chỉ là trình bày phần nào một khía cạnh tiến hóa của tư duy nhân loại, dựa trên những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy của những bậc thức giả trong mọi tôn giáo và trong khoa học.
Thay vì có vài lời kết luận, tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả một cuốn sách có giá trị cao, đó là cuốn Sự Vô Tận Nằm Trong Lòng Bàn Tay: Từ Big Bang đến sự Tỉnh Thức (L'Infini Dans La Paume De La Main: Du Big Bang à L'Éveil) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, xuất bản năm 2000 tại Pháp. Cuốn sách này nay đã được dịch sang tiếng Anh với tên: Một Cuộc Hành Trình Tới Những Tận Cùng Kiến Thức Ở Đó Khoa Học và Phật Giáo Gặp Nhau: Nguyên Lượng và Hoa Sen (A Journey To The Frontiers Where Science and Buddhism Meet: The Quantum and the Lotus) với đôi chút thay đổi trong bố cục và văn tự, xuất bản tại Mỹ năm 2001. Tuy nhiên, tôi phải nói ngay rằng, giá trị của cuốn sách này tùy thuộc trình độ hiểu biết của người đọc trong cả hai lãnh vực: khoa học và tôn giáo, nhất là Phật Giáo. Matthieu Ricard là đồng tác giả với ông bố Jean-Francois Revel trong cuốn sách nổi tiếng Le Moine et le Philosophe xuất bản năm 1998 ở Pháp. Cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Việt: Tăng Sĩ và Triết Gia, và sang tiếng Anh: The Monk and the Philosopher. Matthieu là một khoa học gia trở thành một tăng sĩ Phật Giáo. Còn Trịnh Xuân Thuận, sinh trưởng trong một gia đình Phật Giáo, là giáo sư khoa học nghiên cứu các thiên thể (thiên văn học) , đại học Virginia. Nội dung cuốn L'Infini Dans La Paume de la Main là những trao đổi ý kiến giữa Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận về khoa học Tây phương và triết lý Phật Giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cho rằng cuốn sách này là một đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết rõ hơn bản chất thật của thế giới của chúng ta và đạo chúng ta sống trong đó.
Trong phần kết luận, khoa học gia Trịnh Xuân Thuận cho chúng ta biết rằng, tuy đã biết và đánh giá cao khía cạnh thực hành của Phật Giáo, giáo sư Thuận không tin rằng có thể có sự đối chiếu giữa khoa học và Phật Giáo, vì con đường thực nghiệm của khoa học và con đường quán chiếu nội tâm của Phật Giáo hoàn toàn khác nhau, cho nên Phật Giáo chẳng có gì mấy để nói về thế giới các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu của khoa học. (Je n'étais donc pas du tout sur qu'une démarche consistant à confronter la science et le bouddhisme puisse avoir un sens. Je redoutais que le bouddhisme n'ait que peu à dire sur la nature du monde phénoménal, car ce n'est pas sa préoccupation principale, alors que c'est fondamentalement celle de la science.)
Tuy nhiên, sau khi trao đổi ý kiến với Matthieu Ricard, giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thay đổi ý kiến và ông viết:
Trong cuộc trao đổi ý kiến của chúng tôi, tôi đã nhận ra rằng sự e ngại của tôi là vô căn cứ: không những Phật Giáo suy tư về bản chất của thế giới, mà còn suy tư một cách sâu sắc và đặc thù...
Điều chính mà tôi học được từ cuộc đối thoại này là, không còn nghi ngờ gì nữa, có một sự hội tụ và cộng hưởng giữa hai cách nhìn thực tại của Phật Giáo và của khoa học. Một vài khẳng định của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã đem đến một cách kỳ lạ những ý tưởng tiềm ẩn trong khoa học vật lý hiện đại, đặc biệt là hai lý thuyết vĩ đại, cột trụ của vật lý hiện đại: cơ học nguyên lượng - khoa vật lý về những vật vô cùng nhỏ - (nguyên tử và các hạt tiềm nguyên tử như điện tử, quark v..v.. TCN) và thuyết tương đối - khoa vật lý về những vật vô cùng lớn (vũ trụ học: sao, thiên hà v..v... TCN).
(À mesure que nos conversations se sont poursuivies, je me suis rendu compte que mes craintes n'étaient pas fondées: non seulement le bouddhisme a réfléchi sur la nature du monde, mais il l'a fait de facon profonde et original..
L'enseignement principal que j'en ai retiré est qu'il existe une convergence et une résonace certaines entre les deux visions, bouddhiste et scientifique, du réel. Certains énoncés du bouddhisme à propos du monde des phénomènes évoquent de manière étonante telles ou telles idées sous-jacentes de la physique moderne, en particulier des deux grandes théories qui en constituent les piliers: la mécanique quantique - physique de l'infiniment petit -, et la relativité - physique de l'infini grand.)
Tôi nghĩ, có lẽ chúng ta cũng không nên quên rằng, những tư tưởng và hiểu biết của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã có từ cách đây trên 25 thế kỷ, trong khi hai thuyết vĩ đại nhất trong vật lý hiện đại, thuyết nguyên lượng và thuyết tương đối, mới chỉ được trí tuệ Tây phương nghĩ ra trong thế kỷ 20.
Trên đây tôi đã trình bày những quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ nhân sinh, cùng những tư tưởng khai phóng của Phật Giáo về tôn giáo, xã hội và chứng minh là nhiều tư tưởng của Phật Giáo đã đi trước tôn giáo và khoa học Tây phương như thế nào. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi càng ngày thế giới, nhất là các xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ, càng nhận ra chân giá trị của Phật Giáo. Một câu hỏi được đặt ra: Làm sao mà những tư tưởng Phật Giáo lại có thể đi trước khoa học Tây phương khi mà Phật Giáo không hề có và không hề dùng đến những dụng cụ đo lường khoa học? Làm sao mà Phật Giáo lại có thể đi trước những Thần Giáo trong đó có cả tôn giáo được thần linh mạc khải? Thật khó mà có thể trả lời nếu chúng ta không tin rằng do Thiền và Quán Chiếu nên Đức Phật đã nắm được bản chất, sự vận hành của vạn pháp, nghĩa là đã đạt đến mức "Như thực tri kiến". Đây là cách nhìn sự vật của Đức Phật mà mọi giáo lý Phật Giáo đều hướng đến mục đích dẫn dắt chúng ta đạt đến. "Như thực tri kiến" cũng là mục đích tối hậu của khoa học. Điểm hội tụ của Phật Giáo và Khoa Học chính là ở điểm này. Tuy nhiên, Phật Giáo còn đi xa hơn nữa, vì trong Phật Giáo, "Như thực tri kiến" không không đủ, mà chúng ta còn phải có một tâm từ bi vô lượng. Không có tâm từ bi thì không có Phật Giáo. Không có tâm từ bi thì Đức Phật đã không để lại cho chúng ta một giáo lý vô thượng vô đẳng. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Từ bi trong Phật Giáo tuyệt đối không có nghĩa là nếu người ta tát má này thì đưa má kia cho người ta tát thêm. Phật Giáo không có dạy chúng ta áp dụng từ bi để dung dưỡng bất công và bạo hành. Từ bi cũng không có nghĩa là hiểu sai "ái ngữ", nói lên những lời giả dối, sai sự thật, ve vuốt người khác với ảo tưởng là có thể gây sự hòa hợp một chiều. Một trong 5 giới căn bản của một Phật tử là không được nói sai sự thật. Đức Phật, sau khi giác ngộ, chẳng làm gì hơn là nói lên những sự thật liên hệ đến con người ngay trong đời sống này, giúp cho con người thấy được sự vật như chúng là như vậy, từ đó sẽ thoát khổ. Đây chính là cho vui và cứu khổ.
Viết bài này, tôi cũng không làm điều gì khác hơn là, trong phạm vi hiểu biết của tôi, cố gắng trình bày những điều mà tôi đã để tâm nghiên cứu và tin rằng ít ra chúng cũng không xa sự thật là bao.
--------------------------------------------------------------------------------
Source : Trang Trần Chung Ngọc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)