31/5/13

Huy Đức - Cờ đỏ, cờ vàng và hòa giải

Cuộc tranh giành màu cờ tại Fullerton trở nên kịch tính trong năm 2004 khi nhóm sinh viên gốc Việt tuyên bố không tham dự lễ ra trường nếu cờ đỏ sao vàng được sử dụng theo yêu cầu của các sinh viên đến từ Việt Nam. Trường Fullerton phải chọn giải pháp không treo cờ của nước nào trong lễ tốt nghiệp.
Phần lớn người Việt đến Mỹ phải lao động, học tập để vươn lên, họ không có nhiều thời gian để “care” (quan tâm) đến chính trị Việt Nam. Tháng 7-1995, khi Hà Nội và Washington thiết lập bang giao, cờ đỏ sao vàng chính thức được kéo lên trên đất Mỹ. Thật dễ hiểu khi những người Việt vượt biển trên những chiếc thuyền con, những người Việt đã nằm 15 năm, 17 năm trong các trại cải tạo, từ chối đứng dưới cờ đỏ sao vàng.
Nhưng phản ứng chỉ bắt đầu quyết liệt vào năm năm 1999, khi một người đàn ông sống tại Little Sai Gon, tên là Trần Văn Trường, cho treo trước cửa tiệm ảnh Hồ Chí Minh cùng cờ đỏ sao vàng. Cộng đồng người Việt đã biểu tình liên tục trong suốt 53 ngày để phản đối. Từ California,”chiến dịch Cờ Vàng” bắt đầu, dẫn đến việc 14 tiểu bang, gần 100 thành phố công nhận cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng của cộng đồng gốc Việt.
Cờ vàng không chỉ xuất hiện ở Mỹ.
Từ giữa thập niên 1990, nhiều nhà lãnh đạo của Hà Nội phản ứng gay gắt khi trong các chuyến công du thấy “quần chúng đón rước” không dùng cờ đỏ sao vàng mà chỉ dùng cờ vàng ba sọc đỏ. Không phải quan chức Việt Nam nào cũng hiểu chính quyền sở tại không (dại gì) đứng sau những nhóm quần chúng tự phát đó. Cho tới năm 2004, các nhà ngoại giao Việt Nam ở Mỹ vẫn mất rất nhiều công sức để ngăn chặn chính quyền các tiểu bang công nhận cờ vàng.
Việc chính quyền tiểu bang công nhận cờ vàng chỉ là một động thái đối nội. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa rõ ràng không còn tồn tại, chính quyền Mỹ bang giao với nhà nước CHXHCN Việt Nam và công nhận cờ đỏ sao vàng. Nhưng, chính quyền Mỹ không thể ngăn cản cộng đồng người Mỹ gốc Việt chọn cho mình biểu tượng.
Một quan chức Việt Nam và thậm chí một thường dân đang cầm hộ chiếu nước CHXHCN Việt Nam, trong một nghi lễ chính thức, có quyền chỉ đứng dưới cờ đỏ sao vàng. Nhưng, một quan chức đi làm “kiều vận” mà không dám bước vào một ngôi nhà có treo cờ vàng thì sẽ không thể nào bước vào cộng đồng người Việt. Tất nhiên, bất cứ thành công nào cũng cần nỗ lực từ nhiều phía.
Năm 2006, tôi gặp lại cô bạn phóng viên Tuổi Trẻ từng học ở Fullerton. Nhà cô vào giờ đó thay vì treo cờ đỏ sao vàng, góc nào cũng tràn ngập cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi chưa kịp tìm hiểu đó là sự lựa chọn mới của cô hay đó là cách để có thể hòa nhập vào “cộng đồng”.
Năm 2008, “cộng đồng người Việt Cali” đã biểu tình kéo dài khi người phụ trách tòa soạn tờ Người Việt, Vũ Quý Hạo Nhiên, cho in tấm hình chụp một cái bồn ngâm chân có in biểu tượng cờ vàng. Hạo Nhiên, thêm sự cố 2012, đã phải ra đi và biết chắc khó lòng quay trở lại. Biểu tình năm 1999, cho dù là “ôn hòa”, cũng đã khiến cho Trần Văn Trường phải chạy về Việt Nam.
Cờ đỏ sao vàng khó có thể xuất hiện ở Californiacho dù ở đó có xuất hiện một cộng đồng người Việt đến từ miền Bắc.
Nếu như nhiều người dân miền Nam trước đây tin cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của tự do thì đối với phần lớn người dân miền Bắc và thế hệ trẻ hiện nay ở miền Nam, cờ đỏ sao vàng không hẳn là biểu tượng của chế độ mà là biểu tượng quốc gia. Nhiều người đã đứng dưới lá cờ ấy để đấu tranh cho điều mà họ tin là độc lập, tự do; nhiều người đã theo lá cờ ấy mà không phải là cộngsản.
Nhiều người dân trong nước vẫn dùng cờ đỏ khi bày tỏ lòng yêu nước.
Tất nhiên cũng cần phân biệt hành động của một số kẻ cực đoan (chống lại cờ đỏ sao vàng) với hành vi của những quan chức chính quyền. Ngăn cản những du học sinh đến từ Việt Nam sử dụng cờ đỏ sao vàng cũng là một việc làm phi dân chủ. Những người hiểu được các giá trị của tự do không thể ngăn cản người khác đứng dưới một lá cờ mà mình không thích.
Nhiều người Mỹ vẫn treo cờ miền Nam cho tới ngày nay cho dù nội chiến Bắc – Nam đã kết thúc từ năm 1865. Thật khó để nghĩ tới tình huống người dân miền Nam Việt Nam được phép treo cờ vàng sau ngày 30-4-1975. Cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm không chỉ thống nhất non sông mà còn để áp đặt ý thức hệ cộng sản lên người dân Việt. Một thời, phải “yêu chủnghĩa xã hội” mới được Đảng công nhận là yêu nước. Ngay lá cờ nửa đỏ nửa xanh của “mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam” một tổ chức do Đảng cộng sản lập ra cũng đã biến mất chỉ sau mấy tháng.
Nhiều người Việt Nam nghĩ, làm biến mất lá cờ vàng ba sọc đỏ là khôn ngoan. Nhiều người cho rằng lá cờ đó thuộc về một chính thể không còn tồn tại và là biểu tượng của một sự thất bại. Nhiều người được dạy, lá cờ đó gắn liền với những xấu xa như là “Việt gian, bán nước”.
Cuối năm 2012, sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị bắt khi rải truyền đơn ở Long An có kèm theo biểu tượng cờ vàng.
Chúng ta không có đủ thông tin để khẳng định Phương Uyên và Nguyên Kha chủ động chọn lá cờ này hay được hướng dẫn “bởi các thế lực bên ngoài”. Cho dù lá cờ ấy đến từ bên nào cũng cho thấy cờ vàng đã không biến mất như nhiều người mong muốn. Cho dù không ai biết được lá cờ nào sẽ được chọn trong tương lai, sự trở lại của cờ vàng buộc chúng ta phải thừa nhận, trong nội bộ người Việt với nhau còn bao gồm cả người Việt Nam quốc gia và người Việt Nam cộng sản.
Và, trong không gian nước Việt cũng không chỉ có người Việt.
Chín mươi triệu người dân Việt Nam rõ ràng không phải là “con một cha, nhà một nóc”. Khi “mở cõi” xuống phía Nam, các bậc tiền bối đã từng mang cuốc nhưng cũng đã từng mang gươm.
Người dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên và những bộ tộc Chăm chưa hẳn không còn nghĩ tới đế chế Champa. Những chính khách đối lập ở Campuchia vẫn thường khai thác chủ nghĩa dân tộc cực đoan khi nhắc Sài Gòn và một số tỉnh miền Tây một thời là đất đai của họ…
Sự khác biệt đó trong cộng đồng Việt Nam có thể là những mối đe dọa, đồng thời, cũng là nền móng để xây xựng một Việt Nam thống nhất mà đa dạng. Một quốc gia sẽ trở nên vững mạnh khi sự đa dạng được thừa nhận. Một quốc gia cũng có thể rơi vào sự hỗn loạn hoặc không thể phát triển nếu sự thống nhất bị phá vỡ.
Nhưng, thống nhất quốc gia mà không dựa trên nền tảng hòa giải quốc gia thì sự thống nhất đó chỉ là tạm thời. Thống nhất quốc gia mà bằng cách ém nhẹm lịch sử và dùng vũ lực để dập tắt sự trỗi dậy của những sự khác biệt thì chẳng khác nào gài vào thế hệ tương lai một trái bom.
Nam Tư thời Tito được coi là thịnh trị, các cuộc nổi dậy đều bị dập tắt. Nhưng, ngay những ngày đầu thời hậu Tito, nước Nam Tư bắt đầu rơi vào một thập niên xung đột. Các sắc tộc chém giết lẫn nhau, cơ cấu liên bang sụp đổ. Không chỉ có Nam Tư, Indonesia hồi thập niên 1990 và Myanmar hiện nay cũng đang diễn ra những điều tương tự.
Đừng sợ những người Khmer ở miền Tây sẽ đòi mang đất về Campuchia trừ khi về phát triển và tự do, dân chủ, Việt Nam kém quá nhiều so với Campuchia. Không có người dân Arizona nào không biết đất ấy từng thuộc về Mexico nhưng không ai đòi đưa Arizona trả về cho “đất mẹ”. Ranh giới quốc gia càng ngày càng trở nên mong manh. Ở đâu có cơm no áo ấm hơn, ở đâu có tự do hơn, thì người dân sẽ chọn.
Sự khác biệt và đa dạng lúc nào cũng có thể bị kích động bởi các thế lực cực đoan. Không phải độc tài, toàn trị mà theo kinh nghiệm của những quốc gia thành công, càng nhiều tự do thì càng tránh cho sự khác biệt đó trở thành xung đột.
Tiến trình tự do cũng phải mất thời gian để thuyết phục không chỉ với những người đang cầm quyền mà cả những người dân bình thường và những thành viên trên facebook này. Trong ngày 30-4, có thể nhiều người không muốn treo cờ đỏ sao vàng (khi bị tổ dân phố yêu cầu) nhưng chính họ, chưa chắc đã hài lòng khi nhà hàng xóm treo cờ vàng ba sọc đỏ. Vấn đề là chính quyền phải làm sao để mọi phản ứng đều phải ở dưới hình thức ôn hòa.
Câu chuyện đốt cờ Mỹ sau đây có thể giúp ta có thêm thời gian suy nghĩ.
Nhiều thập niên sau nội chiến (1861-1865) nhiều người Mỹ lo ngại giá trị quốc kỳ bị giảm khi nó được các thương gia dùng để vẽ logo và đặc biệt khi nhiều người da trắng ở miền Nam thích treo cờ miền Nam (Confederate flag) hơn. Để phản ứng lại điều này, 48 tiểu bang của Hoa Kỳ đã thông qua luật cấm mạo phạm quốc kỳ, các hành động như xé, đốt, dùng cờ để quảng cáo… đều bị cấm.
Năm1905, Halter đã bị tòa tiểu bang buộc tội “khi kỳ” khi bán những chai bia có in cờ Mỹ. Năm 1907, Halter tiếp tục thua kiện ở Tối cao pháp viện.
Cho tới năm 1968, Quốc hội Mỹ vẫn thông qua luật cấm “đụng chạm” tới quốc kỳ sau khi một nhóm người Mỹ chống chiến tranh Việt Nam đốt cờ ở Central Park. Nhưng một năm sau đó, khi nghe tin cảnh sát bắn James Meredith, một nhà hoạt động dân quyền, Sydney Street đã đốt một lá cờ Mỹ ở một ngã tư của New York. Ông bị bắt và bị buộc tội “khi kỳ”.
Sydney Street kháng án vì cho rằng: “Nếu cảnh sát làm điều đó với Maredith chúng ta không cần lá cờ Mỹ”. Tối cao pháp viện đã bác án của tòa New York vì, Hiến pháp bảo vệ quyền bày tỏ chính kiến khác nhau, bao gồm cả quyền thách thức hay khinh thường quốc kỳ.
Cuộc đấu tranh đã không dừng lại.
Năm 1972, một học sinh ở Massachusetts, Goquen, bị bắt, bị xử 6 tháng tù khi may một cờ Mỹ ở đít quần. Nội vụ được chuyển lên Tối cao pháp viện. Tối cao pháp viện tuyên bố luật tiểu bang (dùng để xử Goquen) là vi hiến. Các vị thẩm phán Tối cao cho rằng, trong một quốc gia đa văn hóa, có những hành động mà người này cho là “khinh ” thì người kia lại cho là trân trọng, cho nên, chính phủ không có quyền bảo người dân phải bày tỏ thái độ, ý kiến theo cách nào.
Năm 1984, để phản đối các chính sách của Tổng thống Reagan, Lee Johnson đã nhúng dầu và đốt một lá cờ trước cửa cung đại hội của đảng Cộng hòa. Ông bị bắt, bị xử tù 1 năm và phải nộp phạt 2000 dollars. Tòa tối cao tiểu bang Texas bảo vệ Johnson và cho rằng tòa án cấp dưới sai khi coi hành vi “gây xáo trộn xã hội” của Johnson là “tội”. Theo Tòa tối cao Texas: Tạo ra sự bất ổn, tạo ra sự xáo trộn, thậm chí tạo ra sự giận dữ của người dân là cần thiết, vì chỉ khi đó chính phủ mới biết rõ nhất chính kiến người dân.
Vụ việc dẫn tới, năm1989, Tối cao pháp viện Mỹ quyết định bãi bỏ các luật cấm đốt cờ ở 48 tiểu bang. Các quan tòa đưa ra phán quyết này giải thích rằng, nếu tự do bày tỏ chính kiến là có thật nó phải bao gồm cả tự do bày tỏ những ý kiến mà người khác không đồng ý, hoặc làm người khác khó chịu. Ngay cả thái độ với quốc kỳ, chính phủ cũng không có quyền bắt người dân chỉ được gửi đi những thông điệp ôn hòa và không làm cho ai khó chịu. Cuộc tranh cãi kéo dài tới nhiều năm sau, Quốc hội Mỹ có thêm 7 lần dự thảo tu chính án để chống lại phán quyết này nhưng đều thất bại.
Việc để cho người dân treo lá cờ cũ của phe bại trận miền Nam, việc để cho người dân quyền được bày tỏ thái độ, kể cả bằng cách đốt cờ, đã không làm cho giá trị quốc kỳ của Hoa Kỳ giảm xuống.
Những điều trên đây rõ ràng chưa thể xảy ra ở Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng không nên coi đấy là độc quyền của Mỹ. Người dân Việt Nam cũng xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Người dân Việt Nam, dù là Việt hay H’mong, dù là Khmer hay Chăm… cũng xứng đáng được gìn giữ và phát triển sự khác biệt của mình. Người Việt Nam, dù là cộng sản hay quốc gia, cũng xứng đáng có quyền bày tỏ những gì mà mình tin tưởng.
Không thể có tự do trong một chế độc tài toàn trị. Nhưng, tự do cũng không thể có nếu như mỗi người dân không tự nhận ra đó là quyền của mình. Bạn không thể hành động như một người tự do nếu không bắt đầu bằng tự do trong chính tư duy của bạn.
 
Huy Đức
 
Source : Blog Osin

26/5/13

Vẻ đẹp cơ thể phụ nữ qua tác phẩm của các danh họa


Theo REDS.VN

Link : http://reds.vn/


Dõi theo lịch sử ngành mỹ thuật, chúng ta có thể thấy vẻ đẹp cơ thể phụ nữ đã được hàng vạn họa sĩ khám phá, thể hiện ở hàng triệu họa phẩm ra mắt từ xưa tới nay, được thể hiện hết sức đa dạng, đặc biệt là phản ánh qua lăng kính của các thiên tài nghệ thuật.
Xin chọn lọc một số bức họa quý báu trong tài sản văn hóa của nhân loại từ giai đoạn Phục hưng đến nay để các bạn thưởng thức và thấy được vẻ đẹp người Phụ nữ đã được các danh họa thể hiện như thế nào.

La Primavera, Sandro Botticelli (1482)
The Birth of Venus, Sandro Botticelli (1485)
The Birth of Venus, Sandro Botticelli (1485)
1500
The Three Graces - Raphael (1504)
Leda the Swan, Leonardo da-Vinci (1510)
Allegory, Angelo Bronzino (1569)
1600

Poussin Triumph de Neptun, Nicolas Poussin (1610)
Danae, Artemisia Gentileschi (1612)
Danae, Orazio Gentileschi (1621)
Judgement of Paris, Peter Rubens (1623)
Three graces, Peter Rubens (1639)
Venus at her mirror, Diego de Velázquez (1651)
1700
Diana after the Hunt, Francois Boucher (1745)
Mademoiselle O'Murphy, Francois Boucher (1752)
The Sabine Women Enforcing Peace by Running between the Combatants, Jacques-Louis David (1794-1799)
1800
The Nude Maja, Francisco de Goya (1800)
La grande Odalisca - Jean-August Dominique Ingres (1814)
Venere Anadiomene - Jean-August Dominique Ingres (1848)
La Sorgente - Jean-August Dominique Ingres (1856)
Une Odalisque - Gervex Henri (1843)
La bagnante - Gustave Courbet (1845)
Apres le bain - Bouguereau (1875)
Sirens, Charles Edward Boutibonne (1883)
L'innocence - Felix Henri Giacomotti (1884)
La Brie du Printemps - William-Adolphe Bouguereau (1825-1905)
Le Printemps, William-Adolphe Bouguereau
The Abduction of Psyche, William-Adolphe Bouguereau
Young Girl Defending Herself against Eros, William-Adolphe Bouguereau (1880)
La Vague, William-Adolphe Bouguereau (1896)
The Bathers, Pierre Auguste Renoir (1887)
Nude, Pierre Auguste Renoir
1900
Danae, Carolus-Duran (1837 - 1917)
At Low Tide, Sir Edward John Poynter (1908)
D.D.5a, Sir Gerald Kelly (1924)
Movimento, , Bruno Di Maio
Untitled Nude Brunette, Bruno Di Maio

S.T

25/5/13

Ngày của Mẹ và những «hộp đựng nước mắt»


André Menras – Hồ Cương Quyết/ BVN

Phạm Toàn dịch
imagesDâng tặng các bà mẹ Tà Ru hôm qua hôm nay và ngày mai, và cũng thầm nghĩ trong lòng tới những bà mẹ Tà Ru ngư dân.
Vào Ngày của Mẹ hôm ấy, tôi đã mang tới bà những đóa hoa trắng nức hương. Bà ngồi không nhúc nhích trong chiếc ghế bành, đôi mắt thường ngày như đã tắt bỗng bừng cháy. Phải chăng vì hương hoa hồng? Bà mỉm cười với tôi, và cái miệng nhỏ tội nghiệp của bà cất tiếng: « – Con đó à… » Rồi ý nghĩ cùng ánh nhìn đã dịu đi lại đảo nhìn đâu đó lên trời, phía sau khung cửa sổ, tựa hồ như đuổi theo những đám mây. Trên khuôn mặt bà nhăn nheo, những đường hằn cái thì sâu cái thì mỏng. Những vết nhăn hằn rõ sau nhiều năm dài thấp thỏm không còn được gặp lại người con trai độc nhất? Những vết nhăn hiển nhiên là vô tình dâng hiến cho các bà mẹ Việt, cả những bà mẹ «anh hùng» hoặc «không anh hùng», san sẻ cùng các bà mẹ Việt cho dù bà không biết nước Việt ở nơi đâu? Chắc chắn là những vết hằn sâu nhất là những vết hằn đã được đem sẻ chia. Những vết hằn cắm rễ sâu trong con tim và không một ai không một duyên cớ gì có thể xóa nổi.
- Con chưa đi ư?
- Không, má à, con không đi.
Tôi đảo về nhà trong vài tiếng đồng hồ… Tôi chạy xe, và chen chúc xô đẩy trong đầu tôi là cả một đống hình ảnh ngày qua và hôm nay. Vào phòng làm việc, như có một sức mạnh không cưỡng nổi xô tôi tới và mở chiếc hộp bánh quy cũ bằng kim loại nơi mẹ tôi cất giữ như kho báu những bức điện tín và nhiều tài liệu chính thức khác, những lá thư viết từ trong tù với những mảng kiểm duyệt lớn bằng bút dạ đen, những mẩu báo cũ cắt ra có nội dung về người con trai bà sau song sắt nhà tù tại một đất nước xa xôi… Bà gọi đó là «hộp đựng nước mắt» của bà. Tôi đã mượn bà chiếc hộp ấy và cất trong phòng mình, muốn tránh cho bà nhìn thấy nó, đầu óc tôi ngây thơ nghĩ rằng như vậy sẽ tránh cho trái tim bà khỏi trỗi dậy sự lo lắng ám ảnh mỗi khi nhìn thấy nó. Nhưng rõ ràng là cái hộp vẫn cứ hiển hiện trong đầu bà, nắp hộp luôn luôn mở.
Ngày của Mẹ, tôi nghĩ tới cả ngàn, cả trăm ngàn, cả triệu những chiếc «hộp đựng nước mắt» bằng đủ thứ vật liệu, mang mọi hình dáng, được thành kính đặt trên đồ gỗ hoặc đặt trong trái tim vô vàn bà mẹ Việt, bà mẹ Pháp, bà mẹ Mỹ, những bà mẹ mắt đã khô vì khóc đã quá nhiều!
Hôm nay đây, khi bom đạn trong nhiều thập niên không còn rơi xuống đất nước thứ hai của tôi, thì những «hộp đựng nước mắt» vẫn tiếp tục được mở nắp. Hàng trăm, có thể hàng ngàn hộp. Mỗi ngày lại có hàng trăm hộp đến chen hàng vào đám rước ác độc ấy. Mở ra và đậy lại trong một nghi thức sầu thảm bởi những bàn tay nhỏ nhắn run rẩy, len lén không cho ai thấy, tránh cả những cặp mắt nhìn để bày tỏ tình đoàn kết.
Vào lúc này đây, tôi nghĩ tới hai «hộp đựng nước mắt» được mở nắp dưới ánh sáng cháy bỏng của ngọn lửa thời sự: hai chiếc hộp của mẹ Phương Uyên và mẹ Kha. Hai con người dũng cảm, đĩnh đạc, ngay thẳng, mắt trong sáng và không vương giọt lệ nào nhìn thẳng các quan tòa đang xử mình, nhìn thẳng vào một cường quyền đang run lên như cái cường quyền rất nhiều người trong chúng tôi từng nhìn thấy khi chúng tôi hai mươi tuổi. Một cường quyền càng tự thấy mình đáng bị kêu án thì lại càng đưa ra những kết án nặng.
Không đâu, thưa các vị quan tòa, xin các vị đừng bảo tôi rằng hai bạn trẻ ấy là những tên khủng bố đang kêu gọi bạo lực hoặc kêu gọi quay về chế độ cũ. Vâng, hai bạn đó có in lá cờ của Việt Nam Cộng hòa, chính cái lá cờ mà bản thân tôi đã cảm nhận đủ trong thịt da mình và trong những nỗi đau của bè bạn mình toàn bộ sự bạo hành, sự man rợ được lá cờ đó đại diện tại bất cứ nơi nào nó tung bay trong xã hội và trong vô vàn nhà tù công khai hoặc bí mật.
Nhưng liệu hai bạn trẻ của chúng ta có biết rõ bản chất thực sự của chế độ đó? Phẩm chất Việt Nam của hai bạn trẻ đã không chỉ giữ lại từ lá cờ kia sự cương quyết bảo vệ vùng biển và những hòn đảo tổ tiên để lại chống lại những cơn đói của Bắc Kinh, trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam thì còn xa mới cho thấy là họ có cùng sự cương quyết bảo vệ đất nước như thế? Tôi hoàn toàn tin rằng hai bạn trẻ đã in lá cờ kia để làm một sự thách đố và bởi vì hai bạn không còn thấy cách nào khác làm nơi quy chiếu để chống lại cái chế độ cảnh sát trị hiện thời càng ngày càng thể hiện rõ là chế độ diệt tự do, chế độ đồi bại, chế độ đớn hèn đang hợp tác với bọn xâm lăng Trung Hoa. Hai bạn đó đã nói, đã viết những gì «không hay» đối với bọn lãnh đạo Bắc Kinh? Thế thì họ đã làm đúng! Nghìn lần đúng và họ cần được khen ngợi vì những điều như thế!
Tôi hoàn toàn tin rằng nếu hai bạn đó sống vào cuối những năm 1960, thì họ cũng sẽ có mặt trong những cuộc biểu tình của sinh viên chống quân xâm lược Mỹ và cái chế độ phục vụ cho bọn xâm lược ấy. Chắc chắn các bạn trẻ này cũng in truyền đơn và cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng! Hẳn là hai bạn cũng như lũ chúng tôi sẽ bị ra tòa án quân sự của Việt Nam Cộng hòa và để được cái chế độ ấy sau những cuộc tra tấn thông thường sẽ gửi họ ra các nhà lao Thủ Đức, Tân Hiệp, Chí Hòa, Côn Đảo , Phú Quốc…
Thưa chư vị quan tòa, chư vị biết rõ đấy, chân lý thật vô cùng đơn giản: những bạn trẻ này có một tình yêu chính đáng, họ có lòng tôn kính và một tham vọng cho đất nước và nhân dân mình. Hàng ngày họ phẫn nộ nhìn thấy những khát vọng ấy bị nhạo báng, và chính những điều đó đã đẩy họ vào hành động. Một hành động lành mạnh, trong suốt, lô gích, càng ngày càng thấy đó là điều tất yếu và càng thúc đẩy thêm nhiều người trẻ dấn thân vào con đường ấy, bởi vì, dù có biết bao nhiều bài diễn văn tuyên truyền song thực tại của các sự kiện vẫn chỉ cho họ thấy rằng chẳng còn có thể chờ đợi điều gì tốt đẹp nữa từ hàm răng của Bắc Kinh hoặc từ cái lưỡi của bọn này là Đảng Cộng sản Việt Nam đương thời. Cả hai đều «nói một đằng, làm một nẻo» (tiếng Việt trong nguyên bản – ND) để cuối cùng và thực sự cùng gặp nhau ở điểm mấu chốt: cùng bám lấy cường quyền. Cả hai đều sử dụng bạo hành, sự sợ hãi và sự thao túng như là những phương tiện chủ chốt trong thông tin. Cả hai đều tuyệt đối xa lạ với nền dân chủ thực sự và trên thực tế cả hai đều trở nên xa lạ với nhân dân của mình. Tôi hoàn toàn tin rằng Phương Uyên và Kha đã in lá cờ chế độ cũ vì nổi loạn nhiều hơn là vì dính líu về chính trị hoặc về ý thức hệ. Vả chăng, ngay cả khi không vì động cơ như thế, thì tôi sẽ vẫn tán thành câu này của Voltaire mà mọi nhà lãnh đạo của thế kỷ XXI đều phải nhớ làm lòng: «Tôi không đồng ý với diều bạn nói ra, nhưng tôi sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ quyền bạn được nói ra điều ấy».
Hôm nay đây, chọn lựa duy nhất chân chính là theo lối ấy. Bất kể bao nhiêu bản án còn sắp đem ra xử, con đường tiến bộ bền vững không nằm trong chế độ cảnh sát trị, chế độ diệt tự do, chế độ cúi đầu khuất phục trước sự xâm lăng của Trung Quốc. Con đường đó cũng không nằm trong sự quay lui tiếc rẻ một nền độc tài thời chiến phục vụ vô điều kiện trước cuộc xâm lăng của ngoại bang.
Chọn lựa duy nhất nằm trong cuộc đấu tranh ôn hòa, quyết liệt và không khoan nhượng theo con đường dân chủ, con đường mang sắc màu Việt, trong sự đoàn kết và hòa giải dân tộc thực thụ, với sự tôn trọng những lựa chọn được bộc lộ tự do của nhân dân. Đó là con đường duy nhất để ngăn chặn một cuộc chiến tranh đang nung ủ âm thầm và đang dần dần hiện rõ, chống lại nạn xâm lăng, sự cúi đầu cam chịu và cảnh hổ nhục. Đó là con đường cứu nước duy nhất. Đó là con đường duy nhất để chuyển vào Bảo tàng Khổ đau tất cả các «hộp đựng nước mắt», để đẩy lui mọi khổ đau đang đe dọa bùng nổ ở khắp các tầng lớp xã hội Việt Nam, từ những tầng lớp bình dân tới những nhà trí thức. Nếu những nhà lãnh đạo vẫn cứ cho rằng chỉ riêng họ là có thể sắp đặt hài hòa số phận của đất nước và nếu những người lãnh đạo này vẫn bám lấy cách chọn lựa điên rồ, thì không chóng thì chầy những «hộp đựng nước mắt» sẽ mở ra ngay bên trong các gia đình những viên quan tòa vẫn đang tưởng mình luôn luôn được chở che an toàn.
Vào Ngày vui này của tất cả những ai đã mang lại sự sống mà trong lòng chỉ biết đến phúc lành, hẳn là tôi không bao giờ quên những bà mẹ tội nghiệp của mọi thứ «tự do cái con c**» (tiếng Việt trong nguyên văn – ND) như của cái anh nào đó ở quận 3 thành phố Hồ Chí Minh, như của tất cả những anh tên Minh ở Hà Nội và khắp nơi vốn sùng bái chuyện đạp chân lên mặt các công dân yêu nước trung thực hiền hòa và trong tay chẳng có gì để tự vệ, như của tất cả những tên lưu manh khốn kiếp được bọn ấy chỉ huy và đang đẩy những thanh chắn bằng sắt ra che chắn các góc những con phố nhỏ để đổi lấy vài mẩu xương phần thưởng.
Hiển nhiên là đối với bọn chúng thì Voltaire và Tự Do chẳng có ý nghĩa gì sất, bởi vì cái xã hội người ta hứa hẹn cho chúng hoặc tiểu sử bản thân chúng đã lột đi hết của chúng mọi thứ gì thuộc về tính người.
Bọn chúng đã đến độ lóa mắt trước dòng xoáy bạo hành đang dâng, bọn chúng trở nên ngu độn và bị thao túng để đi tới chỗ nào cường quyền kéo họ tới và duy trì lực lượng đó; bọn chúng đã tới độ say sưa vì thấy mình cũng có chút quyền hành và hình dung đó là những quyền hành vĩnh cửu.
Bọn chúng không lường được hết sức mạnh của ý thức nhân dân và của lòng yêu nước và cũng chẳng nghĩ đến những hệ quả cho bản thân vì những hành động tội phạm chúng chống lại đồng bào, chống lại nhân dân.
Lòng trung thực của trí tuệ, tình đoàn kết, tinh thần hy sinh là những gì xa lạ với bọn chúng. Trong một cuộc sống càng ngày càng khó ẩn mình, càng khó giấu giếm mọi lời nói và mọi hành vi, liệu những kẻ khốn cùng này có biết chăng, với những đòn roi chúng tung ra, với những lưỡi chửi rủa chúng phun ra, với những nhà tù chúng đặt ra, chúng đang mở một cái hộp khác, cái hộp Bất Ngờ (nguyên văn: hộp Pandore – ND) từ đó sẽ chui ra những «hộp đựng nước mắt» mới, trong đó có những hộp đựng nước mắt của những bà mẹ đẻ ra chúng và của các bà vợ chúng?
A.M. – P.T.

Source : BVN