Hiển thị các bài đăng có nhãn PHĐ- Tư-duy tự-do (7). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn PHĐ- Tư-duy tự-do (7). Hiển thị tất cả bài đăng

8/8/10

Tư-duy tự-do (7) :Tiềm-thức, cống rãnh của văn-hoá

Tư-duy tự-do

III. Những nền tảng của kiến-thức
7. Tiềm-thức, cống rãnh của văn-hoá

Nhu-cầu hiểu mọi chuyện là thân phận của con người. Trong nền văn-hoá của ta, từ ba thế kỷ nay, thành quả phi thường của khoa-học và công-nghệ khiến sự hiểu-biết loá mắt, ít nhiều phải duy-lý và cái lý ấy bị quy về một hình-thái của lý-trí, lý-trí khoa-học[1]. Loại lý-trí này dựa vào một loại lôgích vốn có một quan-điểm nào đó về không-gian, thời-gian và vật-chất mà, do sự dạy bảo của tha-nhân, ta thấy quen thuộc.

Einstein đã làm điên đảo tận gốc ý-niệm không-gian và thời-gian. Bohr, Schrödinger, Heisenberg, những lý-thuyết gia ngành vật-lý lượng-tử đã làm điên đảo ý-niệm vật-chất. Darwin đã khơi ra quan-điểm : những sinh-thể hiện-hữu là kết quả của một quá-trình lịch-sử biến hoá sự-sống, mở đường cho ta hiểu-biết lĩnh-vực sống. Marx, với thế-giới-quan duy-vật-biện-chứng, đã mở ra một hướng cách-mạng trong quan-điểm về con người, xã-hội và lịch-sử. Những nhà tư-tưởng lớn đó đã để lại dấu ấn của họ trong đời người của thế kỷ 20. Cạnh những con người vĩ đại đó, phải thêm Freud, kẻ thám hiểm Tiềm-thức.

Tiềm-thức như một giả-thuyết
Là một bác sĩ được đào tạo trong nửa sau của thế kỷ 19, Freud chia sẻ ý-kiến về phương-pháp khoa-học của thời ông : quan sát chặt chẽ sự-kiện, suy-diễn ra nguyên-nhân, đưa ra giả-thuyết, kiểm-nghiệm sự đúng sai của giả-thuyết bằng thử-nghiệm. Trong hình-thái thực-chứng, phương-pháp tìm hiểu đó đòi hỏi sự-kiện và nguyên-nhân phải khách-quan, sự kiểm-nghiệm qua thử-nghiệm phải dựa vào quan sát thực tế và, nếu được, đo đếm[2].

Lúc điều trị bệnh nhân bị dằn vặt bởi những cơn điên cuồng, động kinh, ông đành phải ghi nhận giới hạn của phương-pháp khoa-học hiểu theo định-nghĩa trên. Những cơn động kinh có-thực tuy không do cơ-thể bị tổn thương hay trục trặc. Như thế, nếu không muốn rời lĩnh-vực sinh-học để rơi vào những thuyết thần-bí, ta phải đặt những nguyên-nhân gây ra bệnh trong bộ óc. Khốn thay, ở thời ấy, chẳng ai biết gì về sự vận-hành của nó.

Dựa vào kinh-nghiệm lâm sàng, Freud mở rộng ý-niệm « sự-kiện » : có những sự-kiện không có vật-tính mà thuần tâm-lý. Kinh-nghiệm cho thấy rằng khi ta khuyến khích bệnh nhân tự-do nói về chính-mình, thỉnh thoảng, ta có thể khiến những cơn động-thần-kinh của nó ngưng, khiến nó tạm thời hay vĩnh-viễn khỏi bệnh. Sự-kiện ấy gợi ý rằng căn bệnh có thể do nguyên nhân « hoàn toàn » tâm-lý gây ra. Sự ly khai với khoa-học của thời ông[3] thật rõ ràng.

Thuyết-trình[4] của một bệnh nhân là một sự-kiện khách-quan. Ta có thể ghi âm làm bằng chứng. Nhưng ý-nghĩa của điều nó nói là kết quả của một cách-giải-thích[5], cách-giải-thích của bệnh nhân hay của người phân-tích-tâm-thần[6]. Cách-giải-thích ấy dường như không dính dáng gì tới phương-pháp diễn-giải trong lý-luận khoa-học[7].

Kinh-nghiệm lâm sàng cho thấy bệnh nhân cuối cùng đều gợi lại những giấc mơ, những biến cố trong thời thơ ấu xa xưa, thường biểu-hiện mạch lạc hay ngầm khía cạnh tình-dục. Những « kỷ-niệm » mơ hồ bất ngờ nhoi lên trong ký-ức của nó chứng tỏ rằng chúng chưa « chết ». Như thế, giữa thế-giới bản-năng mà người ta cho rằng người ta đã hiểu rõ và thế-giới trong-suốt của ý-thức, có một vùng bóng tối. Kỷ-niệm về những sự-kiện đã từng xảy ra trong tuổi thơ bị dồn-nén[8] vào nơi đó tuy không bị tiêu hủy. Từ bóng tối đó, nó chi phối ứng-xử của bệnh nhân ngoài ý-thức của bệnh nhân. Bóng tối đó, chính là Tiềm-thức. Nếu bệnh nhân chịu khó chủ động tác-động vào khả-năng nhớ-lại của mình, nó có thể đem những « kỷ-niệm » kia ra ánh sáng của ý-thức, tự-tạo khả-năng gánh vác lịch-sử của chính-mình, vượt những hãi hùng đã bị dồn-nén của tuổi thơ.

Trên cơ sở những nhận xét ấy[9], Freud hình dung ra những giả-thuyết cho phép gắn liền quá-trình biến một đứa trẻ thành-người lớn với lịch-sử của những xã-hội. Giả-thuyết nổi tiếng nhất là phức-cảm Œdipe : trong tuổi thơ, mọi người đều đã từng muốn giết cha hay mẹ để độc chiếm người còn lại có giới-tính đối-lập với mình. Vì loạn luân là điều bị cấm nghiêm ngặt, phổ-cập trong các cộng đồng người, vì đứa trẻ lệ-thuộc người lớn để sống, nó hãi hùng dồn-nén sự ham muốn đó. Nó có thể nghiệm-sinh sự dồn-nén ấy như bạo liệt đối với chính-mình. Trong trường hợp ấy, hãi hùng của tuổi thơ núp trong tiềm-thức, gặm nhắm từ bên trong con người trưởng thành. Bị cấu xé giữa nhu-cầu tự-giải-phóng và sự sợ hãi phải công nhận một tội lỗi đáng chết, tiềm-thức chơi trò bịt mắt bắt dê khi ta truy lùng nó. Nó hiển hiện mà không hiển hiện, nó lộ mặt dưới những mặt nạ. Trị bệnh tâm-thần khó khăn vì thế : tìm sự-thật, sự nhất-quán xuyên qua những vở kịch vờ vĩnh tán loạn.

Trong quyển sách này, ta bỏ qua một bên vô vàn ý, khái-niệm và đề tài do Freud và đệ tử của ông đã nêu ra, xây đắp sự thành công của nhân-sinh-quan ấy trong vô số lĩnh-vực kiến-thức và nghệ-thuật. Ta cũng miễn bàn những hoá thân khôi hải, sự kết hôn kỳ dị của nó với toán học, vật-lý lượng-tử và thuyết tương-đối[10].

Tiềm-thức hiện-thực trong quá-trình nên-người
Điều ta quan tâm ở đây là nhân-sinh-quan do Freud đề xướng.

Có một điều nổi bật, thấy liền : tính lịch-sử. Con người là một sản-phẩm lịch-sử ở hai nghĩa : nó có một lịch-sử cá-biệt và lịch-sử cá-biệt đó không thể tách rời lịch-sử của xã-hội nơi nó trưởng thành.

Điều thứ hai là : quá-trình hình thành thế-giới tâm-lý của con người, tâm-lý-nền-tảng[11] của nó, không thể tách rời nghiệm-sinh của một sinh-thể, đặc biệt là một trong những chiều-kích cơ-bản của nghiệm-sinh ấy, chiều-kích tình-dục.

Điều thứ ba là : quá-trình kia thống-nhất ở nó, dưới hình-thái cấm đoán, tabu[12], chiều-kích văn-hoá của con người, và chiều-kích ấy thể-hiện qua ngôn-ngữ, dù ngôn-ngữ đó là một ngôn-ngữ móp méo[13].

Một sự-kiện rõ ràng nữa : tính nhập nhằng hết sức nghệ-thuật của ý-niệm tiềm-thức. Nó thuộc sinh-giới hay trí-giới ? Nó chẳng thuộc thế-giới nào cả. Nó thuộc cả hai thế-giới. Ý-niệm này biểu-hiện rõ ràng rằng có một mối liên-hệ giữa sinh-giới, ở mức người ta biết ở thời đó, và trí-giới. Mối liên-hệ ấy như thế nào ? Người ta không biết. Nhưng người ta đã linh-cảm được và do đó đặt tên cho nó. Tiềm-thức của Freud giống hệt ánh-phản-chiếu[14] của Engels. Dễ hiểu : thuở đó người ta không biết gì về những quá-trình sinh-tính dẫn tới khả-năng nhớ và khả-năng khái-niệm-hoá nghiệm-sinh.

Trong quá-trình một đứa trẻ trở thành người lớn, rõ ràng có sự đồng-nhất năng-động giữa vật-chất, sự-sống và tư-duy. Nhân-sinh-quan của Freud hết sức biện-chứng. Có lẽ vì thế nó bị những ngoan đồ của chủ-nghĩa duy-khoa-học[15] của thế kỷ 20 khai trừ. Freud cũng rủi ro như Marx. Tư-tưởng của ông đã xâm nhập dưới những hình-thái khác nhau, đôi khi khá lạ lùng, tất cả các lĩnh-vực khoa-học nhân-văn. Có người còn thiêng-liêng hoá nó, biến nó thành nguyên-lý phổ-cập, hàng đầu, cơ-bản nếu không nói là duy nhất để giải thích con người và xã-hội. Cũng như học thuyết của Marx, ta dễ dàng tìm thấy nó dưới dạng thần-bí hay máy-móc. Cũng như học thuyết của Marx, nó lan tràn khắp nơi xuyên qua vô vàn phe phái, nhà thờ xung đột với nhau quyết liệt rụng rời.

Mặc kệ những hình-thái hoá thân dị hợm đó. Qua một cách tiếp cận biện-chứng, Freud mở một ngưỡng cửa mới cho kiến-thức : thế-giới tâm-lý.

Nhân-sinh-quan này quý. Nó sẽ tồn-tại lâu hơn những minh hoạ văn-hoá địa phương, lịch-sử mà nó đã từng khơi lên như phức-cảm Œdipe[16] với chuỗi tội ác ghê tởm và những bi kịch âm u của nó. Một đề tài như thế, người Na bên Trung Quốc không sao hiểu được : trong hình-thái xã-hội ấy, trẻ con không có người cha có thể nhận diện được. Câu chuyện Œdipe cũng chẳng thể kể trong ngôn-ngữ của người Na : trong đó không có từ « cha »[17].

Truy nã tiềm-thức để nhân-hoá thế-giới
Khi chào đời con người chưa là người. Nó phải nên-người xuyên qua học-tập chung sống trong lòng một xã-hội. Quá-trình học-tập đó liên-hệ tới toàn bộ quan-hệ vật-tính, sinh-tính và trí-tính của con người với thế-giới, với chính-mình. Quá-trình học-tập ấy chi phối hình hài của từng cá-nhân, là điều kiện phát-triển những cấu-trúc-nơron trong óc, cho phép khả-năng nhớ và khả-năng tư-duy hình-thành. Ta đã thấy rằng học-tập cần-thiết để tạo và ghi-nhớ dưới dạng cấu-trúc-nơron chức-năng nhìn-thấy, ghi nhớ một « hành-động-nhục-cảm » : nhìn. Có lẽ cũng vậy đối với những cảm-nhận, cảm-giác khác của con người, kể cả đối với cảm-nhận, cảm-giác tha-nhân, đặc biệt dưới hình-thái tình-dục. Ta biết rằng những cấu-trúc-nơron kia vững chắc ít hay nhiều tùy cường độ và, sự lặp đi lặp lại kéo dài của một nghiệm-sinh « y-hệt » hay tương tự. Những cấu-trúc-nơron hình thành trong tuổi thơ, khi sinh hoạt của con người không mấy phong phú và lặp đi lặp lại rất nhiều, vững chắc hơn những cấu-trúc-nơron hình-thành trong tuổi trưởng thành xuyên qua những kinh-nghiệm ngắn ngủi, phù du, ít khi lặp lại. Có lẽ vì thế khi bước vào hoàng hôn của cuộc đời, trong những tháng năm thoái hoá buồn tẻ của sự-sống, trong quá-trình sinh-lực ngày càng suy tàn, khi những cấu-trúc-nơron mới nhất, yếu ớt nhất trong óc rã rời, cách ly, cứng đọng rời rạc, con người nhớ những sự-kiện trong tuổi thơ rõ hơn đầy rẫy sự-kiện vừa xảy ra trong ngày. Đột nhiên nó tìm thấy lại hương vị, màu sắc, nhạc điệu của tuổi trẻ. Sự tan rã của bộ óc đẩy nó về thời ấu trí, không sao cưỡng lại được.

Sinh-học về bộ óc còn là lĩnh-vực ta chưa hiểu-biết rõ. Nhưng kiến-thức đương đại cho phép ta khái-niệm tiềm-thức, hình dung một số giả-thuyết không cần đến bất cứ niềm-tin thần-bí nào về sự hiện-thực và cách vận-hành của nó. Tiềm-thức có một cơ sở vật-chất và sinh-học : toàn bộ cấu-trúc-nơron ghi-nhớ nghiệm-sinh của một con người. Những cấu-trúc ấy có thể không gắn liền với toàn bộ những cấu-trúc-nơron cần-thiết để cho phép ứng-xử có ý-thức mà chỉ gắn liền với một số cấu-trúc-nơron nào đó thôi. Trong trường hợp ấy, ký-ức kia vẫn tồn-tại, vẫn sống ở đâu đó trong óc ta, vẫn chi phối ứng-xử và hành-động của ta mà ta không biết. Cái ký-ức thiếu quan-hệ tổng-hợp mà hiện nay, vì ta còn dốt-nát, ta gọi là tiềm-thức, cái ký-ức bị dồn-nén kia là và không là ký-ức, nó là một ký-ức không nhớ mình nhưng không mất mình, một ký-ức bị lãng quên, một tiền-ký-ức[18]. Trong một số trường hợp, hoặc xuyên qua một quan-hệ đặc biệt với thế-giới, hoặc xuyên qua một suy-luận có ý-thức và, thường thường, xuyên qua sự kết-hợp của cả hai, con người có thể lặp lại một cách hoàn chỉnh những mắc nối cần-thiết giữa các cấu-trúc-nơron để tìm thấy lại lịch-sử của chính-mình, gánh vác nó, vượt nó, khiến nó nên lời. Là sản-phẩm của lịch-sử, nó tự-tái-tạo một cách có ý-thức – ở nó, do nó, cho mọi người – bằng cách đưa lịch-sử đó ra ánh sáng của tư-duy và ngôn-ngữ[19]. Qua hành-động ấy, nó nhân-hoá ký-ức âm u kia, nó tự-nhân-hoá. Nó là thực-thể khiến cho thế-giới này ngày càng đậm nhân-tính, do con người làm ra cho con người, thực-thể khiến – một cách có ý-thức – nhân-tính nhập thế-gian.

Trong khuôn khổ ấy, ta có thể ý-thức sự dồn-nén thần-bí xưa mà không cần tới ma-thuật[20]. Ai cũng đã từng hay sẽ nghiệm-sinh hiện-tượng trí-nhớ bỗng bị thủng lỗ. Ta quên bẵng nơi ta vừa cất chùm chìa khoá tuy ta nhớ rõ một phần những động tác ta đã làm để cất nó. Ta không nhớ tên của một người, không nhớ-lại nổi một ngôn-từ cho phép ta phát biểu chính xác điều ta muốn nói, tuy ta chắc chắn ta biết ngôn-từ đó. Sự mất mát tạm thời một phần ký-ức của ta không chỉ do tuổi già mà xảy ra. Đôi khi, hình thù hay âm-thanh dễ sợ của một ngôn-từ khiến ta khó chịu, khơi ở ta nhu-cầu gạt bỏ nó mỗi khi ta cần tái-sinh nó trong đầu ta[21]. Khi ngôn-từ dễ sợ đó không thuộc tiếng mẹ đẻ, đi tìm trong những sự-kiện tình-dục của thời thơ ấu xa xôi những lý do khiến ta dồn-nén, loại trừ nó khỏi ý-thức của ta, là một chuyện hão.

Sự dồn-nén trên không là tính đặc-thù của phức-cảm Œdipe, của những xung-năng-sống hay chết thần-bí và một số luận-điểm ít nhiều khủng khiếp trong văn-hoá của ta[22]. Nó liên quan tới toàn bộ dục-vọng của con người. Chỉ cần quan sát một gia đình nghèo ăn cơm cũng thấy nó vận-hành. Gia đình gần như không bao giờ ăn no. Người mẹ nhìn đứa con trai vừa xúc cơm đầy bát đưa cho em gái, vừa cưỡng lại khát khao vồ lấy để ăn. Bà thủ thỉ với nó : « Con ngoan lắm[23] ». Ngày nào đó, khi đã giàu có, chàng bỗng nhiên tự biến mình thành một kẻ sống khổ hạnh, buộc thể-xác chịu đựng đủ thứ thiếu thốn tuy không bị bắt buộc làm thế, lên án trong những áng văn đậm giá-trị tinh-thần tuyệt vời những ảo ảnh của nhục-dục, ca ngợi Tình-yêu trong những bài thơ trang trọng, lộng lẫy. Chàng muốn vĩnh-viễn thoát khỏi sự ám ảnh của nghèo đói dồn-nén trong tâm can hay tìm lại tình-yêu tàn nhẫn của một người mẹ ? Người ta không vô-lý khi đi tìm trong tuổi thơ của chàng ý-nghĩa hay một trong những ý-nghĩa có-thể của hành-động và văn chương của chàng. Đúng thế, ta chẳng thể hiểu một con người nếu ta không biết gì hết về quá-trình đằng đẵng, xé lòng biến một đứa trẻ ngây thơ mảnh dẻ thành một người lớn trong thế-giới-này. Đương nhiên, con người chỉ là cuộc sống của chính mình. Nhưng nó là toàn bộ cuộc sống ấy. Ta không thể thoạt tiên coi thường bất cứ một khía cạnh nào của cuộc sống ấy. Trừ khi nó chết yểu và, qua đó, thanh toán cạn « nợ đời »[24] của nó, và điều đó chấm dứt mọi tranh luận[25], ý-nghĩa của cuộc đời ấy không chỉ vùi thân trong những mối tình thầm kín, hiu quạnh, buồn bã của tuổi thơ.

Freud là một vị khổng lồ của tư-duy. Ông đã dám tự-giải-phóng mình khỏi những kiến-thức, thành-kiến đã khiến ông trở thành một nhà khoa-học của thế kỷ 19, để mở ra một lĩnh-vực kiến-thức mới cho thế kỷ 20. Ông đam-mê hiểu con người vượt qua những gì khiến nó nên-người của một thời đại trong một nền văn-hoá. Là người có văn-hoá, ông gánh vác văn-hoá của ông để mở một chân trời văn-hoá mới.





--------------------------------------------------------------------------------

[1] Đây là một thí dụ điển hình của lối nói phi-biện-chứng ! Đáng lẽ ta phải nói : « Loá mắt vì những thành tựu phi thường mà họ đã thực-hiện được bằng cách phát-triển khoa-học và công-nghệ, loài người đã ít nhiều khiến khả-năng hiểu-biết của họ tùy thuộc tính hữu-lý trong suy-luận và đồng thời quy tính hữu-lý ấy về một hình-thái của lý-trí : lý-trí khoa-học. » Ngay như thế còn phải nói rõ thêm : hiểu-biết điều gì ? Như ta thấy, không ai có thể đơn thân độc mã thoát ra khỏi cũi văn-hoá, cũi ngôn-ngữ của mình. Người chết không chỉ tóm đầu người sống ngay từ lúc sơ sinh, nó còn gặm mòn người sống suốt một đời người.

[2] Với định-nghĩa này, môi-trường ứng dụng phương-pháp khoa-học duy nhất là lý-hoá. Có lẽ vì thế mà, ngoài môn toán, Auguste Comte coi rằng chỉ có môn vật-lý mới xứng đáng với danh hiệu khoa-học. Có lẽ cũng vì thế mà xã-hội Pháp đào tạo và tuyển lựa thành phần « ưu tú » bằng toán và vật-lý. Tiếc thay.

[3] « Chúng ta phải nhớ rằng toàn bộ kiến-thức của chúng ta về tâm-lý đều là tạm thời và có ngày phải được xác-nhận, dựa vào nền tảng (substrat) sinh-học của chúng. »

Freud, do Jean-Pierre Changeux trích dẫn, Université de tous les savoirs, tome I, Éditions Odile Jacob, 2000, trang 48.

Freud khác đệ tử của ông ở đó : linh-cảm rất rõ tính ba-chiều-kích của con người, vì ông cũng là một nhà khoa-học.

[4] Discours. Những gì bệnh nhân nói.

[5] Interprétation.

[6] Analyste, người vận dụng những lý-thuyết phân-tâm-học để trị bệnh tâm-thần.

[7] Nó không dính dáng gì về nội-dung (vật-chất hay sinh-học của thời đó). Điều đó không ngăn cản nó y-hệt về hình-thức suy-luận. Thí du, lý-luận trong toán và vật-lý y-hệt như nhau về hình-thức nhưng hoàn toàn khác nhau về nội-dung. Vật-lý có nội-dung vật-chất có thể quan sát, đo đếm. Toán không có nội-dung. « Toán là một môn khoa-học trong đó người ta không bao giờ biết được người ta đang nói về cái gì và điều người ta nói có đúng hay không » [hoặc có-thực hay không, « vrai » có cả hai nghĩa đó]. Bertrand Russell, trích dẫn trong Sciences et dialectiques de la nature, La dispute, 1998, tr. 389.

[8] Refouler, refoulement. Khái-niệm đặc-thù của môn phân-tâm-học. Cưỡng bức một sự thèm muốn lùi vào vùng vô-thức của ký-ức. Thí dụ : đang lái xe, ta bỗng mót đái, đau điếng người. Ta cố quến đi và quên thật, hết thấy đau. Đó là dồn-nén một cách có ý-thức. Kết quả cũng không khác mấy dồn-nén một cách vô-thức : quên tuốt luốt.

[9] Mặc dù chúng có vẻ ma-quái, chúng không thiếu tính nhất-quán.

[10] Jacques Lacan có đưa ra công-thức thi vị nổi tiếng sau : sexe = căn bậc hai của –1. Theo trí-nhớ.

[11] Psyché. Một khái-niệm triết lờ mờ bị lạm dụng nhiều trong tâm-lý và phân-tâm-học. Ý : hệ thống tâm-lý cấu tạo nhân-cách-tâm-lý (personnalité psychique) của một con người.

[12] Tabou, cấm đoán tuy không thành lời trong một xã-hội nhưng ai cũng chấp nhận : không được nghĩ tới, nói tới. Thí dụ : tình-dục trong văn-chương Việt Nam trong nhiều thế kỷ (không kể văn dân gian hay thơ Hồ Xuân Hương).

[13] Lacan nghĩ rằng tiềm-thức có cấu trúc giống như cấu trúc của một ngôn-ngữ. Nếu đúng vậy, nó sẽ tự nó tán gẫu và những nhà phân-tích-tâm-thần sẽ mất khả-năng thay mặt nó diễn văn ! Tiềm-thức là và tiếp tục là sản-phẩm của một lịch-sử cá-biệt và, do đó, nó không có khả-năng tự-biểu-đạt qua một ngôn-ngữ chung, hình-thái có ý-thức của tư-duy. Khá nhất là nó hướng tới ngôn-ngữ và khi nó thành công thì nó tiêu vong trong tư cách tiềm-thức. Điều đó xảy ra khi bệnh nhân khỏi bệnh.

[14] Reflet. Những quy-luật khoa-học là sự phản-chiếu ít nhiều chính xác trong bộ óc của con người của những quy-luật vốn có trong tự-nhiên. Do đó mà có kiểu nói : đi tìm sự-thật.

[15] Scientisme. Chủ-nghĩa duy-khoa-học. Một đề tài tranh luạn đương đại.

[16] Complexe d’Œdipe.

[17] Trong xã-hội người Na bên Trung Quốc, con cái sống với mẹ. Phụ nữ tiếp tình nhân trong những buổi « thăm lén » mà mọi người đều không muốn biết tới. Con cái của họ không ai biết là của người « cha » nào. Điều đó chẳng khiến chúng bị chấn thương tâm-thần chút nào. Đàn ông cũng không đến nỗi ngậm ngùi. Chính quyền trung ương vừa nới tay một tí, đảng viên liền theo quần chúng bỏ vợ bỏ cha về nhà ở với mẹ.

[18] Ta thấy em trong tiền kiếp dưới mặt trời lẻ loi. Trịnh Công Sơn. Người không tin có tiền kiếp nghe vẫn mủi lòng !

[19] Proust bỏ ra nhiều năm của đời mình, viết hàng nghìn trang sách để cuối cùng tìm lại được mùi vị của chiếc bánh mađơlen trong tuổi thơ. Ông đã không sống thừa. Thú vị ta cảm-nhận khi đọc ông hôm nay chứng nhận điều ấy.

[20] Đối với những khái-niệm như nhập-tâm, nhập-thân… cũng vậy.

[21] Đặc biệt có những ngôn-từ gọi là tục tĩu khiến ta ăn đòn trong tuổi thơ. Trong tiếng Pháp hiện đại, chúng nghèo nàn xơ xác đáng sợ, phải mò về văn-phái-tự-do (libertinisme) của thế kỷ 18 mới hình dung được xưa kia chúng phong phú thế nào. May thay, trong tiếng Việt vẫn còn kha khá, tuy ta chỉ dám dùng lúc trà dư tửu hậu. Làm Hồ Xuân Hương không dễ tí nào !

[22] Xung-năng-sống : pulsion de vie, khuynh hướng tìm sự-sống. Xung-năng-chết : pulsion de mort, khuynh hướng giết (kể cả chính-mình). Trong môn phân-tâm-học (psychanalyse) hiện-đại của Pháp, người ta đặt ra vô số « khái-niệm », « phức-cảm » không có định-nghĩa, hoặc càng « định-nghĩa » càng mù mờ, khó hiểu. Ông Derrida có thể sản xuất liền tù tì mấy phức-cảm loại đó qua vài câu văn. Ông Jacques Lacan, tổ sử phân-tâm-học nổi tiếng nhất của Pháp rất uyên bác trong chuyện này. Kết quả : « đệ tử » của ông lan tràn khắp Âu Tây, ai cũng nghĩ rằng mình hiểu thầy nhưng không ai hiểu như ai. Bản thân thầy cũng chưa hề công nhận có người đã hiểu mình, thậm chí ông còn tuyên bố : không ai hiểu mình cả. Hỡi ơi, kiến-thức...

[23] Tiếng Pháp : « C'est bien, mon enfant ». Bien còn có nghĩa là Thiện đối kháng với Ác, như trong lời tuyên chiến của Bush : chiến tranh của Thiện chống Ác. Sống « vượt thiện và ác » (Nietzsche), là sống ngoài nhân-giới, sống vô-nhân-tình. Một hoài bão nhứ thế có thể hiểu được mỗi khi một nền văn-hoá áp đặt vào con người những chuẩn sống và suy-luận khiến nó ngộp thở. Lúc đó, nó bịa ra Tình-yêu viết hoa, sống một cách vô-tình trong khi luôn luôn khao khát Tình-yêu, lấp một thiếu-hụt có-thực ngay trong thể-xác bằng một giá-trị gửi gấm tha-nhân, những đời sau. Văn chương cần thiết cho con người ở đó. Khi chưa thỏa mãn với kiếp người ở nó, nhà văn trao lại đòi hỏi nhân cách của mình cho tha-nhân, kiếp này và những kiếp sau..

[24] Vì viết cho người Pháp nên phải giải thích như sau. Trả món nợ đời đối với nhân-loại. Người Việt dùng hai ngôn-từ khác nhau để nói tới sự-sống. “ Sống ” (vivre, vivant, la vie) liên quan tới toàn bộ sinh-giới. « Đời » chỉ áp dụng cho con người : vie humaine, đời người, monde humain, nhân-giới.

[25] Đúng với khá nhiều đứa trẻ chết mỗi năm trong thế-giới của ta.