Hiển thị các bài đăng có nhãn Luận ngữ tân thư. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Luận ngữ tân thư. Hiển thị tất cả bài đăng

3/7/07

Chuyện vua nước Việt -Phạm Lưu Vũ

Chuyện vua nước Việt
Phạm Lưu Vũ
(Trích Luận ngữ tân thư – Phần tiếp theo)


Ai cũng biết “Đức” là cái vô hình, thế mà có dày, có mỏng. Lại có hậu, có bạc. Thì ra “Đức” không chỉ đơn giản là sự tử tế, ăn hiền ở lành hay xử việc đúng đắn, v.v… Thậm chí không chỉ được tạo nên ở đời này, mà còn được tạo nên từ những đời trước đó. “Đức” là một thứ “của cải” thuộc về “mệnh” vậy.

Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn diệt được nước Ngô, trở về nói với người nhà: “Đức ta tuy hậu, song không thể vì thế mà tiêu xài hoang phí trong một vài đời được.” Nói rồi bèn không nhận quan tước, đem vợ con trốn vào ngũ hồ. Trước khi đi còn đến bảo Văn Chủng: “Tôi tự biết mình đức hậu, song cũng không dám lạm dụng điều đó mà làm quan, sợ thiệt mất đức của con cháu. Vì thế mới phải trốn đi. Một khi tôi đã đi rồi, thì triều đình còn ai tài hơn ông nữa. Đã thế đức của ông lại bạc. Trộm nghĩ điều đó nguy cho ông lắm. Hay là ông trốn đi còn hơn.” Văn Chủng không nghe, rốt cuộc ở lại bị Câu Tiễn giết.

Trương Lương sau khi giúp Hán Cao Tổ lấy được thiên hạ, bảo với Trần Bình: “Trộm nghĩ đức của tôi dày gấp mười lần ông, công của tôi cũng không kém ông. Vậy mà tôi vẫn không dám nhận quan tước của nhà Hán, sợ đức bị hao tổn, con cháu ngày sau phải làm lại từ đầu. Còn ông, tài thì vượt lên trên kẻ khác, song tiếc rằng đức lại mỏng. Thiết tưởng đó là điều vô cùng bất trắc, cho dù có trọn vẹn được đời mình, thì đến đời sau, con cháu cũng chẳng ra gì. Sao ông không bỏ quan mà đi?” Trần Bình không nghe, rốt cuộc đến ngay đời con đã trở về hạng khố rách áo ôm.

Trọng sinh con nhà khá giả, bố làm quan to. Thế mà sống rất giản dị, chan hòa với mọi người, thường giao du rộng rãi, đàn hát rất hay. Mạnh Tử yêu lắm, muốn kết làm bạn. Mạnh mẫu (mẹ Mạnh Tử) thấy vậy can: “Ta xem thằng bé ấy bề ngoài tuy giản dị song ánh mắt tham lam. Tiếng đàn tuy réo rắt mà những âm phụ vào thường hay bị nghẹn tiếng. Người như thế là đức bạc, không đáng kết bạn.” Trọng sinh về sau quả nhiên càng ngày càng trở nên một kẻ tham lam bất tín, kết giao toàn những hạng bèo bọt. Rốt cuộc phá tán hết cơ nghiệp của bố để lại.

Xem thế thì biết, “Đức” không phải là thứ có thể đem ra để khen, chê. Càng không phải là thứ đem ra để ca ngợi, hay mắng nhau (là đồ thất đức) như xưa nay vẫn nghĩ được. “Đức” tuy vô hình. Song đó là thứ không những có thể cân đong, đo đếm, mà quan trọng là chỉ có thể “tích”, chứ không nên “tiêu”…

Những chuyện trên chưa thấy chép trong Sử kí… Nay xin lạm chép ra đây để thay cho “Lời tựa” trong Luận ngữ tân thư kì này. Đoạn trích như sau:

Người nước Việt xưng là Mạt Tử, làm nghề mò trai mò hến trên sông. Một hôm đang chổng mông lặn ngụp, chợt bắt gặp một thằng bé ở đâu trôi đến. Thằng bé khoảng 10 tuổi, sắc mặt nhợt nhạt, người lạnh toát, bụng căng đầy nước, mười phần đã chết đến chín rưỡi. Mạt Tử vội vàng vớt lên bờ, nắm hai chân nó dốc ngược lên cho ộc hết nước trong bụng ra rồi xoa bóp, thổi hơi vào mồm nó. Khoảng nửa giờ thì thân thể thằng bé dần dần ấm lại, mũi nó đã bắt đầu thở nhẹ tuy người vẫn còn mềm nhũn. Mạt Tử bèn bỏ giỏ hến lại đấy, vác nó lên vai mang về nhà. Gần đến nhà, bỗng có một ông lão ở đâu đi đến. Ông lão trỏ thằng bé bảo:

“Nom tướng thằng này thuộc hạng người bạc đức, sau này thể nào cũng phải nếm cứt người khác. Cứu nó làm gì cho phí công.”

Mạt Tử nghe nói, lưỡng lự một lát rồi chép miệng vác quay trở lại, định ném trả quách thằng bé xuống sông cho trôi đâu thì trôi. Đến chỗ lúc nãy, Mạt Tử đang chuẩn bị ném thì ông lão kia lại hớt hải chạy đến bảo:

“Khoan đã! Nó tuy phải nếm cứt người khác nhưng làm vua nước Việt thì chính là nó đấy.”

Mạt Tử nghe nói bèn thôi ý định. Lại vác thằng bé quay trở về... Gần đến nhà, ông lão kia lại vội vã chạy tới, xua tay bảo:

“Xin hãy cân nhắc cho kĩ đã! Nó tuy làm vua nước Việt, song bụng dạ hẹp hòi, đầu óc tăm tối. Vừa ưa nịnh, vừa bịp bợm, lại tham quyền cố vị, ác hơn thú dữ, suốt đời chỉ lo bức hại kẻ trung thần…”

Mạt Tử nghe nói tức thì nổi giận, lập tức vác quay trở lại, phen này quyết quẳng thằng bé xuống sông. Tới bờ sông, Mạt Tử đang lấy đà định quẳng thì ông lão kia lại hồng hộc chạy đến, vừa thở vừa nói:

“Khoan đã, khoan đã! Nó tuy ác hơn thú dữ, nhưng sau này diệt nước Ngô, làm nên cái oai danh cho nước Việt thì chính là nó đấy.”

Mạt Tử nghe nói lại bỏ ý định ném thằng bé xuống sông mà vác nó quay về nhà. Người vợ trông thấy hỏi:

“Ở đâu ra cái thằng chết trôi này?”

Mạt Tử bèn kể lại đầu đuôi. Người vợ bảo:

“Nó sau này dẫu có phải nếm cứt, thì hiện giờ cũng vẫn là một ông vua con. Tôi nghe nói nuôi vua khó lắm. Chỗ của nó phải ở bàn thờ chứ không thể bạ đâu đặt đấy được. Đã thế nó lại là cái giống bạc đức, sau này tất không ra gì. Nuôi một kẻ như thế trong nhà nguy như trứng để đầu gậy, không khéo lợi bất cập hại.”

Mạt Tử nghe vợ nói, lại tính ném quách thằng bé xuống sông. Song nghĩ lại thấy không nỡ, bèn chép miệng bảo vợ:

“Thôi thì ta cũng vì cái oai danh của nước Việt sau này mà cứu nó một phen vậy. Nay hãy chịu khó để nó lên bàn thờ, nuôi mấy hôm cho nó hoàn hồn, cứng cáp như trước đã rồi đem bỏ ra giữa chợ, mặc ai nhặt thì nhặt, mình cũng đỡ phải tội.”

Số là Mạt Tử không biết. Thằng bé đó chính là tiểu công tử của nước Việt. Hôm ấy mải chơi đùa trên sông, chẳng may trượt chân té xuống nước. Nước sông đang chảy mạnh lập tức cuốn nó đi. Lúc bọn hầu cận phát hiện ra thì đã trôi đến mấy dặm. Mọi người hốt hoảng mò khắp một đoạn sông, song không thấy. Mấy hôm sau, bọn hầu cận được phái đi tìm bắt gặp thằng bé đang lê la đói khát ở giữa chợ, vội vàng đem kiệu tới rước về cung. Thằng bé về sau quả nhiên được truyền ngôi, trở thành vua nước Việt. Bấy giờ đã 21 tuổi, bèn tự phong vương, tỏ ra là một ông vua có chí lớn.

Vua mới lên ngôi, có cây sung cổ thụ bỗng dưng trổ hoa, thơm ngào ngạt ba ngày liền, thiên hạ tấm tắc khen là điềm lạ. Cả nước nổi cơn điên vì sướng. Có điều trong cái mùi thơm ấy, thỉnh thoảng vẫn thấy lẫn vào một thứ mùi gì đó ngửi rất khó chịu. Vài ngày sau rõ dần. Đích thị là mùi thối. Cuối cùng chỉ còn toàn mùi thối, kéo dài mấy tháng chưa hết. Quạ ở đâu ùn ùn bay về, đậu kín các cành. Thiên hạ càng cho là điềm lạ.

Mạt Tử nghe tin vua mới của nước Việt chính là thằng bé mình cứu ngày trước thì hãnh diện lắm, đi đâu cũng khoe. Mọi người bảo sao không nhân đó mà vào cung, xin đức vua ban cho ít ruộng hoặc một phẩm tước nào đó, khỏi phải làm nghề mò trai mò hến nữa... Mạt Tử lấy làm phải bèn xin vào cung ra mắt vua. Chưa kịp nhắc lại ơn cũ thì Việt Vương đã ngửa mặt cười lớn mấy tiếng rồi vỗ bàn quát:

“Nhà ngươi tưởng cuộc đời này giống chuyện cổ tích lắm hay sao? Nhà ngươi dẫu cứu ta thoát khỏi chết đuối, song đã mấy lần định quẳng ta trở lại xuống sông. May mà mạng ta còn lớn khiến ngươi không làm nổi việc đó. Nay lại còn vác mặt đến đòi ta trả ơn? Ta không thèm tìm ngươi hỏi tội là phúc cho ngươi lắm rồi. Chính ngươi mới là kẻ phải biết ơn ta về điều đó đấy.”

Nói xong quát tả hữu đuổi Mạt Tử ra ngoài. Mạt Tử nhục quá lủi thủi ôm đầu chuồn khỏi cung. Rốt cuộc lại trở về bến sông làm nghề mò trai mò hến như cũ.

Xin không kể tiếp những việc sau đó của vị tân vương ấy, vì mọi chuyện đều đã được chép trong Sử kí. Chỉ biết rằng sự nghiệp của ngài diễn ra đúng như những gì mà ông lão ngày xưa đã nói. Đại khái cũng nếm cứt, cũng diệt nước Ngô, cũng bức hại trung thần... Ở đây chỉ xin kể một chuyện xảy ra vào lúc cuối đời ngài.

Bấy giờ nước Việt vô sự. Kẻ sĩ chân chính người thì bỏ đi ở ẩn, người thì đã trở thành thiên cổ. Trong triều, lũ cơ hội, nịnh thần tha hồ làm mưa làm gió, suốt ngày chỉ nghĩ đến việc ăn cướp của dân cho thật nhiều. Ngoài đời, đám kẻ sĩ vì bản chất tham lam, hèn hạ, nên vốn đã cam tâm làm tôi tớ từ lâu. Bọn họ luôn nghĩ cách làm vui lòng Việt vương để cầu tước vị, bổng lộc. Hăng hái nhất trong đám này là 2 gã quan văn tên Hư Tỉ và Lê Lết. Năm đó nhân sắp đến tiết Nguyên tiêu (rằm tháng giêng), Hư Tỉ bàn với Lê Lết:

“Đại vương ta rất thích nghe âm nhạc. Lâu nay việc nước bề bộn. Đám con cháu, tay chân Ngài nhiều người ăn cắp lộ liễu quá. Thành ra trong dân gian, khối kẻ chửi thầm chửi vụng, làm đại vương ta cũng có chút phiền lòng. Nay nhân dịp tiết Nguyên tiêu, âu là ta tổ chức một đêm nhạc thật hoành tráng ở sân nhà Thái miếu, mời đại vương tới nghe cho Ngài khuây khoả. Chẳng hay ý ông thế nào?”

Lê Lết tuy nghề văn, song vốn có máu con buôn, bèn hưởng ứng:

“Tuyệt đấy. Nhân đó ta chọn lấy 99 điệu nhạc thật hay. Sao cho trên thì khoái tai đại vương, dưới thì vừa bụng dân chúng để dâng lên cho Ngài ngự bút ban thưởng, rồi khắc in bán ra thiên hạ, chắc cũng kiếm được khối tiền.”

Hư Tỉ nghe Lê Lết nói liền vỗ tay khen:

“Diệu kế. Ông thật không hổ là vị quan không ngai của triều đình, là bậc đứng đầu đám văn hoá con buôn của cả nước. Pháp khẩu (giọng lưỡi) của ông xưa nay được thiên hạ tôn là thần thông quảng đại. Vậy xin nhường việc đọc diễn văn khai mạc cho ông. Chúng ta sẽ bắt chước cái chuyện nghe nhạc của vua nước Tấn ngày trước, có cả chim hạc đến vỗ cánh thì công trạng của ta hẳn sẽ càng to lắm...”

Đúng đêm Nguyên tiêu, sân nhà Thái Miếu được trang trí lộng lẫy, khắp nơi kết đèn hoa sáng rực. Tài tử giai nhân khắp kinh thành ăn mặc lòe loẹt kéo tới đông như trảy hội. Các phường nhạc hay nhất nước được tuyển chọn đến để hầu thánh nhĩ (tai vua). Lê Lết đích thân đứng ra đọc diễn văn khai mạc. Đại khái tập trung ca ngợi sự nghiệp vẻ vang của Việt vương. Bài diễn văn có đoạn viết (những chỗ trong ngoặc đều do Lê Lết dẫn tư tưởng Khổng Tử):

“Đại vương ta, khởi sự từ Lễ (“lập ư lễ”), đã làm nên những chiến công vô cùng hiển hách, từ xưa tới nay chưa có bao giờ... Tiếp theo, Ngài chấn hưng văn hoá, vỗ về muôn dân, làm cho nước ta trở thành một nước văn hiến (“hưng ư thi”). Nay chính là lúc mà các thành tựu của Ngài đã đạt đến mĩ mãn (“thành ư nhạc”), cũng là lúc chúng ta thay mặt cả nước tổ chức đêm quốc nhạc này để tỏ lòng đời đời biết ơn...”

Thế rồi hết điệu nhạc này đến điệu nhạc khác được đem ra trình diễn. Cứ mỗi điệu nhạc lại có mười sáu thiếu nữ đẹp như tiên sa, trang phục bay bướm như những cánh hạc ở đâu xuất hiện. Có khi từ hai bên cánh gà, có khi dòng dây thả từ trên trời xuống... Những “nàng” chim hạc này vừa xuất hiện, lập tức sắp thành hai hàng, múa lượn theo điệu nhạc cực kì điêu luyện, kết hợp với ánh đèn mờ ảo làm cho không khí đêm nhạc đượm vẻ Bồng Lai, cung Quảng, khiến người xem vỗ tay không ngớt. Nhiều kẻ phải lắc đầu lè lưỡi. Tất nhiên Việt vương vô cùng hài lòng. Ngài luôn tay ban rượu thưởng cho các quan đứng hầu hai bên, đặc biệt là Hư Tỉ và Lê Lết.

Tiếp đến danh sách 99 điệu nhạc hay do Lê Lết và Hư Tỉ đích thân chủ trì việc chọn lựa được đọc trước công chúng. Đọc xong đem dâng lên Việt vương. Việt vương không chần chừ cầm bút phượng phê ngay mấy lời vàng ngọc. Khán giả và các quan vỗ tay rầm rĩ. Riêng Hư Tỉ và Lê Lết thì vừa mừng thầm trong bụng, vừa không giấu nổi vẻ hãnh diện trên nét mặt.

Ngày hôm sau, Việt vương ra thiết triều, các quan tiến lên dâng biểu chúc mừng. Người nào cũng hết lời ca ngợi những điệu nhạc mà Việt vương nghe tối hôm qua. Rằng những điệu ấy còn hay hơn điệu nhạc mà vua nước Tấn được nghe ngày trước. Ngay cả 16 con chim hạc cũng lộng lẫy chẳng kém gì... Bỗng ở cuối hàng bên tả có một người bước ra, phủ phục xuống đất. Việt vương nhìn xem ai thì ra một vị quan thuộc hàng bét phẩm họ Thân tên Cô. Thân Cô dập đầu tâu:

“Thần càng nghe các quan ca ngợi thì càng lấy làm nguy cho đại vương lắm. Họ chỉ nhắc lại việc vua nước Tấn ngày trước sướng tai vì nghe nhạc, mà giấu nhẹm cái việc vua nước Tấn chết vì nghe nhạc. Nước Tấn chẳng bao lâu sau đó cũng mất, khởi sự cũng từ cái việc nghe nhạc ấy. Nay thần xin liều chết kể lại toàn bộ câu chuyện ấy ra đây. Cúi xin đại vương minh xét...” Tiếp đó, Thân Cô liền kể lại câu chuyện của vua nước Tấn ngày trước (chuyện này về sau có chép trong sách Đông Chu của Phùng Mộng Long tiên sinh. Nhân tiện xin phép trích những chỗ cần thiết ra đây để thay cho lời kể của Thân Cô, tuy cũng có sửa chữa chút đỉnh, mong tiên sinh thứ lỗi – chú thích của người viết). Nội dung câu chuyện như sau:

“Vua nước Tấn là Tấn Bình công thích nghe âm nhạc. Thấy Sư Khoáng - một nhạc sư được coi là bậc “thánh nhạc” đời bấy giờ nói đến điệu “Thanh chuỷ”, đòi nghe. Sư Khoáng nói:

“Không nên. Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy. Nay chúa công bạc đức, nếu nghe tất có tai họa.”

Tấn Bình công cứ nằng nặc đòi nghe cho bằng được. Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Gảy được một khúc, có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi.

Tấn Bình công nức nở:

”Âm nhạc mà đến như điệu Thanh chuỷ thì chắc không còn gì hơn nữa!”

Sư Khoáng nói:

“Điệu Thanh chuỷ tuy cũng thuộc hàng “thánh nhạc.” Song còn chưa bằng điệu Thanh dốc.”

Tấn Bình công ngạc nhiên hỏi:

“Trên đời lại còn có điệu hay hơn điệu Thanh chuỷ nữa ư? Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt?”

Sư Khoáng nói:

“Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc. Các vua sau này càng đời sau càng bạc đức, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy, ngộ nhỡ các thần lại hiện xuống cả thì làm thế nào?”

Tấn Bình công bảo:

“Các thần hiện xuống thì càng vinh dự cho nước Tấn ta chứ sao?”

Sư Khoáng nói:

“Kẻ ngu này không cho là thế. Nội nghe một điệu “Thanh chuỷ” kia cũng đã đủ gây tai vạ cho chúa công rồi. Nay chúa công lại còn đòi nghe điệu “Thanh dốc” nữa thì nguy đến cả nước Tấn chứ chả phải chuyện chơi...”

Tấn Bình công không tin, cứ cố ép mãi. Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ôm đàn mà gảy. Mới gảy được một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên. Gảy khúc nữa, bỗng nổi một cơn dông, ngói trên nóc điện bay tung lên, cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi thì mưa như trút nước... Tấn Bình công sợ hãi, nằm phục vào một nơi. Mãi đến khi mưa gió tạm yên, nội thị mới dám chạy lên vực Tấn Bình công từ trên đài xuống...

Sau hôm ấy, Tấn Bình công quả nhiên lâm bệnh nặng. Vài tháng thì chết. Nước Tấn từ đó càng ngày càng nát, chẳng bao lâu cũng mất...”

Việt vương nghe Thân Cô kể đến đây thì hoảng hốt rụng rời, ngồi chết lặng đi hồi lâu. Sực nhớ lại câu chuyện suýt chết đuối ngày trước, Việt vương biết mình cũng thuộc hạng bạc đức. Nay trót tin lời lũ nịnh hót mà say sưa đi nghe âm nhạc như thế. Không khéo cũng gặp phải tai vạ như Tấn Bình công thì uổng cả công gây dựng sự nghiệp. Càng nghĩ, Việt vương càng lo sợ, đến nỗi tâm thần bấn loạn, luống cuống không biết nên phải làm thế nào bây giờ? Vừa lúc ấy, cuối hàng bên hữu lại có một người khác bước ra. Mọi người nhìn xem thì là một viên quan cũng thuộc hàng bét phẩm tên là Thế Cô. Thế Cô tâu:

“Câu chuyện mà ngài Thân Cô đây vừa kể quả không sai. Thần cũng đã từng được nghe việc ấy. Song trên đời còn có một bậc Thánh nhân là Khổng Tử, hiện đang ở nước Lỗ. Sao đại vương không sai người sang cầu khẩn Ngài, để Ngài chỉ cho cách về mà tạ lỗi các thần. May ra thì tránh được tai vạ.”

Việt vương nghe nói, tức thì mừng rỡ như bắt được của, bao nhiêu lo sợ tạm thời lui qua một bên. Lập tức sai ngay Thế Cô tìm đường đi gấp sang nước Lỗ, đem theo lễ vật đến cầu kiến Khổng Tử.

Thế Cô tới nước Lỗ, tìm đến xin ra mắt Khổng Tử. Gặp lúc Khổng Tử đang đóng cửa san định kinh sách. Ngài dặn các học trò không tiếp bất cứ người nào. Thế Cô thấy vậy giật mình hoảng hốt, nghĩ lo cho vua Việt quá. Sợ chờ lâu sẽ không kịp. Bèn học theo cách của Thân Bao Tư nước Sở ngày trước, cứ đứng ngoài cửa Khổng gào khóc suốt đêm. Quả nhiên Khổng Tử phải sai học trò ra mở cổng cho vào. Thế Cô đem lễ vật trình lên rồi quỳ xuống tâu:

“Đại vương tôi biết mình bạc đức. Song tiết Nguyên tiêu vừa rồi, trót theo lời bọn lưu manh cơ hội, cùng với lũ con buôn xu nịnh mà đi nghe nhạc ở sân nhà Thái miếu. Khi trở về mới sực nhớ lại câu chuyện của Tấn Bình công ngày trước. Từ đó rất lấy làm lo sợ. Vậy nên sai tôi đến đây hỏi Phu Tử xem có cách gì để tạ lỗi các thần?”

Khổng Tử nghe Thế Cô nói xong, quay sang bảo các học trò:

“Các ngươi đã từng nghe nói ở nước Việt bây giờ, có điệu nhạc nào bằng điệu “Thanh dốc” ngày xưa hay không?”

Rồi quay lại phía Thế Cô, Ngài điềm nhiên trả lời:

“Kẻ bạc đức chỉ không nên nghe “thánh nhạc” mà thôi. Nay vua nước Việt tuy cũng thuộc hạng bạc đức, song những thứ nhạc ấy đều do bọn “bạc nhạc” làm ra cả. “Bạc đức” mà nghe “bạc nhạc” thì có gì phải lo ngại. Về bảo vua nước Việt chả cần phải sợ hãi, cứ việc gối cao đầu mà hưởng phú quý.”

Mùa xuân năm Đinh Hợi (2007)


*


Lời bàn của Lê Anh Hoài

Câu chuyện trùng trùng lớp lang và cuốn hút ở hàng loạt chi tiết và đối thoại.

Luận anh hùng thì cổ thư đã làm nhiều, nhưng đa phần dưới giọng anh hùng ca. Ở đây, Tân thư “luận” bằng cách cho ra một hoạt cảnh rất động giữa Mạt Tử với ông lão, rồi dùng dắng với vợ... Vác trên vai một ông vua con, đáng bỏ sông hay đáng cứu về để trên bàn thờ? Cái “lập trường” phân vân giữa đức dày - đức mỏng, vinh - nhục, công - tội... của người dân trước một nhân vật thật khó lắm thay. Mới biết, lòng dân thì vẫn canh cánh “vì cái oai danh của nước Việt,” nhưng bao dung cho vua ấy chứng tỏ người dân nước Việt xưa đức đã sớm... bạc.

Còn màn dâng nhạc cho ông vua bạc đức, phảng phất như chuyện vừa mới đây thôi. Những kẻ xu phụ, phải đâu thuộc loại “nhân bất học.” Cũng biết không ra gì, nhưng vẫn biết nói “Lập ư lễ, hưng ư thi, thành ư nhạc,” biết chim hạc không đến, vẫn biết dùng gái tạo hình hạc làm vui lòng người trên...

Ấy vậy nên câu: “bạc đức” nghe “bạc nhạc” thì có gì phải lo ngại” hạ đúng chỗ, gây sướng! Sướng nhất là chữ “bạc nhạc,” nó đa nghĩa mà nghĩa nào cũng sâu sâu (xin lỗi Phạm Lưu Vũ tiên sinh), đểu đểu.

© 2007 talawas

28/6/07

“Lễ” của nước Việt

23.3.2007

Phạm Lưu Vũ

“Lễ” của nước Việt
(Trích Luận ngữ tân thư - phần tiếp theo)

Nghe nói “Lễ” có trước luật pháp. Rồi sau đó, “Lễ” vừa đẻ ra luật pháp, vừa bổ sung cho những chỗ không thể đủ của luật pháp. “Lễ” chính là luật pháp vậy. Lại nghe “Lễ” có sau luật pháp, ấy là muốn nói tới cái lúc con người không cần phải dùng tới luật pháp nữa thì “Lễ” vẫn còn. Thiên hạ đâu đâu cũng chỉ gồm người với người, nước nào cũng thế cả. Vậy mà “Lễ” của mỗi nước lại không giống nhau. Có phải tại “thuỷ thổ” của mỗi nước khác nhau chăng? Ví như cái “Lễ” của nước Việt sau đây. Có thể coi là “độc nhất vô nhị”, thậm chí phải nói là đáng “tự hào” nhất trong thiên hạ vậy...

Mấy dòng trên vẫn cái kiểu “lảm nhảm” của “Lời tựa” trong Luận ngữ tân thư. Sau đây lại xin trích một phần của bộ sách đó:

Tử Cống muốn đầu tư, mở rộng việc kinh doanh buôn bán ở nước Việt, mới thỉnh ý kiến Khổng Tử. Khổng Tử bảo:

“Nếu người nước Việt biết giữ Lễ, thì có thể làm ăn, buôn bán với họ được.”

Bèn sai thầy Tử Hạ sang nước Việt để điều tra xem “Lễ” ở bên đó thế nào. Tử Hạ vâng lời giắt theo một ít bạc rồi khăn gói ra đi. Lặn lội hàng tháng trời mới đến địa giới nước Việt. Đêm đầu tiên ngủ ở khách điếm, Tử Hạ cẩn thận nằm gối đầu lên hành lý. Vậy mà sáng dậy, thấy đầu mình đang gối lên một... bao cỏ, còn gói hành lý thì đã vĩnh biệt thầy từ lúc nào. Tử Hạ bèn gọi chủ khách điếm đến hỏi:

“Nước Việt lắm kẻ trộm thế hay sao?”

Chủ khách điếm tỉnh bơ trả lời:

“Ngài mất một gói hành lý, lớn không hơn cái gối, nặng bất quá vài cân. Chỉ cần nửa tên trộm cũng khuân đi được, huống hồ phải tốn đến một tên. Vậy mà ngài đã vội kết luận rằng nước Việt lắm kẻ trộm? Một người mang danh học trò của Khổng Tử như ngài mà không sợ bị thiên hạ chê là hồ đồ ư?”

Tử Hạ cứng lưỡi, đành ngậm ngùi chịu mất gói hành lý. Đêm hôm sau. Đang ngủ, bỗng có một kẻ bịt mặt lẻn vào tận giường, dí dao lên cổ thầy đòi nộp toàn bộ số bạc trong người. Tử Hạ sợ nguy đến tính mạng, đành móc hết nộp cho nó. Sáng ra, Tử Hạ lại mời chủ khách điếm đến. Rút kinh nghiệm hôm trước, lần này thầy hỏi:

“Nước Việt vẫn còn một tên kẻ cướp hay sao?”

Chủ khách điếm thản nhiên trả lời:

“Ngài chỉ là một anh học trò bạch diện thư sinh, lại dúm dó thất thểu từ nơi xa đến, nom chẳng có gì nổi bật. Chắc cũng không phải hạng phú quý gì. Người nước Việt xưa nay tuy được tiếng là ngửi hơi tiền giỏi nhất thiên hạ. Song chắc gì đã có nhiều kẻ biết ngài giắt theo tiền bạc trong người. Ấy thế mà ngay đêm thứ hai, đã có kẻ cướp mò đến hỏi thăm. Chứng tỏ trước mặt, sau lưng ngài không lúc nào thiếu kẻ cướp. Vậy mà ngài cho rằng cả nước Việt chỉ còn một tên? Trình độ suy luận của ngài nông cạn như thế, không sợ mang tiếng là dài lưng tốn vải ư?”

Tử Hạ ớ người, xấu hổ đến nỗi không nói lại được câu nào. Đành lủi thủi chuồn vội ra khỏi địa giới nước Việt. Rồi thầy vừa đi đường vừa xin ăn, mấy tháng sau mới về tới nước Lỗ, tình cảnh thực thê thảm. Về tới nhà rồi, Tử Hạ đợi mấy hôm sau mới dám vào ra mắt Khổng Tử. Trước tiên thầy tạ lỗi về chuyến đi không thu được kết quả gì, sau đó kể lại chuyện xảy ra, như có ý muốn thanh minh, hy vọng nhận được vài lời an ủi. Không ngờ Khổng Tử nghe xong lại tỏ ra mừng rỡ. Ngài gật gù khen:

“Ta lại thấy chuyến đi của ngươi có kết quả tốt đấy. Kẻ quân tử chớ nghĩ đến chuyện mất của. Việc ấy chứng tỏ người nước Việt rất biết giữ Lễ. Nước Việt quả không hổ là con cháu Ngu Thuấn. Một nước ở xa Trung nguyên như thế, mà vẫn biết giữ Lễ. Điều đó thật đáng tự hào, thật đáng tự hào...”

Tử Hạ tròn mắt kinh ngạc, không hiểu Khổng Tử khen thế là nghĩa làm sao. Thầy có ý hơi bất mãn, không phục. Bèn thắc mắc:

“Kẻ học trò này vừa bị trộm, vừa bị cướp. Lại còn phải dỏng tai nghe gã điếm ấy uốn ba tấc lưỡi, leo lẻo cái lỗ mồm. May còn mang được cái thân thừa về đây, chưa đến nỗi chết đói chết khát dọc đường. Thế mà Phu Tử không thèm động lòng xót thương lấy một tiếng, lại còn khen nước Việt biết giữ “Lễ”? Kẻ ngu này thật chẳng hiểu ra làm sao cả.

Câu nói của Tử Hạ không ngờ làm cho Khổng Tử nổi giận. Ngài bật đứng lên khỏi ghế, trỏ tay mắng:

“Sao mà đầu óc ngươi u tối, lại cố chấp làm vậy. Một nước có lắm kẻ cướp như nước Việt, mà vẫn biết ăn trộm trước, rồi sau đó mới ăn cướp. Phàm xử việc mà không nóng vội, lại có thứ tự, lớp lang như thế, chẳng phải “Lễ” là gì? Giả sử nó làm ngược lại, ăn cướp ngay đêm đầu tiên, thì đến đêm sau, ngươi còn cái gì để cho nó ăn trộm nữa?”

Một đêm cuối tháng giêng năm Đinh Hợi (2007)


*


Lời bàn của Lê Anh Hoài

Đau quá!

Nhưng mà đúng đấy, vừa đúng cái thực trạng của Việt lại vừa đúng cái không khí, thần thái đối xử của xứ văn minh (Trung nguyên) với man di (Việt). Nó biết Việt là “ngoại hạng” rồi nên cần phải có một chuẩn mực riêng mới xét nổi. Tự hào ôi nước Việt!

Cái hay nhất của truyện này là nhân vật chủ quán, nó là nhân vật thuần Việt hay là “Việt xịn.” Nó trâng tráo, ngụy giã, nhưng lại có lối biện luận (mà các bậc túc nho - trừ chính thầy Khổng tử) khó cãi của cái giống “cùn.” Lý không thông nhưng cũng lập lý, tự tin như ai.

Ô hô...

© 2007 talawas