Hiển thị các bài đăng có nhãn CHU MẠNH TRINH - vịnh Kiều. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHU MẠNH TRINH - vịnh Kiều. Hiển thị tất cả bài đăng

9/3/10

CHU MẠNH TRINH - vịnh Kiều

vịnh Kiều

CHU MẠNH TRINH (1862 – 1905)

Trong tập "Thanh Tâm Tài nhân thi tập" của Chu Mạnh Trinh, cùng với Bài Tựa nổi tiếng đã giới thiệu ở phần trên ( trang 58 ) còn có hơn hai chục bài thơ Vịnh Kiều thất ngôn bát cú gồm 1 bài tổng vịnh và các bài vịnh theo hai mươi hồi của cuốn tiểu thuyết Trung Hoa. Tập thơ này đã chiếm giải nhất trong cuộc thi bình, vịnh Kiều ở Hưng Yên.
Chúng tôi xin giới thiệu sau đây một số tư liệu về cuộc thi bình vịnh Truyện Kiều năm 1905 và cuốn Thanh Tâm Tài Nhân thi tập :
Năm 1905 để thưởng xuân Ất Tỵ, Tổng đốc Hưng Yen bấy giờ là Lê Hoan đã có cái cao hứng triệu tập một số những danh sĩ đương thời tới họp cùng dự hội Tao Đàn, thi văn chương về Truyện Kiều.
Nhà thơ Chu Mạnh Trinh được mời vào Tao Đàn ấy cùng với các ông Nguyễn Tấn Cảnh, tri huyện Văn Lâm, Nguyễn Chí Đạo, tri phủ Khoái Châu, Phan Thạch Sơ, tú tài (vốn là người Tàu, từ đời ông nội đã nhập tịch Việt Nam, nhà ở Hà Nội), Chu Thấp Hi, cử nhân (người làng Đào Xá, huyện Kim Động, Hưng Yên), Nguyễn Kỳ Nam, cử nhân (người làng Nam Dư, huyện Thanh Trì), Đặng Đức Cường, cử nhân (người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường), Phan Mạnh Danh (tác giả bút Hoa, Thi văn tập và dịch giả Hồng Kiều), Tú Trà (người Nam Sang, Hà Nam) v.v...
Đầu đề cuộc ngâm vịnh là Kim Vân Kiều Truyện chữ Hán (có phần lược thuật ở mỗi hồi). Các nhà thơ phải theo đúng với đầu đề ấy như sau :
1. Một bài tự bằng chữ Hán, thể văn tứ lục.
2. Một bài thơ đề từ.
3. Hai mươi bài thơ Đường luật (hoặc chữ Hán hoặc chữ Nôm) vịnh hai mươi hồi của truyện.
Khi các tập đã làm xong, Lê Hoan mời hai nhà thơ lão thành là Vân Đình Dương Lâm và Yên Đổ Nguyễn Khuyến sung vào ban duyệt khảo.
Kết quả được bảy, tám quyển trúng cách, trong số đó quyển của Chu Mạnh Trinh được nhất về thơ Nôm và quyển của Chu Thấp Hi được nhất về thơ chữ Hán. Còn những quyển của các ông Nguyễn Chí Đạo, Nguyễn Tấn Cảnh, Nguyễn Kỳ Nam, Phan Thạch Sơ, Tú Trà, Hoàng Đức Lập, Đặng Đức Cường, Phan Mạnh Danh v.v... đều đứng vào hạng nhì trở xuống cả.
Thành ra cuộc hội văn của Lê Hoan chỉ là chuyện chơi mua vui lúc bấy giờ mà không ngờ đã lưu lại cho chúng ta một tập thơ rất quý giá : Thanh Tâm Tài Nhân thi tập. Sau đây là hai mươi mốt bài thơ nôm của tập thơ đó: THANH TÂM TÀI NHÂN THI TẬP và hai bài Hát nói vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh.

I. HAI MƯƠI MỐT BÀI THƠ NÔM VỊNH KIỀU

TỔNG VỊNH TRUYỆN KIỀU

Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương
Sắc tài chi lắm để làm gương
Công cha bao quản liều thân thiếp
Sự nước xui nên phụ nghĩa chàng
Cung oán nỉ non đàn Bạc mệnh
Duyên nay run rủi lưới Tiền Đường
Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu
Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng.

Hồi 1. KIỀU ĐI THANH MINH

Mùa xuân ai khéo vẽ nên tranh
Nô nức đua nhau hội đạp thanh
Phận bạc ngậm ngùi người chín suối
Duyên nay dun dủi khách ba sinh
Dãy hoa nép mặt gương lồng bóng
Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình
Man mác vì đâu thêm ngán nỗi !
Đường về chiêng đã gác chênh chênh.

Hồi 2. HỘI NGỘ VƯỜN THÚY

Hết nghĩ gần thôi lại nghĩ xa
Hiu hiu án sách ngọn đèn tà
Gương loan phảng phất hồn cung quế
Giấc bướm mơ màng khách trướng sa
Mười vận sầu tuôn đôi gót ngọc
Trăm năm duyên bén một cành thoa
Mái Tây bõ lúc chờ trăng dựng
Rày đã vườn xuân tỏ mặt hoa

Hồi 3. KIỀU THỀ NGUYỀN VỚI KIM TRỌNG

Dan díu vì ai luống ngẩn ngơ
Để ai gió đón lại trăng chờ !
Sông Ngân chưa bắc cầu Ô thước
Phận liễu còn e trận gió mưa
Lựa mối tơ tình năm ngón dạo
Dẹp lò lửa dục một lời thưa
Đuốc hoa muốn vẹn niềm băng tuyết
Nào phải trăng hoa khéo ỡm ờ.

Hồi 4. KIỀU CẬY EM THAY LỜI

Sự đâu sóng gió nổi cơn đen
Chín chữ cù lao phải báo đền
Ân nặng quản chi liều phận thiếp
Tình thân âu sẽ chắp duyên em
Nước non nghìn dặm đôi hàng lệ
Tâm sự năm canh một bóng đèn
Ướm hỏi Liêu Dương người có biết ?
Này là trâm quạt của làm tin.

Hồi 5. KIỀU BÁN MÌNH CHUỘC CHA

Thử đem tình hiếu bắc đồng cân
Trăm thảm nghìn sầu góp một thân
Bèo dạt mây trôi đành với phận
Đào tơ liễu yếu ngán cho xuân
Giọt sương trĩu nặng hoa lìa gốc
Vạ gió gây nên nước đến chân
Nông nỗi hợp tan lời gắn bó
Trời già âu cũng mở đường nhân.

Hồi 6. VƯƠNG ÔNG ĐƯỢC THA

Tình trong uy phép chẳng qua tiền
Lo liệu sao đây được vẹn tuyền
Phận bạc cũng liều son với phấn
Mình vàng âu dễ trắng thay đen
Dấu bèo nhờ có đèn trời rạng
Lượng bể dong cho sóng đất êm
Minh thịnh nay mừng đời thánh đế
Nào phường gái hiếu với quan liêm.

Hồi 7. KIỀU VỀ TRÚ PHƯỜNG

Bao giờ duyên thắm bỗng nên phai
Bèo nước lênh đênh bước lạc loài
Thề nặng còn ghi năm bẩy hẹn
Tình sâu sẽ rỉ một đôi lời
Quấy lầm vẻ ngọc, bùn lai láng
Thổi nát màu hoa, gió tả tơi
Trằn trọc năm canh sầu chín khúc
Ngăn rào riêng để thiệt cho ai.

Hồi 8. TÚ BÀ KHUYÊN KIỀU

Sa chân trót đã xuống thuyền buôn
Cả giận thôi thôi khó nghĩ khôn
Non nước chắc chi lời ước cũ
Phong trần liều với mũi dao con
Hoa lìa dưới trướng hồn man mac
Gió thổi bên tai giọng ngọt ngon
Cho biết tay già là tổ bợm
Dù ai bóp bẹp cũng vê tròn.

Hồi 9. KIỀU MẮC LẬN SỞ KHANH

Những nghĩ chim lồng chắp cánh bay
Họa khi vận rủi có hồi may
Làng nho người cũng coi ra vẻ
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay(1)
Hai chữ tin hồng cao gác nguyệt
Một roi vó ký tếch đường mây
Mẫu đơn vùi dập cơn mưa gió
Cái nợ yên hoa khéo đọa đày.

Hồi 10. TÚ BÀ DẠY NGHỀ CHƠI

Bước tới lui ra luống ngại ngùng
Thôi thôi ta đã mắc vào vòng
Bán buôn quen những lời chênh lệch
Nghề nghiệp này thêm cách lạ lùng
Trăng tỏ đài gương người thẹn bóng
Hoa đưa trướng gấm khách tô hồng
Xin đừng cậy sắc khoe tài nữa
Muốn học điều hay phải tốn công.

Hồi 11. KIỀU GẶP THÚC SINH

Tài sắc thương thay cũng một đời
Lầu xanh lần lữa buổi hôm mai
Dấu bèo đã chắc đâu là đất
Lòng kiến may ra thấu đến trời
Chín khúc chưa nguôi cơn gió thảm
Nghìn vàng đã chuốc chén hoa cười !
Bó tay nào biết là chàng Thúc
Cũng gớm gan cho thói bốc rời !

Hồi 12. KIỀU LẤY THÚC SINH

Mảng vui quán Sở lại lầu Tần
Lựa sợi tơ vươn chắp mối dần
Núi tác hợp nhờ tay tạo hóa
Bể trầm luân thoát nợ phong trần
Lửa hương tình lại ưa duyên mới
Mưa gió hoa cùng rạng vẻ xuân
Tưởng lúc cung đàn khi cuộc rượu
Trăng thề soi bóng vẹn mười phân.

Hồi 13. THÚC SINH VỀ THĂM HOẠN THƯ

Trong nửa năm trời mới bén hơi
Hồ vui xum hợp lại xa khơi
Chén đưa lòng những băn khoăn nỗi
Dặm thẳng hồn còn lẩn quất nơi
Nước lã ra chừng coi cũng lắng
Bồ hòn hồn dễ ngậm làm tươi,
Ghê cho cái gái tay đanh đá
Đon đả càng thêm vẻ nói cười.

Hồi 14. KIỀU MẮC TAY HOẠN THƯ

Ầm ầm kéo đến lu đầu trâu
Cơ hội gây nên bởi tại đâu ?
Hồn bướm còn đương mơ giấc thẳm
Miệng hùm thoắt đã mắc mưu sâu
Bơ vơ chiếc nhạn trăng in bóng
Tan tác chồi hoa gió thổi sầu
Ngẫm nghĩ nguồn cơn trời cũng nghịch
Trêu nhau rồi lại gap tay nhau.

Hồi 15. KIỀU Ở QUAN ÂM CÁC

Nhạt nhẽo mùi thuyền bữa muối rau
Chuông rền mõ ruổi lại thêm sầu
Cầm bằng nương náu qua ngày bụt
Đã chắc nguồn cơn trọn kiếp tu
Hai chữ nhân duyên cơn gió thoảng
Một mình đèn sách bóng trăng thu
Bể trầm luân biết đâu là bến
Tế độ nhờ tay bắc lấy cầu.

Hồi 16. THÚC SINH LÉN THĂM KIỀU

Những căm giàm buộc mắc tay già
Nửa bước đường đi mấy dặm xa
Án bút thẩn thơ người viết kệ
Rừng thuyền lấm lét khách tìm hoa
Câu kinh bối diệp câu thơ họa
Giọt nước dương chi giọt lệ pha
Bỗng phút lưng trời cơn sét dậy
Tường đông sư tử lộ đầu ra.

Hồi 17. KIỀU GẶP TỪ HẢI

Những nghĩ nương mình chốn cửa không
Gỡ ra sao khéo buộc vào vòng
Nước non lại gặp thần mày trắng
Quả kiếp còn đeo nợ má hồng
Bể khổ nào ai tay tế độ
Cõi trần mấy kẻ mặt anh hùng
Lạ cho lời nói nên tri kỷ
Hương bén mùi duyên lửa lại nồng.

Hồi 18. KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN

Phấp phới lầu trang gió thổi cờ
Rồng mây cá nước lúc duyên ưa
Hạ oai sấm sét gươm ba thước
Tạ đức cao sâu thiếp một tờ
Nếm thử ngọt cay sau mới trải
Đền xong ân oán trước đâu ngờ
Vì cây nên phải thương dây quấn
A Hoạn rầy xem sáng mắt chưa ?

Hồi 19. TỪ HẢI RA HÀNG

Phút bỗng đem thân bỏ chiến tràng
Ba quân xơ xác ngọn cờ hàng
Xá chi bèo bọt tôi vì nước
Thẹn với non sông thiếp phụ chàng
Cung oán nỉ non đàn Bạc mệnh
Duyên may run rủi lưới Tiền Đường
Mười lăm năm ấy người trong mộng
Chẳng những là đây mới Đoạn trường.

Hồi 19b. KIỀU TRẦM MÌNH

(Bài vịnh này phụ thêm bài vịnh hồi thứ 19)
Trời xanh thăm thẳm thấu hay không
Bỗng chốc xui nên phụ tấm lòng
Trăm trận xông pha đèn trước gió
Ngàn năm công nghiệp, bọt ngoài sông
Trần ai thương hại người xương trắng
Đất nước bơ vơ phận má hồng
Sự thế đã đành dâu hóa bể
Thôi thời quyết một thác cho xong.

Hồi 20. TÁI HỢP

Một đàn giải kết mới thông linh
Những nghĩ hồn trăng lại hiện hình
Mừng rỡ xiết bao cười, nói, khóc,
Bâng khuâng nào biết nợ, duyên, tình
Hoa chưa phai thắm hương còn ngát
Người lại thêm xuân giá vẫn thanh
Chuốc chén thề xưa so phím cũ
Ngắm ai riêng những ức cho mình.

II. HAI BÀI HÁT NÓI VỊNH KIỀU

THÚY KIỀU OAN TRÁI

Bát ngát nhẽ gió thanh, trăng bạc,
Trạnh niềm xưa lại nhớ nàng Kiều.
Phận hồng nhan cay đắng trăm chiều
Cơn dâu bể phải theo thời sự.
Mình nàng tính không đường lưỡng lự
Suốt năm canh nương bóng đèn tàn
Trách ông tơ sao khéo đa đoan
Duyên chị để mượn em chắp chỉ
Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy
Tân thanh đáo để vị thùy thương(1)
Mười lăm nam trong sổ đoạn trường
Son phấn biết mấy lần trôi giạt.
Chữ tình để dành chung kiếp khác,
Đạo sinh thành trước phải đền ơn.
Gác lời thệ hải minh sơn

THÚY KIỀU LƯU LẠC

So tài tình Thuý Kiều đệ nhất
Tiết thanh minh tảo mộ Đạm Tiên
BÓng tà dương gác mái tây hiên
Theo vó ký gặp chàng Kim Trọng.
Đêm thoắt thấy thần nhân báo mộng.
Số cô còn nhiều nợ phong hoa.
Sực tỉnh cơn tưởng nỗi niềm xa
Năm canh nguyệt ủ ê chiều liễu yếu
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường (1)
Mối tơ vương xẩy cuộc tang thương
Người má phấn bên trời lưu lạc.
Ngẫm duyên mười lăm năm chếch mác
Phận hồng nhan nhiều nỗi gian truân.
Trêu ngươi chi mấy Tạo nhân.(2)

Chú thích:
(1) Bài Đề Từ của Phạm Quý Thích
(1) Bài Đề Từ của Phạm Quý Thích.
(2) Tạo nhân: ông trời.

Trích từ quyển Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ 19 của Phạm Đan Quế
– Nxb Thanh Niên in lần thứ ba 2003.