Hiển thị các bài đăng có nhãn Aleksander I. Solzhenitsyn -Ngôi nhà của Matriona (2 ). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Aleksander I. Solzhenitsyn -Ngôi nhà của Matriona (2 ). Hiển thị tất cả bài đăng

16/6/11

Aleksander I. Solzhenitsyn -Ngôi nhà của Matriona (2 )

Aleksander I. Solzhenitsyn

Ngôi nhà của Matriona

Nguyễn Văn Son dịch

Matriona đã quen sống với tôi, tôi cũng vậy. Chúng tôi sống trong sự thông cảm hoàn toàn. Bà không bao giờ làm tôi bực mình vì những câu hỏi. Có lẽ vì bà tuyệt nhiên không có cái tánh tò mò của đàn bà, hoặc vì bà quá tế nhị nên chưa có lần nào hỏi tôi đã lập gia đình bao giờ chưa. Tất cả phụ nữ ở Talnovo cứ theo hỏi bà không ngớt để bà cạy răng tôi.

“Muốn biết thì cứ tới mà hỏi ông ấy! Tôi chỉ biết có một điều là ông ấy từ xa đến”.

Và đến khi tôi kể cho bà nghe tôi đã từng ở tù rất lâu, thì bà chỉ gục gật như là đã đoán biết từ lâu.

Tôi cũng vậy, tôi chỉ nhìn thấy Matriona của hiện tại, một bà già khốn khổ đơn độc trên cõi đời, tôi cũng không dám chạm đến vết thương trong quá khứ của bà, hơn nữa tôi không hề nghĩ quá khứ của bà có thể có một điều gì đáng tìm hiểu.

Tôi được biết Matriona lấy chồng hồi trước cuộc Cách mạng, và sau đó đến ở trong căn nhà hiện tại để sống một cuộc đời cơ cực (mẹ chồng đã chết và bà không có chị em chồng còn độc thân, do đó ngay hôm sau ngày cưới, bà đã phải bắt đầu làm tất cả mọi việc trong nhà). Tôi cũng được biết là bà có sáu người con, tất cả đều chết khi còn non dại, thành thử bà không bao giờ có được một lúc hai đứa con. Sau đó, bà có một người con gái nuôi tên Kira. Chồng bà ra trận và không bao giờ trở về. Bà cũng không nhận được giấy thông báo tử trận. Mấy người đàn ông trong làng từng tham dự các trận đánh với chồng bà nói rằng hoặc ông bị bắt làm tù binh, hoặc đã tử trận mà không tìm được xác. Trong suốt tám năm sau chiến tranh, Matriona cũng phải quyết định chồng mình đã chết. Như vậy lại càng hay. Ví như ông ấy còn sống thì chắc cũng đã có vợ khác ở Ba Tây hay Úc Châu rồi. Và làng Talnovo, và cả tiếng Nga nữa cũng sẽ bị xóa mờ trong tâm khảm ổng.

Một hôm đi dạy về, tôi thấy trong nhà có người. Một ông cụ cao lớn tóc nâu sẫm; ông để nón trên đầu gối và ngồi trên chiếc ghế mà Matriona đẩy đến giữa phòng cho ông, cạnh cái lò Hòa Lan. Mái tóc dày màu nâu, lấm tấm bạc, viền cả gương mặt ông: râu, ria tiếp giáp nhau dày đặc và đen ngòm gần như bít hết miệng, hai gò má cũng đầy những râu, chỉ chừa ra một phần tai và nối liền với mấy chùm tóc đen lòng thòng từ trên đỉnh đầu; thêm vào đó là cặp lông mày rậm trông giống như hai cái cầu bắt dính vào nhau. Từ trán lên đỉnh đầu thì nhẵn thín. Tôi thấy dáng dấp của ông như muốn bộc lộ một vẻ quan trọng và trang nghiêm. Ông ngồi rất thẳng, hai tay đặt trên cây gậy chống thẳng xuống sàn nhà, trong một tư thế chờ đợi kiên nhẫn, và hình như ông nói chuyện rất ít với Matriona, đang làm việc đằng sau bếp.

Khi tôi vào, ông ta chậm chạp quay cái đầu oai vệ lại, và gọi tôi bằng một giọng thật bất ngờ:

“Này ông bạn!... Tôi không thấy bạn rõ lắm. Con tôi là học trò của bạn: Grigoriév Anton…”.

Ông khỏi cần nói tiếp… Mặc dù tôi rất muốn giúp ông nhưng tôi biết và không muốn nghe những điều vô ích mà ông sắp nói ra. Grigoriév là một cậu bé học lớp 8D có đôi má phính, có dáng điệu một con mèo ăn quá nhiều bánh “kếp”. Người ta có cảm tưởng nó đến trường chỉ để nghỉ ngơi, nó ngồi trên ghế mà cứ mỉm cười một cách lười biếng. Đương nhiên là nó không bao giờ học bài hay làm bài. Nhưng vì trường chúng tôi lúc nào cũng cố gắng để có một tỉ lệ cao những học sinh được nhận lên lớp trên (đó là một danh dự của các trường trong quận chúng tôi, trong vùng chúng tôi ở, và các vùng lân cận) nên năm nào cũng cho nó lên lớp, và nó đã hiểu rõ là dù thầy giáo có hăm dọa cách mấy, cuối năm nó vẫn được lên lớp mà khỏi cần học hành gì hết. Rõ ràng là nó chế nhạo chúng tôi bất lực. Học đến lớp tám mà nó chưa biết phân số là gì và không phân biệt nổi các loại hình tam giác. Hai tam cá nguyệt đầu, tôi chỉ cho nó có bốn điểm, và chắc chắn trong tam cá nguyệt chót cũng không thể khá hơn.

Nhưng biết nói sao với cụ già sắp mù lòa này bây giờ? Đối với Anton, ông ta phải là ông nội mới thích hợp hơn là cha, và giờ đây ông ta đến gặp, tôi sẽ khẩn khoản nói là từ nhiều năm nay nhà trường đã lừa ông, là tôi không thể tiếp tục lừa ông được nữa, nếu không thì cả lớp học của tôi sẽ hỏng bét, tôi sẽ tự biến tôi thành một người xấu, cũng như phản lại tất cả các công trình tôi đã thực hiện và cả phẩm giá của một nhà giáo nữa.

Và tôi kiên nhẫn giải thích cho ông hiểu là con ông đã buông trôi quá độ, nói dối cả ở nhà lẫn ở trường, ông phải xét phiếu điểm của nó thường xuyên hơn, đồng thời tiếp tay với nhà trường ép nó học.

“Làm sao ép nó hơn được nữa hả ông?” Ông trả lời đầy quả quyết. “Tuần nào tôi cũng đánh đòn nó hết. Và tôi không nhẹ tay đâu”.

Trong câu chuyện tôi nhớ có một lần Matriona chen vô không hiểu tại sao, để bênh vực thằng Anton Grigoriév, nhưng tôi cũng không hỏi bà họ hàng với nó như thế nào, và chỉ đáp lại bằng sự từ chối. Lần này bà ra đứng nơi cửa bếp với vẻ van nài câm lặng. Đến khi Faddéi Mironovitch ra về với quyết định sẽ trả lời gặp tôi xem chuyện sẽ đi đến đâu, tôi mới hỏi:

“Tôi không thể hiểu nổi bà, sự liên lạc giữa thằng Anton và bà như thế nào hả Matriona Vassiliévna?”

“Nó là con của anh chồng tôi”, bà trả lời cộc lốc, rồi đi vắt sữa dê.

Thì ra ông cụ già đen đúa và lì lợm đó là anh ruột của ông chồng mất tích của bà.

Cả buổi tối hôm đó, bà không trở lại câu chuyện ấy nữa. Đến khuya, khi hình ảnh của ông cụ đã ra khỏi đầu óc tôi và tôi đang làm việc trong sự im lặng, chỉ bị quấy rầy bởi tiếng sột soạt của mấy con gián và tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường, thì bỗng nhiên từ trong góc phòng bà nói vọng ra:

“Ngày xưa tôi suýt lấy ông ấy đó, Ingatitch”.

Tôi đã quên luôn cả sự hiện hữu của Matriona, sự hiện diện của bà, tôi không nghe tiếng bà, nhưng những lời nói đó vọng ra từ bóng tối, chứa đựng nhiều xúc động đến nỗi người ta có cảm tưởng ông cụ già đó vẫn còn đeo đuổi bà ráo riết.

Thấy rõ ràng là suốt buổi tối bà không nghĩ đến chuyện gì khác hơn.

Bà bước xuống khỏi chiếc giường nghèo khổ làm bằng giẻ rách của bà, và chậm chậm tiến về phía tôi như thể bà đi theo lời nói vậy. Tôi ngả người vào lưng ghế, và lần đầu tiên tôi nhìn thấy Matriona khác hẳn mọi khi.

Trong căn phòng ngổn ngang những gỗ sung như một đám rừng, không có đèn trên trần. Vòng ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn trên bàn viết của tôi chỉ soi sáng mấy quyển vở, và khi mắt tôi rời khỏi vùng ánh sáng đó, cả căn phòng chìm đắm bởi sự mờ ảo của cái tranh tối tranh sáng.

“Chính ông ấy là người tán tỉnh tôi trước… trước Efime… Faddéi là anh cả… Tôi vừa tròn mười chín tuổi, còn Faddéi thì đã hai mươi ba… Lúc đó họ sống trong ngôi nhà này. Đây là nhà của họ. Chính ba của họ cất lên”.

Bất giác, tôi nhìn khắp căn phòng. Bỗng nhiên căn nhà cũ kỹ xám xịt, mục nát này, qua lớp xanh mét lót tường, phía dưới đáy đầy chuột chạy, trở thành mới hẳn, với những lóng gỗ bào chưa có thì giờ ngả màu đen và tỏa ra một mùi nhựa thông tươi mát.

“Rồi ông ấy, và bà?... Rồi sao nữa?”

“Mùa hè năm ấy… chúng tôi cùng đi vào rừng, bà thì thào. Rừng hồi đó là chỗ mấy cái chuồng ngựa bây giờ đó, người ta đốn hết rồi. Tôi sắp lấy ông ta. Chiến tranh chống Đức khởi phát. Họ bắt Faddéi ra trận”.

Bà ngừng lại và trước mắt tôi vụt hiện ra tháng Bảy năm 1914 với những màu thiên thanh, trắng, vàng: bầu trời hãy còn êm ả, có mây trắng bềnh bồng, và dân chúng chen chúc nhau trong đám lúa chín. Tôi thấy họ đi cạnh nhau: một gã đàn ông cao lớn với nước da đen sẫm vác lưỡi kiếm trên vai; còn cô gái, mặt đỏ hồng, ôm một bó lúa. Rồi một bài hát, một bài hát dưới vòm trời, mà giờ đây, ở thời đại máy móc này, người ta không còn biết hát nữa.

“Ông ấy ra trận, mất tích… Ba năm trời tôi tự giam mình trong vỏ sò, chờ đợi. Nhưng không một tin tức nào cả, hài cốt cũng không…”.

Quấn trong một cái khăn choàng cũ xưa, khuôn mặt tròn của Matriona trong ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn bỗng nhiên mất hết các nếp nhăn, không còn cái vẻ lôi thôi lếch thếch ngày thường, mà giờ đây là khuôn mặt sợ hãi của một thiếu nữ đứng trước một sự lựa chọn ghê gớm.

Vâng… vâng… Tôi hiểu… bao lần lá rụng, bao lần tuyết rơi rồi tan. Rồi lại cày bừa, rồi gieo giống, rồi mùa gặt lại đến. Và lá lại rụng và tuyết lại rơi: rồi một cuộc Cách mạng bùng nổ. Tiếp theo là một cuộc Cách mạng khác. Và cả thế giới đảo lộn.

“Má họ mất và Efime bắt đầu tán tỉnh tôi. Ổng nói như vầy: Em đã từng muốn đến ở nhà chúng tôi, em cứ đến đi. Efime trẻ hơn tôi một tuổi. Ở đây người ta thường bảo: gái ngoan lấy chồng vào ngày lễ Cầu nguyện, gái dại vào ngày lễ Thánh Pierre và Paul. Gia đình ổng thiếu người làm lụng. Thế là tôi nhận lời cầu hôn. Chúng tôi thành hôn nhằm ngày lễ Thánh Pierre và đến ngày lễ Thánh Nicolas mùa đông thì Faddéi trở về… từ các trại giam Hung Gia Lợi”.

Matriona nhắm mắt lại.

Tôi ngồi lặng thinh.

Bà quay sang cánh cửa như thể là nó có sự sống:

“Ông dừng lại nơi cửa. Tôi thét lên một tiếng! Tôi chạy đến phủ phục dưới chân ông!... Bộ không thể… thôi được, ông ta nói, nếu không phải là em tôi thì tôi đã giết hết cả hai rồi!”.

Tôi giật mình. Qua sự phấn khích và kinh hãi của Matriona, tôi hình dung ông ta với tất cả sự sống động, đang đứng ở đó, đen đúa: giữa khung cửa tối om, lưỡi búa lờn vờn trước mặt Matriona.

Nhưng bà đã dịu lại, dựa vào chiếc ghế trước mặt, kế tiếp với giọng nỉ non của bà:

“Ôi chao, tội nghiệp ông ấy quá! Trong làng có thiếu gì con gái, nhưng ông không chịu lấy ai hết. Ông đã bảo: “Tôi sẽ đi tìm tên em, một Matriona khác”. Và cuối cùng ông cũng mang về một Matriona khác, từ Lipovka; họ cất riêng cho họ một ngôi nhà, hiện giờ họ còn sống ở đó, ngày nào ông ấy cũng đi ngang qua đây để đến trường”.

À thì ra thế! Bây giờ tôi hiểu là tôi đã hơn một lần gặp bà Matriona thứ hai rồi. Tôi cũng không thích bà ấy, bà hay đến than phiền với Matriona của tôi là chồng bà đánh đập bà, là ông ta keo kiệt, là ông khảo tiền bà, rồi bà khóc rất lâu và giọng lúc nào cũng như thổn thức.

Nhưng hậu quả là Matriona của tôi không có gì để hối tiếc cả: Faddéi đã đánh đập vợ, cho đến nay vẫn còn tiếp tục hành hạ bà ta, và khắc nghiệt với mọi người khác trong nhà.

“Còn tôi thì “ổng” của tôi chưa bao giờ đánh tôi một lần nào, ý bà muốn nói đến Efime. Ra đường thì ông ấy rượt và thoi đàn ông, nhưng với tôi thì không bao giờ dùng quả đấm. Đúng ra thì có một lần: tôi cãi nhau với chị Matriona, ông đã đánh gãy một cái muỗng bằng gỗ vào trán tôi. Tôi liền phóng ra khỏi bàn: “Cho tụi bây chết luôn, đồ lười!”. Xong tôi bỏ vô rừng. Từ đó ông ấy không bao giờ đụng đến tôi nữa”.

Bề ngoài Faddéi cũng không có gì để hối tiếc. Matriona của ông cũng hạ sanh được sáu người con (trong số đó có Anton, con út và tệ nhất), cả sáu người đều còn sống, trong khi Matriona và Efime thì không giữ được con mình: chúng đều chết trước ba tháng mà không bệnh hoạn gì hết.

“Một trong mấy đứa con gái của tôi, Héléna, vừa lọt lòng, tắm rửa xong nó vẫn còn sống, nhưng rồi cũng lại chết ngay sau đó. Thành thử không cần phải làm phép tắm người chết cho nó… Cũng như ngày cưới của tôi là ngày lễ Thánh Pierre, tôi chôn đứa thứ sáu, thằng Alexandre, vào dịp lễ Thánh Pierre”.

Và cả làng đều quả quyết bà Matriona bị điều gở.

“Tôi bị một ”cục gỗ!” Bây giờ Matriona vẫn còn nói, gục gật đầu ra vẻ tin lắm. Người ta đã dẫn tôi đi chữa ở nhà một cựu nữ tu sĩ. Bà ấy bắt tôi ho, và bảo là cục gỗ sẽ văng ra từ cuống họng của tôi dưới hình thức một con ếch, nhưng tôi không thấy con ếch nào nhảy ra hết…”.

Năm tháng trôi qua, như nước chảy dưới cầu… Năm 1941, người ta không bắt Faddéi ra trận nữa vì mắt ông ấy quá yếu, trái lại người ta bắt Efima. Và giống như ông anh trong cuộc chiến thứ nhất, trong cuộc chiến thứ hai ông em cũng mất tích. Có điều là ông em không bao giờ trở về. Ngôi nhà ồn ào ngày nào, giờ đây mục nát, cằn cỗi dần, và Matriona càng ngày càng già đi trong sự đơn độc.

Rồi bà xin Matriona kia một mảnh thịt của bà (hay đúng hơn là một giọt máu của Faddéi): cô con út Kira.

Bà đã nuôi dưỡng đứa bé ấy tại đây, trong suốt mười năm như con ruột để thay thế những đứa đã mất. Và trước khi tôi đến ít lâu, bà đã gả cô cho một anh tài công ở Tchérousti. Từ đó bà bắt đầu nhận được sự giúp đỡ nhỏ giọt của họ: lúc thì họ cho đường, lúc thì cho mỡ khi nào họ giết heo.

Đau đớn vì bệnh hoạn, nghĩ mình sắp chết, Matriona đã cho biết ước nguyện cuối cùng của mình: cái chái nhà cạnh (căn phòng đẹp) cùng nằm dưới một mái, sẽ thuộc về Kira sau khi bà chết. Bà không nói gì về căn nhà gỗ hết. Còn ba người em gái của bà, họ đang hy vọng thừa hưởng căn nhà gỗ ấy.

Thế là, tối hôm đó, Matriona thổ lộ hết với tôi. Và, như chuyện đời thường thấy, sự liên hệ gia đình và ý nghĩa cuộc sống của bà mà tôi vừa mới khám phá ra đã đến quấy rối bà trong những ngày sau đó. Kira từ Tchérousti về, ông cụ Faddéi lo lắng. Muốn xin và giữ một miếng đất nhỏ ở Tchérousti, hai vợ chồng trẻ ấy phải có tại đó một căn nhà, loại nào cũng được. “Căn phòng” của Matriona thích hợp hoàn toàn. Ngoài ra, không có cách nào khác, vì đào đâu ra gỗ để xây nhà. Vả lại, không phải Kira, hay chồng của cô ta, mà chính lão Faddéi nôn nóng nhất định giành cho được mảnh đất ở Tchérousti, vì lòng tham.

Thế là ông đến chơi nhà chúng tôi thường hơn. Ông đến lần thứ nhất, rồi lần thứ nhì. Bằng giọng kẻ cả, ông đòi bà phải cho ông “căn phòng” ngay khi bà còn sống. Mấy lần sau này, tôi không còn thấy ở ông ta một cụ già khả kính hai tay chống trên gậy, sẵn sàng tan thành tro bụi vì một cơn gió nhẹ hay vì một lời nói lỗ mãng cỏn con. Mặc dù hơi còng lưng vì bị đau thận, nhưng ông vẫn còn giữ được vẻ lanh lẹ gọn gàng, và tuy đã hơn sáu mươi tuổi, tóc ông vẫn đen mướt như lúc còn xuân. Ông ta tấn công rất hăng hái.

Hai đêm liền, Matriona không ngủ được. Khó quyết định quá. Không phải bà tiếc “căn phòng” từ trước tới giờ chưa sử dụng tới, vì có bao giờ bà tiếc gì đâu, ngay cả sự nhọc nhằn hay của cải của bà? Hơn nữa “căn phòng” đó dù sao bà cũng dành cho Kira rồi kia mà. Nhưng điều làm bà lo lắng là phải phá hủy cái mái nhà đã từng che nắng che mưa cho bà suốt bốn mươi năm trường. Ngay cả tôi, chỉ là người ở đậu, tôi cũng đau lòng khi thấy người ta tháo những tấm ván ra, và hạ những cây kèo của căn nhà xuống. Đối với Matriona, thế là hết cả cuộc đời bà.

Nhưng bọn người muốn đòi cho bằng được thì biết là họ có thể phá hủy căn nhà ngay lúc bà còn sinh tiền.

Và một buổi sáng tháng hai, Faddéi kéo đám con trai và rể đến, và cùng một lúc năm lưỡi búa bổ xuống, các tấm ván gào thét, rên rỉ khi bị tháo tung ra. Đôi mắt Faddéi sáng ngời: ông ta thỏa mãn. Mặc dù lưng ông không thể đứng thẳng hoàn toàn, ông cũng thoăn thoắt leo lên tận mấy cái đòn tay trên mái, xuống dưới thì lăng xăng la lối mấy người phụ ông. Căn nhà gỗ này ông đã tự tay xây cất cùng với cha ông khi còn bé; người ta đã gọt đẽo và dựng “căn phòng” cho ông để ông cùng vợ sinh sống. Giờ đây ông hùng hổ tháo gỡ nó ra, từng lóng xương một, để mang đi.

Sau khi họ đánh số các cây kèo và mấy tấm ván của trần nhà, họ bắt đầu tháo “căn phòng” và cái gác xép của nó. Còn ngôi nhà gỗ với những sàn gác đóng đầy bụi đất thì họ ngăn ra bằng một tấm phên mỏng. Họ bỏ mặc mấy cái khe hở trong tường và điều đó chứng tỏ kẻ tàn phá và người xây dựng là hai thái cực, vả lại họ nghĩ là Matriona sẽ không còn sống được bao lâu nữa.

Trong khi đàn ông lo phá nhà thì đàn bà lo cất rượu để uống trong ngày chở gỗ: vì uống Vodka đắt quá. Kira mang về từ vùng Moscou một “pu” đường; ban đêm Matriona Vassiliévna mang đường và chai đến nhà người cất rượu lậu.

Các lóng gỗ của sườn nhà đã được gỡ ra và chất thành đống trước cổng, người con rể tài công đã đi Tchérousti để kiếm máy kéo.

Nhưng hôm đó bão tố bắt đầu nổi dậy, “ngọn gió con con” như Matriona hay nói. Gió như múa may quay cuồng trong suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ và phủ lên mặt đường một lớp tuyết dày đặc. Sau đó, khi người ta vừa mới nện lớp tuyết trên đường, một vài chiếc vận tải chạy thì trời dịu bớt cơn thịnh nộ. Một ngày sau tuyết bắt đầu tan, sương mù ẩm ướt buông xuống, các con suối nhỏ róc rách tìm đường trong băng tuyết và chân người lún sâu gần đến cổ giày ống.

Suốt hai tuần lễ “căn phòng” không chịu cho máy kéo lôi đi! Trong mười lăm ngày đó, Matriona như mất hồn. Điều làm bà hết sức khổ tâm là ba bà em gái đã đến hè nhau mắng nhiếc bà là đồ ngu vì đã cho “căn phòng”, bảo là không muốn thấy mặt bà nữa, xong rồi họ bỏ đi.

Cũng trong những ngày ấy, con mèo cà thọt cũng bỏ nhà đi mất biệt. Bao nhiêu chuyện dồn dập cùng một lúc. Điều đó cũng làm Matriona khổ tâm.

Sau cùng con đường không được sử dụng lại đông thành băng đá. Thế là có được một ngày sáng sủa và lòng người cũng thấy nhẹ bớt phần nào. Sáng hôm đó Matriona mơ một giấc mơ đẹp. Lúc sáng sớm tôi cho bà biết tôi muốn chụp ảnh một người ngồi trước máy dệt (bà có máy dệt đặt tại hai căn nhà gỗ, được dùng để dệt vải làm khăn lau), bà trả lời với một nụ cười thẹn thùng:

“Ông hãy chờ một vài ngày, Ingatitch nhé! Để tôi cho “căn phòng” đi cái đã, tôi sẽ ráp cái máy dệt của tôi, còn tốt lắm, và ông sẽ chụp ảnh tôi. Tôi nói thiệt mà!”.

Rõ ràng là bà đang nghĩ đến thời xuân sắc. Ánh nắng hồng của mùa đông phớt nhẹ trên cửa sổ băng giá của căn phòng tiền đình, giờ đây đã thu ngắn lại, và sưởi ấm khuôn mặt bà. Những người sống trong sự thanh thản của lương tâm bao giờ cũng giữ được một khuôn mặt đẹp.

Buổi chiều khi đi dạy về, tôi thấy có sự nhốn nháo ở cạnh nhà chúng tôi. Những lóng gỗ tròn đã được chất lên một chiếc xe trượt lớn để máy kéo mang đi. Có tất cả chín lóng, nhưng vì không đủ chỗ nên gia đình cụ Faddéi và những người được gọi đến giúp phải chất bớt lên một chiếc xe trượt khác, mà họ vừa chế biến ngay tại đó. Mọi người làm việc như điên, với sự hăng say của những người được hứa một phần thưởng quan trọng hay một bữa tiệc linh đình. Họ la lối, giành giật nhau để làm cho nhanh.

Vấn đề đang bàn cãi là nên kéo hai xe cùng một lúc hay mỗi lần một chiếc. Một trong mấy người con trai của Faddéi, anh chàng đi cà nhắc, và người con rể tài công cho là không thể kéo hai xe cùng một lúc, là máy kéo sẽ không đủ sức. Nhưng anh tài xế máy kéo, một anh chàng khỏe mạnh với bộ mặt thô bỉ, có vẻ tự tin, với giọng khàn, đã la to lên là phải để anh ta quyết định vì anh ta mới là tài xế, và anh đã kéo một lượt cả hai xe. Sự tính toán của anh ta đã rõ ràng: anh đã thỏa thuận với anh tài công về giá tiền chuyên chở, chớ không phải bao nhiêu chuyến đi. Đi hai lần hai mươi lăm cây số cộng thêm một chuyến trở về, anh ta sẽ không thể nào làm kịp trong một đêm. Trong khi anh ta đã lấy lén để kiếm thêm chút tiền sau giờ làm việc.

Cụ Faddéi thì muốn gấp rút đem hết “căn phòng” về trong nội nhật ngày hôm đó nên ra hiệu cho mấy người kia đồng ý. Họ bèn buộc chiếc xe thứ hai, làm theo kiểu “đi nhanh”, kiên cố hơn, vào chiếc thứ nhất. Matriona chạy lăng xăng giữa đám đàn ông, giúp họ lăn các lóng gỗ lên xe. Lúc đó tôi mới để ý thấy bà mặc cái áo choàng của tôi, và đã làm dơ hai tay áo vì lớp bùn ở các lóng gỗ, tôi liền lưu ý bà với giọng bất bình. Chiếc áo này đối với tôi là cả một kỷ niệm, nó đã từng sưởi ấm tôi trong bao nhiêu năm gian khổ. Và đó là lần đầu tiên tôi thấy giận Matriona.

“Chết chưa! Tôi mất hồn rồi!” Bà ngẩn người ra nói, “tại tôi chụp vội trong khi đang chạy nên quên đó là áo của ông. Ingatitch tha lỗi nhé!” Nói xong bà liền cởi ra và đem đi phơi.

Gỗ đã chất hết lên xe và tất cả những ai làm việc ở đó, độ mười người, ồn ào kéo nhau đi qua bàn tôi đang ngồi và chui xuống dưới cái màn dưới bếp. Tôi nghe tiếng chạm ly chát chúa, thỉnh thoảng một tiếng ngân của bình rượu, tiếng họ nói càng lúc càng to lên, họ khoe khoang càng lúc càng lố lăng. Anh chàng tài xế khoe khoang nhiều nhất. Hơi rượu nặc nồng bay lên tận mũi tôi. Nhưng họ không ở lại lâu để uống rượu, màn đêm buông xuống bắt họ phải đi gấp. Họ bắt đầu ra ngoài. Anh tài xế bước ra đầy tự mãn, mặt lầm lì. Người con rể tài công, người con trai cà nhắc và một trong số những đứa cháu của Faddéi sẽ đi theo xe. Mấy người kia về nhà họ. Faddéi quơ gậy và chạy đuổi theo một người nào không rõ: ông ta muốn căn dặn điều gì đó. Người con cà nhắc dừng lại cạnh bàn tôi ngồi để châm một điếu thuốc rồi bỗng nói chuyện với tôi. Anh bảo là thương thím Matriona của anh lắm, là anh vừa mới cưới vợ, và vừa có một đứa con trai. Đúng lúc đó có người gọi anh nên anh đi ra. Tôi nghe tiếng ù ù của máy kéo sau cánh cửa sổ.

Matriona là người cuối cùng bước ra khỏi tấm vách ngăn nhà bếp. Bà đưa mắt nhìn theo những người vừa ra đi, gật gù đầy vẻ lo ngại. Bà choàng vội một chiếc áo ngoài bằng dạ, trùm lên đầu một chiếc khăn. Đến cửa bà quay lại nói với tôi:

“Đáng lẽ họ phải thuê hai máy kéo. Lỡ một máy hư thì máy kia còn kéo được. Chớ như vậy, không biết được chuyện gì sẽ xảy ra!”.

Rồi bà chạy theo họ.

Sau cuộc nhậu nhẹt, những cãi vã và sự lăng xăng nhốn nháo, căn nhà gỗ giờ đây trống trải, thanh vắng; và vì cánh cửa cứ mở ra hoài nên hơi ẩm đã thoát đi. Bên ngoài trời tối đen như mực. Tôi cũng lấy áo ấm mặc vào và ngồi sửa bài. Đằng xa tiếng máy kéo tắt dần.

Một giờ đã trôi qua, rồi một giờ nữa. Thêm một giờ thứ ba. Matriona vẫn chưa về, nhưng tôi không ngạc nhiên lắm: sau khi đi theo xe trượt một khúc, có lẽ bà đến nhà bà bạn Macha.

Lại một giờ trôi qua. Rồi một giờ khác. Không phải chỉ có bóng đêm dày đặc, mà một sự im lặng nặng nề bao trùm lên khắp thôn làng. Tôi không hiểu nổi lý do của sự im lặng đó: sau đó tôi mới biết là, suốt buổi tối, không có một chiếc xe lửa nào chạy qua trên đường sắt cách nhà chúng tôi khoảng nửa cây số. Máy thu thanh tôi đã tắt và tôi để ý thấy bọn chuột chưa bao giờ lại lộng hành như vậy. Chúng chạy càng lúc càng bạo và càng ồn dưới lớp giày. Chúng còn cào sột soạt và kêu chí chóe nữa.

Tôi vẫn còn thức. Đã hơn nửa đêm rồi mà Matriona vẫn chưa về.

Bỗng nhiên tôi nghe nhiều tiếng người nói trong làng. Tuy ở xa nhưng có một cái gì làm tôi nghĩ là họ đang đi về hướng nhà chúng tôi. Đúng vậy, không bao lâu tôi nghe tiếng chạm cửa thật mạnh. Một giọng nói xa lạ, dõng dạc kêu mở cửa. Tôi lấy một cây đèn bấm và bước ra giữa bóng đêm dày đặc. Cả làng đang chìm trong giấc ngủ, không thấy có ánh đèn qua cửa sổ, và lớp tuyết sau một tuần đã bắt đầu tan nên cũng không còn chiếu sáng. Tôi xoay cái chốt ở dưới và mời họ vào. Bốn người đàn ông mặc áo choàng đi vô trong nhà gỗ. Thật cũng không thích thú gì khi thiên hạ đến nhà bạn lúc nửa đêm mà còn ồn ào và mặc đồng phục.

Dưới ánh sáng, tôi nhận thấy, trong số bốn người, có hai người mặc áo choàng của thợ quét lò sưởi. Người trọng tuổi nhất, mập mạp, có bộ mặt giống như anh tài xế máy kéo, hỏi:

“Bà chủ nhà đâu?”

“Tôi không biết”.

“Cái máy kéo và mấy chiếc xe trượt có phải từ ở đây đi không?”

“Phải”.

“Trước khi đi họ có uống rượu phải không?”

Cả bốn người đều nheo mắt nhìn soi mói vào ánh sáng lờ mờ tỏa ra từ ngọn đèn trên bàn viết của tôi.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?”

“Lo trả lời những câu hỏi của chúng tôi đi!”

“Nhưng…”

“Khi họ đã say rồi phải không?”

“Họ đã uống rượu tại đây phải không?”

Có ai bị ám sát chăng? Hay là họ cấm chở “căn phòng” đi? Họ có vẻ nhất quyết muốn biết. Một điều chắc chắn là với cái vụ cất rượu, Matriona có thể đi tù như chơi.

Tôi lùi lại phía cánh cửa nhỏ nhà bé và đứng lấp nó lại.

“Thật tình tôi không để ý. Tôi không thấy gì hết” (và quả thật, tôi có thấy gì đâu, tôi chỉ có nghe thôi).

Tôi làm một động tác với bàn tay để tỏ vẻ bất lực và chỉ cho họ thấy tình trạng của căn nhà: một thứ ánh sáng hiền hòa trên bàn viết của tôi tỏa xuống sách và vở; đám gỗ sung như sợ hãi; cái giường thô sơ của kẻ ẩn sĩ. Không có một dấu vết gì gọi là trụy lạc cả.

Họ cũng đã nhận thấy ở đây không có dấu vết gì của rượu chè. Thế nên họ đi ra phía cửa, vừa nói với nhau là không có ai đã uống rượu trong nhà này, nhưng phải chi nhận được có dấu vết nhậu nhẹt thì hay quá. Tôi đưa họ ra và cố tìm kiếm xem chuyện gì đã xảy ra. Chỉ khi ra tới cổng một người trong bọn mới càu nhàu:

“Nó đụng họ nát bét hết tất cả. Không làm sao nhặt được những mảnh thịt vụn!”.

Một người khác thêm vào:

“Như vậy cũng chưa đáng kể: chuyến xe tốc hành số 21 suýt bị trật đường rầy, lúc đó mới ghê nữa”.

Và họ bỏ đi mất.

Tôi trở vào nhà, thảng thốt. Họ là ai? Tất cả là ai với ai? Và Matriona hiện ở đâu?

Tôi vén màn bước sang nhà bếp. Mùi rượu nặc nồng làm tôi lợm giọng. Cả một sự ngổn ngang lạnh lẽo: ghế nhỏ, ghế dài chồng chất, chai không lăn lóc, có một chai còn khá đầy rượu, ly tách, cá mòi, củ hành và mỡ vụng còn dư.

Tất cả đều chết lặng. Chỉ có mấy con gián là bình thản bò trên bãi chiến trường.

Họ có nói đến chuyến xe tốc hành 21. Tại sao họ nói đến chuyến xe đó? Lẽ ra mình nên cho họ thấy tất cả những cái này? Tôi bắt đầu thấy hoang mang. Nhưng sao lại có cái lối kỳ cục là không bao giờ chịu giải thích cho những người không phải của chính quyền hết vậy? Bỗng nhiên cánh cửa rít lên. Tôi chạy vội ra.

“Matriona Vassiliévna, bà đó hả?”.

Cánh cửa mở ra. Bà bạn Macha của Matriona bước vào, loạng choạng, bẻ tay không ngừng.

“Ôi! Matriona… Matriona của chúng ta… Ingatitch ơi…!”.

Tôi dìu bà ngồi xuống, bà kể lại mà nước mắt cứ pha lẫn vào câu chuyện.

Nơi giao điểm của đường lộ và đường sắt có một cái dốc cao. Nơi đó không có cổng xe lửa. Cái máy kéo đã qua được với chiếc xe trượt thứ nhất, nhưng dây cáp bị đứt và chiếc xe trượt thứ nhì, cái được ứng chế, bị kẹt ngay trên đường sắt và sắp đổ ra. Faddéi không có chất gỗ tốt trên chiếc xe thứ hai. Họ đã đẩy chiếc xe thứ nhất ra xa một quãng rồi mới quay lại tìm chiếc xe này. Anh tài xế và đứa con cà nhắc cố tìm cách buộc dây cáp ngay tại chỗ xe kẹt, vậy mà Matriona cũng phải xen vô. Bà giúp ích được gì cho mấy gã đàn ông? Lúc nào bà cũng xen vô chuyện của đàn ông. Cũng như lần bà suýt bị con ngựa quật bà xuống hồ đầy băng tuyết vậy. Tại sao bà lại đến cái nơi giao lộ mắc dịch ấy làm gì? Bà đã cho “căn phòng”, bà đã làm hết bổn phận, bà đã xong nợ rồi… Anh tài công thì cứ nhìn về phía Tchérousti vì sợ có xe lửa từ hướng đó tới, từ đằng xa thế nào cũng thấy đèn của nó. Nhưng từ hướng bên này, phía ga của chúng tôi, có hai cái đầu máy kéo nhau trờ tới, không có đèn và chạy thụt lùi. Không ai biết tại sao chúng không bật đèn, nhưng khi một đầu máy xe lửa chạy thụt lùi, anh tài công bị bụi của toa chở than làm cho không thấy gì hết ở phía sau. Chúng ủi vào và nghiền nát ba người đứng giữa cái máy kéo và chiếc xe trượt. Máy kéo tan tành, xe trượt thành mảnh vụn, đường sắt bật tung lên, và hai đầu máy xe lửa lật qua một bên:

“Nhưng tại sao họ không nghe tiếng máy xe lửa đến?”.

“Tại tiếng máy kéo rền quá”.

“Còn xác của họ?”

“Người ta không cho tới gần, họ cắt người gác xung quanh”.

“Còn chuyện chuyến xe tốc hành mà tôi nghe là thế nào?... Họ bảo là một chuyến tốc hành…”

“Đó là chuyến xe mười giờ. Nó chạy ngang qua ga chúng ta mà không ngừng lại và cũng đến chỗ giao lộ. Khi hai cái đầu máy lật xuống, hai anh tài công thoát ra được, họ nhảy xuống đường sắt và chạy trở lui về phía sau. Họ ngừng lại ở đường sắt và phất tay lia lịa, họ đã chận đứng được chuyến xe tốc hành lại…”.

Đứa cháu trai của Faddéi cũng bị một cây kèo làm bị thương. Hiện giờ nó đang trốn tại nhà Klava để người ta không biết là nó đã có mặt tại nơi xảy ra tai nạn. Nếu không thì họ sẽ bắt nó làm nhân chứng!... Kẻ không biết thì yên thân, “kẻ biết” thì bị đem treo cổ… Còn chồng của Kira thì không bị xây xát chút nào. Anh ta định thắt cổ tự tử, nhưng đến phút chót anh ta được cứu thoát. Chính tại lỗi tôi, anh ta giải thích, mà cô tôi và em vợ tôi chết. Vừa rồi anh ta đã đi nạp mình. Nhưng giờ đây không cần bỏ anh ta vào tù nữa mà bỏ vô nhà thương điên! Khổ quá! Matriona, bạn Matriona yêu dấu của tôi!

Matriona không còn nữa. Một người thân yêu đã ra đi. Thế mà ngày cuối cùng tôi đã trách móc bà ta vì cái áo choàng của tôi.

Người con gái diêm dúa vẽ bằng màu đỏ màu vàng trên tấm bích chương với những cuốn sách vẫn tươi cười.

Macha ngồi khóc thêm một lúc. Khi đứng lên để ra về, bà chợt hỏi:

“Ingatitch! Ông còn nhớ… cái áo gi-lê đan của Matriona… Chị ấy hứa cho con cháu Tania của tôi sau khi chị mất, có phải vậy không?”

Trong ánh sáng lờ mờ, bà nhìn tôi tràn trề hy vọng: Có thể nào tôi quên được sao?

Nhưng tôi vẫn còn nhớ:

“Vâng, đúng bà ấy có hứa”.

“Thế thì, ông nghe này, nếu ông cho phép tôi sẽ đi lấy ngay? Kẻo sáng mai cả họ sẽ đến và như vậy tôi sẽ không lấy được nữa”.

Và bà lại nhìn tôi với vẻ van nài hy vọng. Đấy, người bạn của Matriona trong suốt nửa thế kỷ, người duy nhất thương yêu bà thực tình trong làng…

Có lẽ như vậy vẫn hơn?...

“Vâng, dĩ nhiên … Bà cứ lấy… tôi xác nhận…”

Bà mở một cái rương nhỏ, kéo chiếc gi-lê ra, nhét nó dưới lớp áo của bà rồi đi về…

Bọn chuột như lên cơn điên, chúng chạy tứ tung dọc theo mấy bức tường và lớp giấy lót màu xanh vòng lên như dợn sóng trên lưng chúng.

Buổi sáng tôi còn phải đi dạy. Đã hai giờ hơn rồi. Điều duy nhất cần phải làm là gài cửa và đi ngủ.

Phải gài then cửa vì Matriona sẽ không bao giờ về nữa.

Tôi đi nằm mà không tắt đèn. Bọn chuột cứ kêu chút chít, như rền rĩ, và nhảy nhót không ngừng. Đầu óc mệt mỏi, ý nghĩ rời rạc, tôi không thể nào xua đuổi được sự sợ hãi luôn ám ảnh tôi: tôi có cảm tưởng chính Matriona đang chạy tứ phía để nói lời vĩnh biệt với căn nhà của bà. Rồi bỗng trong góc tối cạnh cửa ra vào, tôi hình dung thấy Faddéi, còn trẻ, đen ngòm, đứng giữa khung cửa tay lăm lăm lưỡi búa:

“Nếu không phải là em tôi thì tôi sẽ giết cả hai”.

Lời hăm dọa ấy, trong suốt bốn mươi năm trời vẫn còn rình rập trong một góc nhà, như một lưỡi gươm cũ kỹ, và cuối cùng, cũng kết liễu đời Matriona.


3.

Sáng sớm mấy chị đàn bà đem về từ chỗ giao lộ tất cả những gì còn lại của Matriona, bọc trong một tấm bố bẩn thỉu, và chở trên một chiếc xe trượt tuyết nhỏ. Người ta vất tấm bố đi để tắm cho bà lần cuối. Những gì còn lại đó là một đống bầy nhầy: mất chân, mất một nửa thân, và cả cánh tay trái. Một người đàn bà trong bọn nói:

“Chúa đã để lại cho bà bàn tay mặt. Bà sẽ có thể cầu nguyện ở trên ấy”.

Và đây, đám gỗ sung mà Matriona đã yêu thương đến độ một đêm, giật mình thức dậy giữa mùi khói sặc sụa, bà không lo chạy đi cứu căn nhà mà chỉ lo ném đám gỗ sung xuống đất (cho chúng khỏi hư trong đám khói), đang được mang ra khỏi căn nhà gỗ. Mặt ván được lau chùi sạch sẽ. Tấm gương mờ của bà được che lại với một cái khăn dệt tay của thời xa xưa. Những tấm bích chương vô ích trên tường được gỡ xuống. Bàn của tôi được đẩy ra sát mấy cái cửa sổ, và dưới các pho tượng Thánh Mẫu, người ta đặt trên mấy cái ghế đỡ cỗ quan tài đóng rất thô sơ.

Trong hòm có Matriona. Thân thể không toàn vẹn của bà được phủ một tấm khăn trải giường sạch và đầu bà được quấn một chiếc khăn quàng trắng; gương mặt bà vẫn nguyên vẹn, bình thản, có vẻ còn sống hơn là đã chết.

Dân làng đến nhìn bà một lúc rồi đi. Đàn bà thì mang luôn cả con cái đến cho chúng nhìn thấy người chết. Mỗi khi có ai bắt đầu khóc thì tất cả mấy bà, luôn cả những bà chỉ đến vì tò mò, đều thi nhau sướt mướt từ cửa ra vào cho đến dọc theo bốn vách tường như để phụ họa. Đàn ông thì đứng thẳng, im lặng và đầu trần.

Các bà họ hàng mới là những người hát giọng chánh. Trong tiếng khóc than đó, tôi ghi nhận có một trật tự đã được nghiền ngẫm một cách lạnh lùng và đặt để ra từ muôn thuở. Những bà có họ xa thì chỉ đến đứng một chốc cạnh quan tài và kể lể nho nhỏ. Mỗi bà sáng tác một âm điệu riêng biệt, trong đó họ diễn tả tất cả ý nghĩ và tình cảm của mình. Những bà nào tự cho mình có họ hàng gần hơn thì bắt đầu khóc ngay từ ngưỡng cửa, và đến gần quan tài thì họ cúi xuống để cho tiếng khóc than chạm tận mặt kẻ quá cố.

Có dịp này tôi mới biết được là sự than khóc của người chết không phải là những khóc lóc tầm thường, mà là một đường lối chính trị. Ba bà em của Matriona đến với vẻ hấp tấp, vội vã, họ chiếm ngôi nhà gỗ, con dê và cái lò, khóa cái rương bằng một ổ khóa, mở lớp vải lót của cái áo choàng ra để lấy số tiền hai trăm rúp làm đám táng, giải thích với mọi người họ là những người bà con gần duy nhất của Matriona. Và họ cũng khóc trên quan tài của bà.

“Ối, chị ơi là chị ơi! Trời ơi! Người mẹ nhỏ bé của tôi! Tụi em chỉ có mình chị thôi! Chị có thể sống yên thân mà! Và tụi em lúc nào cũng cưng chiều chị mà! Cái “căn phòng” của chị nó giết chị, chị ơi! “Căn phòng” yêu quỷ đó nó kết liễu đời chị rồi! Tại sao chị lại đi tháo nó ra làm gì? Ôi! Tại sao chị không nghe chúng em?”.

Như vậy rõ ràng những lời than khóc của mấy bà em là một lời buộc tội gia đình bên chồng bà: đáng lẽ không nên bắt Matriona phá “căn phòng” (và như vậy có nghĩa là mấy người có thể có “căn phòng”, nhưng ngôi nhà này thì đừng hòng).

Gia đình bên chồng: chị em dâu của Matriona, chị và em gái của Efime và Faddéi, rồi thêm đủ loại cháu chít đều đến khóc lóc:

“Trời ơi! Cô ơi là cô ơi! Sao cô không giữ lấy thân? Rồi bây giờ thế nào họ cũng oán trách chúng cháu cho mà xem! Ối trời ơi! Dì yêu dấu ơi! Hu hu! Tại dì mà! Chớ “căn phòng” nó có làm gì đâu! Tại sao dì lại đi tới nơi thần chết đang rình rập dì làm chi? Có ai bắt dì đi đâu! Dì xem dì chết như thế nào nè! Tại sao dì không chịu suy nghĩ? Tại sao dì không nghe chúng cháu chớ?”.

(Trong những lời than khóc đó ta thấy có câu trả lời: Chúng tôi không can dự gì trong cái chết của bà ấy cả; còn vụ ngôi nhà gỗ sẽ tính sau!).

Nhưng bà Matriona thứ nhì, với gương mặt to lớn méo mó kỳ cục, một Matriona thay thế mà trước kia Faddéi đã lấy chỉ vì cái tên của bà ta, không theo nổi cái chính trị đó, bà thét to lên, một cách rất mộc mạc, tiếng nấc nghẹn ngào trên hòm gỗ:

“Nhưng mà em là em gái của chị mà! Không lẽ em lại giận chị sao? Ôi chao ôi! Ôi chao ôi! Mình nói chuyện với nhau không biết bao nhiêu lần rồi! Em tha lỗi cho chị nhé. Chị khổ lắm! Ôi chao ôi! Em về với mẹ em rồi, chắc thế nào em cũng về tìm chị mà! Ôi chao ôi! Ôi chao ô… ôi!”

Trong cái “ôi chao ô… ôi” đó, bà có vẻ như để vào hơi thở cuối cùng của bà ta vậy; rồi bà đập ngực vào quan tài liên hồi. Đến khi sự khóc lóc của bà đã vượt quá mức nghi thức thì tất cả mấy bà kia đều đồng thanh, như muốn nhìn nhận là như vậy đủ thành công lắm rồi:

“Thôi! Thôi!”.

Matriona bỏ đi, nhưng sau đó trở lại khóc lóc dữ dội hơn nữa. Thế rồi một bà lão lụm cụm từ một góc phòng bước tới, đặt tay lên vai Matriona và nói với giọng gay gắt:

“Trên đời có hai điều bí mật: Ta sanh ra thế nào, không nhớ, ta sẽ chết thế nào, chưa biết được”.

Matriona liền nín ngay, và tất cả đều nín, và im lặng hoàn toàn.

Nhưng rồi chính bà lão lụm khụm đó, già hơn những bà già hiện có mặt tại đây rất nhiều, và hình như không có họ hàng gì với Matriona, một lúc sau lại òa lên khóc:

“Ôi, đau khổ quá Matriona ơi! Ôi! Vassiliévna của tôi ơi! Tôi chán phải đưa xác mọi người như vầy lắm rồi!”.

Rồi đến lượt người con nuôi Kira rấm rứt khóc, lần này không nghi thức mấy, vì những tiếng nức nở của chị ta giản dị hơn, như thường thấy ở thời đại chúng ta. Chính vì chị mà người ta đã tháo “căn phòng” ra và chở đi. Những lọn tóc quăn của chị rối bời thảm não. Mắt của chị đỏ hoe như rướm máu. Chị không buồn để ý đến cái khăn quàng của chị đã tuột ra và rơi xuống đất lạnh. Chị mặc áo choàng mà cũng chưa xỏ tay. Chị ngơ ngác chạy từ nhà này đến nhà nọ, từ chiếc quan tài của bà mẹ nuôi đến chiếc quan tài của người anh, và mọi người đều lo cho tinh thần thần kinh của chị vì chồng chị sắp phải ra tòa.

Với những sự việc đã xảy ra, anh ta sẽ bị buộc tới hai tội: thứ nhất là anh chở “căn phòng” đi, thứ nhì anh là tài công xe lửa, đáng lẽ anh phải biết rõ luật lệ khi băng qua giao lộ không có người gác, và phải chạy đến ga trước để báo cho người ta biết là có cái máy kéo sắp băng qua. Trong đêm ấy, trong chuyến xe tốc hành chạy đường Oural, hàng ngàn sinh mạng đang yên giấc trên những giường nhỏ tầng trên và tầng dưới, trong ánh mắt lung linh của ngọn đèn chong, hàng ngàn sinh mạng có thể đã ra đi vĩnh viễn. Vì lòng tham của một nhóm người muốn chiếm một mảnh đất nhỏ nhoi, hay vì không chịu để cho chiếc máy kéo đi thêm một cuốc thứ hai.

Vì “căn phòng” trở thành xui xẻo từ lúc Faddéi đang tâm xuống tay phá hủy.

Còn đối với người sống sót, thì anh tài xế đã thoát khỏi pháp luật loài người. Về phần Nha Hỏa xa thì họ phải chịu một phần trách nhiệm, lý do là nơi giao lộ có xe cộ qua lại thường xuyên như vậy mà lại không có người gác, và hai cái đầu máy lôi nhau chạy thụt lùi mà không đèn đóm gì hết. Chính vì vậy mà thoạt tiên người ta đã cố đổ lỗi cho sự say rượu và giờ đây thì tìm cách dìm câu chuyện cho êm.

Con đường sắt bị hư hai nặng đến nỗi trong suốt ba ngày liền, trong khi các cỗ quan tài được trưng bày trong nhà, xe lửa không di chuyển qua đó được mà phải dùng một con đường rẽ. Trong suốt những ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật, từ lúc cuộc điều tra bắt đầu cho đến khi chôn cất, người ta ngày đêm sửa chữa con đường sắt nơi xảy ra tai nạn. Bọn thợ bị lạnh cóng, và để sưởi ấm và soi sáng ban đêm, họ đốt những đống lửa lớn với ván và gỗ lóng cho không của chiếc xe trượt thứ nhì còn vung vãi nơi giao lộ.

Còn chiếc xe trượt thứ nhất, vẫn chở đầy gỗ, nguyên vẹn, thì nằm cách đó không xa, phía bên kia con đường sắt.

Và chính những điều ấy, một chiếc thì như trêu ghẹo, chờ đợi với sợi dây cáp sẵn sàng để kéo đi, và chiếc kia còn có thể cứu khỏi ngọn lửa của bọn thợ sửa đường, đã làm cho lão râu đen Faddéi ray rứt cả ngày thứ Sáu và thứ Bảy. Con gái lão đã bị điên, con rể lão đang bị tòa án hăm dọa, trong nhà lão còn nằm trơ trơ xác đứa con trai đã do lỗi của lão mà chết, cũng cùng ở con đường đó còn xác một người lão đã từng yêu và lão đã giết. Faddéi chỉ đứng bên cạnh mấy cái quan tài trong chốc lát, tay vuốt hàm râu. Vầng trán cao của lão sa sầm với những ý nghĩ khổ sở, nhưng điều lão đang nghĩ tới là làm cách nào lôi những lóng gỗ của “căn phòng” ra khỏi ngọn lửa và khỏi những âm mưu của mấy người em gái của Matriona.

Khi kiểm điểm lại những người dân sống ở Talnovo, tôi nhận thấy Faddéi không phải là kẻ duy nhất thuộc hạng ông ta trong làng.

Và ngôn ngữ của họ có cách diễn tả lạ lùng khi gọi của cải của người khác là của chính mình. Và để mất nó đi là một điều nhục nhã và ngu si đối với mọi người.

Faddéi chạy từ tỉnh đến ga, từ cơ quan này đến cơ quan nọ, không một chút thì giờ để ngồi nghỉ, và với cái lưng không đứng thẳng nổi của lão, lúc nào lão cũng phải tựa vào cây gậy, để van xin mọi người thương hại tuổi tác của lão mà cho phép lão mang “căn phòng” về.

Rồi cũng có người cho lão đặc ân đó. Thế là lão huy động con trai, con rể và cháu của lão còn sống sót, và đi tìm ngựa ở công xã để chở về nhà lão tất cả những gì còn lại của “căn phòng” bằng cách đi một vòng qua ba làng để sang phía bên kia con đường sắt bị hư hại. Lão đã hoàn tất công việc đó trong đêm thứ Bảy rạng ngày Chủ nhật.

Ngày Chủ nhật là ngày đưa đám. Hai cỗ quan tài được đưa đến gặp nhau ở giữa làng. Họ hàng bàn tính xem phải để cái nào đi trước. Cuối cùng người ta đặt hai dì cháu nằm song song trên một chiếc xe trượt, và trên lớp băng của tháng Hai ẩm ướt dưới bầu trời u ám, người ta đưa hai kẻ xấu số đến nghĩa trang nhà thờ cách đó hai làng. Trời nhiều gió, mây đen vần vũ, vị linh mục cùng người hộ tế chờ sẵn ở nhà thờ chớ không chịu đi Talnovo.

Ra đến cổng làng, người đưa đi chậm lại và cùng hát những bản thánh ca. Sau đó họ để cho xe quan tài đi cách xa dần.

Trước hôm Chủ nhật, mấy người đàn bà còn chộn rộn trong căn nhà gỗ của chúng tôi: bà cụ già nhất lâm nhâm hát những bản thánh ca bên cạnh quan tài, mấy bà em của Matriona bận rộn bên cái lò tỏa ra một hơi nóng kinh khủng vì chứa đầy than hồng, bao than mà Matriona đã mang về từ một cái ao xa xôi. Họ làm những chiếc bánh pa-tê không thể nuốt nổi với một thứ bột hạng bét.

Chiều Chủ nhật, khi đã hạ huyệt xong, mọi người về tụ họp để ăn lễ tống táng. Bàn được kê thành một hàng dài nằm chật hết chỗ đặt quan tài lúc sáng. Thoạt tiên mọi người đều đứng chung quanh chiếc bàn tập thể và một ông cụ, chồng của người chị dâu, đọc kinh “Lạy Cha”. Sau đó mỗi người được phát một lớp mỏng nước mật vừa đủ lót đáy tô. Chúng tôi dùng muỗng ăn mật không, để cầu cho linh hồn Matriona được an nghỉ. Sau đó chúng tôi ăn và uống rượu Vodka, câu chuyện bắt đầu nổ như bắp rang. Trước khi dùng đến mứt trái nạc, mọi người đều đứng dậy và hát bài “Kỷ niệm muôn đời” (người ta giải thích cho tôi là trước khi ăn mứt phải hát như vậy). Rồi mọi người lại tiếp tục uống rượu. Họ nói chuyện mỗi lúc một ồn ào, nhưng không còn ai nhắc đến Matriona. Ông chồng bà chị dâu bắt đầu khoác lác:

“Quý vị là Chánh giáo, quý vị có để ý là ngày nay mình hát thánh lễ hơi chậm hay không? Chính Cha Mikhail đã lưu ý tôi đó. Ông ấy biết là tôi thuộc lễ chế mà. Nếu không thì chỉ một kinh “Lạy Cha” rồi một kinh “Kính mừng”, vừa đủ tiền thưởng, là xong”.

Cuối cùng tiệc cũng tàn. Mọi người lại đồng loạt đứng lên hát bài “Bà thật xứng đáng”, sau đó lặp lại ba lần “Kỷ niệm muôn đời”, “Kỷ niệm muôn đời”, “Kỷ niệm muôn đời”! Nhưng giọng nói của ai cũng đã khàn khàn, không nhịp điệu, mặt nào mặt nấy đều có vẻ say, và không ai còn cảm thấy một chút hứng thú nào trong cái kỷ niệm muôn đời đó nữa cả.

Sau đó đa số khách khứa đều ra về, chỉ còn lại những người bà con gần nhất, họ móc thuốc lá ra và bắt đầu hút, một vài câu chuyện pha trò được kể lại và tiếp theo là những tiếng cười vang. Câu chuyện bỗng được lái sang sự mất tích của ông chồng Matriona ngoài trận địa, và ông cụ chồng bà chị dâu cũng tay đấm vào ngực mình để chứng minh với tôi cùng lão thợ giày, chồng của một trong mấy bà em của Matriona:

“Thằng Efime nó chết rồi! Nếu không tại sao nó không về? Tôi ấy à? Dù tôi biết về tới quê người ta sẽ treo cổ tôi, tôi vẫn cứ về!”.

Lão thợ giày gật gù ra vẻ đồng tình. Lão ta là một đào binh; còn quê hương của lão, chưa bao giờ lão rời một bước. Trong suốt cuộc chiến lão vẫn luôn luôn trốn trong hầm rượu của mẹ lão.

Ngồi trên mặt lò là một bà cụ với vẻ mặt nghiêm khắc và lầm lì, bà ta già hơn cả những bà già nhất và vì vậy mà người ta muốn để bà đi nằm trước. Bà im lặng nhìn xuống với vẻ khinh khỉnh đám người trẻ của tuổi năm mươi, sáu mươi đó đang chộn rộn một cách khó thương.

Chỉ có người con nuôi đau khổ đã từng được dưỡng dục giữa bốn bức tường này là lẻn ra phía sau tấm vách để ngồi khóc.

Faddéi không đến dự tiệc ma chay của Matriona: phải chăng vì lão còn phải bận lo cho đám tiệc ma chay của con trai lão? Nhưng những ngày sau đó, lão đã đến hai lần, dáng vẻ đầy thù nghịch, để thương lượng với mấy bà em của Matriona và lão thợ giày đào binh.

Sự tranh chấp liên hệ đến căn nhà gỗ: ai sẽ được thừa hưởng, em gái hay người con nuôi? Thoạt tiên họ đã đưa ra giải pháp nhờ tòa án can thiệp, nhưng sau đó họ lại tìm cách hòa giải, vì sau khi suy nghĩ kỹ, mọi người đều nhìn nhận là tòa án sẽ không cho ai thừa hưởng cả mà sẽ sung vào tài sản của Hội đồng nông thôn Xô Viết. Cuộc thương lượng đã đi đến một thỏa thuận. Một trong mấy bà em sẽ bắt con dê, căn nhà gỗ sẽ về tay lão thợ giày và vợ lão; về phần Faddéi, xét vì “lão đã từng tự tay đẽo gọt từng mảnh ván”, lão sẽ làm chủ “căn phòng” mà lão đã chở về nhà, ngoài ra người ta cũng nhường luôn cho lão cái nhà để xe, nơi Matriona nuôi con dê cái, và cả dãy hàng rào ngăn cái sân với khu vườn.

Và một lần nữa, cố nén những tật xấu và sự đau đớn của mình, lão già tham lam lại tỏ ra phấn khởi và trẻ lại. Lão lại huy động đám con cháu còn sống sót để phá hủy căn nhà để xe và cái hàng rào, rồi lão đích thân mang gỗ ra chất lên xe trượt, và chỉ đến lúc gần xong, lão mới gọi thằng Anton của lớp 8D đến phụ một tay; lần này thì thằng bé không có gì là lười biếng cả.

Người ta cấm cửa ngôi nhà của Matriona cho đến mùa xuân, và tôi phải đến ngụ gần đó tại nhà một bà chị dâu của Matriona. Sau đó bà chị dâu này mới kể lại trong những dịp khác nhau nhiều sự kiện liên hệ đến Matriona làm cho tôi thấy một khía cạnh khác của người quá cố.

“Efime đâu có thương nó. Thằng ấy hay nói: “Tôi thích ăn mặc theo người văn minh, còn bà ấy thì lôi thôi, sao cũng được, giống như ở nhà quê vậy. Thế là, trong khi nó không cần gì hết, nó là vậy đó mà, chồng nó đem tiền dư đi uống rượu. Rồi một hôm vợ chồng nó lên tỉnh kiếm tiền, thằng chồng nó mới gặp được một cô bạn gái dễ thương và không muốn về với nó nữa”.

Tất cả những gì bà ta kể đều có ý chê bai: nó ăn mặc bê bối, không thèm chăm sóc nhà cửa, không biết tiết kiệm, thậm chí đến heo mà cũng không biết nuôi, không ai hiểu nổi tại sao nó không thích nuôi heo, và cái con khùng ấy chỉ lo đi giúp không cho người khác. (Bà ta nhắc đến Matriona đúng vào dịp tìm không ra người để nhờ kéo cày xới đất trong khu vườn).

Ngay cả lòng tốt và tính bình dị của Matriona, bà ta cũng gợi lại, dù bà ta nhìn nhận những tính ấy, một cách đầy thương hại pha lẫn khinh khi.

Cho tới giờ phút này – trước những lời chê trách của bà chị dâu – tôi mới thấy hiện lên trước mắt hình ảnh một Matriona mà trước kia tôi không thể hiểu được, dù sống bên cạnh bà.

Quả thật trong làng, nhà ai cũng có nuôi một con heo hết! Nhưng bà ta thì không. Còn gì giản dị hơn là nuôi một con heo con tham ăn, suốt ngày chỉ biết có ăn! Trộn đồ ăn cho nó mỗi ngày ba bận, sống vì nó, rồi sau đó giết nó đi để lấy mỡ?

Nhưng bà đã không làm như vậy …

Bà xem thường việc dọn dẹp nhà cửa… Bà không hơi sức đâu đi sắm sửa quần áo để phải gìn giữ và coi chúng quý giá hơn chính cuộc đời của bà.

Bà không chạy theo đồ trang sức. Quần áo chỉ để làm đẹp những kẻ xấu xa và ác đức.
Không được ai hiểu, bị chồng ruồng bỏ, đã phải đem chôn sáu người con, nhưng bà vẫn giữ được tính hợp quần, xa lạ đối với các em gái và chị em dâu, lố bịch, làm việc không công cho người khác một cách ngu muội. Bà không để dành được gì cho ngày mình nằm xuống. Một con dê cái dơ dáy, một con mèo què quặt, một vài món đồ đạc bằng gỗ sung…

Và tất cả chúng tôi là những kẻ sống bên cạnh bà đã không hiểu được rằng bà là kẻ giàu lòng nhân ái mà cách ngôn thường nhắc đến, và nếu không có những người như vậy thì không có làng mạc nào, thành phố nào, hay cả thế gian này nữa có thể tồn tại được.

Nguồn: Alexandre Soljénitsyne, Ngôi nhà của Matriona, nguyên tác La Maison de Matriona, bản dịch Nguyễn Văn Son .. Ngày phát hành: 8.6.1974.