Nguyễn Hưng Quốc
30 tháng 4 2010
Trước hết, cần ghi nhận: Cho đến nay có lẽ có cả hàng ngàn cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam. Bằng đủ thứ tiếng. Chỉ mới gần đây thôi, ở Mỹ cũng có thêm mấy cuốn về chiến tranh Việt Nam. Tất cả đều bán chạy. Báo Los Angeles Times số ra ngày 18 tháng 4, 2010 ghi nhận: 35 năm sau ngày kết thúc, chiến tranh Việt Nam vẫn còn là một đề tài nóng hổi (“Bestsellers: Vietnam, a hot topic after all these years”). Có điều, không kể các tác phẩm sáng tác, hầu hết, nếu không nói tất cả các sách nghiên cứu, đều chỉ tập trung vào các góc cạnh quân sự, chính trị, xã hội và lịch sử của chiến tranh. Rất hiếm, nếu không muốn nói là chưa có, một cuốn sách nào nhìn chiến tranh Việt Nam từ góc độ văn hoá.
Mà, theo tôi, đó mới chính là góc nhìn cần thiết và thú vị nhất, từ đó, chúng ta có thể thấy được ít nhất hai khía cạnh quan trọng của chiến tranh: một, những động lực âm thầm đằng sau các quyết định và cách ứng xử trong chiến tranh; và hai, vô số các cuộc chiến tranh khác về cuộc chiến tranh đã kết thúc ấy: những cuộc chiến tranh trên sách báo, phim ảnh, đủ loại phương tiện truyền thông và, quan trọng hơn cả, trong chính tâm hồn những người từng tham dự, một cách trực tiếp hay gián tiếp, vào cuộc chiến tranh ấy. Khía cạnh thứ nhất chính là văn hoá chiến tranh trong khi khía cạnh thứ hai là văn hoá hậu chiến.
Tuy nhiên, có lẽ, để tránh ngộ nhận, cần xác minh về chữ “văn hoá” một chút. Lý do, như Raymond Williams từng ghi nhận, đây là một trong những chữ phức tạp nhất trong tiếng Anh (1), và có lẽ, nghĩ cho cùng, không phải chỉ trong tiếng Anh. Phức tạp chủ yếu vì nó được sử dụng quá nhiều và do đó, thay đổi quá nhanh. Từ văn hoá Việt Nam, văn hoá Mỹ, văn hoá Ðông phương, văn hoá Tây phương... đến văn hoá ẩm thực, văn hoá doanh nghiệp, văn hoá chính trị... rồi đến văn hoá nhà tù, văn hoá tuổi trẻ, thậm chí, văn hoá McDonald, văn hoá Nike... ý nghĩa của chữ “văn hoá” khó có thể là một được. Có người, ngay từ đầu thập niên 1950, đã từng làm thống kê thử, phát hiện có đến 164 định nghĩa khác nhau về văn hoá (2). Dù vậy, chúng ta cũng không cần thiết phải đi quá xa vào các định nghĩa ấy. Tôi chỉ muốn dừng lại ở một định nghĩa được nhiều nhà nhân chủng học sử dụng nhất: văn hoá là hệ thống ý nghĩa được một cộng đồng sáng tạo và chia sẻ (3).
Là một hệ thống ý nghĩa, văn hoá bao gồm những biểu tượng, những niềm tin và những giá trị nền tảng để dựa theo đó, các thành viên trong cộng đồng, về phương diện nhận thức, có thể diễn dịch và đánh giá các hoạt động và các sự kiện khác nhau, có thể phân biệt được cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái đạo đức và cái vô luân, cái có thể và cái không thể chấp nhận được; về phương diện thẩm mỹ, phân biệt cái đẹp và cái xấu, cái hay và cái dở, cái đáng yêu và cái đáng ghét, v.v... Hệ thống ý nghĩa ấy, một mặt, là những yếu tố nhân-hoá con người (loài vật không hề biết đến khái niệm giá trị), mặt khác, đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành cộng đồng, một thứ “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community), nói theo Benedict Anderson, (4), ở đó, mọi thành viên có thể truyền thông với nhau và cảm thấy có sợi dây liên kết với nhau.
Có thể nói, không có hệ thống ý nghĩa, sẽ không có cộng đồng: cộng đồng, như vậy, vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả của văn hoá. Ðiều này làm cho tính tập thể trở thành một trong những đặc điểm nổi bật nhất của văn hoá: văn hoá là những gì người ta có thể thụ đắc bằng giáo dục và có thể lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nhưng nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục cũng là nhấn mạnh đến hai tính chất: một, tính chất thế quyền thể hiện qua vai trò của nhà nước, yếu tố quyết định chính sách, chương trình, và do đó, diện mạo của giáo dục (5); hai, tính chất tín ngưỡng: do được giáo dục từ lúc vừa mới lọt lòng, người ta dễ ngỡ các quy ước văn hoá là những điều linh thiêng, cần phải được chấp nhận một cách vô điều kiện: có lẽ không phải ngẫu nhiên mà trong chữ “culture” (văn hoá), có từ tố “cult”, nghĩa là sùng bái (6). Hai tính chất ấy cho thấy văn hoá, như Michel Foucault thường nhắc nhở rải rác trong nhiều tác phẩm khác nhau, thực chất là một thứ quan hệ quyền lực. Văn hoá cung cấp cho người ta những cái lý-để-tồn-tại (rationale), những nền tảng để trên đó người ta kiến tạo bản sắc cho cộng đồng, những cái khung nhận thức để mọi thành viên trong cộng đồng dễ có những hồi âm giống nhau khi đối diện với một trạng huống hay một hiện tượng cụ thể nào đó.
Nếu văn hoá là một hình thái của quyền lực, không đâu tính chất quyền lực ấy lại thể hiện rõ rệt cho bằng trong văn hoá chiến tranh.
Nếu văn hoá là một hệ thống ý nghĩa, văn hoá chiến tranh có thể được định nghĩa là một hệ thống ý nghĩa làm nền tảng cho cách suy nghĩ của cả xã hội khi đối diện với chiến tranh và những hậu quả của nó. Văn hoá chiến tranh bao gồm những quy ước và quy phạm đặc thù giúp người ta phân biệt bạn và thù, chính nghĩa và phi nghĩa, điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Nó cũng giúp người ta xác định lại mọi thang bậc giá trị, đồng thời, đưa ra một thứ “từ điển” mới định nghĩa một số những khái niệm căn bản để mọi người trong xã hội có cái nhìn giống nhau. Ví dụ, ở miền Bắc, trước năm 1975, tất cả những chữ như “chiến tranh” hay “người” hay “nhân loại”, v.v... đều phải gắn liền với tính lịch sử cụ thể: người ta có thể bị buộc tội là thiếu lập trường chính trị hay không có quan điểm rõ ràng nếu sử dụng các từ ấy như những khái niệm chung chung, muôn thuở (7). Ðiều nghịch lý thú vị là, quá nhấn mạnh vào tính lịch sử, người ta cũng có thể biến các hiện thực thành các khái niệm trừu tượng: kẻ thù không phải là những con người cụ thể mà là “thực dân”, “đế quốc”, “nguỵ” hay “phản cách mạng”, v.v... Người ta càng đẩy mạnh quá trình phi-nhân hoá (de-humanization) này bằng cách xem kẻ thù như những con thú: “chó”, “chồn”, “cáo”, “thú dữ”, “sài lang”, “hùm beo”, v.v...(8) Ngay cả khi buộc phải xem kẻ thù là người thì người ta cũng tìm cách tước bớt chất người ấy bằng một hệ thống đại từ nhân xưng cực hạn chế: “thằng”, “con” và “mụ”. Mọi kẻ thù nam đều là “thằng”, và mọi kẻ thù nữ đều là “con” hay “mụ”. Những biện pháp phi-nhân hoá kẻ thù như thế làm cho hành động giết người được miễn trừ trách nhiệm đạo đức: giết kẻ thù chỉ là giết một khái niệm, một con thú hay một kẻ chưa thành người. Vậy thôi.
Tất cả những sự phân tích ở trên cho thấy ít nhất một đặc điểm đầu tiên của văn hoá chiến tranh: phi nhân hoá kẻ thù. Trong văn hoá chiến tranh, kẻ thù không phải là người. Mà là thú. Là vật.
Cần lưu ý là không phải chỉ ở Việt Nam mới có hiện tượng phi-nhân hoá nhắm vào kẻ thù. Có lẽ ở đâu cũng thế. Chiến tranh là thế. Những cuộc chiến tranh được xem là vệ quốc lại càng như thế: sự tủi nhục và căm hận của người dân ở những nơi bị chiếm đóng là điều rất dễ và cũng rất nên được thông cảm. Ở đây, tôi chỉ ghi nhận sự kiện chứ không hàm ý phê phán. Và đã ghi nhận sự kiện phi-nhân hoá kẻ thù thì cũng xin ghi nhận thêm một sự kiện nữa: hành động giết kẻ thù không những bị miễn trừ đạo đức mà còn, hơn nữa, được thẩm mỹ hoá thành một cái đẹp. Giết người là đẹp. Máu chảy là đẹp. Thời kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Tuân từng ví trái tim của một người dân quân bị giặc giết với củ thuỷ tiên nẫu và vết máu trên thi thể một cô gái bị hãm hại với lá đông hồng (9). Thời 1954-75, Lê Anh Xuân say sưa mô tả cái đẹp của một dòng máu phun thành vòi: “Và anh chết trong khi đang đứng bắn / Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.” Rộng hơn, Phạm Tiến Duật mô tả cái đẹp của con đường ra trận (“Ðường ra trận mùa này đẹp lắm”), Xuân Diệu mô tả cảm giác sung sướng khi cầm vũ khí (“Ôi, êm ái khi tay cầm vũ khí”), và Chế Lan Viên tuyên bố dứt khoát: “Hỡi cái hầm chông / Ta yêu ngươi hơn vạn đoá hoa hồng.”
Việc mỹ học hoá bạo động như vậy là chuyện bình thường trong chiến tranh. Có điều khi chiến tranh qua đi, văn hoá và thứ mỹ học bạo động ấy vẫn còn lại. Điều gì sẽ xảy ra?
Đó mới chính là vấn đề cần suy nghĩ.
Chú thích:
1. Raymond Williams (1983), Keywords, A Vocabulary of Culture and Society, London: Fontana Press, p. 87. Bernardo Bernardi (1977), The Concept and Dynamics of Culture, The Hague: Mouton Publishers, p. 10. Hannerz, U. (1992), Cultural Complexity: Studies in the Social Organization of Meaning, New York: Columbia University Press, p. 3.
Benedict Anderson (1991), Imagined Communities: Reflections on the Origins and Spread of Nationalism, London: Verso.
Về quan hệ giữa nhà nước và văn hoá, có thể xem Michael J. Mazarr, “Race and Culture: a World View”, The Washington Quarterly, Spring, 1996 (Cũng có thể xem trên “Expanded Academic” website.)
Xem thêm chương “Culture and Cult” trong cuốn An Intelligent Person’s Guide to Modern Culture của Roger Scruton, Duckworth xuất bản tại London năm 1998, tr. 5-20.
Tiêu biểu nhất là vụ nhà thơ Việt Phương bị phê bình vì mấy câu thơ: “Ta thắng Mỹ cho hàng vạn năm đời sắp tới / Cho cả thời cháu con ta sẽ hỏi / Vì đâu / Ngày xa xưa trước năm 2000 / Người ta giết nhau mạng người như hòn sỏi?” Chữ “người ta” ấy đã bị phê phán gay gắt. Xem Hoàng Trung Thông (1979), Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống, Hà Nội: Văn Học, tr. 72.
Tố Hữu có hai câu thơ: “Thực dân địa chủ một bầy / Chúng là thú vật, ta đây là người.” Ví dụ về chuyện này rất nhiều và rất dễ tìm nên tôi thấy không cần phải trích dài.
Nguyễn Tuân (1981), Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 1), Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu, Hà Nội: Văn Học, tr. 42.