Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương. Hiển thị tất cả bài đăng

3/7/07

Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương - Đặng Tiến

Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương



Gửi chị Thục Oanh



Xuân đã đem mong nhớ trở về



Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.



Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.



Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.



Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ:



Xuân đời chưa kịp hưởng

Mây mùa thu đã sang ?



Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự:



Xuân có sang mà hoa không tươi

Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi

Nằm say ngõ lạnh

Buồn nghe mưa rơi

Tuôn châu oà bật lên cười

Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi

Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ

Hoạ điệu chiều nay xác rã rời



Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là:



Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay



Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.



Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.



Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về

Cỏ chen màu liễu biếc chân đê

Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy

Hương sắc thanh bình ngập lối quê.



Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi

Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời

Dây đàn chầm chậm hôn lên phím

Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi



Thơ Say gồm có nhiều phần: Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần:



Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần

Đã nghe dồn cả tới đài xuân

Đã nghe rào rạt từng cơn gió

Về mách tin hương với cõi trần

Muôn vạn tế bào đang huỷ thể

Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...



... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,

Chưa từng hoen ố vết trầm luân

Đêm nay xuống một bài thơ trắng

Cầu nguyện cho đời nở Aựi Aõn



Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.



* *

*



Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...

là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.



Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955; mùa xuân đầu tiên xa xứ:



Mười năm qua, đến bây giờ

Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....

(...)

Xuân về nhớ thuở ngát chiêm bao

Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào

Lạc lõng vàng son màu lữ thứ

Cành mai gượng ánh mặt hoa đào



Mười phần xuân có gầy hao

Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa

Mấy phen biếc đón hồng đưa

Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền



Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, trĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:

Có nghĩa gì đâu một chữ « về »

Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê

Nếu không ngược cả mười năm ấy

Về tận kinh đô của « ước thề »

Theo Chế Lan Viên, chữ «Về » là « cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa »[1]



Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ « về », trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước, xa xôi dặm về

Nguyện Cầu, 1950



Còn mấy chữ “có nghĩa gì đâu”, là phỏng theo Xuân Diệu :



Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều



Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu cầu một tình cảm riêng tư – có phần nào đó hoang tưởng – « có nghĩa gì đâu » . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến: « Mười năm thôi nhé mộng tan tành » ..., « Tình mười năm còn lại mấy tờ thư »…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : « ước thề » ở đây không phải là chị ấy.



Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :



Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới

Sầu xuân vời vợi

Xuân tứ nao nao

Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào

Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái

Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao



Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc « hát ngao » hơn là một anh hùng ca.



Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng



Chín giao thừa, tám năm dư

Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông

(...)

Khói đâu mờ tím căn buồng

Thời gian ai đốt trên luồng thần giao

Cố đô lửa cháy gan nào

Sài đô son sắt như bào, như nung





Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :



Chợ Tết mai lan cúc

Đắm mình trong bụi đục

Từng phiên nép mặt hoa

Thẹn không bằng khóm trúc

(...)

Liên miên khói lửa này,

Dám đâu mơ hạnh phúc

Lần lượt tre rồi măng

Đã tơi bời cốt nhục



Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :



Thân càng xót cho thân

Uổng gây hình ngọc đúc



Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :



Miệng héo dần theo lòng khắc khoải

Năm nay rồi sắp thành năm ngoái

E khi chiều xế, tuyết thay tơ

Không cả chút tình thương nắng quái



Kẻ vô-hạn-hận không là gió

Xuân đến trà mi đời tự bỏ

Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang

Cùng ai gửi chút hương vò võ ?



Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân: thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...





Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :



Ma sợ cung vôi chạy vọt lên

Người thơ giữa lúc mở bầu men,

Khai xuân chưa kịp vui cùng khách

Đạn rót trời cao đã nổ rền



Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : « loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân » (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :



Lăng miếu gần kề lưng chó sói

Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu

(...)

Đạn réo vang vang lửa bốn bề

Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê

Sốt dâng mạch loạn càng u uất

Máu chảy ruồi bâu thật não nề



Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện:



Mong người một nước soi gương cũ

Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...

(Huế Cảm)



Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :



Tin Xuân gà gáy rách trời đêm

Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm

Đủ thấy điềm lành hai nửa nước

Một nhà trong ấm với ngoài êm

(Mở Bút ghi Điềm)



Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên:



Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi

Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi

Nhựa say trà ngát thơ cao giọng

Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?

(Hạnh phúc nào hơn)



Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán:



Kỷ Dậu hồi thanh



Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên

Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền

Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ

Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên



Ông tự dịch :



Tiếng vang lịch sử



Đất xưa gà gáy mặt trời lên

Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền

Hoa mở cánh chào ngang dọc núi

Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên



Đặng Tiến dịch ké :

Gà thúc bình minh sông núi xưa

Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa

Sườn non lưng núi lời hoa mở

Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa



Vũ Hoàng Chương sinh năm Ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc:



Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long

Bến nằm dư biết đục hay trong

(...)

Chỉ thương kiếp đá ai bày trận

Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng



Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài “Xúc Động Cuối Năm” thật buồn:



Chơi xuân đất này không cỏ non

Thơ không vàng nữa, ấn không son

Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt

Một nụ cười xuân cũng chẳng còn



Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ: câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành: « xuân du thử địa vô phương thảo », câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa:



Mùa vàng hoa mai hoa cúc

Mùa son hoa phượng hoa vông

(...)

Mùa vàng giàu thật giàu

Mùa son sang rất sang

(Đông Hồ)



« Một nụ cười xuân cũng chẳng còn », là nhắc tên tập thơ « Cô Gái Xuân » (1935) của Đông Hồ.



Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc:



Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây

Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy

Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch

Phá vỡ vòng sao tự giải vây



Mách cho Lã Vọng về đây

Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi



Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn

Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn

Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực

Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn

(Xuân Đối Diện)



Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời:



Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây

Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây

Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo

Vừa uống sông xuân một bụng đầy

(Nhâm Tý khai bút)



Tác giả tự dịch ra Hán Văn:





Trường chinh mộng hậu tức phong yên

Thiên lý long câu vạn lý thuyền

Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử

Ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên



Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài « Xuân Quạnh »:

Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện

Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu



Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm

Ngày xưa Kim Ốc chỉ mười năm

Đắng cay thế vị lòng vương giả

Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm



Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài « Đón Xuân Mười Chín » làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973):



Bấm đốt từ di cư đến nay

Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,

Sang sông Ngựa đã hai lần hí

Vạch đất Trâu thêm một luống cày

Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc

Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây

Bút toan chạy ngược đau lòng chữ

Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây

Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác

Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say

Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi

Tết đến buồn không chịu vẽ mày



Xưa rồi lửa phóng tên bay

Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn

Bóng ai trên đá ngồi gan

Có nghe rung một giây đàn lẻ loi

Trời xuân chẳng én đưa thoi

Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua

Nghé kêu đầy bến vàng hoa



(dẫn trọn bài)





Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm:



Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc

Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây



Câu thơ ngụ ý: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ “chống cộng” để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.



Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.



Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :



Ma là Người ... kiếp khác

Người là Trời ... đêm nay

Nghe chừng lửa đã tắt

Hai bờ Con-Sông này

Ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt

Sao lòng ai vẫn chưa hay ?

Nằm kia, người nín bặt

Vòng luân hồi đã ngược chiều quay

Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày

(Tin Xuân)



Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.



Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :

Cỏ Bồ ôm đá ngủ

Trong tranh từ bao giờ

Cho đến bây giờ

Còn say trong thơ

Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ

Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa

Nét bút gầy theo mực úa

Bao năm rồi tiêu sơ

Có phải xuân đang từ đáy lụa

Một chiều sâu không ai ngờ

Truyền tin về giấc mơ



Ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng

Nghe lòng trời đất ươm tơ

Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng

Cành đơn hoa trắng tương tư

Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư

Mối manh gì nữa còn ai nữa

Đành kết vào hương Thuý Vũ Từ



Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai[2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết « ta đành mất hết để còn nhau »(Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).

*

* *

Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :



Vịnh tranh Gà Lợn



Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành

Gà lợn, om sòm rối bức tranh

Rằng vách có tai, thơ có hoạ

Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh

Mắt gà huynh đệ bao lần quáng

Lòng lợn âm dương một tấc thành

Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn

Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh



Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú: Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : « rừng có mạch, vách có tai » ; « xanh vỏ đỏ lòng ». Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : « tranh tối tranh sáng », « mắt xanh », « mắt quáng gà », « gà cùng một mẹ », « lợn âm dương », « con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ». « Khúc tân thanh » ngụ ý « đoạn trường”. Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.



Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, « tam sao », được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.

* *

*

Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.



Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.



Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :



Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.



Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.



Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.



Đặng Tiến

Paris, Tết dương lịch, 1-1-2001





--------------------------------------------------------------------------------

[1] Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học, tr. 89, 1962, Hà Nội

[2] Bà Vũ Hoàng Chương – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân :

Cao sâu từng nhập bóng cây già,

Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.

Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,

Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.

Lòng nghe nắng ấm say đôi chút

Cánh để men hồng nhuốm phớt qua

Vang tiếng chim xanh về hót đấy,

Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.



Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu :



Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,

Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà

Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,

Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.

Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm

Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.

Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,

Một chị một em tình xót xa Paris, 15/8/1999



(những chữ in nghiêng là tên tác phẩm Vũ Hoàng Chương)