Giã từ thế kỉ hai mươi
E. Evtushenko (Ngân Xuyên dịch)
Maldelshtam viết : " Thế kỉ chó sói nhảy bổ vào vai tôi ". Thế kỉ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỉ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khoẻ. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỉ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỉ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa.
GIÃ TỪ THẾ KỈ HAI MƯƠI
E. EVTUSHENKO
Ngân Xuyên dịch
1. Cuốn sách có những trang bị xé
Hồi trẻ có lần người bạn của tôi là họa sĩ Oleg Tselkov tình cờ tìm thấy ở một hố rác tại vùng quê Tushin của mình cuốn tiểu thuyết Tội ác và sự trừng phạt đã được đọc đến sờn rách với những trang bị xé hay đơn giản là bị mất. Anh bạn hoạ sĩ coi đó là món quà của số phận nên gần một năm đi đâu anh cũng cứ kè kè cuốn tiểu thuyết bên mình, khi thì trong metro, khi thì ở một quán rượu nhỏ, còn có khi lại là một buổi sáng trên chiếc đi văng võng xuống vì tình yêu của một cô bạn gái qua đường thuộc về bộ phận loài người chưa từng bao giờ nghe nói đến Dostoievsky.
ee
Nhà hoạ sĩ đoan chắc với tôi rằng đọc cuốn sách có những trang bị xé thú vị hơn nhiều, bởi vì những chỗ trống buộc mình phải ức đoán.
Cứ coi như là bạn tìm thấy cuốn sách này của tôi trong hố rác. Nó cũng giống như cuốn tiểu thuyết có những trang bị mất hay thậm chí có những chương bị lược bỏ. Nhưng chúng không phải bị xé – chúng chỉ đơn giản là chưa được viết ra.
Suốt cả cuộc đời, với tính chính xác của một chiếc máy ghi địa chấn, tôi đã ráo riết ghi lại tất cả những chuyển động dưới lòng đất và những cơn động đất của thế kỉ hai mươi, đôi khi vì thế mà tôi đã không ghi lại được nhịp đập trái tim mình.
Người ta gọi tôi là kẻ coi mình là trung tâm, thực ra tôi chỉ là kẻ đứng ở vòng ngoài. Nhưng những gì tôi viết – ngay cả là không phải về mình – cũng chính là về tôi. Còn những gì tôi viết dường như chỉ về mình thì đôi khi lại còn lớn hơn chỉ mình tôi. Cuốn sách này là một điện tâm đồ kép – của tôi và của thế kỉ hai mươi.
Khi hai lăm tuổi, tôi đã chia tay với một phụ nữ hai mươi tuổi tài năng hiếm có mà tôi yêu nhất trên đời. Dịp đó tôi đã viết ra, đúng hơn là đã thở hắt ra, bài thơ Chuyện xảy ra với anh. Tôi không gán cho bài thơ đó một "ý nghĩa xã hội" nào, chỉ coi nó là một thứ rất riêng tư, được viết ra chỉ để cho nàng và cho tôi, mong nó giúp được chút gì cho chúng tôi. Bài thơ đã không giúp gì được, mọi điều đã muộn. Nhưng khi nó vừa được in ra nhiều bạn trẻ đã chép chuyền tay nhau, dường như tôi viết nó là về họ, vì họ và cho họ.
Tôi đã vĩnh viễn chia tay người yêu của mình, dù vẫn còn làm bạn với nhau lâu, ngay khi tôi đã có vợ và nàng đã có chồng, cho đến khi một bàn tay nào đó – mong rằng đấy không phải là tay nàng – đã báo thù hèn hạ bằng cách xoá hết tất cả những lời đề tặng tôi trong các bài thơ nàng viết.
Nhưng không ai có thể xoá được những lời đề tặng nàng trong các bài thơ của tôi. Thật hết sức vô nghĩa là sự ghen tuông hằn học đối với quá khứ. Không thể làm lại được gì ở đấy hết.
Còn bài thơ Chuyện xảy ra với anh thì vẫn sống, bởi điều nói trong đó vẫn lại tiếp tục xảy ra, không chỉ là với tôi. Thoạt đầu nó bất ngờ vang lên say đắm bằng tiếng Đức được dịch ra ở Cộng hoà Dân chủ Đức nhưng không phải để nói về sự ngăn cách của hai người, mà của cả một dân tộc ở hai bên bức tường Berlin.
Mấy năm sau bài thơ được phổ nhạc trong phim Sự mỉa mai của số phận của Ryazanov và được hát với đàn ghi ta trong các khu sinh viên, công nhân, bên những đống lửa của dân du lịch. Sau nữa, bài thơ dường như là tiếng lòng thầm kín nhất này của tôi đã vượt ra ngoài ý muốn của tác giả bắt đầu trở thành bài thơ mang tâm trạng công dân, khi những con người hết sức gần gũi về tinh thần lại bị phân cách về địa lý. Tại các buổi đọc thơ những người đồng hương cũ của tôi bây giờ tản mát khắp thế giới – ở Israel, Mỹ, Australia, Đức – rất hay đề nghị tôi đọc nó.
Giờ đây, khi tôi bước vào cái gọi là "nước ngoài kề bên", nơi biết bao người Nga đột nhiên bị rơi vào tình cảnh buộc thành người "ngoại quốc", thì những vần thơ của tôi viết ra khi tôi không thể ngờ là sẽ có lúc Liên Xô biến mất, vang lên đặc biệt cay đắng.
Ôi, ai người,
hãy đến,
hãy phá vỡ
sự thống nhất của những người xa lạ
và sự biệt lập
của những tâm hồn gần gũi !
Như vậy nhật kí cá nhân của tôi đôi khi bất giác biến thành nhật kí của thế kỉ. Bất giác, nhưng không phải ngẫu nhiên.
Những trang sách bị xé ra hay chưa được viết ra đôi khi dính liền.
2. Không với chó nhà, chẳng với chó rừng
Maldelshtam viết : "Thế kỉ chó sói nhảy bổ vào vai tôi". Thế kỉ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỉ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khỏe. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỉ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỉ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa. Thế hệ những năm sáu mươi (thế kỉ hai mươi – ND) đó là những cừu non của những khu rừng rậm xã hội chủ nghĩa.
Tôi viết không phải bằng mực, mà bằng sữa của con sói cái đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của bầy chó núi. Không phải ngẫu nhiên tôi bị đuổi khỏi trường học với hạnh kiểm xấu – với "tấm căn cước sói". Không phải ngẫu nhiên hai giống chó thuộc loại người căm thù tôi từ trong trứng, nhưng vẫn đồng lòng với tôi và với nhau – chó nhà và chó rừng (những kẻ phù phiếm chuyên nghiệp và những người "yêu nước" chuyên nghiệp) luôn nhảy bổ vào tôi.
Tôi vui mừng là với "tấm căn cước sói" như thế tôi đã bị "đuổi" khỏi tất cả các nơi – tôi không thuộc một đảng phái nào, một băng nhóm nào, một giới thời thượng kiêu căng nào của chúng ta, nó chỉ làm ra vẻ độc lập chứ thực chất là chao đảo giữa các đảng phái và băng nhóm. Tôi không nhập hội với chó nhà, mà cũng không hùa vào với chó rừng.
"Tấm căn cước sói" - đấy là số phận của tôi.
3. Tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng
Brodsky là nhà thơ hoàn toàn phi xô viết đầu tiên trong số người sinh vào thời xô viết. Còn tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng. Nhưng chính quyền xô viết đã làm đủ cách để đánh bật "chất xô viết" đó ra khỏi tôi.
Tôi thuộc lớp người những năm sáu mươi (thế kỉ XX - ND) bắt đầu đấu tranh với bóng ma Stalin nhờ bóng ma Lenin. Nhưng làm sao hồi đó chúng tôi biết được, khui được các tài liệu lưu trữ về một Lenin khác, chưa từng biết đến, được bảo quản rất chặt chẽ ? Làm sao chúng tôi có thể đọc được Quần đảo GULAK trước khi nó được viết ra ? Chúng tôi không biết rằng dưới sắc lệnh về việc xây dựng Solovkov – trại tập trung đầu tiên trước thời Hitler – là chữ kí của Lenin, rằng chính ông ta đã ban ra những mệnh lệnh tàn bạo đàn áp nông dân, chúng tôi không biết thái độ không khoan nhượng của ông ta đối với giới trí thức khác chính kiến. Nhiều thư từ của ông gửi Dzerzhinsky, Stalin, những công văn khẩn, những chỉ thị, đã bị giấu kín. Đối với tôi và nhiều người khác, từ bỏ sự lý tưởng hoá Lenin là một điều đau khổ. Khi quan niệm cách mạng như là "sự báo thù cho người anh" chính Lenin cũng không nhận biết là ông ta đã bắt đầu báo thù cả một dân tộc, chứ không chỉ chế độ Nga hoàng đã tử hình người anh của mình. Bi kịch của Lenin là ở chỗ Stalin, kẻ mà đến cuối đời ông ta hết sức căm thù, lại đã thực sự trở thành người học trò trung thành của ông ta.
Nhưng tất cả những điều trên phải đến thập niên tám mươi, chứ không phải ở thập niên sáu mươi, tôi mới hiểu ra. Tôi yêu lá cờ đỏ mà đứng dưới nó chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít không chỉ có Vasili Terkin, mà còn có Viktor Nekrasov, Lev Kobelev, Bulat Okudzhava. Tôi yêu không phải một nước Liên Xô trên danh pháp, mà một nước Liên Xô của cá nhân tôi, nơi tôi có rất nhiều bạn bè ở tất cả các nước cộng hoà. Tôi thích và đến bây giờ vẫn thích bài Quốc tế ca – không phải như một bài đảng ca, mà như một bài hát thường.
Nhưng trong điệp khúc "Những người xưa chỉ tay không – Mai đây tất cả sẽ trong tay mình" có một sự mập mờ nguy hiểm. Nếu người thực sự tay trắng mà trở nên có tất cả thì đó là điều đáng ghê sợ.
Đấy là điều đã xảy ra sau cách mạng tháng Mười, và bất hạnh thay, cũng đã xảy ra ngay cả sau những biến cố tháng 8/1991.
4. Cạo râu trước tấm gương của Blok
Người ta kể rằng khi Aleksandr Blok trở lại điền trang của mình vào lúc nổ ra cuộc cách mạng mà ông đã tiên báo một cách kinh hoàng thì ông chỉ thấy quang cảnh đổ nát và tro tàn. Chợt trong đống hoang tàn có một vật gì lấp lánh. Đó là những mảnh vỡ từ tấm gương của gia đình ông.
Blok chọn lấy mảnh gương vỡ to nhất và suốt ngày cầm nó trong tay đi quanh đống tro tàn, dường như ông hy vọng mảnh gương còn nguyên này có giấu trong đáy sâu của nó dù chỉ là một mẩu lịch sử.
Những người lính Hồng quân tóc tai rũ rượi như bước ra từ bản trường ca Mười hai người của ông lệnh cho nhà thơ vĩ đại đứng lại và cầm mảnh gương giơ ra trước mặt họ khi họ cạo râu.
Các vị tông đồ của cách mạng với những băng đạn súng máy vắt chéo trước ngực không thích thú lắm khi thấy mảnh gương bị ám khói không soi tỏ vẻ mặt cách mạng đằng đằng sát khí của mình, họ bực bội chửi rủa, rồi lau sạch mảnh gương bằng những bàn tay có hình xăm và mép áo lót thuỷ thủ. Còn nhà thơ vẫn đứng yên trong vai trò Người Giữ Gương.
Văn học Nga là gì ?
Đó là tấm gương bị các cuộc chiến tranh và cách mạng đập vỡ nhưng các mảnh vỡ của nó vẫn lại lớn lên, giữ được trong bề sâu tất cả những gì đã phản chiếu trong nó.
Lenin từng gọi Tolstoy là "tấm gương phản chiếu cuộc cách mạng Nga", định nghĩa này lập tức đã giới hạn nhà văn đến phiến diện què quặt. Văn học – đó là tấm gương phản chiếu cả cách mạng lẫn phản cách mạng.
Sâu trong tấm gương này có hàng đống những chú hươu bị giới quý tộc Sa hoàng giết chết, giới này thậm chí không thể ngờ rằng chỉ ít lâu sau chính họ lại bị các nông nô của mình giết chết hàng đống như vậy. Trong tấm gương này nước Nga hiện ra khi thì với bộ mặt bạc nhược thiếu sức sống của Nikolai đệ Nhị, khi thì với cặp mắt ranh mãnh điên cuồng của Rasputin, khi thì với điệu bộ luật sư của Kerensky, khi thì trong mớ tóc giả hoá trang của Lenin, khi thì với chiếc tẩu của Stalin mà từ đó khói của những sinh mạng người bốc ra còn nhiều hơn từ ống khói của những lò hơi Osventsim (Auschwitz), khi thì với cái mũi hình củ khoai tây nhanh trí của Khrushchev, khi thì với đôi mắt như đèn từ của Gorbachev nhưng chẳng bao lâu thì cháy, khi thì với cái cằm như được tạc từ đá Ural của Yeltsyn, nó đôi khi chẳng hiểu sao dường như thiếu sinh khí, nói theo từ chuyên môn của ngành quyền Anh.
Người Nga có câu tục ngữ : "Mặt mày xấu xí đừng đổ tại gương". Nhưng lịch sử là một phụ nữ hiếm có, không thích soi gương. Nó cứ ra sức chùi gương làm như có thể chỉnh sửa được khuôn mặt mình.
Chính thế kỉ hai mươi đã phá giá tất cả các sách giáo khoa lịch sử của thế kỉ hai mươi.
Tất cả đều tiên đoán nhầm – cả Lenin người cho rằng chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, cả Trotsky với luận điểm của ông về cách mạng thường trực, cả Stalin với tư tưởng thực hiện chủ nghĩa Marx kiểu Arakcheev trong một nước riêng rẽ, cả Khrushchev với lời hứa hẹn đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, cả Solzhenitsyn người đã buồn bã báo trước việc những người cộng sản chiếm lĩnh thế giới, cả Gorbachev người cố công một cách tuyệt vọng cứu vớt hệ thống mang bản chất phản tự do bằng sự tự do hoá, cả Yeltsyn người hứa hẹn tiệt trừ tất cả mọi thứ đặc quyền. Những điều tiên tri mơn trớn lòng tự ái. Bản thân tôi đã viết hoàn toàn chân thật trong trường ca Nhà máy thuỷ điện Brask những câu thơ : "Băng qua các cuộc chiến tranh, băng qua các tội ác, loài người vẫn đi tới Lenin không lùi bước, loài người vẫn đi tới Lenin". Nhưng bộ phận Lenin hoá của loài người đột nhiên thấy ra hướng đi theo bàn tay từ vô số các tượng đài chỉ lối là ngõ cụt và họ bắt đầu vội vã thoát ra khỏi nó.
Hãy tránh những bàn tay chỉ đường, ngay cả nếu chúng chỉ theo hướng ngược lại ngõ cụt cũ. Một ngõ cụt khác có thể vẫn đang chờ anh ở đấy với nụ cười khẩy của người anh em sinh đôi ranh mãnh. Ở đấy cũng có thể có những vũng bẩn và những vũng máu.
Một lần tôi bắt gặp tấm ảnh của Nga hoàng Aleskey thời trẻ chụp cùng ông thầy thuỷ thủ có bộ ria hiền từ của ngài. Bên cạnh là chiếc xe đạp có kết cấu đặc biệt để cậu bé bị bệnh ưa chảy máu (hemophilie) khỏi ngã. Nhưng bây giờ chúng ta biết điều cậu bé trong ảnh không biết. Chúng ta biết rằng ông thầy thuỷ thủ đã phản bội người học trò của mình khi bí mật liên kết với những người nhạo báng hoàng gia. Nhưng nhiều người trong số người xử bắn hoàng gia về sau cũng lại bị xử bắn. Tình trạng không cầm máu – bệnh hemophilie – là căn bệnh dân tộc của nước Nga. Nó khởi nguồn từ thời thống trị của quân Tarta-Mongolia, khi các vị bá tước Nga cứ đánh nhau liên miên thay vì thống nhất với nhau. Chính khi đó đã sinh ra thảm kịch dân tộc chẳng hề đáng tự hào – thói quen người Nga làm đổ máu Nga.
Chủ nghĩa xã hội chẳng bao giờ có ở chúng ta. Dưới cái tên giả chủ nghĩa xã hội chúng ta đã tạo ra một chế độ phong kiến - quân chủ che đậy. Chẳng phải Stalin là Nga hoàng, còn các vị bí thư đảng là những lãnh chúa đó sao ? Chủ nghĩa xã hội phong kiến sau khi giết chết Nga hoàng Aleksey đã thay ông ta thừa kế ngai vàng, thừa kế bệnh hemophilie. Nền dân chủ của chúng ta hiện thời cũng là nền dân chủ phong kiến, nền dân chủ hemophilie. Máu vẫn tiếp tục đổ không ngừng – cả ở quanh nước Nga, cả ở bên trong – máu của các cuộc xung đột dân tộc trên những lãnh địa cũ của đế chế, máu ở Chechnya, máu của cuộc huynh đệ tương tàn giữa nghị viện và tổng thống, máu của những vụ giết người được thuê sẵn.
Nước Nga luôn là đất nước của nền văn hoá cao cả, nhưng đồng thời là đất nước của sự vô văn hoá chính trị. Chúng ta đối xử với sự tự do của mình một cách vô văn hoá. Tự do của những người không đáng được tự do là nguy hiểm cho chính họ. Gertsen từng viết : "Không thể giải phóng cho mọi người nhiều hơn họ tự giải phóng từ bên trong".
Chẳng hề mong muốn một nhà thơ nào đó của thế kỉ XXI sẽ lại giống như Aleksander Blok lang thang quanh đống đổ nát, tay cầm một mảnh gương phản chiếu chỉ những xác chết và tro tàn.
Tôi những muốn chúng ta nhìn vào tấm gương của lịch sử và thấy ở đấy chỉ khuôn mặt mình và khuôn mặt con cái chúng ta mà khi nhìn vào không thấy xấu hổ.
5. Chúng ta không việc gì phải xấu hổ
Chúng ta xấu hổ về gì, tất cả đã rõ.
Nhưng lẽ nào chúng ta phải xấu hổ về việc chúng ta đã tránh cho loài người nỗi sợ cuộc thế chiến ba ? (Mặc dù bất cứ người mẹ nào mất con thì ở đâu cũng là mất con – trong cuộc thế chiến hay tại một khu vực nào đó ở Chechnya, Tadzhikistan).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không còn phải sợ cái "con quạ đen" có thể lôi bất cứ ai trong chúng ta đến Lubyanka hay vào trại tâm thần (mặc dù chúng ta sợ bị cướp bóc và đánh đập trên phố hay trong nhà của mình).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không chỉ có một đảng duy nhất nữa, cái đảng mà ta buộc phải yêu từ khi đi vườn trẻ (mặc dù thật khó mà yêu được một đảng nào trong khoảng nửa trăm đảng phái đã đăng kí hoạt động).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc không còn sự kiểm duyệt chính trị nữa (mặc dù có sự kiểm duyệt thương mại chuyển thành sự kiểm duyệt chính trị), về việc không phải xếp hàng mua hàng (mặc dù có sự xếp hàng của những người thất nghiệp kiếm việc làm), về việc không còn những ủy ban lưu động nhục nhã nữa (mặc dù phần đông dân ta không vui khi biết rằng anh có thể đi đến Paris nhưng kiếm cả đời cũng chẳng đủ tiền để mà đi).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc nếu anh là người theo đạo, anh có thể không phải che giấu đức tin của mình và tự do đi vào bất kỳ nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường nào mà sẽ không bị ai theo dõi (mặc dù nhiều người trong chính các thầy tu lại không khoan dung với các tôn giáo khác nhưng đồng thời lại buôn bán thuốc lá và lòng trung thành đối với chính quyền).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc bây giờ trong các cửa hàng có đủ mọi thứ hàng hoá (mặc dù đồng thời lại xấu hổ là hầu như tất cả không phải là hàng của chúng ta làm ra).
Tất cả những cái đó tất nhiên là còn lâu mới hoàn thiện và đôi khi còn rất mong manh. Nhưng đừng nên quên rằng TẤT CẢ NHỮNG CÁI ĐÓ CHỈ MỚI CÁCH ĐÂY CHƯA LÂU LÀ KHÔNG CÓ VÀ KHÔNG THỂ NÀO CÓ ĐƯỢC.
Chúng ta không được phép quay lại cả cái thời đã xa lẫn cái thời chưa xa của chúng ta.
Chúng ta cần phải suy nghĩ về những cái hiện chưa có, nhưng cần phải có.
Về những cái sẽ không phải xấu hổ.
Giữa xấu hổ và sợ hãi có hai trạng thái trung gian. Một là nỗi sợ hãi của xấu hổ, và một là nỗi xấu hổ của sợ hãi.
Một số người mong muốn kéo lại quá khứ thì thích nỗi sợ hãi của xấu hổ và chỉ tìm cách lựa chọn trong hai trạng thái đó cái nào ít ác hơn. Đó là "sự ủng hộ với tiếng thở dài buồn bã". Nhưng cái ác nhỏ có một thuộc tính nguy hiểm là trên con đường ủng hộ như thế nó lớn lên thành cái ác lớn. Lịch sử cho thấy cùng một con người trong những thời kỳ khác nhau có thể là người thức tỉnh xã hội, còn sau đó bản thân lại trở thành lực cản của những lực lượng đã được hắn đánh thức. Các biến cố rất thường vượt lên trước những người cầm đầu các biến cố. Trong lịch sử quan trọng không chỉ là biết xuất hiện đúng lúc, mà còn biết rút lui đúng lúc, mong muốn trao quyền trượng vào những bàn tay đáng tin cậy. Trình độ dân chủ được xác định bằng chính sự chuyển giao quyền lực một cách bình an.
Trong lịch sử nước Nga chưa từng xảy ra một sự quá độ êm ả tự nhiên như thế.
Khrushchev, người không trừng trị về thể chất đối với những kẻ đối địch mình – Malenkov, Molotov, Kaganovich và "Shepilov vào hùa theo ông" như lời đồn đại, đã tạo ra một tiền lệ cứu thoát chính ông, khi ông bị hạ bệ nhưng kỳ lạ là vẫn còn được sống, ông đã đi vào nhà hát và lặng lẽ đọc cho ghi hồi kí của mình. Nhưng ông đã bị loại ra khỏi đời sống chính trị.
Gorbachev là tác giả của những sự thay đổi chính trị nghiêm trọng trong xã hội, những thay đổi không cho phép cô lập ông về mặt chính trị, mặc dù có thể Yeltsyn muốn điều đó. Gorbachev không thành công, nhưng dù sao đã tranh cử chức tổng thống Nga, ông trả lời phỏng vấn một cách thận trọng, nhưng công khai bày tỏ quan điểm đối lập, và thường xuyên công du nước ngoài. Đó là điều bình thường trong một quốc gia bình thường, nhưng ở nước Nga là điều chưa từng có !
Mà biết đâu, dần dần điều đó sẽ trở nên bình thường?
Toàn bộ lịch sử nước Nga là lịch sử của những cơn động đất chính trị. Trong những khu vực có nguy cơ động đất những người thợ xây dựng thường phải xem xét một loại cấu trúc nền móng đặc biệt. Cái chính bây giờ là phải tạo được một cơ sở hạ tầng cho phép dù quyền lực chuyển giao vào tay ai thì vẫn tránh được sự đổ vỡ. Làm được thế thì sẽ yên ổn cho cả người Nga và cả nhân loại.
Ngày 19 tháng 8 năm 1991 quá khứ đã muốn cưỡi xe tăng xộc vào hiện tại và tương lai của nước Nga.
Yeltsyn khi đó đã đóng một vai trò lịch sử.
Khi đó tôi không thể hình dung là đã bắt đầu cuộc chiến tranh ở Cherchnya và tôi đã từ chối nhận huân chương "Hữu nghị các dân tộc" từ tay của vị tổng thống đã ban hành sắc lệnh phát động cuộc chiến tranh đó.
Tôi không thể hình dung năm 1993 những chiếc xe tăng Nga đứng giữa trung tâm thủ đô Nga bắt đầu nã đạn vào nghị viện Nga.
Yeltsyn đã có một cơ hội mang tính quyết định đối với thanh danh lịch sử cuối cùng của ông – tạo ra tiền lệ của việc chuyển giao êm ả quyền lực từ tay này sang tay khác. Nếu ông thực hiện lời hứa của mình và trở thành người lãnh đạo đầu tiên của nước Nga tự nguyện trao quyền trượng vào tay của người kế tục do nhân dân lựa chọn thì có lẽ toàn bộ lịch sử nước Nga từ thời điểm đó sẽ thay đổi.
Nhưng đó sẽ là bàn tay của ai ?
Của ai không quan trọng – chỉ cần đó là những bàn tay sạch.
6. Tôi không thương xót chính quyền xô viết
Tôi không thương xót chính quyền xô viết, bởi vì nó đã không hề thương xót hàng triệu người bị nó giết chết. Nó tất phải sụp đổ giống như chế độ sa hoàng là chế độ cũng không thương xót mọi người. Thiếu lòng thương xót đối với những con người của một hệ thống nhà nước rốt cuộc sẽ quay ra thành sự không thương xót của mọi người đối với hệ thống đó. Hãy để hệ thống hôm nay nhớ lấy điều đó như một lời cảnh báo, hệ thống này vẫn chưa đáng được gọi là dân chủ bởi vì đáng tiếc là nó vẫn thừa kế của chính quyền xô viết sự không thương xót mọi người. Sự không thương xót đó tự gọi mình là gì đi nữa – chủ nghĩa xã hội, hay chủ nghĩa tư bản, hay một cái gì khác, thì cũng có khác gì nhau. Thế kỉ hai mốt đã ngấp nghé ngưỡng cửa. Tôi mong muốn gì ở nó ? Tôi muốn sao cho nó học được cách thương xót mọi người.
7. Giã từ thế kỉ hai mươi
Tôi chia tay thế kỉ hai mươi, như chính mình chia tay với mình.
Người ta có thể hân hoan nhẹ nhõm nói về một số người : "Ôi, đó là người của thế kỉ hai mốt...". Về tôi thì không thể nói như thế được. Tôi chỉ là người của thế kỉ hai mươi.
Một nhà thơ "đầy xung khắc trong mình", ở đó những ảo tưởng lãng mạn cách mạng bện kết với sự bác bỏ những ảo tưởng đó, một nhà thơ như thế chỉ có thể xuất hiện vào nửa sau thế kỉ hai mươi và chỉ ở nước Nga – không phải nước Nga trước cách mạng, mà chỉ ở nước Nga xô viết với hệ thống một đảng, kiểm duyệt, khó đi lại. Tôi cám ơn thế kỉ hai mươi, bởi vì tôi không có thế kỉ nào khác.
Tôi mang trong mình những căn bệnh của thế kỉ này, những hi vọng, lầm lạc, sợ hãi của nó, sự hạn chế, sự điên cuồng của nó, những cơn hoài nghi, cơn hoang tưởng tự đại, và lạy Chúa, cả niềm tin ngây thơ nhưng không sao chữa nổi là tình bác ái của mọi người dẫu sao vẫn có thể có được.
Cả hai chúng tôi – thế kỉ hai mươi và tôi – không hợp với dấu cộng, và tôi hy vọng là cũng không hợp với dấu trừ. Nhưng thế kỉ hai mươi đã xé rách tôi. Nói theo Tsvetaeva, "chúng tôi lớn lên cùng nhau".
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Evgeny Evtushenko. Volchii Pasport (Tấm căn cước sói)
Moskva. Vagrius. 1998
Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org