Hiển thị các bài đăng có nhãn Lệ Thần Trần Trọng Kim - Một cơn gió bụi (5). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lệ Thần Trần Trọng Kim - Một cơn gió bụi (5). Hiển thị tất cả bài đăng

15/6/11

Lệ Thần Trần Trọng Kim - Một cơn gió bụi (5)

Lệ Thần Trần Trọng Kim
Một cơn gió bụi

Hồi kí

Chương 11
Về Sài Gòn

Sau cuộc nói chuyện với ông Cousseau, ông Bảo Ðại bảo tôi rằng: "Trong cái tình thế này, cụ nên về tận nơi, trực tiếp với mấy người cầm quyền của Pháp xem tình ý của họ như thế nào. Nếu thật làm được, thì cụ lại trở ra, ta sẽ trù tính mọi việc".

Tôi nói: "Ðây là mới gặp ông Cousseau, ta đã tin gì mà về. Một mình tôi về, có bị sao cũng không ngại mấy, nhưng công việc chưa ra gì mà đã mắc lừa thì dại quá". Ông nói:
"Nước mình đang lâm vào cảnh khổ vì chiến tranh, nay có cơ hội may ra có thể cứu được nước mà mình do dự không làm gì thì sao cho phải, cụ nên nghĩ kỹ".

Khi ấy ông Cousseau ở lại Hương Cảng để chờ tin bên Ðông Dương, tôi về ăn tết nguyên đán ở Quảng Châu. Trước khi về, ông Bảo Ðại biết tôi không tiền, có đưa giúp tôi 500 dollars, nhưng hôm sau ra nhà trạm xe lửa bị kẻ cắp lấy mất. Rõ là vận đen, làm việc gì cũng đen.

Sau tết nguyên đán được dăm hôm, ông Bảo Ðại cho người bảo tôi đem cả gia quyến ra Hương Cảng. Chúng tôi đi tàu thủy ra tới nơi, đến gặp ông Bảo Ðại. Ông nói rằng: "Cụ về rồi, tôi có nói chuyện thêm với ông Cousseau, tôi tưởng cụ nên về Sài gòn và nhân tiện đem cả gia quyến về, chứ để nheo nhóc ở bên này chẳng có ích gì".

Tôi nghĩ: một mình tôi ở ngoài này đã vậy, lại có vợ con chạy ra đây, thiếu thốn đủ mọi đường. Nay đã có cơ hội đem cả về cho yên chỗ là phải. Còn về việc nước, thì người Pháp đã muốn điều đình và có ý nhận cho nước Việt Nam thống nhất tự chủ, người mình có đánh nhau đến cùng cũng không thể đòi hơn được. Chi bằng ta cứ về cho biết rõ tình thực. Nếu thuận tiện làm được gì thì làm mà không thì thôi, cũng không sao.

Sau tôi gặp ông Cousseau, ông cũng nói: "Nếu cụ bằng lòng về thì tôi thu xếp giấy má xong ngay, rồi chờ có chuyến tàu thủy thì chúng ta cùng về cả. Về bên ấy cụ sẽ có nhà ở và không phải lo gì cả".

Tôi nói: "Tôi về chỉ cần gặp được ông cao cấp ủy viên để nói chuyện cho rõ ràng rồi cho tôi trở sang trình bày cho cựu hoàng biết, lúc ấy có làm gì mới làm được. Về bên ấy tôi muốn gặp mấy người như ông Hoàng Xuân Hãn, ông Vũ Văn Hiến, để hỏi ý kiến và việc làm". Ông nói: "Việc ấy rất dễ, và lúc nào cụ trở sang cũng được".

Công việc định như thế rồi, chờ tàu Champollion ở Thượng Hải đến là về cả. Lúc ấy có ông Ðinh Xuân Quảng và Phan Huy Ðán ở Thượng Hải mới về Hương Cảng, biết rõ công việc bàn định ấy, đều cùng xin về với chúng tôi.

Trước khi đi, ông Bảo Ðại có dặn cách gửi thư cho ông và lại đưa cho cái thư, bảo tôi về gặp bà Didelot, là chị hoàng hậu, mà đưa tận tay cho bà ấy. Tôi hỏi rằng: "Về bên ấy rồi, người Pháp không cho tôi trở sang lại thì saỏ" Ông nói rằng: "Nếu họ không để cho cụ sang thì tôi còn bên này, cụ đừng lo".

Tôi hỏi như thế là vì tôi vẫn không tin lời ông Cousseau nói, vả lại có một người quen của ông ấy nói với tôi rằng: ông Cousseau nói với người ta rằng: "Ông Kim đừng mơ tưởng". Tôi mơ tưởng cái gì? Tôi về nếu mà người Pháp thành thực, thì là việc giúp nước trong lúc nguy nan, ngược bằng có ý lừa dối thì thôi, chứ tôi có mưu cầu danh lợi gì đâu mà bảo đừng mơ tưởng.

Việc đã định rồi thì cứ về. Sáng ngày mùng 2 tháng hai năm 1947 chúng tôi xuống tàu Champollion, đến ngày mùng 5 đến Sài gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.

Trước khi đi ông Cousseau đã giao hẹn về đến Sài gòn sẽ có nhà ở. Nhưng từ khi đến nơi xem ra bộ ông lúng túng, tôi bảo ở đây tôi quen ông Trịnh Ðình Thảo, chúng tôi hãy tạm lên ở đấy. Thế là chúng tôi thuê xe về cả nhà ông Thảo.

Ông Trịnh Ðình Thảo từ khi ở Huế về, đóng cửa trong nhà, không làm việc gì cả. Bất thình lình thấy chúng tôi kéo đến, rất lấy làm ngạc nhiên và lo sợ. Lo sợ là không biết chúng tôi về làm gì. Sau khi tôi nói chuyện tình đầu cho ông nghe, ông mới yên bụng.
Ở đấy được vài hôm, ông Cousseau nói chưa tìm được nhà. Ông Quảng và ông Ðán đi tìm chỗ khác ở. Nhà tôi tìm thấy người anh ruột là ông cử Bùi Khải rồi cũng về đó ở. Tôi ở lại nhà ông Thảo, vì tôi về Sài gòn là đã giao hẹn từ trước nên giữ kín đừng cho ai biết, chờ đến khi biết rõ sự thực rồi trở sang Hương Cảng, bấy giờ có làm việc gì mới làm. Thế mà cách mấy hôm đã có người đến tìm tôi. Tôi phải từ chối không tiếp ai cả.

Mấy hôm sau nữa, ông Pignon lúc ấy làm ủy viên coi việc chính trị, đến gặp tôi ở nhà ông Thảo, ngồi nói chuyện rất ôn hòa và cho tôi biết ông cũng đồng ý về mấy điều tôi đã đưa cho ông Cousseau khi ở bên Hương Cảng, nhưng vì cao cấp ủy viên Pháp là trung tướng D'argenlieu phải về Pháp, chờ cho đến khi ông trở sang mới nói chuyện được. Tôi có nhắc lại chuyện cho tôi được gặp những người như ông Hiến, ông Hãn và ông Khiêm, thì ông Pignon nói rồi sẽ đưa những người ấy vào gặp tôi. Nói thế nhưng rồi sau chẳng thấy ai cả.

Tôi xem cái tình thế trong nước phía bên người Pháp, thì có mấy phái. Có phái thì muốn lập lại chủ quyền như trước, chỉ thay đổi có cái tên gọi mà thôi. Có phái thì muốn chủ trương sự lập Ðông Cung mới 11 tuổi lên làm vua, để bà Hoàng Hậu nhiếp chính. Có phái thì muốn ít ra cũng tách nước nam bộ đặt dưới quyền điều khiển ngấm ngầm của họ. Rồi mỗi phái có một bọn người Việt Nam, vì quyền lợi riêng cũng phụ họa thêm vào. Song những người Việt Nam ấy là một thiểu số ít ỏi lắm, mỗi khi họ muốn hội họp để biểu tình gì đó, chỉ thấy có độ vài ba trăm người là cùng.

Phía bên người Việt Nam thì có phái Việt Minh, phái quốc gia và cái phái tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Cao Ðài giáo và Hòa Hảo giáo v...v... Song hoạt động hơn cả là phái Việt Minh, nào tuyên truyền, nào thóa mạ, nào ám sát là việc họ thường làm rất táo bạo và hăng hái. Cái phái khác tuy không ưa Việt Minh, nhưng cũng vì Việt Minh có cái danh nghĩa chống Pháp để đòi lại nền độc lập, cho nên có nhiều người khuynh hướng về mặt trận kháng chiến. Tôi nghe thấy nhiều người nói rằng: "Chúng tôi chẳng ưa gì cộng sản, nhưng họ đã có cái tổ chức để kháng chiến, thì hãy đi kháng chiến đã, rồi sau nếu mà thành công, thì ta sẽ liệu với nhau, chứ cúi đầu làm nô lệ cho Pháp như trước, thà chết thì thôi chứ không bao giờ chịu". Còn một phần hoặc vì quá ghét Việt Minh hoặc vì Việt Minh áp chế để chuyên giữ độc quyền, cho nên thành ra có phe nọ đảng kia, chia rẽ giết hại lẫn nhau.

Ông Nguyễn Văn Sâm trước là người đã được bổ làm nam bộ khâm sai, thường đến gặp tôi nói chuyện. Tôi nói với ông rằng: "Theo cái tình thế này, thì làm thế nào rồi ta cũng phải điều đình với nước Pháp mới xong việc. Xong muốn cho sự điều đình có lợi cho nước nhà thì người trong nước phải đoàn kết chặt chẻ với nhau mới được. Nếu không thì chỉ mắc mưu người ta lợi dụng rồi chẳng được gì cả". Ông Sâm nói: "Mình muốn đoàn kết nhưng Việt Minh đâu có thật lòng đoàn kết! Họ chỉ muốn mình theo họ để làm tay sai cho họ củng cố địa vị mà thi hành cái chủ nghĩa cộng sản của họ, chứ thực ra họ có thiết gì đến quốc gia. Như vậy thì đoàn kết sao được". Tôi thấy thế rất lấy làm buồn và chán nản.
Người Pháp thì không hiểu cái tâm lý của người Việt Nam, lại ỷ thế có sức mạnh, muốn làm cho người ta sợ, nào bắt bớ, nào cướp bóc, dâm hiếp, rồi nói "chiến tranh là chiến tranh". Làm như thế, cái lòng phẫn uất của người ta càng ngày càng tăng thêm lên. Họ không biết rằng sự sợ có giới hạn, khi đã quá lắm, khi người ta đâm liều, mà đã liều thì không có gì ngăn cản được nữa.

Một bên thì gian ác, hiểm độc ai cũng biết, nhưng lại mượn được cái danh nghĩa rõ ràng. Một bên thì quyền mưu giả dối, mà lại bạo ngược tàn ác, trái với lòng người. Như thế làm thế nào mà đem lại hòa bình được.

Theo cái tư tưởng của người đời xưa bên Á Ðông ta, có câu rằng: "Công thành bất như công tâm", nghĩa là đánh thành trì không bằng đánh lấy lòng người. Người Pháp chỉ biết lấy võ lực mà đàn áp, chứ không biết cách làm cho người ta kính phục. Những người họ đem ra làm việc với họ phần nhiều là những người xu nịnh, chỉ muốn thừa thời cơ mà làm sang làm giàu, chứ không nghĩ gì đến liêm sỉ, tiết nghĩa. Những người ấy người Pháp có thể sai khiến, nhưng đối với dân chúng trong nước, không những là không có uy tín gì, mà lại gây thêm cái lòng oán ghét. Vì người Pháp làm những việc thất sách như thế cho nên cái thế Việt Minh vẫn mạnh và giữ vững được mặt trận kháng chiến.

Có người Pháp nói rằng: "Nếu người Việt Nam không mến người Pháp, sao những nơi thuộc quyền kiểm soát, dân cư càng ngày càng đông hơn trước. Họ lấy thí dụ như khu Sài gòn, Chợ Lớn trước khi có sự chiến tranh chỉ có 500.000 người mà đến năm 1949 có đến 1.500.000 người. Ðó không phải là cái chứng xác đáng về sự lòng dân mến người Pháp. Người ta về chỗ thành thị thuộc người Pháp kiểm soát cũng bị nhiều sự bắt bớ cực khổ, nhưng chỉ có bị một bên thôi, còn ở phía thuộc quyền Việt Minh kiểm soát thì đã bị Việt Minh đàn áp, lại bị quân Pháp đến đánh phá, bắn giết, thành một cổ đôi tròng, cho nên người ta phải tìm đến chỗ hại ít mà lánh mình. Hãy hỏi những người thường ở những nơi thành thị, thì ai cũng nói ở chỗ bị một cái khổ còn hơn ở chỗ bị hai cái khổ. Tựu trung trong những người về ở chỗ đô hội đó, cũng có một số người vì quyền lợi muốn theo Pháp, nhưng không phải là ai cũng mến Pháp mà về.

Khi tôi còn chờ đợi ở nhà ông Thảo, có người Pháp đến bảo tôi rằng: "Chính phủ ở đây có tiền, có nhà in sẵn sàng, cụ nên ra mặt làm việc đi". Tôi nói: "Tôi về đây cốt để biết rõ cái ý định người Pháp và xem tình hình trong nước thế nào, rồi ra nói cho cựu hoàng Bảo Ðại biết, lúc ấy có làm gì hay không mới quyết định được". Người Pháp thấy tôi không chịu làm gì, bèn nói nọ nói kia. Một hôm tôi thấy trong một tờ báo Sài gòn, đăng một đoạn rằng: người Pháp đem tôi về, là cốt để tôi không mưu mô bên cạnh ông Bảo Ðại. Cái ý ấy có lẽ đúng sự thực. Vì xem ý người Pháp lúc ấy là muốn lợi dụng ông Bảo Ðại, mà để tôi gần ông sợ có điều bất tiện, nên mới hứa hẹn đủ mọi điều để đem tôi về. Nếu có lợi dụng được thì dùng mà không thì để cho xa cách ông Bảo Ðại ra, rồi đưa những người thân tín của họ ra làm việc cho dễ. Tôi lại thấy bao nhiêu điều hứa hẹn của ông Cousseau là không có gì cả. Những người tôi muốn gặp đều không có ai, mà lại thấy những người như ông Phan Văn Giáo, ông Trần Ðình Quế, thường muốn đến gặp tôi, tôi không tiếp ai cả. Rồi đến những người cùng về với tôi như ông Ðinh Xuân Quảng và ông Phan Huy Ðán đều đi làm việc với ông Quế và ông Giáo.

Khi tôi mới về Sài gòn, tôi có đến gặp ông cố đạo Moreau do ông Bảo Ðại giới thiệu, nói chuyện rất tử tế. Tôi nói: "Cựu hoàng Bảo Ðại có cái thư riêng, bảo tôi đưa tận tay cho bà Didelot, nhờ cố giới thiệu hộ". Cố nói: "Bà ấy bây giờ ở Ðà Lạt, độ một tuần lễ nữa mới về. Khi nào bà ấy về, sẽ báo cho ông biết". Ðộ hơn một tuần lễ sau, tôi nghe nói bà ấy đã về, tôi cho người hỏi cố Moreau, cố nói: "Bà ấy đã về nhưng bận lắm, không biết bà ấy có tiếp được không". Cố lại thêm rằng: "Bà ấy chỉ yêu cháu bà ấy thôi".

Khi ấy có ông Phạm Khắc Hòe, nguyên đổng lý văn phòng của vua Bảo Ðại trước, đang ở Sài gòn, tôi nhờ ông Hòe đến hỏi bà ấy xem bà ấy có tiếp thì tôi đến đưa cái thư của ông Bảo Ðại cho bà ấy. Ông Hòe đi rồi về nói rằng: "Bà ấy nói không tiếp người làm việc chính trị, nhưng ông Kim có muốn gặp thì chỉ tiếp trong năm phút thôi".

Tôi sở dĩ muốn gặp bà Didelot là vì có cái thư của ông Bảo Ðại nhờ tôi đưa tận tay cho bà ấy, chứ có cầu cạnh gì đâu. Tôi thấy thái độ của bà ấy như thế, tôi không đến và nhờ ông Hòe đem cái thư ấy lại cho bà ấy. Tôi kể cái chuyện lặt vặt ấy là vì có một sự gì u ẩn mà tôi chưa rõ.

Có một điều tôi lấy làm lạ rằng là ở Sài gòn dưới quyền kiểm soát của người Pháp mà lại có nhiều báo chí Việt Nam công nhiên ra mặt bênh vực Việt Minh. Có người viết trong báo rằng: "Tôi lấy làm hân hạnh được là người của Việt Minh". Tôi hỏi sao ở đây người Pháp đối với những báo ấy lại rộng rãi như thế? Người ta chỉ cười mà không đáp lại.

Việc làm của người Pháp thật là ngoắc ngoéo khó hiểu. Họ đánh nhau với Việt Minh mà lại dung túng người của Việt Minh. Họ nói muốn điều đình với những người trong phái quốc gia, mà lại cản trở việc làm của phái quốc gia. Trong phái này có ông Nguyễn Văn Sâm ra mặt chống Việt Minh, thì bị người Pháp ghét và bị Việt Minh hăm dọa. Khi tôi gặp ông, tôi khuyên ông rằng: "Tôi xem tình thế khó lắm, ông có làm việc gì phải thận trọng, đừng có khinh xuất mà mắc mưu gian". Ông Sâm nói: "Tôi cũng biết thế, nhưng không lẽ vận nước gian nan mà mình ngồi nhìn, thà chúng ta cứ đứng ra thành lập mặt trận quốc gia thống nhất để cho người ngoài biết trong sự hành động kháng chiến không phải ai cũng là Việt Minh cộng sản hết cả. Rồi đây chúng tôi sẽ tái bản tờ báo Quần Chúng đã bị đóng cửa từ trước, để bày tỏ ý định chúng tôi". Tôi nói: "Việc ấy tùy ông, nhưng không nên vội vàng nông nổi mà hại cho việc các ông làm. Còn tôi thì đã nhất định không dính dáng đến việc gì cả".

Hải quân trung tướng D'Argenlieu về Pháp bị cất chức, chính phủ Pháp cử ông Bollaert sang thay. Khi ông sang đến nơi, thì đổi ông Pignon đi làm ủy viên nước Pháp ở Cao Miên, để ông Didier Michel quyền chức ủy viên coi việc chính trị, tôi thấy ủy viên nước Pháp muốn thay đổi chính sách, tôi nghĩ mình đã định không làm gì nữa, ở lâu nhà ông Thảo vô ích và có điều không tiện, tôi bèn về nhà ông Bùi Khải. Bấy giờ là ngày 29 tháng tư năm 1947.

Cao cấp ủy viên Bollaert sang hứa hẹn lờ mờ chưa rõ là ý định của chính phủ Pháp là thế nào. Sau khi ông đi kinh lý các nơi ông cho ông Paul Mus, giám đốc trường hải ngoại nước Pháp, đi gặp ông Hồ Chí Minh để thương thuyết, nhưng hình như muốn bắt Việt Minh đầu hàng. Thành ra không xong. Cao cấp ủy viên lại về Pháp được toàn quyền hành động để đem lại cuộc hòa bình ở Ðông Dương. Ông trở sang, định ra Hà Nội đọc bài diễn văn ấy ở Hà Ðông, đại ý nói sẽ cho nước Việt Nam thống nhất và được độc lập trong liên hiệp Pháp theo mấy điều kiện, và cái điều kiện quan trọng nhất là bắt quân Việt Minh phải nộp khí giới mà đầu hàng. Thế là bao nhiêu hy vọng của mấy người còn tin tưởng ở cái chính sách mới của ông Bollaert mất hết.

Ngày mùng 8 tháng năm, mấy hôm trước khi ông Bollaert ra bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi ở nhà ông Thảo. Hai lần trước tôi gặp ông Pignon, câu chuyện không có gì, nhưng còn có ý vị, lần này tôi gặp ông Didier Michel thì nhạt nhẽo lắm. Ông nói: "Sao ông không ra hành động đi, ông còn đợi gì nữả"

Tôi nói: "Hành động gì? Cái mục đích của tôi về đây là để biết rõ cái ý chính phủ Pháp định đối với Việt Nam thế nào rồi tôi ra nói cho ông Bảo Ðại biết, và đến nay tôi chưa thấy gì là rõ rệt cả".

„Ông không đọc những lời diễn văn của ông Ramadier, thủ tướng nước Pháp, và những lời bố cáo của ông Bollaert đã nói à?“

„Tôi có đọc, nhưng đó chỉ là lời diễn văn thôi, chứ chả có gì là thiết thực.“

„Thế thì ông muốn thế nào?“

„Tôi muốn có sự thành thật rõ ràng rồi mới có thể làm việc được.“

„Bây giờ tôi vội về có việc, để sau ta sẽ nói chuyện.“

Từ đó rồi thôi, tôi không gặp người Pháp nào nữa, rồi thấy có những người như ông Phan Văn Giáo, Trần Ðình Quế và những người khác, hoặc ở nam hoặc ở trung, hay ở bắc, tấp nập đi lại Sài gòn-Hương Cảng-Sài gòn.

Ông Nguyễn Văn Sâm cũng sang Hương Cảng gặp ông Bảo Ðại, đến khi trở về được mấy ngày thì bị ám sát. Ông vốn là người ôn hòa trầm tĩnh, ngay chính và hết lòng lo việc nước. Nhưng vì ông quá tin người ta xui dục làm việc vội vàng quá thành ra bị tai vạ, thật là đáng thương tiếc.

Qua đầu năm 1948 ở Nam Kỳ cộng hòa quốc, Lê Văn Hoạch phải từ chức. Người Pháp đưa thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân về thay. Ông Xuân nhận chức chủ tịch ít lâu rồi để Trần Văn Hữu lên thay và đứng ra lập Việt Nam Trung Ương lâm thời chính phủ. Ðến ngày mùng 5 tháng sáu năm 1948 thì có hội nghị giữa ông Bollaert và ông Bảo Ðại ở vịnh Hạ Long, chuẩn định sự hứa hẹn cho nước Việt Nam được thống nhất và độc lập ở trong khối liên hiệp Pháp.

Xong cuộc hội nghị ở vịnh Hạ Long, ông Bảo Ðại về từ biệt Hương Cảng, đi qua nước Anh chữa mắt, rồi về ở Thụy Sĩ. Ðến khi người Pháp đem cựu hoàng hậu và các con sang Pháp thì về ở nhà riêng ở thành Cannes gần Nice.

Khi thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân lên làm chủ tịch trung ương lâm thời chính phủ, có viết thư mời tôi về làm cố vấn, nhưng vì tôi già yếu và lại có bệnh tật, tự biết không làm được việc gì ích lợi cho thế cục, nên tôi từ chối. Lúc ấy tôi đã ở Nam Vang được mấy tháng rồi.




Chương 12
Lên Nam Vang

Khi tôi về Sài gòn, trong lưng chỉ còn có 20 đồng bạc Ðông Dương. Ông Cousseau thấy vậy có đưa tiền, nhưng tôi không lấy. Sau tôi gặp những người quen biết có giúp đỡ ít nhiều để mua thuốc thang và may vá lặt vặt. Tôi đến nhờ ông cử Bùi Khải, ông vì tình anh em, tiếp đãi một cách thành thực và tử tế, các cháu đều hết lòng kính mến. Nhưng vì cả gia quyến bốn năm người đến ở đấy lâu ngày, ăn không ngồi rồi, nghĩ cũng khó coi. Con gái tôi biết tiếng Anh, có nhiều người muốn học, định đi thuê nhà để dạy học, nhưng không thuê được nhà. Sài gòn cũng như ở bên Tàu, cái nạn khan nhà thật là điêu đứng. Muốn thuê một cái nhà nhỏ, ít ra cũng phải trả tiền trà mất một vài vạn bạc, thì lấy tiền đâủ Sau hai vợ chồng con tôi gặp những người quen nói ở trên Nam Vang, bên Cao Miên, cơm gạo rẻ và dễ thuê nhà, chúng nó mới xin giấy lên Nam Vang. Lên ở nhà khách sạn được mấy ngày chẳng may con tôi bị bỏng suýt chết. Nhờ có những người quen biết trông nom giúp đỡ nên không việc gì.

Nhà ở Nam Vang lại có phần khó thuê hơn ở Sài gòn, thành ra nhà vẫn chưa thuê được, con tôi phải về ở nhà ông Phạm Chí Tùng trong khi chờ đợi có nhà ở.

Ông Phạm Chí Tùng là người rất hiền hậu, thấy con tôi lên ở nơi xa lạ, hết lòng giúp đỡ, coi như anh em trong nhà vậy.

Con tôi đi Nam Vang chờ đến ba tháng, nhờ ông Pignon can thiệp mấy lần, hội đồng coi việc nhà cửa mới thuê cho được một căn nhà, mở lớp dạy học tiếng Anh, lần hồi cũng đủ ăn tiêu.

Tôi ở Sài gòn, có cóp nhặt những sách của tôi, định tìm nhà xuất bản cho in lại. Lúc ấy tôi gặp ông Trần Văn Văn đến thăm tôi. Khi tôi ở Huế, ông có ra làm việc ở bộ kinh tế với ông Hồ Tá Khanh, cho nên đã quen từ trước. Ông thấy tôi ở trong cái hoàn cảnh rất eo hẹp, ông liền cho tôi vay một món tiền khá lớn và ông nhận việc tìm nhà xuất bản để in những sách của tôi.

Trong lúc nguy nan, gặp được người bạn như ông Trần Văn Văn đến thăm tôi thật là ít có. Ấy cũng là một sự may mắn, nhờ trời dun dủi làm cho đỡ được bao nỗi đau buồn khổ não.

Vào khoảng tháng chín năm 1947, thì cậu Bùi Nam, anh em nhà tôi ở Hà Nội vào Sài gòn thăm chúng tôi, biết rõ tin tức người nhà. Lúc ấy nhạc mẫu tôi đau nặng chưa biết thế nào, cậu Nam được tin vội vàng ra ngay, ra đến nơi buổi trưa, thì buổi chiều mẹ tôi mất. Tình mẹ con, nỗi đau đớn, nhà tôi rất sầu khổ. Cái sầu khổ lúc ấy lại có phần tăng thêm là vì phải khi loạn lạc, mình phiêu lưu ở đất khách quê người, không thấy được mặt mẹ trong phút cuối cùng.

Sau tôi nghĩ ở Sài gòn cũng ngồi không mà con thì ở trên Nam Vang một mình, ngày dạy học vất vả, bỏ cháu không ai trông coi. Nhà tôi muốn lên ở trên ấy, để cha mẹ con cái cùng ở một chỗ. Vậy nên chúng tôi định qua tết nguyên đán năm Mậu Tý (1948) thì lên Nam Vang.

Ðến quãng đầu tháng ba năm 1948, thì rể tôi về đón chúng tôi, rồi đến ngày mùng 6 tháng ba tức là ngày 26 tháng giêng năm Mậu Tý, chúng tôi lên xe hơi chở hành khách lên Nam Vang.

Lên đến nơi một tuần lễ, tôi đến gặp ông Pignon là ủy viên nước Pháp, xin cái giấy được lưu trú ở đất Cao Miên. Vì ở xứ ấy bấy giờ, những người Việt Nam đi lại rất khó mà ai muốn ở lâu phải có giấy cho ở mới được. Ông Pignon chuyện trò một cách vui vẻ và cho giấy một cách rất dễ dàng.

Ở Nam Vang được yên ổn hơn Sài gòn, ngày đêm tự do, không có cấm đoán gì cả, chỉ phải nóng nực khó chịu. Tôi lên đây nhờ có ông Phạm Chí Tùng và mấy người khác cho mượn sách vở, nhất là những sách vở nói về đạo Phật và đạo Ấn Ðộ, tôi xem cũng nguôi được nhiều điều phiền não. Mỗi khi trời mát mẻ, chiều đến tôi chống cái gậy ra đứng bờ sông trông nước chảy, mà nghĩ cuộc đời cũng xoay vần trôi nổi có khác gì dòng nước chảy xuôi.

Cuộc đời của tôi đi đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh, song tự tôi lại thấy có nhiều thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công việc nọ kia, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết trò, đâu lại vào đấy. Ðàng này ngồi yên một chỗ, ngắm rõ trò đời và tự mình tỉnh sát để biết cái tâm tình của mình. Tôi nhớ lại câu cổ nhân đã nói: "Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh.

Người có trí tuệ mà biết giữ mình ở chỗ vô danh là bậc cao sĩ tuyệt bậc, nhưng mình đã trót đeo lấy cái danh vào mình, thì phải tìm cách trốn danh vậy.

Danh với lợi ở đời là những cái mồi nó dử mình vào cạm bẫy để hành hạ cái thân mình, chung quy chỉ là một cuộc mộng ảo, chẳng có gì là thực. Khi đã mắc vào thì lắm lúc lại phải đi vào những nơi hôi thối, phải bưng mắt bịt mũi, thật là khổ.

Tôi nương náu ở đây chờ cho tình thế yên yên, thì thu xếp về bắc, là nơi có bà con, bạn bè để khi vui buồn có nhau, còn hơn là chỗ xa lạ.

Ðến tháng ba năm 1949, thấy ông Bảo Ðại đã điều đình với chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam được thống nhất và độc lập trong khối liên hiệp Pháp, đại khái theo cái nguyên tắc ông Bảo Ðại và tôi đã đưa cho người Pháp khi chúng tôi còn ở Hương Cảng. Giá hai năm trước, chính phủ Pháp đi hẳn vào con đường ấy, có lẽ đỡ được bao nhiêu thì giờ và sự tổn hại. Song cái tính con người ta bao giờ cũng thế, cứ để cho đến khi bất đắc dĩ mới chịu làm những việc phải làm, còn thì cứ muốn bám lấy cái lợi một lúc, rồi cứ xoay quanh mãi thành ra hư hỏng việc lớn. Lòng tham của người ta không có bờ bến, nếu không đem cái lòng công minh chính trực mà ngăn ngừa lòng tư dục, thì thường hay có những sự tàn ác, gây ra nhiều nỗi đau buồn.

Việc ông Bảo Ðại điều đình đã được kết quả, như thế cũng đã lợi cho nước Việt Nam rồi nhưng đó mới là phần giao kết, cần phải chờ đợi sự thực hành xem có đúng lời giao kết hay không.

Khi sự độc lập và sự thống nhất đã thực hiện rõ ràng rồi, thì ông Bảo Ðại phải có cái chính sách cương quyết và biết lựa chọn lấy những người ngay chính đứng đắn ra giúp ông mà làm mọi việc. Nếu lại để cho những người muốn thừa cơ hội mà làm giàu làm sang, thì khó lòng mà đem lại lòng tín nhiệm của dân chúng. Việc thành bại sau này, là một bên ở cái lòng thành thực của người Pháp, một bên là cái chính sách ngay thẳng của ông Bảo Ðại.

Tôi nay già rồi, không có hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ mong được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân thực của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh huống đau buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến bây giờ, mà không trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn vậy. Cho nên tôi thường nhớ bài thơ của một nhà thi sĩ Ấn Ðộ mà người ta dịch ra tiếng Pháp như sau này:

La barque à la dérive Au millieu du fleuve de vie, Périlleux et fouetté de vent, Ma barque, sans rames, ballotte, Flottait à la dérive, Mais ton invisible main, Secourable dt pitoyable, A giudé la barque sans voiles Parmi les rochers, au milleu des orages, Jusqúau rivage de sécurité

Tôi lược lấy ý trong bài thơ ấy mà dịch ra bài thơ song thất lục bát sau này:

Chiếc thuyền vô trạo

Sông nhân thế nước trôi cuồn cuộn,
Giữa dòng sông gió cuốn ào ào.
Chiếc thuyền vô trạo lao đao,
Lênh đênh đây đó biết đâu bến bờ.
Tay tế độ trong cơ huyền bí,
Thuyền không buồm e lệ ngoài khơi,
Ðưa qua sóng gió thác ngòi,
Ðến bên bến nọ là nơi yên lành.

Nhân khi ngồi rồi tôi giở quyển nhật ký ra xem rồi viết thành cuốn sách này để sau ai xem thì biết rõ sự tình và công việc của tôi làm trong mấy năm đây đó.

Bản tâm là tôi viết truyện riêng của tôi, song tôi phải nói đến chính trị của chính phủ Việt Minh và sự hành động của người Pháp ở Ðông Dương, là vì những việc ấy quan hệ với nhau, không nói không ai hiểu manh mối việc tôi làm thế nào.

Việc người Pháp làm ở Ðông Dương có nhiều lầm lỗi, ngay từ lúc đầu không chịu thay đổi cái thái độ với người Việt Nam, cứ tưởng lấy võ lực mà đàn áp và dùng quyền mưu mà lừa dối để đem người ta vào tròng như ý mình muốn, không biết rằng lòng người đã thay đổi, nhân trí đã biến thiên, không thể lấy thế lực mà bắt người ta đi lại con đường cũ được. Phàm cái quyền mưu lừa dối là chỉ dùng được khi người ta không biết, nhưng khi người ta biết rõ cái mưu thuật của mình thì cái mưu thuật ấy không có công hiệu nữa.
Người Pháp lại có cái tính hay cậy sức mạnh của mình rồi có khi có xảy ra việc gì, thì để cho quân lính đi tàn phá giết hại, có ý muốn cho người ta sợ. Cái phương pháp ấy đối với cái tâm lý của dân tộc khác thể nào tôi không biết, nhưng đối với dân tộc Việt Nam mà chỉ dùng sức mạnh để tàn phá, thì sự tàn phá càng tàn nhẫn bao nhiêu, sự thù oán ghét giận lại càng tăng thêm bấy nhiêu.

Theo cái tâm lý người Việt Nam, thì người ta ưa cái chính sách trong sạch ngay chính, không có phá bậy giết càn. Hễ người Pháp không hiểu chỗ ấy, thì bề ngoài thế nào mặc lòng, bề trong không ai phục, thì làm việc gì rồi cũng thất bại. Vì vậy cho nên việc người Pháp muốn đem lại sự hòa bình ở xứ Ðông Dương, mà cứ ngoắt ngoéo không cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, lại không thành thực thi hành những điều giao kết, thì khó lòng mà giải quyết được cái tình thế ngày nay.

Về phương diện chính trị của người Việt Nam thì chính phủ Việt Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một cách đường đột quá, thành ra ở trong thì dân tình ta thán, mà ở ngoài thì không có ai muốn giúp đỡ. Trước thì họ trông cậy ở nước Nga và ở đảng cộng sản ở bên Pháp, sau thì nước Nga vì xa cách không giúp được họ việc gì, đảng cộng sản bên Pháp thất thế, thành ra mình cô lập, thế bất đắc dĩ nên phải lập ra mặt trận kháng chiến. Chính phủ Việt Minh tuy biết lợi dụng cái lòng ái quốc của quốc dân và nhờ có sự tổ chức chu đáo và sự tuyên truyền khôn khéo, nhưng vẫn không đủ sức để ngăn cản được sự tiến hành của quân địch. Cái chủ nghĩa cộng sản về đườn luận thuyết cũng có điều bảo thủ, như là muốn chữa những điều bất công trong xã hội, nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm điều hà khốc và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối, khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem cái bất công bình nọ mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa, cũng không chắc đã vững bền.
Trong việc làm của Việt Minh cộng sản có hai điều trở ngại. Một là đem cái phương sách hành động ở các nước bạn tây phương sang thi hành ở Việt Nam, có nhiều điều không thích hợp với hoàn cảnh và tính tình của nhiều người trong nước cho nên thành ra có nhiều chỗ trái ngược. Ðó là một điều trở ngại khá lớn. Hai là vì cái vị trí nước Việt Nam ở trong cái phạm vi Anh Mỹ theo cái hiện tình bây giờ, thế nào người ta cũng không để đất này thành cộng hóa. Chỉ trừ khi nào trống mái rõ rệt, thì thiên hạ hoặc là đều bị cộng hóa cả, hoặc là đều sống ở trong cái chế độ tư bản cả. Lúc ấy dù muốn hay không cũng chẳng làm gì được. Trong khi hai cái lý tưởng còn đối lập, thì mình chưa sao thoát khỏi cái thế lực của Anh Mỹ. Như vậy mình cố chấp muốn cộng hóa, thì tất là chỉ có phần thiệt hại mà thôi, chứ khó lòng thành công được.

Ðã hay rằng đảng cộng sản có cái tính cách tôn giáo, phải mê và tin, tin là chỉ có mình là phải, còn người ta là sai lầm hết cả, song những người làm chính trị có quan hệ đến vận mệnh một nước, phải hiểu thời thế mà tùy cơ ứng biến. Theo ý tôi thì đó là chỗ những người cầm quyền trong đảng Việt Minh phải liệu mà hành động.

Dù hay dở thế nào mặc lòng, đảng Việt Minh đã có cái công lớn tổ chức được cuộc kháng chiến ấy mà nước Pháp phải cho nước Việt Nam được độc lập và thống nhất. Song trong cái tình thế quốc tế hiện thời, thì đảng Việt Minh chỉ làm được đến đấy thôi, không làm hơn được nữa. Nếu cố chấp muốn làm cho được như ý muốn thì chỉ làm khổ dân hại nước mà không chắc đạt được cái ý của họ. Vả cái mục đích ấy định đi đến đâủ Tại sao người mình đã phơi xương đổ máu trong sáu bảy mươi năm trời từ khi có cuộc bảo hộ của nước Pháp đến giờ? Có phải là tại người mình muốn sống cái đời sống tự chủ của mình, chứ không làm nô lệ ai không? Lẽ nào ta lại theo một cái lý tưởng chưa thực hiện được mà đem mình làm nô lệ một dân tộc khác. Dù ta có say mê một lý tưởng nào nữa, thì cũng nên đi từ từ để cho thời gian dũa mòn bớt góc cạnh có thể gây ra nhiều đau khổ. Ðời chưa đủ khổ hay sao, mà còn muốn gây thêm ra nữa.

Hiện nay đảng Việt Minh có nước cờ đáng rất cao, là tự mình lui bước đi, để cho đảng chân chính quốc gia đứng ra thực hiện sự độc lập và thống nhất của nước nhà, rồi lập thành một chính thể theo đúng cái nghĩa dân chủ đang thịnh hành ngày nay. Cho các đảng phái được công nhiên lấy nghĩa lý mà tranh đấu trên trường ngôn luận, nhưng không được dùng võ lực mà tranh quyền cướp thế. Làm được như thế, tất nhiên là họ giúp cho nước Việt Nam sẽ có cái địa vị rõ ràng trong quốc tế, không ai xâm phạm được nữa. Khi ấy mọi người trong nước phải quả quyết đi vào con đường kiến thiết, ai nấy đem hết tài lực của mình mà học tập và làm việc để đem nước đến cái trình độ cường thịnh như các nước khác.

Cứ như thiển kiến của tôi, thì đó là cái phương sách cứu nước rất ngay thẳng và có phần mau chóng hơn cả, không biết các bậc cao minh trong nước nghĩ sao?

Tôi đem cái ý kiến ấy mà phô bày ra đây, là theo cái tình thế hiện thực mà nói, chứ không phải là một điều mơ tưởng. Mà cũng không phải là tôi thiên vị chủ nghĩa nào, hay đảng phái nào, tôi đã nhứt quyết không mưu cầu danh lợi gì hết, chỉ mong người trong nước bỏ bớt cái lòng tư tâm tư lợi mà ra sức giúp cho nước nhà chóng được yên ổn và thịnh vượng, để cùng với thế giới đi lên con đường tiến bộ. Cũng bởi tấm lòng vì dân vì nước ấy và thấy khi quốc gia gian nan, không lẽ ngồi nhìn, nên tôi tự biết mình đã già yếu kém cỏi không làm gì được, nhưng ít ra cũng theo cái lương tâm mà đem những sự tôi đã biết và đã thấy mà phô bầy ra, để mọi người suy xét cho đúng sự thực. Dù ai có bảo đó là lời nói của một anh hủ nho, tôi cũng cam tâm mà tự cho mình đối với cái tâm của mình đã làm hết bổn phận làm người vậy.

- Hết -


Nguồn: Xuất bản lần đầu tại NxB Vĩnh Sơn, Sài Gòn 1969