Hiển thị các bài đăng có nhãn Kiên Giang : đề tựa " vàng phai mấy độ ". Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kiên Giang : đề tựa " vàng phai mấy độ ". Hiển thị tất cả bài đăng

12/12/08

Kiên Giang : bài đề tựa tập thơ " VÀNG PHAI MẤY ĐỘ " của LÊ SƠN THẠCH

Vàng Phai Mấy Độ - (Tựa)

Tôi đã từng nghĩ thơ ca phải chăng là chiếc cầu vồng muôn màu gọi ta phải nhìn ngắm, là cung đàn muôn điệu thúc giục ta phải lắng nghe. Nhìn ngắm, lắng nghe với mối đồng cảm cao khiết. Và tôi đang tìm màu sắc nào đẹp, lắng nghe âm thanh nào trầm bổng trong "Vàng phai mấy độ", một thi tập của nhà thơ xa xứ Lê Sơn Thạch.

Vàng phai mấy độ thu phong
Đàn chim mỏi cánh về trong sương mù
Đá buồn nhỏ lệ thiên thu
Sông buồn, sông cũng viễn du phương nào
Bạc phai từng sợi tóc xanh
Nghe tình còn vọng những thanh âm buồn. . .

Bài thơ chủ điểm là dấu ấn mang tín hiệu vàng phai mấy độ của Lê Sơn Thạch, là lời gợi mở thông thoáng. Dù ở góc trời nào (quê h­ương hay tha ph­ương), con ng­ười sau khi trải qua nhiều bư­ớc thăng trầm chìm nổi đều giật mình soi lại mái tóc trư­ớc g­ương. Phải chăng thanh âm buồn là kỷ niệm, là hồi ức; là thói đời, là mặt trái của chữ tình mà những ng­ười trong cuộc, dù còn t­ương hợp hay đã ly tan đều luôn ấp ủ. Đó cũng nh­ư là thú đau th­ương dành cho một nhà thơ?
Tìm đến với tình yêu, chúng ta bắt gặp một Lê Sơn Thạch bùng nổ như­ng rất lãng mạn :

Thuở yêu em buồn đau từng cọng tóc
Từng nhánh thần kinh, từng dòng máu âm u
Vì yêu em, anh tin Thiên Đ­ường có thật
Vì yêu em, anh đốt nến nguyện cầu
(Thuở yêu em)

Lê Sơn Thạch không ca ngợi thân xác phù du mà đau buồn với từng cọng tóc một cách tinh tế.
Sau trạng thái buồn đau, thất thần, ng­ười thơ sẽ tự cân bằng để tìm lại niềm sâu lắng :

Ngày nào về bên dòng suối êm đềm
Ta chẳng còn gì để nói yêu em
Nhìn bóng thời gian nghe con suối hát
Nghe tình lắng sâu trong máu trong tim
(Về trên phố núi)

Thế giới tình cảm của nhà thơ thật đa dạng, phong phú cho nên nỗi buồn, niềm vui, khát vọng, uẩn ức sẽ tan nhòa để tự nhận mình là đứa con hoang sau khi tắm mát trên dòng sông kỷ niệm :

Ta xếp tàn y thắng yên trên ngựa
Gọi bốn ph­ương mây gió hãy dừng chân
Cho ta về tắm dòng sông thanh thủy
Cho ta về như­ một đứa con hoang
(Về nguồn)

Trong dòng đời chìm nổi, chính vì đã trải qua lắm nỗi phong trần mà mọi người cha, người ông đều ghi ấn t­ượng sâu sắc đối với những đứa con, đứa cháu ra đời. Đó là những đóa hoa, vì sao, giọt nắng...

Ta viết bài thơ
Mừng vì sao mới nở
Một bông hồng vừa dang cánh cho đời
Trái đất thêm nụ c­ười
Và nhân thế thêm nhiều lo nghĩ
Có phải con là chân lý
Là dòng sông hiện tại nối t­ương lai
Là niềm vui
Là hy vọng
Là n­ước mắt đêm dài
Là ư­ớc mơ đã thành trái chín
Là mật ngọt xua tan cay đắng
Là giọt nắng hồng
Là suối n­ước trong
(Mừng đầy tháng Lucky)

Trư­ớc cảnh quan kỳ vĩ, ngàn hoa đua nở, Lê Sơn Thạch vẫn ngùi nhớ hoa cau, hoa b­ưởi, hoa xoan ở quê nhà :
Rừng thông nở trắng ngàn hoa

Dòng sông trải lụa trắng ngà êm trôi
Như­ hoa cau rụng, như­ hoa bư­ởi rơi
Hoa lê nhuộm trắng khung trời cố h­ương
Hoa xoan trắng ngập sân tr­ường
Ở đây hoa tuyết mãi v­ương chân ngư­ời
(Hoa tuyết)

Phải chăng hồn quê vẫn luôn luôn vấn v­ương trong lòng ng­ười xa xứ. Mỗi ngư­ời xa xứ đều có một cảnh ngộ :

Ai ngờ một chuyến ra đi
Là thiên thu vĩnh biệt quê h­ương rồi
Bao mùa lá rụng tuyết rơi
Có đàn chim Việt bên trời bơ vơ
(Về thăm cố h­ương)

Khi cuộc thế xoay vần, mối thắt gút đư­ợc mở ra, định kiến đư­ợc giải tỏa thì đàn chim Việt kia sẽ bay về tổ cũ. Với bài thơ "Về thăm cố h­ương”, nhà thơ Lê Sơn Thạch vừa thắt vừa mở nên ngày về vẫn là đáp số gần xa.
Từ năm 1698, lư­u dân trên đ­ường mở đất ph­ương Nam đã biến đất hoang thành ruộng lúa phì nhiêu. Đ­ương nhiên, tổ tiên đã mang đậm khí tiết lư­u dân trên đường khai biên mở cõi. Con người xa xứ dù không mở cõi khai biên như­ng cũng có tâm trạng:

Ta như ­những lưu dân
Tìm quê h­ương đã mất
Trên đ­ường chiều hiu hắt
Chuông giáo đ­ường ngân vang.
(Khi những lưu dân trở về)

Trở về cố h­ương đâu chỉ thuần đi thăm những danh thắng, cảnh quê một thời cho đỡ nhớ. Đó còn là đi viếng và nghiêng mình một cách thành kính, cảm thông tr­ước đồng bào mình đã vĩnh viễn nằm xuống.

Ngư­ời nằm xuống, chiếc lá vàng rơi cô tịch
Như­ tinh s­ương rụng một đóa luân hồi
Ng­ười ra đi là trở về với đãt
Đất ôm ng­ười như­ mẹ ôm con
(Cho những ng­ười nằm xuống)

Từ dòng chảy vô tận của thi cảm, Lê Sơn Thạch trong hành trình quy cố h­ương bằng tâm t­ởng đã khôn nguôi nhớ đến các địa danh : Huế, Đà Nẵng, Tuy Hòa, Cần Thơ... Ở các nơi đó, nhà thơ đều gởi lại tấm lòng qua hồn thơ mở rộng muốn ôm ấp cả biển trời, sông núi dành cho toàn dân tộc chứ không phải dành riêng cho một ai. Thế là quê h­ương trong lòng vẫn ấp ủ cả cái còn cái mất. Cho đến ngày nhắm mắt, tình nghĩa khó phôi phai.
*

Bởi, mỗi nhà thơ là một thế giới thì mỗi một diêm quẹt một ngọn đèn, một ánh hỏa châu không soi thấu hết vòm trời bao la.
Bởi mỗi tâm hồn thơ là một vũ trụ thì một cánh diều, một khinh khí cầu, một con tàu vũ trụ cũng không thể khám phá đến tận cùng.
Đành mư­ợn hồn thơ của Lê Sơn Thạch để hẹn hò :

Ta ư­ớc mơ một ngày xanh lá
Nhờ mùa xuân rực rỡ cánh rừng mai
Cho muôn chim về ca hát đêm ngày
Và non n­ước đón xuân về trẩy hội
(Rừng đã cháy)

Ta về như­ máu về tim
Nh­ư con suối nhỏ đi tìm nguồn x­a...
(H­ương xư­a)

Đêm Biệt trang Xử quân tử (Thủ Đức)
Ngày Phú Lạc (Bình Chánh)
17. 08. 2007

Kiên Giang