Gérard de Nerval
Mùi hương xuân sắc
Bùi Giáng dịch
VII. Châalis
Bốn giờ sáng, con đường chìm trong một nếp đất trồi sụt xuống lên, con đường nhoi trở lên trở lại. Chiếc xe sắp đi ngang qua vùng Orry, rồi La Chapelle. Phía bên trái, có một đường chạy dọc theo khu rừng Hallate. Chính đó là chỗ một đêm kia người anh của Sylvie đã đánh chiếc xe ngựa đưa tôi đi dự một buổi lễ uy nghi. Ấy là vào đêm ngày lễ Saint-Barthélemy. Xuyên qua những khu rừng, bằng những con đường vắng vẻ, ít dội gót chân người, con ngựa bé của anh phi như bay, giống như trong dạ hội ma thuật. Chúng tôi bắt lại đường lát đá nơi nhà người lính kiểm lâm, tại chỗ tu viện Châalis xưa. Châalis, lại thêm một kỷ niệm nữa đây rồi!
Nơi dưỡng lão của những vị hoàng đế xa xưa ngày này chẳng còn chi để ngợi ca lắm; chỉ những phế tích của tu viện mình, với những khung cửa tò vò hình bán nguyệt byzantin (thể điệu kiến trúc Thổ Nhĩ Kỳ xưa) và dãy cuối cùng còn phơi hình hài biển dâu trên làn nước hồ đang nhìn tang thương mà cau mặt – chút di lưu còn sót lại trong quên lãng của ký ức người đời về những công trình kiến thiết cung hiến cho miền cõi thiêng liêng, nằm ngẩn ngơ trong ngậm ngùi thương nhớ giữa những vùng đất đai mà ngày xưa thiên hạ gọi là phân-tô-địa của hoàng đế Charlemagne. Trong cái xứ sở cô tịch hoang liêu này, xa biệt hẳn những bụi đường phồn hoa dấy động, thì tôn giáo còn gìn giữ được những vết tích đặc thù của cuộc cư tưu đằng đẵng của những vị hồng y giáo chủ dòng Este thuộc triều đại tộc họ Médicis: những thói nhà phong vận, những chất hằng trâm anh của thiêng liêng bờ cõi, còn giữ được chút gì cốt cách hào hoa, còn có pha chút gì của phong thái thơ mộng, và con người tao nhã đi về thương yêu hồi tưởng, còn thở được chút hương lừng man mác buổi Phục Hưng dưới những vòm hình cung bán nguyệt của những ngôi nhà thờ nho nhỏ, khía cạnh gieo hồn, đường gân heo hút được trang hoàng bởi bàn tay tài tử của những nghệ sĩ u nùng từ Ý Đại Lợi ghé chơi. Uy nghiêm khuôn mặt tuyệt vời, Thiên Thần, Hiền Thánh trang đời thiên thu. Về đây gọi nước non mù. Dàn xuân sắc dải hoang vu hồng vàng. Pha mờ dấu biếc xuê xoang. Vong hồn ngẫu tượng ngụ trong tính tình. Sôi trào dòng mộng hiển linh. Tình Pétrarque với u tình Colonna. Hoang đường thần bí dư ba. Còn nghe nức nở chan hòa đâu đây… (Les figures des saints et des anges se profilent en rose sur les voûtes peintes d'un bleu tendre, avec des airs d'allégorie païenne qui font songer aux sentimentalités de Pétrarque et au mysticisme fabuleux de Francesco Colonna).
Chúng tôi là những kẻ lai rai phiêu hốt, người anh của Sylvie và chúng tôi có phận sự gì, lấy tư cách gì mà vào dự hội riêng biệt sử hồng được tổ chức đêm kia? Thôi thì tạm nói rằng gió thanh xuân xô đẩy, tấp chúng tôi vào bờ của hồng xum xuê. Xin chào nhau trong một cơn trở mộng. Rồi mai sau trùng ngộ sẽ chia lìa. Một nhân vật chính tông trâm anh đài các, vốn bấy giờ là kẻ sở hữu vùng đất đai này, đã có dự cái cuộc trình diễn tượng trưng huê hòe ẩn dụ hòa an hồ điệp và trong cuộc nọ có xen vào vài mỹ nữ vốn thuộc nòi kỳ túc của một tu viện láng giềng trên trận gió thổi qua. Ấy không phải là một vang bóng mơ hồ những vở kịch đã đi về trong sương bạc Saint-Cyr của thời vua Louis Thập Tứ dìu đặt với bà Maintenon trong từng trận đâm bông của cái buổi thi bá Racine ra chào đời trong lừng vang điệu nhạc. Ấy còn lùi xa hơn về hút heo quá khứ, tới tận cùng miên bạc bẻ bai rầu rĩ của những vong hồn năm tháng cũ đã trữ tình và giải tỏa nếu du dương trong những cuộc dạt bờ vào đất Pháp kể từ thời đại họ Valois. Những gì tôi thấy, những gì tôi nghe, trong cái đêm kỳ ảo nọ, chính là những gì khôn tả còn truyền vọng lời vàng trong bí mật sử xanh. Những y phục gấm hoa, những áo dài, xiêm ngắn, những hồng quần rất mỏng, những tà áo rất thưa, có khác nhau chăng nữa, cũng chỉ băng nơi những màu thanh thiên, lục thúy hoàng, sa, yên hà, man mác khánh vân chiều, bàng hoàng hồng sương sớm, tía hoa cà lổ đổ, lồng lộng tử trúc lâm. Cảnh tượng diễn ra giữa chư thần chư thánh, bùi ngùi chư tiên tử, trên tàn rụng mặt biển dâu. Thanh xuân gọi nước lên cầu. Hồng hoang núi ngủ yên sầu gió khe. Chín mùa dông đổ sau hè. Bây giờ máu ứa trôi về tràng giang. Mây vừa tía, mộng lang thang. Vết chăn vẽ sóng chìm ngang lưng đèo… La scène se passait entre les anges, sur les débris du monde détruit. Chaque voix chantait une des splendeurs de ce globe éteint, et l'ange de la mort définissait les causes de sa destruction… Cảnh tượng diễn ra giữa các thiên thần, trên những mảnh vụn của cõi đời bị tàn phá. Mỗi giọng ngâm, mỗi hát lên một trong những tráng lệ của doanh hoàn tắt lịm, và thiên thần của tử diệt đang xác định những nguyên cớ của diệt vong. Một vị thần linh nhô hình hài lên từ đáy thẳm, tay cầm một ngọn lửa chói chang và triệu tập chư tiên hãy tới nhanh mà mừng rỡ hoan nghênh đón tiếp thịnh triều vinh hiển của Jésus Christ chiến thắng những quỷ ma u ám cõi âm ty. Vị thần linh đó, chính thị là nương tử Adrienne đã từng có phen đi về trong câu hát, đã tạm chết một đêm rằm trong nước xanh, và bây giờ đã hồi sinh trong xiêm nghê biến dạng, như đã từng biến thể bởi tiếng gọi của tài tình tài tử đã ra ngoài phát tiết trận tinh anh. Cái vầng hào quang làm bằng giấy carton nhuộm thắm, bao bọc cái vầng trán bao la thanh khiết, chúng tôi nhìn vào và xem đó quả là một vòng ánh sáng thật sự đang chiếu rọi hào quang một cách thật thiên nhiên; giọng hát của nàng, kể từ bấy tới nay, đã tăng gia cao điệu lồng lộng viễn khơi như hà thanh một thuở, và những rung vang hoa hòe điểm xuyết còn rún rẩy suốt cõi bờ của bầu trời Ý Đại Lợi trong vi vút trường phong với những ca xoang đạm tiên nàng ấy vốn xưa là nổi danh tài sắc chan hòa chiêm bao. Biển dâu sực tỉnh yêu đào. Xuân phong tiếu bộ ai nào gọi ai.
En me retraçant ces détails, j'en suis à me demander s'ils sont réels, ou bien si je les ai rêvés. Ghi lại những chi tiết này, tôi chợt dừng tay tư lự, tự hỏi mình: chẳng biết chúng thật là có thật, hay lại là do mình huyễn mộng mơ ra. Người anh của Sylvie đêm đó có ngà ngà say một chút. Chúng tôi đã dừng lại nơi nhà người giám thị sơn lâm - tại đó, có một sự xui tôi vô cùng kinh ngạc: một con thiên nga vi vu giang rộng cánh bên khung cửa hẹp ngậm ngùi, còn phía bên trong, thì có những chiếc tủ cao bằng gỗ hạnh đào lóng lánh những hình trạm trổ thật long lanh, một cái đồng hồ horloge chễm chệ trong vỏ gỗ-đào-hoa tâm, và những giáp binh, những ngọc trụ có treo đao kiếm, cung tên, ở phía trên một tấm thẻ xạ thuật đỏ xanh sặc sỡ. Một người lùn kỳ dị, đầu đội nón ba tàu, một tay cầm một cái bình, tay kia cầm chiếc nhẫn, như dường đang mời mọc các xạ thủ hãy nhắm cho trúng đích. Người lùn nọ hình như là làm bằng những mảnh tôn cắt ra ghép lại. Những sự hiển hiện kỳ ảo tuyệt thế tài tình của anh hoa phát tiết tài hoa Adrienne, có thật là có thật như những chi tiết phiêu bồng kia, như sự hiện hữu đìu hiu không cách gì chối cãi của tu viện Châalis? Nhưng quả thật tuy nhiên là như vậy, chính đứa con trai của viên giám thị sơn lâm đã dắt chúng tôi vào trong căn phòng làm trường sở cho cuộc trình diễn nọ ấy mà. Chúng tôi đứng tựa bên khung cửa hẹp, đứng sau lưng một nhóm người đông đảo đang tề tựu ngồi nhìn và kích động một cách thật trang nghiêm. Chính là vào cái ngày lễ Saint-Barthélemy, được gắn liền một cách kỳ bí vào với kỷ niệm hoàng tộc Médicis, mà những binh khí di lưu còn kết treo liền bên những gươm đao nhà họ Este, hiện đang đề huề trang hoàng xuân thu cho những tường vách cũ nọ… Kỷ niệm kia có lẽ chỉ là một ám ảnh! May mắn làm sao, này đây là chiếc xe đang tới, chiếc xe dừng trên con lộ Plessis; tôi thoát ra khỏi vòng cuốn hút của mộng ảo mê ly, tôi chỉ còn mười lăm phút bộ hành để về tới xóm Loisy trên những con đường cô tịch.
VIII. Cuộc khiêu vũ tại Loisy
Tôi vào giữa cuộc Loisy. Lúc giờ ủ rũ trên kỳ ủ ê. Êm đềm ánh sáng mô tê. Mần răng như rứa coi tề tái xanh. Rập rờn ngày tới đương nhanh. Trường phong khêu gợi biên thành liễu buông. Bồ đề tát thúy ngõ thuôn. Diên trì thời hạn trên nguồn sử xanh. Ngọn trồng vòi või thiên thanh. Cơn dầu phôi dựng long lanh sáo ngà. Dậy dàng điền dã âm ba. Thôi rồi thua cuộc chan hòa họa mi…
Je suis entré au bal de Loisy à cette heure mélancolique et douce encore où les lumières pâlissent et tremblent aux approches du jour.
Tôi bước vào cuộc hội múa vòng tại Loisy vào cái giờ sầu u và êm dịu của bình minh mới chớm, và ánh nhợt rung rinh trước ngày về sắp tới. Những cây bồ đề, thân dưới còn nhòa tối, trên ngọn đã pha màu sáng xanh lơ. Tiếng sáo đồng quê không còn tranh chấp thiết tha nữa với giọng họa mi uốn éo chiên âm. Mọi người đều xanh xao, và nhìn khắp những nhóm người thưa thớt, tôi khó lòng gặp lại những khuôn mặt quen thân. Cuối cùng, tôi nhìn thấy nàng Lise dong dỏng, chị một cô bạn thiết của Sylvie. Nàng ôm tôi hôn. “Lâu ngày chẳng gặp anh đâu, anh kẻ chợ ạ, nàng nói. - Ồ! Vâng lâu lắm. Anh tới vào cái giờ này ư? - Bằng giao thông xe ngựa. – Và thật chẳng quá xá là nhanh! – Tôi muốn thăm Sylvie; nàng có còn trong cuộc múa? – Nàng sẽ tới vào lúc sáng trời. Nàng thích khiêu vũ xiết bao.”
Một lát sau, tôi đã đứng bên cạnh nàng rồi. Gương mặt nàng có vẻ mỏi mệt; tuy nhiên con mắt đen láy của nàng vẫn sáng ngời nụ cười gái Athénienne ngày cũ. Một chàng trai đứng cạnh nàng. Nàng ra dấu cho chàng ta hiểu: nàng xin khước từ cuộc múa đối diện sắp tới. Chàng ta chào và rút lui.
Ngày đã sáng. Chúng tôi rời cuộc khiêu vũ, bước ra, tay nắm tay. Những đóa hoa tà tà xiêu lệch trên mái tóc lõa xõa xuôi giòng. Chùm bông trên ngực rung cánh trên những miếng đen-ten nhàu rã. Tôi xin phép được đưa nàng về nhà. Trời đã sáng, nhưng khí trời ủ rũ. Giòng sông Thève xào xạc chảy bên bờ. Những khúc quành, nước vòng xoay lặng lẽ, nước tụ im lìm. Những cánh hoa sen mở phơi màu vàng, màu trắng. Những đóa bọt nước thêu thùa chợt vỡ tan như những hàng hoa cúc trắng. Đồng ruộng đầy rẫy những lượm lúa vừa mới cắt xong, và những đống rơm khô, và những đống rạ, và những mùi hương hắc hắc bốc hơi nồng, không đủ xui lòng tôi ngây ngất, như đã làm tôi ngây ngất xưa kia với những mùi thơm của hoa ngàn, của lùm cây, của cụm lá, của sơn-trà-tử ban đầu.
Chúng tôi không có ý băng qua những cánh đồng kia nữa. “Sylvie ạ, em không còn yêu tôi nữa phải không?” Nàng thở dài một cái. “Anh ạ, trước sau gì, rồi cũng phải liệu cho hợp lẽ mà thôi. Chuyện đời nó bước đi không giống như lòng ta ước muốn. Xưa kia, anh có bảo em đọc La Nouvelle Héloïse, em đã đọc rồi, và em có run rẩy trước cái lời đầu tiên của sách: “Gái nào sẽ đọc sách này, gái đó sẽ hỏng mất thân”. Tuy nhiên em đã bỏ qua, em tin nơi lý trí của mình. Anh còn nhớ không cái ngày chúng ta vận vào thân mình những y phục hôn lễ của bà dì?... Những tháp họa trong cuốn sách cũng trình bày những kẻ yêu nhau trong bộ y phục thời trước, và thế đó, đối với em, anh đã là Saint-Preux, còn em, em đã nhận ra mình trong nhân vật Julie. A! Sao anh không sớm quay về ngày đó. Phải chi ngày đó anh chịu về. Nhưng em nghe người ta nói, ngày đó anh ở bên Ý Đại Lợi. Chắc hẳn là bên đất nước đó, anh đã có gặp nhiều những thiếu nữ đẹp hơn em! – Không. Sylvie ạ, không một kẻ nào có được cái nhìn của con mắt em, và những nét dịu dàng trong trắng trên khuôn mặt em. Em là một nữ thần thủy tiên không tự biết mình là tiên trong sóng lục. Vả chăng, những cụm rừng quận hạt này cũng đẹp có thua gì những phong cảnh La Mã bên kia. Đây có những khối hoa-cương-thạch tuyệt diệu chẳng thua gì bên đó, và một thác nước vì vèo, chảy từ ghềnh đá xuống, cũng giống như thác nước bên châu quận Terni. Bên đó, anh không có thấy gì khả dĩ xui anh về đây mà còn nhớ tiếc.
"Còn ở Paris?" Nàng hỏi – "Ở Paris…”
Tôi lắc đầu không đáp.
Bỗng dưng tôi nhớ tới cái hình ảnh hão huyền đã lung trạo xô đẩy tôi lạc nẻo suốt bao ngày.
Sylvie, chúng ta dừng tại đây, em bằng lòng chứ?
Tôi quỳ xuống bên chân nàng; tôi khóc như mưa, thú nhận với nàng những bao nhiêu dùng dằng xuôi ngược, những do dự bần thần, những bàng hoàng luông tuồng ảo vọng tôi gợi lại cái hình hài quỷ dị quái ác đã đi qua trong kiếp sống của mình.
"Em hãy giải cứu cho anh, anh xin trở về cùng em mãi mãi."
Nàng đưa mắt nhìn tôi. Nàng cảm động vô cùng…
Bỗng lúc đó, câu chuyện bị cắt ngang vì một tràng cười mãnh liệt. Đó là người anh của Sylvie đang chạy tới, anh mộc mạc vui cười cách điệu nông dân, lại thêm những yến ẩm tràn lan đêm dạ hội càng làm cho cốt cách nặng thêm ra. Anh gọi chàng si tình kia lại, anh chàng thấp thỏm yêu đương đang mất dạng ở xa kia, sau những lùm cây hoang dại. Anh chàng đó cũng chân nam đá chân xiêu như ông bạn của mình. Anh chàng kia dường như bối rối bởi sự hiện diện của cái cậu Parisien phong nhã này còn hơn là lúng túng bởi sự hiện diện của Sylvie. Gương mặt thật thà, chất phác của anh ta, lòng kính nể pha ngại ngùng của chàng ta, không cho phép tôi oán giận được, dù anh là cái kẻ đã xui em Sylvie nấn ná ở lại hội muộn màng. Tôi xét ra, anh chàng kia chẳng có gì đáng nên gờm sợ hết.
"Phải trở về nhà thôi", Sylvie nói với người anh. "Gặp nhau lần khác nhé!" Nàng bảo tôi và đưa má cho tôi hôn.
Kẻ si tình kia không lấy thế làm tức.
IX. Ermenonville
Tôi không chút ước ao muốn ngủ. Tôi đi Montagny viếng lại ngôi nhà cậu tôi. Một mối buồn bao la xâm chiếm lòng tôi lúc vừa thoáng nhìn thấy đầu hiên vàng vọt, và những cánh song hồ màu lục nhạt phân vân. Mọi vật xem chừng như vẫn giữ nguyên trạng thái ngày trước; duy chỉ cần phải tới nhà người tá điền để lấy chiếc chìa khóa. Lúc những cánh cửa đã mở ra, tôi cảm động nhìn những ghế bàn cũ kỹ còn nguyên tình trạng xưa, và thỉnh thoảng được người ta lau chùi trở lại. Chiếc tủ cao bằng gỗ hồ đào, hai tấm họa flamand (thuộc miền Flandre) mà thiên hạ bảo là tác phẩm của một nhà hội họa ngày xưa, vốn là tổ phụ của chúng tôi. Nhiều tấm ấn họa và cả một série những tháp họa của tác phẩm Emile và La Nouvelle Héloïse do họa sĩ Moreau. Trên bàn, một con chó độn rơm mà tôi quen biết xưa kia thuở nó còn sống, vốn là người bạn đường của tôi trong những cuộc chạy nhảy trong rừng, con chó carlin ngắn mõm, con chó carlin cuối cùng có lẽ, vì nó thuộc nòi chó đã mất giống ngày nay.
"Còn con két", người tá điền bảo, "nó vẫn còn sống. Tôi mang về bên nhà."
Khu vườn phơi bày một bức tranh lộng lẫy những cây lá hoang dại. Trong một góc vườn, tôi nhận ra được một cụm vườn của trẻ nhỏ mà ngày xưa tôi đã vạch cho mình. Tôi hồi hộp vào phòng văn. Vẫn còn đó, tủ sách nho nhỏ đầy những sách chọn lọc, những bạn già thân thiết của kẻ đã lìa đời, và trên bureau, vài mảnh vụn lượm nhặt ở ngoài vườn, những lu, bình, những mề đay La Mã, con-lét-xon địa phương đã xui lòng cậu tôi sung sướng.
“Ta đi viếng con két nhé”, tôi bảo người tá điền. Con két vẫn đòi ăn, như những ngày huy hoàng quá khứ, và nhìn tôi bằng con mắt tròn trịa với viền da xung quanh nhăn nhíu, xui ta liên tưởng tới cái nhìn duyệt lịch của những kẻ lão thành.
Lòng tràn đầy những ý tưởng buồn bã do trở về muộn màng những nơi chốn thân yêu, tôi cảm thấy cần gặp lại Sylvie, khuôn mặt sống động duy nhất và còn tươi trẻ đó, để thắt giây liên lác giữa tôi với xứ sở này. Tôi lên đường về lại xóm Loisy. Vào khoảng đứng trưa. Mọi người ngủ yên, mỏi mệt vì buổi hội. Tôi có ý muốn khuyây khỏa nỗi lòng bằng một cuộc đi dạo viếng Ermenonville, cách một dặm đường rừng. Trời huy hoàng mùa hạ. Tôi hài lòng trong bầu không khí ấm áp và mát mẻ trên con đường giống như lối đi trong một hoa viên. Những cây sồi to lớn xum xuê sắc lục một màu đen, xen lẫn những thân cây phong trắng bạch, cành lá đong đưa rún rẩy. Chim chóc im lìm, chỉ nghe tiếng chim gõ kiến đang đưa mỏ đập vào cây để đào hang làm tổ. Chợt tôi nhận thấy mình có thể lạc mất lối đi, vì trên những cột trụ chỉ đường, bảng ghi chữ đã rã rời nhiều chỗ. Cuối cùng, tôi đành bỏ khu Désert bên tay trái, bước tới chỗ ngã năm khiêu vũ, tại đó còn tồn tại chiếc ghế của những người già. Bao nhiêu kỷ niệm về thời triết học, bỗng tái sinh trong vong hồn kẻ sở hữu đất đai này, chợt xô ùa về trong trí tôi một lúc, trước sự thể hiện bằng mỹ cảnh của tinh thần phong vận học Anacharsis và Émile.
Lúc tôi nhìn nước mặt hồ lấp lánh qua những cành liễu và những cành cây trăn, tôi chợt nhận ra hoàn toàn một nơi chốn mà xưa kia, trong những cuộc đi dạo, cậu tôi vẫn thường dẫn tôi tới nhiều lần: đó là Điện đài triết học, mà kẻ sáng lập ra đã không gặp được cái may mắn hoàn thành. Nó mang cái hình dạng đền vu tiên tri Tiburtine, và nép mình dưới bóng một cụm tùng, nó còn đứng được tại đó để mở phơi ra ngoài mọi tên tuổi lẫy lừng của cõi miền tư tưởng, khởi đầu bằng Montaigne và Descartes, và dừng lại với Rousseau. Tòa lâu đài dở dang nọ, ngày nay chỉ còn là một phế tích. Sắn bìm, đằng la, hèo trường xuân, mây viễn hạ, tha hồ mà vấn leo quấn quít. Những bụi ngấy, những cụm dum, những chùm chà là, những khóm dứa dại, tha hồ thi nhau tràn ngập những bệ thềm hở hang, rã nứt. Tại đó, thuở còn bé con, tôi đã thấy những hội hè, những lễ lạc, với những phần thưởng cấp phát đền bù cho việc học hành, và hạnh kiểm. Nhưng đâu là những cụm tường vi đã từng kỷ độ đâm bông vấn quanh ngọn đồi thơ dại? Và mỉm cười ngang ngửa với sim lục bơ vơ? Giờ chỉ còn dã-tường-vi-hoang dại và phúc-bồn-tử buông tuồng đang phủ lấp mất những du dương hồng cũ, những nụ cuối cùng e ấp đang định liều mình nhắm mắt dấn thân vào nhập cuộc với cỏ cây hoang. Còn những cụm nguyệt quế, có phải con người ta đã chặt đứt mất rồi, như lời trong dao ca - của những gái tơ đìu hiu hát trong sương sớm, không còn muốn vào rừng nữa, vì biết rằng sẽ không hy vọng tao phùng? Hỡi ôi, những đời cỏ hoa mỏng mảnh kia của non nước dịu dàng Ý Đại Lợi, đã đành tử diệt dưới bầu trời u ám của chúng ta. May thay, cây thuỷ lạp của Virgile vẫn còn đâm bông tại đó, như dường gắng gổ chống chỏi để bênh vực cho lời của bậc thầy còn ghi tạc phía tên tấm cửa đằng kia: Nhân vì trí huệ tối cao. Dựng hồn vân thạch, tạc vào sử xanh. Vâng, điện đài này cũng nhào đổ điêu tàn như bao nhiêu điện đài khác, những con người mau quên lãng, những con người mỏi mệt cuộc phù du, sẽ quay mặt đi, không ghé thuyền cập bến, không lần mò tới loanh quanh các miền phụ cận để gùn ghè gạ gẫm vì xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi – và thiên nhiên thiên thu hờ hững sẽ hồn hồn ngạc ngạc xâm chiếm trở lại cái mảnh đất đai giang hồ tứ chiếng, mà nghệ thuật đã đoạn trường đau xót vùng vẫy tương tranh để giành lại cho đời; nhưng khát vọng của tri thức tệ năng của thiên thu bất diệt, di động xuê xoang bằng mọi sinh khí uy quyền tồn lưu kêu linh hoạt.
Đây những ngọn bạch dương của hoang đảo, và nấm mộ Rousseau không còn di hài Rousseau trong đó nữa. Hỡi bậc chân nhân hiền thánh! Ngươi đã từng mang bầu sữa mạnh về hạ tứ ban cấp chúng tôi, nhưng chúng tôi đã quá hèn yếu, thì sữa đó đã không giúp ích được gì. Chúng tôi đã quên lãng những bài học mà tổ phụ chúng tôi đã lĩnh hội được, và chúng tôi đã đánh mất ý nghĩa trong nội dung lời ngài, cái tiếng vang cuối cùng của những mạch nguồn thiêng liêng nguyên thủy. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin không tuyệt vọng và cũng xin bắt chước Người trong phút giây vẫy vùng tối thượng, chúng tôi xin quay mặt lại, đưa hai con mắt mà hướng về mặt trời.
Tôi đã nhìn thấy trở lại cung điện cũ, những làn nước tĩnh mịch bọc quanh, ngọn thác than van trong sa thạch, và con đường cao băng qua đồng ruộng, nối liền hai khu xóm của khu làng khang tịnh lại với nhau, mà bốn cái chuồng bồ câu êm đềm đánh dấu cho bốn góc, và nội cỏ xanh rợn đến chân trời như một đại-thảo-nguyên đìu hiu trải trên hồn lục địa, dàn cơn mộng dưới bầu trời, bên điệp trùng những đồi núi long lanh. Ngọn tháp Gabrielle tự xa xôi đằng kia phản chiếu bóng trên mặt những đợt nước một tấm “giả hồ” với những nụ hoa phù du lấp lánh như sao trời sắp sửa rụng; bọt bèo sôi sục, côn trùng xào xạc kêu… Phải thoát ra khỏi vòng lung trạo của bầu khí âm hiểm tai hại kia, đang bốc hơi len lỏi rập rình xâm chiếm những sa thạch nhuốm bụi đầy mình của hoang vu sa mạc và những đồng hoang truông đèo xuôi ngược, với những lùm cây hông tía đang ỡm ờ đùn đẩy màu lục nhạt của dương xỉ phơ phất mảnh đuôi chồn từng ngọn lắt lay. Tịch mịch rầu rĩ xiết bao, ôi linh hồn phong cảnh! Con mắt nhìn kỳ diệu của Sylvie hân hoan cuồng hỉ, những cơn chạy của nàng, những tiếng kêu vui sướng của em, một ngày kia xa lắm đã đem về bao quyến rũ cho những chốn tôi vừa viếng trong hoài niệm đăm chiêu. Ngày kia em còn là một cô bé hoang vu man dại, chân em trần, gót em trụi, mắt cá em truồng, da em sần bánh mật bồ quân, mặc dù em có đội đầu chiếc mũ rạ rộng vành phiêu hốt với dải băng rộng tung bay bồng bềnh với làn tóc tơ đen múa rối. Chúng ta đã đi uống sữa tươi ở nông trại Thụy Sĩ, trên gò cao, đống rộng, và người ta đã bảo tôi rằng: “Chú bé Parisien ạ, cô bồ của chú xinh đẹp vô ngần!” Ồ! Thuở đó, đâu có dễ gì một gã nông dân được diễm phúc múa vòng cùng với em khiêu vũ. Em chỉ múa vòng với tôi thôi, mỗi năm một lượt, vào dịp lễ bắn cung cũng gọi là hội đố lá.
X. Chàng cao tóc quăn
Tôi lại theo con đường về lại xóm Loisy; mọi người đã thức giấc. Sylvie vận một bộ trang phục tiểu thư rất mực đài các, xấp xỉ phong vận phồn hoa. Nàng đưa tôi lên phòng với tất cả niềm thơ ngây ngày trước. Con mắt nàng vẫn sáng ngời trong nụ cười kiều diễm, nhưng vòng cung hàng lông mày đậm nét, đôi lúc đã làm cho gương mặt nàng nhuốm một vẻ trang nghiêm. Phòng trang hoàng giản dị, tuy nhiên bàn ghế lại thuộc loại kim thời, một tấm gương khung vàng đã thay thế chiếc gương cũ treo trên lò sưởi ngày xưa. Lại có một hình chàng mục tử của Tình Ca đang trao tặng một cái tổ chim cho một cô chăn cừu hồng vàng xanh lục. Chiếc giường xưa với những cột mùng trinh bạch phủ thứ vải Ba Tư chim cò lá cành, đã bị thay thế bằng một chiếc giường gỗ hồng đào với diềm hà phụng hoa loan; nơi bệ cửa sổ, trong chiếc lồng nhốt chim bông lau bạc má xưa kia, bây giờ lại nhốt chim kim tước. Tôi mong muốn sớm được ra khỏi căn phòng kia, căn phòng chẳng còn lưu một chút gì của mùi hương quá khứ. “Ngày nay em không còn thêu thùa đen-ten nữa?..." Tôi hỏi Sylvie. "Ồ! Em chẳng thêu đen-ten nữa, chẳng còn ai dùng thứ đó nữa trong làng; ngay cả ở Chantilly, cái sở lớn cũng đóng cửa rồi." – "Thế em làm gì?” Nàng đi lại góc phòng lấy ra một dụng cụ bằng sắt giống hình một cái kẹp dài. “Đó là cái chi vậy?" – "Người ta gọi đó là kẹp máy; dùng để kẹp da găng lại mà thêu." – "Thế ra em đã thành cô thợ dệt găng tay?" "Vâng, chúng em làm việc để cung cấp cho một quận Dammartin, công việc cũng bề bộn lắm; nhưng hôm nay thì rảnh; anh lại muốn dẫn em đi đâu thì đi đó”. Tôi quay mặt ngó về phía làng Othys: nàng lắc đầu; tôi hiểu rằng bà dì không còn nữa. Sylvie gọi một thằng bé, bảo nó thắng cương yên một con lừa. “Hôm nay em còn mệt mỏi vì buổi hội hôm qua, nàng nói, nhưng đi dạo chắc sẽ làm em khỏe khoắn ra, chúng ta hãy đi Châalis”. Và thế là chúng tôi lên đường băng qua rừng rú, theo sau là thằng bé con con, tay cầm một cành cây như khí giới tháp tùng. Chẳng mấy chốc, Sylvie muốn dừng chân, tôi hôn nàng, dìu nàng ngồi xuống. Câu chuyện giữa chúng tôi, bấy giờ chẳng thể nào còn thân mật nữa. Tôi phải kể lại nàng nghe cuộc sống của tôi tại Paris, những chuyến du lịch… “Làm sao người ta có thể đi xa đến thế?" Nàng hỏi…
"Tôi lấy làm lạ về điều đó khi gặp em." – "Ồ! Cái đó tất nhiên!" – "Và hãy nhìn nhận rằng xưa kia em không xinh đẹp bằng." – "Em chẳng rõ." – "Em còn nhớ cái thuở chúng ta còn bé con, và em thì lớn hơn anh một chút?" – "Còn anh thì ngoan hơn em!" "Ồ! Sylvie!" – Người ta đặt hai đứa lên lưng con lừa, mỗi đứa ngồi đong đưa trong một cái thúng ở hai bên hông con lừa. – Và ngày đó em gọi tôi bằng một lối xưng hô rất khác… "Em có nhớ rằng em đã bày vẽ cho anh câu tôm ở phía dưới những nhịp cầu sông Thève và khe Nonette?" – "Và anh, anh có nhớ người anh em sữa của anh, người con của bà vú nuôi anh, ngày nọ đã kéo anh lên vì anh chìm lỉm xuống xiết nước?" – "A! Chàng cao tóc quăn! Chính anh ta đã từng nói với anh rằng có thể lội qua… lội qua xiết nước!”
Tôi vội vã đổi câu chuyện. Kỷ niệm đó nhắc tôi nhớ lại rõ ràng cái thuở tôi tới miền này, vận một bộ y phục lối bé con Anh Cát Lợi, làm cho các anh nông dân cười thật dữ. Riêng Sylvie coi là tôi ăn vận được lắm; nhưng tôi không dám gợi lại cho nàng nhớ ý kiến đó của một thuở xa xôi lăng lắc. Chẳng hiểu vì sao tôi lại nghĩ tới những bộ y phục hôn lễ mà chúng tôi đã vận vào mình tại nhà bà dì ở Othys. Tôi hỏi Sylvie ngày nay những bộ quần áo đó ra sao. “A! Bà dì tốt quá", Sylvie nói, "bà có cho em mượn tấm áo đó để đi khiêu vũ trong ngày hội hóa trang tại Dammartin, kể ra đã được hai năm rồi. Năm sau, bà mất, tội quá!”
Nàng thở ra, nàng khóc, và tôi không thể hỏi bởi hoàn cảnh trường hợp nào nàng đã đi dự hội một buổi hội hoá trang; nhưng cũng đoán hiểu rằng nhờ cái tài khéo tay, khôn ngón của nàng, Sylvie không còn là một cô nông dân cục mịch. Chỉ cha mẹ nàng nằm yên trong phận, và nàng đã sống bên cạnh cha mẹ như một nàng tiên mẫn tài trí, xảo diệu tay chân, gieo rắc mưa móc phì nhiêu ra bốn phía.
X. Trở lại
Ra khỏi khu rừng, nhãn quang nhìn khung trời mở rộng. Chúng tôi đã tới bên bờ những hồ nước Châalis, những hồi lang của tu viện, ngôi nhà thờ với những ngọn tiêm cung dong dỏng cao vút ngọn tháp thời phong kiến và ngôi điện nho nhỏ đã nung nấu che chở những tình ái u nùng, giữa hoàng đế Henri đệ tứ và nương tử Gabrielle tất cả đều nhuốm màu ráng đỏ hoàng hôn man mác bao phủ màu lục đậm núi ngàn. “Đó là một phong cảnh của Walter Scott, phải không anh?” Sylvie nói. – "Ai đã nói với em về Walter Scott? Thế thì từ ba năm nay, em đọc sách nhiều lắm?... Anh, anh gắng quên sách vở, và cái gì thu hút anh, cái gì anh mơ ước, ấy là chính cùng em nhìn lại ngôi tu viện cũ kỹ này. Em nhớ đó, chính đấy là chỗ thuở nhỏ chúng mình đã trốn nhau giữa những phế tích hoang tàn. Em nhớ không, Sylvie, khi người kiểm lâm kể cho chúng ta nghe sự tích những tu sĩ áo đỏ, thì em đã sợ hãi như thế nào?" – "Ồ! Anh đừng nói chuyện đó với em nữa." – "Vậy thì em hãy ca cho anh nghe bài ca của cô gái xinh đẹp bị bắt đi khỏi khu vườn của cha mẹ, dưới cây bạch tường vi." – "Ngày nay, người ta không ca bài đó nữa." – "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?" – "Chút ít." – Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường! – "Anh phàn nàn ư? Có chi để phiền trách?" – "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.”
Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường… Hỡi ôi nàng uốn giọng cao kỳ!
Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên. Đây đồng cỏ xanh lục, xung quanh sum sê bồ đề và tiểu du, tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng bao phen! Tôi thở cơn tự ái, lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích những huy hiệu huy chương nhà họ Este. “Anh! Anh đọc sách hơn em nhiều quá! Thế thì té ra anh là một nhà thông thái?”
Tôi hơi tức vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng. Trước lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien. Và thế đó, tôi đã không may mở miệng kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm của tôi. Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi đã nghe Adrienne hát. “Ồ! Tôi chờ nghe em lên tiếng nói! Tôi bảo. Cầu sao cho giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm cung điện này, và xua đuổi những thần linh đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại!” Nàng lặp lại những lời và điệu hát:
Hỡi thiên thần, hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tĩnh-tội-giới thâm sâu…
"Thật là buồn bã!" Nàng nói.
"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."
"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.
Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường Charlepont mà nông đan thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ nguyên, cứ gọi trại ra thành Châllepont. Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa mình vào cánh tay tôi. Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh tiểu thuyết, mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi. Và thế đó, tôi dừng lại theo phong vận rất cổ điển hào hoa, và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước những tâm sự phơi bày nửa chừng thoắt dứt. Lúc tới sát những bờ tường Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi. Người ta băng qua những nội cỏ ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co. “Cô tu nữ ra sao?” Tôi thình lình hỏi.
"A! Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…! Thật là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”
Sylvie không chịu nói thêm lời nào.
Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ? Không thể nghĩ như vậy được. Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng. Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương! Tôi chẳng quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức cái việc để cho thiên hạ lừa dối. Không cần là thật hay giả. Cứ nghe bừa cho xong. Nhưng tôi biết làm sao được. Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ, là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với tôi cũng là một đứa em gái. Tôi không thể mở cuộc quyến rũ dã man… Một ý nghĩ khác xuyên qua óc tôi. “Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát… Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì? Hẳn nhiên là nàng thủ vai công chúa trong vở kịch mới. Ồ! Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu nên cảm kích!... Và trong cái xen yêu đương ở lớp hai! Với cái anh chàng một, mặt mày nhăn nhíu…
"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát:
Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…
“A! Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng cô không còn biết hát những điệu hát xưa!
“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực. Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây. Đừng về trễ quá. Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản tại hải ngoại 1990.