Hiển thị các bài đăng có nhãn Loạt bài: Văn học miền Nam trước 1975. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Loạt bài: Văn học miền Nam trước 1975. Hiển thị tất cả bài đăng

28/11/08

Trầm Thanh Hùng : Cái cười trong ngôn từ Việt Nam

Trầm Thanh Hùng
Cái cười trong ngôn từ Việt Nam

Trong tiểu luận “Nói nghĩa là gì?” đăng trong Văn – Nghiên cứu và Phê bình Văn học – tập 1, nhà văn Lê Văn Siêu đã định nghĩa tổng quát tiếng nói như sau:

“Nói là cái cách dùng những lời như những phương tiện để diễn tình và ý của mình trong cuộc sống” [1] .

Như vậy, nói là một hình thức rất quan trọng để diễn tả, để trình bày hay để giảng giải cái ý nghĩ, tư tưởng, sở học của mình cho những người xung quanh hiểu, hoặc thông cảm đối đáp với mình.

Thường thường, để nhấn mạnh, để làm đậm nét và để gây một ấn tượng trong đầu óc của người đối diện, ta thường chua thêm một tiếng cười kèm trước hay sau câu ta nói. Cố nhiên, tùy theo từng trường hợp một, cái cười có thể làm cho người ta khoái trá hơn, vui hơn và cũng có thể làm cho người ta căm giận, sôi máu hơn…

Tiếng nói bộc lộ “trắng” ý tưởng của người nói nhưng cái cười nó không rõ rệt, sáng sủa như tiếng nói. Nó đòi hỏi người đón nhận cái cười ấy phải mất một thời gian hoặc ngắn vài giây hoặc dài đến vài năm hay có thể, cả đời nữa để mà hiểu rõ những cái nghĩa sâu sắc và cốt yếu của nó. Tiếng nói có một bề sâu vô cùng thì tiếng cười khi đi với tiếng nói cũng có một chiều diễn tả – gồm nhiều mặt – ra đến vô hạn.

Phạm vi của cái cười đã vô chừng và đối với dân tộc Việt thì nó lại càng dồi dào phong phú hơn nữa: nó là cái kết quả âm ỉ, không ai ngờ đến trong suốt ba, bốn ngàn năm xây dựng và kiến tạo văn hiến, văn học.

Trở về với những bề mặt mênh mông của cái cười Việt, ta nhận xét thấy điều này: cười không hẳn là kết quả của một trạng thái vui tươi trong tâm hồn mà nó còn là kết quả của vô số những trạng thái rung động khác của lý trí, tư tưởng con người nữa.

Vui thì cười, đó là lẽ tự nhiên của trời đất, thế mà buồn cũng cười, hả hê thoảmãn cũng cười, bị đè nén bóc lột cũng cười, tức giận cũng cười, sung sướng hài lòng cũng cười, đau khổ chán chường cũng cười, khinh bỉ ngạo mạn hay kính phục cũng cười nốt.

Nhưng cái cười của người Việt ta không phải lối cười mà Nguyễn Văn Vĩnh đã cho rằng “người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì mà dở cũng hì, quấy cũng hì, phải cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang”. Mà là cái hì trong đó nó ẩn náu, nó tiềm tàng cả một khối những ý nghĩ thâm trầm, sâu sắc và tế nhị vô cùng chứ không vô bổ và vô ý thức như Nguyễn tiên sinh đã nghĩ. Và nếu nhận xét kỹ, ta sẽ thấy những cái cười vô bổ vô ý thức đó nó chỉ là một cái gì bé nhỏ lạc lõng trong làng cười của người Việt mình.

Chủ đích của tác giả không phải là quay bề mặt của cái cười về phương diện triết học hay văn học mà chỉ dụng tâm nêu ra một số những ý nghĩ mở đầu, lôi kéo dần đến việc tìm xét từng ý nghĩa một của cái cười Việt Nam, vì vấn đề tra khảo những cái cười trên phương diện triết học này đã được nhà văn Vũ Đình Lưu đem ra bàn rất tỉ mỉ trước kia rồi [2] .

Vì tính cách bao la rộng rãi của cái cười nên để dễ suy nghĩ và dễ cho độc giả theo dõi, chúng tôi sẽ lần lượt phanh phui cái cười trên những phương diện khác nhau và những hình thức khác nhau mà độc giả sẽ xem dưới đây.


A. Cười vì vui

Vui vẻ, thích thú thì tất phải cười. Điều đó không ai hiểu nổi và cũng không giải thích được tại sao. Vui thì tự nhiên hai bên miệng từ từ kéo dài ra và chúng ta cười. Cười như vậy là cười vui vẻ, nó tô điểm cho gương mặt thêm nét rạng rỡ và tươi tắn và khiến cho người đối diện chưa cười cũng phải cười theo. Người nào tính tính ít nói, nghiêm trang, thì khi gặp vui như vậy cũng sẽ cười, cái cười đó là cười kín đáo, ngược lại với cười kín đáo là cười xô bồ, cười phá lên ầm ầm, cười ha hả. Vui sướng đột ngột hay thích thú quá vì một câu châm biếm hay thì là cười rú lên hay cười ré lên, phá lên cười, cười rộ lên, cười ồ. Yên lặng hơn nhưng cũng không kém phần thích thú là phì cười, bật cười.

Cười vì thích thì tiếng cười tự nhiên lắm, nó sẽ là cười ầm ầm, cười dậy trời dậy đất, cười tróc nóc nhà, cười như trốt hốt, cười như vũ bão. Cười như vậy làm cho những người ngoài cuộc cũng vui lây mà cười theo. Dân mình có câu “hiền như bụt cũng phải cười” để chỉ những cái cười nhộn nhịp, ồn ào ghê lắm. Không biết đã có ai thấy Bụt cười bao giờ chưa nhưng thành ngữ trên chứng tỏ người Việt cũng rất tự nhiên trong khi ví von, so sánh. Có thể người ta gởi lầm Bụt là ông Địa chăng? Ông Địa thì bao giờ cũng ngồi phơi cả rốn ra – không biết có đau bụng không? – miệng lúc nào cũng cười toe toét, chẳng hiểu thích thú cái gì. Vì cớ ấy nên hễ ai cười rộng miệng quá thì bị ban cho chữ cười toe toét như ông Địa! Có lẽ trong tất cả thần thánh mà người Việt tôn thờ chỉ có ông Địa là cười vui đáo để mà thôi nên ông hay bị đem ra trêu chọc, đùa bỡn nhiều nhất…

Cười giòn tan là tiếng cười hết sức tự nhiên, nó biểu lộ sự khoái trá tột cùng. Cười giòn tan thật ra cũng chỉ là một tiếng rất rộng nghĩa, nó bao gồm những tiếng cười khác ngụ một ý thích thú hồn nhiên chứ không gượng ép. Nhiều người cùng cười giòn thì người ta nói là cười dòn như pháo nổ, tiếng cười lúc đó cứ rào rào lên như pháo giao thừa ấy.

Cười reo lên, cười hồn nhiên là tiếng cười của mấy đứa bé con hay đôi khi, còn để chỉ tiếng cười của những cô gái khi gặp điều gì thích thú, vừa lòng. Trẻ con còn có thêm giọng cười khúc khích nữa. Tuy vậy, để chỉ tiếng của một nhóm đôi ba người đang nói lén hay đang trêu ngầm một nhóm đôi ba người đứng đó không xa lắm người ta cũng dùng chữ cười khúc khích. Nhỏ hơn và nhộn hơn thì lại là cười rinh rích cười rúc rích. Thú vị quá, không đè nén nổi thì bật lên cười sặc sụa, cười như nắc nẻ, cười ầm ĩ như phá làng phá chợ.

Cười khanh khách cũng đồng nghĩa như cười hăng hắc nhưng hai cái cười này thường thì không được tự nhiên và chủ đích của tiếng cười một phần cũng để làm vừa ý người đối diện. Cười trong trẻo như tiếng chuông ngân thì có thể gọi là cười sang sảng hay cười rổn rảng, ai có cái giọng cười này thì người đó ắt phải có phổi tốt và tiếng nói tốt lắm vì đồng thời với cười sang sảng còn có nói sang sảng nữa. Tiếng mới bây giờ do các ông nhà báo vừa khai sinh là cười tồ tồ như… nước chảy. Nghe qua thì có hơi dơ dáy và rẻ tiền thật. Đi kèm với tiếng ấy người ta có thành ngữ: Vén môi cười tồ tồ.

Cười khoái trá quá độ hay cười khoái chí tử thì lại là cười đỏ cả mặt, cười lăn lộn, cười sằng sặc như bị ai bóp cổ hay cười ằng ặc như lợn bị chọc tiết… Đồng nghĩa với cười lăn lộn ta lại có tiếng cười bò lê, cười bò kềnh hay bò càng, cười quay cu lơ chổng bốn vó lên trời. Những cái cười đó gọi chung là cười trửng giỡn, cười đủ mỡ, cười nghe có vẻ mát da mát thịt lắm.

Cười như điên là để chỉ cười nhiều lắm, cười nổi đình nổi đám thì cũng vậy nhưng tả chân hơn, có người còn gọi là cười đổ ly nước. Từ bé đến lớn, tác giả chưa hề thấy ai có cái cười đến đổ ly nước cả. Cười làm rung động mặt nước trong ly thì có nhưng đâu chỉ một lần khi người cười đặt miệng gần miệng ly rượu. Nhưng biết đâ đó vì là hơi thở của y chăng?

Cười nhiều quá đến thất thanh là cười lạc giọng, cười chảy nước mắt, cười ngất, cười ngoác mồm ra. Cười ngất còn đi với thành ngữ là ôm bụng cười ngất. Diễn tả hành động ôm bụng cười ngất ấy người mình còn có tiếng nói là cười ngặt nghẽo, cười gục đầu gục cổ, cười bật cả người ra sau. Nếu rủi ro ghế không có thành dựa hay không có ai đỡ thì lại là cười té ngửa, cười ngã bổ chửng, cười lăn lông lốc v.v… Cười như thế thì quả là hả hê, quả là đáng đồng tiền bát gạo nuôi cho lớn thật!

Cười lâu quá thì sẽ bị chửi cho là thứ đồ gì mà cười dai như giẻ rách, cười dai nhách như đỉa đói. Dùng chữ nhẹ nhàng êm ái hơn thì là cười liên tu bất tận, cười mê man như bị quỷ ám, cười quên thôi, cười như lên đồng lên bóng thì cũng có nghĩa như vậy. Nhưng coi chừng, cười quá thì mệt lắm và có thể bị nghẹn thở được. Ở Phi châu, một vài sắc dân hay mắc phải một chứng bệnh kỳ quặc là cười, cười mãi, cười đến độ tắt tiếng đến ngộp thở và… về Giời luôn.

Người mình mà cười nhiều quá thì khi nín cười hay im cười rồi thường thở phào nhẹ nhõm: “Gớm, tao cười đến lộn cả ruột”. Cười nôn ruột là một điều rất nguy hiểm, nó làm ta cảm thấy mệt nhọc vô cùng có lẽ là bị hụt hơi. Người miền Nam thay chữ cười nôn ruột bằng cười đau bụng, cười quặn ruột, cười phát thốn hay cười bể bụng – mấy anh Ba hủ tíu nhai lại là cười pể pụng, pể pụng… - Người Bắc đôi khi còn thay tiếng cười nôn ruột bằng cười ù cả tai, cười nghẹn thở, cười chóng vánh mặt mày, cười đến xây xẩm, cười đến nỗi thấy trời đất quay cuồng mù tịt chả biết mô tê gì nữa…

Nhiều người có hàm răng đẹp, cười chỉ với mục đích là khoe răng cho người khác thấy, cười như rứa là cười khoe răng, ra cái bộ ta có hàm răng đều và đẹp lắm – điển hình nhất là cái cười bất hủ của chú chà Hynos – Nhưng cũng phải cẩn thận, gặp người có cảm tình với mình thì không sao chứ rủi gặp đứa khốn nạn thối mồm nói lại tán cho là: “Thằng cha thấy tởm quá, cười răng cả rổ ấy!”. Răng mà cả rổ thì cũng hơi quá, nhẹ hơn thì nó lại gọi là cười gì mà phơi cả răng cấm răng hàm ra thấy mà ghê. Danh từ thích hợp nhất mà người ta dùng để gọi tên cái cười lởm chởm ấy là nụ cười ấp chiến lược. Răng đẹp thì khoe răng ra mới có người ngắm và mình mới hả dạ, chứ loại răng hàng rào ấp chiến lược, răng bừa cào hay loại răng cải mả vàng bợn thì ai mà dám nhìn. Mới liếc không cũng đủ giãy lên đành đạch rồi, ngắm với nghía cái nỗi gì? Trước kia, người ta có cái mốt bịt mỗi một chiếc răng vàng – răng chó ở một bên miệng – để lâu lêu khè ra một cái làm duyên với đời chơi cho vui. Tiếc rằng mấy lúc sau này, mốt bịt răng vàng duyên bị chìm dần chứ nếu không thì có lẽ còn nhiều màn đau tim hy hữu và chữ cười trong ngôn ngữ Việt Nam may ra được thêm vài chữ nữa chứ chẳng chơi…

Cười là một điều tốt, nó là một liều thuốc bổ làm cho ta thấy tươi tắn và yêu đời hơn, nhưng cũng đừng vì vậy mà lạm dụng cái cười. Thú vật không có con nào là biết cười cả, vậy con người biết cười phải cười cho đúng chỗ. Người mà đụng đâu cười đó thì bị mắng cho là cười vô duyên, cười lãng nhách, cười lãng xẹt, cười không phải chỗ, cười vô lối. Vì không đáng cười cũng cười nên lắm khi nụ cười thành sượng sùng, tiếng cười thành lạt lẽo khó nghe. Lúc cần tiếng cười để tăng thêm phần giá trị của câu nói lại không cười, lúc cần nghiêm trang thì lại muốn phì cười, ấy là cười vô ý thức. Dân ta có câu “Vô duyên chưa nói đã cười” là vậy. Chọc cho người khác cười mà người ta không cười thì thành cười gượng, cười ngượng nghịu, mắc cỡ…

Cũng trong cái cười vô ý thức, người không biết giữ gìn khi khoái trá thì bật cười lên như khùng, cười văng nước bọt vào đầy người đối diện, làm cho họ phải ghê tởm và rủa thầm là thứ đồ cười không ý không tứ gì hết. Gặp hạng người này khi nói chuyện với nó thì phải nhớ mặc áo mưa, đội mũ tử tế kẻo ướt cả áo quần rồi lại ho, hen, sài, đẹn thì khốn!

Cười sái mùa, cười lộn ngõ cũng cùng một nghĩa là cười sai chỗ, cười trật búa, cười hả hê là ci đến mức đã đời, cười rồi thấy khoan dung trong lòng, thấy đáng tiền đáng gạo quá. Đôi khi dùng ép người ta cũng có cười no nê, cười hả dạ thay cho chữ cười hả hê đã tương đối cũ.

Cười ha hả là tiếng cười biểu lộ sự thích thú của các cụ già ngồi rung đùi, ngâm thơ, uống rượu. Kể chuyện con cháu, các cụ cũng cười hà hà để tỏ ý yêu thương dễ dãi.

Cười hí hởn cũng là vui mà có; loại cười này thường thấy nở trên mặt của mấy cậu bé con được mẹ cho quà, thích chí lắm. Nhiều nơi còn gọi là cười hí hửng, cười cẩng mặt lên như khỉ phải gió ấy! Cười thoả mãn là tiếng cười biểu lộ sự vừa ý, nó cũng đồng nghĩa với cười hài lòng, cười khoan khoái, cười sung sướng, cười mãn nguyện. Khi đó, đương sự vui vẻ lắm, mồm cười tươi tắn, cười tươi như hoa mõm chó í mà. Mặt bấy giờ rạng rỡ hẳn lên, ấy là cười rạng rỡ.

Được ai kể cho nghe chuyện gì bí mật mà bấy lâu nay hằng ao ước thì lại cười thích thú. Cười thích thú thì cũng tùy người, có khi nó chỉ là những nụ cười thoáng qua và có khi nó là cả một trận cười trời long đất lở không chừng.

Trở về với những cái cười rung nhà chuyển núi, người ta có thành ngữ cười như vượn trên rừng hay cười như đười ươi sở thú. Cả hai tiếng đều được dùng để chỉ tiếng cười không có khuôn phép, tiếng cười vừa dài dằng dặc lại vừa ầm ầm như sấm dậy của mấy tay anh hùng đứng bến gặp điều gì hài lòng thích thú.


B. Đàn ông cười

Tác giả xin dành riêng một phần hẳn hòi để bàn về những cái cười bê bối của đàn ông mà chắc là ai cũng đã có nghĩ đến và biết qua khá nhiều. Không phải tác giả là người hẹp hòi, có ác cảm với giới mày râu – vì thực ra tác giả cũng chỉ là một kẻ tu mi nam tử như ai vậy – nhưng là vì bọn đàn ông mình cứ nhiều cái cười không chê vào đâu được!

Thích thú một điều gì, ít khi nào – ít khi chứ không phải không bao giờ – dân đàn ông có cái cười trong sạch đâu. Tự nhiên dù là vui vì một chuyện rất đàng hoàng, tiếng cười lúc bật lên bao giờ cũng nghe có pha một vẻ gì đáng ghét và dơ dáy lạ.

Cười nham nhở là thường tình nhất. Cái cười nham nhở không bật ra thành tiếng như những cái cười khác, mà nó thể hiện qua gương mặt của người cười. Cười nham nhở thì hay toét mồm ra nên có khi người ta cũng gọi trệch đi là cười nhăn nhở. Đồng nghiệp của cười nham nhở là cười khả ố. Cười khả ố thì không được yên lặng như cái cười nham nhở, nó bật ra một tràng dài toàn là những tiếng nghe mà ngứa ngáy cái lỗ nhĩ. Thực ra, tiếng cười khả ố không xác định hẳn hòi thành một thanh âm nào cả, nó có thể hô hô hô…, hê hê hê…, he he he…, hi hi hi… nghĩa là rặt những thanh âm khởi đầu chữ h và không có dấu. Khi tiếng cười có bỏ dấu vào thì lại khác, chừng đó tiếng cười không còn kéo dài bất tận như tiếng cười khả ố nữa mà nó là cái cười gióng một, bật ra thành từng cặp hai tiếng, từng cặp hai tiếng mà thôi. Đó là cười thô bỉ, cười bỉ lậu. Tiếng sẽ là hế hê, hé he, hố hô, hí hi v.v…Tác giả không kể hét ra đây vì những tiếng cười này không có gì để mà đo lường nó được cả, cái số lượng của nó tùy thuộc vào người sử dụng cái cười có sáng kiến hay không…

Đồng nghĩa với cười nham nhở, cười khả ố, cười thô bỉ là cười hềnh hệch, cười sàm sỡ. Cười sàm sõ còn là biểu hiệu của người không đứng đắn nữa trong khi những cái cười kể trên có thể là của một tên xưa nay vẫn hiền lành nhưng trong một phút bốc đồng muốn quên cái sự đời nên mới bật miệng mà văng ra như vậy. Cười sàm sỡ quá lố, nhất là khi đối diện với phái nữ – tức địch quân của bọn râu mày – thì bị chửi cho là cười mất dạy, cười tục tằn, bỉ ổi. Đó là nhẹ, gặp nương tử nào đáo để thì tác giả của cái cười sẽ bị ban cho một tiếng rất nặng là cười dê xồm, cười ba mươi lăm.

Nghe hai cô cong cóc kháo nhau:

“Mày quen thằng đó à?"

"Ừ, rồi sao?"

"Nó ‘dê’ lắm!"

"Sao mày biết?”

“Nghe nó cười tao biết ngay!”

Nghe cười mà biết ngay là dê thì cái cười quả là gớm ghiếc thật. Chữ cười dê thì chỉ có “địch quân” mới ban cho ta chứ thực ra, dân mày râu với nhau không ai lại chơi nhau đau vậy. Tuy nhiên, tác giả cũng công nhận một điều là đáng ghét. Sáng sớm mới bước ra khỏi cửa – nhất là mấy cô vì với bọn đàn ông thì ăn thua gì – nghe những tiếng cười hẻ hẻ, hề hề, he he nó đuổi theo đằng sau thì thật là muốn tặng cho mấy guốc quá!

Trong nhóm cười dê thì có: cười suồng sã hay cười cợt nhã, cớt nhã là giai đoạn khởi đầu nhé, rồi mới qua đến cười xỏ lá. Trong nhiều trường hợp, chữ cười xỏ lá không có nghĩa là dê cụ, dê non gì hết. Nó còn có thể là cái cười của mấy chị đàn bà nữa. Tiếng cười xỏ lá thường sau một câu khen hão, khen để chọc gan người ta, làm cho người ta biết là bị chọc quê mà không trả thù được.

Sau cái cười xỏ lá thì lại là cười híp mắt. Cười híp mắt đi đôi với thành ngữ – rất nặng – mặt lợn mồm bò cười híp mắt! Cười híp mắt có lẽ là một trong những hình thức cười đáng ghét nhất vì nó biểu lộ hẳn hòi trên khuôn mặt.

Ở trên có đề cập đến chữ cười cợt nhã hay cười cớt nhã. Cười cợt nhã hay cười cớt nhã khác với cười cợt. Cười cợt ngụ một ý tưởng vui tươi, tự nhiên, còn cười cợt nhã hay cười cớt nhã lại ngụ một ý tưởng, một cử chỉ không đàng hoàng, không đứng đắn.

Cười đểu cáng là một lối cười đặc biệt, có thể bật lên thành tiếng và có thể chỉ là một cái nhếch mép. Cười đàng điếm hay cười sở khanh cũng đồng nghĩa với cười đểu cáng. Cười dâm ô hay cười dâm đãng là cái cười dơ dáy nhất, nó cũng giông giống như cái cười đểu cáng: có thể bật lên thành tiếng hay chỉ là một cái nhếch mép mà thôi. Điển hình nhất của tiếng cười này là cái cười của các ông vua, ông quan trên sân khấu hay trên màn ảnh v.v…

Cười tiếu lâm là cái cười biểu lộ sự khoái trá, thích thú với lập pháp! Tác giả của cái cười này thường sử dụng nó về sau khi kể hay nghe được chuyện tiếu lâm vớ vẩn. Trong nhiều trường hợp, cái cười tiếu lâm còn đi đôi với cười xỏ lá để quậy cho người ta tức thêm. Cười đê mạt là tiếng gọi chung các thứ cười ở trên, nó còn có chữ đồng nghĩa là cười hạ cấp. Cười man rợ thì chắc chắn là bật lên thành tiếng và tiếng này hẳn là nghe nó khốn nạn, nó… duy vật lắm; nặng hơn thì lại là cười thú vật.

Cười xấc xược, cười hỗn láo, cười láo xược, cười lấc cấc và cười vênh váo tỏ một ý tưởng ương ngạnh, trong đó, tiếng cười vênh váo còn ngụ ý hỗn hào và kiêu căng nữa.

Đối với những tên cướp, những tên sắp giết người, tiếng cười của chúng được tặng cho một tên tuy không có thật nhưng lại rất tượng hình, đó là cười sặc mùi máu, cười tanh tưởi, cười lạnh cả gáy, lạnh cả xương sống. Còn đối với các bợm nhậu thì tên gọi thực hơn: đó là cái cười sặc mùi rượu.

Trên là những lối cười điển hình cho giới đàn ông râu ria lởm chởm. Tiếng cười tuy tệ hại thật nhưng ít ra nó cũng đã nói lên ít nhiều sự biểu lộ tư tưởng của họ qua giọng cười. Tuy vậy, không ai có thể trách móc hay ép buộc giới đàn ông phải từ bỏ những cái cười ấy. Đàn bà không có giọng cười giống như vậy nên lối cười đó là một độc quyền, một biểu hiệu của phái đàn ông mà có lẽ, nếu ai không có một trong những cái cười đó thì chắc là không “xứng đáng” để làm đàn ông nữa!


C. Cười tình

Cười tình là biểu lộ cái tình cảm thương, yêu qua cách cười và giọng cười. Cười duyên là cái cười cố ý tạo cho gương mặt một nét tươi tắn, duyên dáng. Cười duyên có thể nói là không bao giờ bật lên thành tiếng; vì dù cái cười có đẹp đến thế mấy, có dễ thương xinh tươi đến thế mấy mà lại phát ra thành tiếng khanh khác thì thật chẳng có duyên dáng tí nào mà lại có thể bị gọi cho là cười vô duyên nữa. Trong mục cười duyên có những cái cười sau đây:

Cười mím chi hay mánh chi cũng là cái cười yên lặng. Cười mím chi không phát ra thành tiếng và cũng không toét miệng ra lớn quá. Thường, cái cười mím chi cũng là một cái cười nhẹ và không để răng ra ngoài. Cười tủm tỉm cũng không khoe răng và là một cái cười thật nhẹ nhưng dài hơn cười mím chi. Cười chúm chím là cười mà cố nén không toét miệng ra rộng quá nên môi của người cười hơi chúm lại. Cả hai cái, cười tủm tỉm và cười chúm chím còn ngụ một ý đặc biệt là để trêu ghẹo, đùa cho thẹn chơi vậy; nhưng cái cười tủm tỉm vì chậm và lâu hơn cười chúm chím nên người bị trêu dễ nhận hơn là cười chúm chím. Người bị trêu ghẹo, muốn khỏa lấp thì cũng cười, nhưng cái cười có tính chất và hình thức khác, đó là cười thẹn thùng hay cười thẹn thò, thẹn thùa và cười e lệ.

Cười ngây thơ là cái cười của những đứa trẻ dăm ba tuổi khi thấy gì lạ mắt, lạ tai. Nhưng đồng thời đôi khi cũng được các cô – chỉ các cô thôi, vì bọn đàn ông mà cười ngây thơ thì sống sao nổi?! – áp dụng trong kế hoạch tấn công tâm lý vào tinh thần đối phương đang sừng sững trước mặt. Rủi ro cái cười không còn chút vẻ ngây thơ gì cả thì tác giả của nó sẽ bị biếu cho tiếng cười ngây thơ hay cười lão! Như vậy, cười cũng là một chiến thuật rất tinh vi mà nếu áp dụng sơ hở có thể chết như chơi.

Cười tình tứ là cái cười cốt yếu trong phần cười tình này. Mặc dầu nằm riêng một mục nhỏ nhưng tất cả những cái cười trong phần này đều thuộc phạm vi của cái cười tình tứ. Cười đa tình là một hình thức lớn của cười tình tứ, văn chương hơn thì là nụ cười ong bướm… Cười nụ để tạo duyên dáng nên đôi khi không phải vì vui hay khoan khoái trong lòng. Cười nhoẻn hay nhoẻn miệng cười ngụ một ý vui vẻ. Hai người bạn trẻ giống nhau cũng thường có cái cười này để làm câu chào hỏi.

Cười má lúm đồng tiền đôi khi không hẳn là cười tình. Cười nũng nịu là để làm nũng ai một điều gì, không được thì cười hờn dỗi hay hờn mát. Cười âu yếm hay cười trìu mến cùng một nghĩa thương yêu như nhau. Những cái cười đó có thể gọi chung là những cái cười khả ái, dễ mến, nó làm tăng thêm tình cảm giữa hai phe, tạo nên một bầu không khí thông cảm, thông cảm…

Cười lẳng hay cười lẳng lơ, cười lơi lả ngụ một ý tưởng và tạo một cử chỉ đàng hoàng. Nó chỉ có thể làm thích thú những người không đứng đắn, còn đối với người đàng hoàng thì nó chỉ làm cho người ta khó chịu và bực bội hơn. Trong Nam, người ta thường thay chữ cười lẳng lơ bằng cười lẳng lúa. Dùng chữ nặng hơn để có ý miệt thị người miền Bắc còn gọi là cười đĩ thõa, cười dâm dật, cười trắc nết, ngả ngớn.

Cười ru hồn người ngụ một ý tưởng mê hoặc cho nên người ta còn gọi đó là nụ cười mê hoặc khách anh hùng hay cười bao tự. Những cái cười đó có thể là cười lôi cuốn, cười quyến rũ hay cười hấp dẫn như đá nam châm. Ba cái cười mới này hơi có khác ở trên chút xíu là trong vài trường hợp, chúng không phải là những cái cười cố ý mà có thể chỉ là vô tình. Cười nghiêng nước nghiêng thành đồng nghĩa với cười Bao Tự. Cười cong cớn đôi môi thì chắc chắn là cái cười của các cô để làm ra vẻ nũng nịu, hờn mát rồi.

Cười mơ mộng là cái cười vô tình, cái cười bất chợt điểm trên mặt một nhân vật nào đó đang nghĩ, đang mơ mộng tới một điều gì thích thú hay một ngoại nhân nào khác – thường là nghĩ tới địch quân của mình. Cười mơ mộng còn có các đồng nghĩa khác là cười lãng mạn, cười một mình, cười vơ vẩn, cười bâng quơ. Diễn tả một cách văn chương tiểu thuyết thì là cười xa vắng.

Đủ chuyện cả rồi.

… Bây giờ rủi ro như bị thất tình, bị người yêu hất hủi, đá đít, nạn nhân sẽ đau khổ lắm và có thể khóc được, nếu là phái yếu. Gặp giới đàn ông con trai thì khi hỏi chuyện nhau, họ lại cười! Nhưng lần này cái cười không còn đượm nét vui vẻ thích thú nữa, mà là cái cười đau khổ, cười chua chát, cười méo mặt, cười chán chường, cười mà trong lòng tan nát, đau đớn khổ sở mà vẫn phải cười, cười cho quên đời quên mình. Đó là những cái cười bi quan, yếm thế, cười đượm vẻ cay cú, hận đời và hận mình. Bị bạn bè châm biếm, trêu trọc thì nạn nhân cười buồn, cười gượng gạo, chịu đựng; cho nên lắm khi lại cười cười ra nước mắt nữa.

Gặp người có chí khí, tinh thần cứng cỏi thì khi ấy, cái cười của họ là cái cười trầm tĩnh, cười thâm trầm, sâu sắc, một đôi khi còn có thể là cái cười thản nhiên nữa. Chữ cười thản nhiên ấy lại đồng nghĩa với chữ cười đời, tỏ ý xem thường cuộc đời và cho rằng đời là thế, có đếch gì mà buồn!

Riêng những ông bạn quý trêu chọc người ta trong lúc người ta đau khổ thì bị chửi cho là: vô duyên! Cười trên sự đau khổ của người khác; dạy đời hơn thì là.

Cười người chớ vội cười lâu,
Cười người hôm trước hôm sau người cười.


D. Những cái cười khác

Trước đèn xem truyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le!

Gẫm cười hay cười suy gẫm là cái cười ngầm cho ta biết tác giả của nó đang nghĩ ngợi, nghiền ngẫm về một ý tưởng nào đó. Có nơi chép là: Nực cười hai chữ nhơn tình éo le! Nước cười thì lại có nghĩa khác. Nực cười là đáng tức cười, nghĩ mà buồn cười cho cuộc đời ngang trái, cho cái ô trọc, khốn nạn của cuộc đời hay của con người.

Nực cười ngụ một ý chua chát, khinh bỉ, còn gẫm cười thì ngụ một ý suy tư và sâu sắc, thâm trầm hơn. Cười khinh bỉ là cái cười xem thường kẻ khác, hạ thấp giá trị của người khác trong ý nghĩ mình. Nó đồng nghĩa với cười miệt thị, cười rẻ rúng, cười ngạo mạn. Đó là nghĩa đen của cười khinh bỉ.

Dùng vào nghĩa bóng thì người ta có chữ khác, cười vào mặt là rõ rệt nhất: “Mày mất dạy thế để người ta cười vào mặt bố mẹ mày à?”. Tương tự, còn gọi là cười vào mũi, cười thầm trong bụng! Dĩ nhiên những cái cười này không biểu lộ ra nét mặt hay tiếng cười mà chỉ có nghĩa là cười chê, coi thường nhân cách…

Cười mỉa mai phát lộ hẳn hòi qua sắc diện và âm thanh, nó ngụ ý gợi lên và làm cho người khác tức thêm hay hối hận thêm. Cười chế nhạo hay cười nhạo báng, cười châm biếm, chế giễu, cười trêu gan đều ngụ một ý cười cho người khác tức.

Cười mũi là cái cười nhếch mũi lên một cái để tỏ ý khinh khi hay bất bình. Cười ruồi thì cũng thế nhưng chỉ nhếch mép đủ để con ruồi đậu ở miệng bay đi thôi…, nó ngụ ý vui và nhẹ nhàng chứ không gay gắt như cười mũi. Cười nửa miệng hay cười đờ-mi ngụ ý vui thoang thoảng như cười ruồi.

Cười gằn hay cười khan, cười khẩy là những những cái cười thâm độc, cười để dằn mặt người khác tỏ cho người khác biết mình chẳng sợ ai và còn có vẻ rẻ rúng, xem thường người đối diện nữa. Cười nhạt hay cười lạt cũng cùng nghĩa ấy nhưng đượm vẻ lạnh lùng hơn và ghê gớm hơn. Cười tàn nhẫn là lối cười đi đôi với một hành động ác nhân, thất đức, hành động đó có thể là một cử chỉ giết người nữa.

Cười lanh lảnh là lối cười ghê rợn, cười nghe lạnh xương sống, cống xương sườn, cười nghe dựng cả tóc gáy, cười nghe phát sởn gai ốc, phát nổi da gà. Thường thường, loại cười này chỉ dùng trong tiểu thuyết ma quỷ để gợi cho độc giả một cảm giác gây gấy, rùng rợn thêm lên. Cười khinh khỉnh vừa ngụ ý chê bai người khác vừa có vẻ kiêu căng, khiếm nhã. Cười xòa là cái cười dễ dãi của một người không cố chấp, nghe rồi chỉ cười và bỏ ngoài tai tất cả những chuyện mà người khác kể cho. Cười phúc hậu hay cười nhân hậu là cái cười của người đạo đức đàng hoàng, nó còn có thể là cái cười của các bậc tu hành khả kính nữa.

Cười nhã nhặn, cười xã giao là cái cười của người lịch sự dùng trong khi giao tiếp thường ngày với những người xung quanh mình. Cùng một ý đó là cười ngoại giao, cười mua lòng người khác, cười vì lịch sự, cười bặt thiệp. Cười chính trị là nụ cười được đem ra sử dụng để chuẩn bị làm “áp phe” với một người nào. Đối với các tay chính khách, nụ cười của họ cũng bị ban cho là cười chính trị, vì trên thực tế, giữa những tay chính trị già hàm thì không có vấn đề cười vì vui hay cười vì thích thú tự nhiên bao giờ.

Cười cầu tài là lối cười hề hề của mấy chú Ba bụng phệ tính tiền và làm toán cộng nhanh như gió. Các chú cười để bề ngoài ai cũng tưởng các chú dễ dãi, sao cũng được, nhưng bề trong, trong cái nồi nước lèo phề phệ của các chú, là cả một sự tính toán vĩ đại và chính xác vô cùng. Các chú thả con tép bắt con tôm đấy!

Cười nịnh hay cười nịnh nọt, cười vuốt đuôi là cốt yếu làm vui lòng những kẻ trên mình để hòng hưởng chút xôi rượu gì chăng. Cho nên, ta thấy cái cười cầu tài của mấy chú Ba cũng là một trong những cái cười nịnh mà là cười nịnh có toan tính có đường lối hẳn hòi chứ không phải để nịnh suông như người Việt mình. Đồng nghĩa với cười nịnh nhưng nhẹ nhàng hơn là cười mơn, cười mơn trớn, cười lấy lòng người khác. Cười hùa và cười phụ họa đôi khi không có ý nịnh hót mà chỉ là một trong những cách biểu lộ sự đồng ý đồng tình trong một vấn đề gì đó. Đồng ý với ai một chuyện gì mà vì thấy ngường ngượng khó nói người ta cũng dùng cái cười để trả lời cho những người xung quanh biết, đó là cái cười đồng ý, cười biểu đồng tình v.v…

Cười vị tha, cười khoan dung là cái cười của kẻ đại nhân quân tử (quân tử thật chứ không phải quân tử tàu). Cười mộc mạc, cười hiền lành, cười dễ dãi cũng là cái cười của người hiền. Nó cũng bao gồm cái cười khiêm tốn, cười khiêm nhượng hay khiêm nhường nữa. Cười điềm nhiên, cười điềm tĩnh và cười bình thản biểu lộ sự mạnh mẽ của ý chí, không hốt hoảng trước một vấn đề nguy nan nào đó và vẫn tỉnh táo, sáng suốt để đối phó. Cười phớt tỉnh cũng là một cái cười của người rắn rỏi và can trường như người điềm nhiên. Cười tự tin hay cười lạc quan ngụ ý tin tưởng và hy vọng nhiều ở thành công. Trái lại là cười tự phụ, tự đắc, tự kiêu, tự mãn.

Cười tế nhị hay cười ý nhị là cái cười dùng để khởi đầu cho một giải quyết nào đó nhằm thanh toán vấn đề khó khăn. Cười bần tiện là cái cười mà kẻ tiểu nhân thường áp dụng để xin xỏ ai một cái gì. Nó đồng nghĩa với cái cười đê tiện, cười hèn hạ. Cười nhục nhã là một cái cười có tính chất gượng gạo, khổ sở, cay đắng trước một thất bại của mình.

Cười bí ẩn là cái cười khó hiểu, có ý muốn che giấu một điều gì không cho ai biết, nó đồng nghĩa với cười bí mật, cười hóc hiểm. Cười cứng cỏi là cái cười của người gan lì, nó có ý thách đố những người xung quanh và sẵn sàng phản công lại kẻ địch. Vì thế nên còn gọi là cười thách đố, cười dằn mặt, cười cứng rắn. Cười cương quyết cũng tỏ ý ấy nhưng dễ chịu hơn, nó muốn làm cho người khác phải lùi bước trước mình và kính sợ mình còn cười cứng cỏi ngụ một ý muốn… chơi tay đôi!

Cười khiêu khích, cười khiêu chiến hay cười ngạo nghễ là tỏ ý muốn tấn công kẻ địch và xem thường năng lực chống trả của kẻ địch. Gặp người biết cắn răng chịu thì họ chỉ cười để đáp lại, đó là cười nhịn nhục, cười chịu đựng, cười nén giận. Cười uất ức hay cười nghẹn ngào là biểu lộ sự bất lưc và căm giận của mình trước một kẻ địch có thế lực mạnh hơn.

Cười thú vị để biểu lộ một sự khoan khoái nhẹ nhàng và trầm tĩnh. Cười cởi mở là cái cười dễ chịu, không gút mắt, không bắt bẻ ai cả. Cười gian trá, cười xảo quyệt là cái cười của kẻ lưu manh đang dự tính qua mặt ai hay làm một điều gì ám muội. Cười nhu nhược hay cười mệt nhọc là cái cười của kẻ đã buông xuôi hai tay, mặc cho thời thế quay cuồng “để xem con tạo xoay vần ra sao”.

Cười lấp liếm, cười giấu giếm, che đậy, cười che giấu là để cản mũi, tảng lờ, phớt phớt đi để người ta đừng dòm ngó, nhỏ to gì đến công việc làm của mình hết. Một đôi khi người ta còn sử dụng nó để vờ lấp liếm, vờ che đậy làm ra vẻ ta đây kín đáo, khiêm nhường, không muốn lộ cho ai biết chuyện mình đang làm nhưng kỳ thực để thoảnỗi niềm tâm sự cố tình vờ che giấu bấy lâu nay; hoặc để người ta không lưu ý đến mình nữa – người ta đã biết là mình khiêm nhường rởm – dễ bề cho mình dò xét lại chuyện người ta. Vì thế, cái cười của những người này còn là cười dò xét nữa. Che giấu chuyện mình mà vẫn muốn tọc mạch, dòm ngó chuyện người khác thì hạng người này có một bộ mặt ngoài đạo đức, từ bi, khả kính còn bên trong thì hư nát, đốn mạt và thối om cả lên… Còn như vô tình làm mếch lòng ai thì lại cười vã lã, hay cười bã lã, cười đánh trống lấp, cười ngọt ngào để người ta đừng trách mình và đừng khinh khi mình. Lúc sắp nhờ vả hay đang nhờ vả người khác điều gì thì gặp mặt đâu cũng tươi cười, cười tử tế, cười đàng hoàng lắm; nhờ vả xong rồi thì lại làm ra vẻ nghiêm trang lạnh lùng trên bộ mặt trơ trẽn của mình ngay (lúc đó mà cười thì là cười trơ trẽn).

Cười the thé là tiếng cười rùng rợn của mấy bà đồng, bà bóng, mấy bà mối lái, cho vay ăn lời cắt cổ mười thành mười hai, gặp điều gì đúng với dự tính của mình nên thích thú quá không che giấu nổi. Cười như mấy bà mối lái đó là cười nghe mà phát ghét, cười không có nghệ thuật gì hết, cười giả dối rẻ tiền.

Cười hoan hỉ là cái cười biểu lộ sự vui sướng nhẹ nhàng, không ồ ạt, đình đám. Cười thông cảm để tỏ sự đồng ý với một người nào đó hay để chia sẻ sự băn khoăn, lo lắng hay vui vẻ của người đó. Cười buồn là cái cười của người biết chịu đựng trước thất bại, nó khác với buồn cười. Buồn cười hay tức cười, mắc cười, bắt tức cười đều ngụ ý như nhau. Đôi khi người ta cũng dùng chữ nói nghe mà nực cười hay bình dân hơn: thắc cười, nhột cười… Ngược lại với tức cười, buồn cười là nén cười, nhịn cười, nín cười, dồn ép để khỏi bật ra tiếng cười. Đè nén không nổi thì bật lên cười, cười đến chết.

Cười thương hại hay cười an ủi ngụ ý nhân đạo trong sạch. Cười dí dỏm hay cười hóm hỉnh ngụ ý chọc với mục đích cười cho vui thôi chứ không bao hàm ác ý. Cười bối rối là lối cười rất yếu, chỉ dùng để phải không nhẹ những lời trêu ghẹo của người ta. Cười ngờ vực hay cười đa nghi là tỏ ý không tin tưởng nơi lời nói hay việc làm của người khác. Người có gian ý thì cười mà mắt láo liêng, mắt mở trao tráo, thồ lộ như hai con mắt cú, những kẻ ấy thì phải coi chừng. Cười thoải mái hay cười nhẹ nhõm cho ta biết người cười không còn lo lắng nữa, nó đồng nghĩa với cười yên tâm. Cười làm lành cố nhiên là để cho người khác hết giận mình, còn cười lãnh đạm là tỏ vẻ không để ý gì đến điều người khác đang làm hay đang nói.

Cười lén là cười mà không dám cho người khác thấy vì mình có gì trêu chọc người ta nhưng lại sợ người ta phải không. Còn cười mát là ra vẻ giận dỗi hay để tỏ ý không ưa người đối diện. Người nào cười mà hai môi dính chặt lại, không dám đưa cái răng nào ra cả là cười mím hay còn gọi là cười đanh đá. Cười hởi dạ là để tỏ ý hài lòng và khoan khoái về những điều mà người khác tán tụng, suy tôn mình lên.

Cười huề hay cười khì là những cái cười giảng hòa, dễ dãi, để không ai giận ai nữa hết. Cười ngoan cố hay cười lì lợm là cái cười của kẻ đê hèn, làm cho người khác nổi sùng vì cứ dai dẳng đuổi theo cầu xin một lợi lộc gì cho mình. Cười nhẹ đôi khi còn để biểu lộ sự đồng ý với một người nào đó.

Cười cười nói nói là cử chỉ của kẻ sắp giết người đến nơi mà không ai biết. Đó là cử chỉ của một nàng Hoạn Thư khi bắt gặp Kiều và Thúc Sinh:

Cười cười nói nói ngọt ngào,
Hỏi rằng “Chàng ở chốn nào lại chơi?”.

Cười quái gở là lối cười kỳ dị làm cho người khác phải ghê sợ, tránh xa. Còn gọi là cười quái dị, quái vật. Cười hách dịch hay cười hống hách là để tỏ ý như ta đây cha chúa mọi người. Lối cười này còn gọi là cười cao kỳ, cười như chủ nhân ông nữa.

Cuối cùng là mỉm cười hay cười mỉm. Cười mỉm là lối cười lịch sự và đàng hoàng nhất. Tuy vậy, nghĩa của nó cũng rất rộng: ta có thể nói là đến hơn nửa tổng số những cái cười của thế gian này nằm trong mỉm cười – độc giả xem lại bài trên rồi nghiệm thử xem có đúng không – Vì là lối cười lịch sự nhất nên ai hay cười mỉm thường dễ mua lòng người khác hơn là cười lên ồ ồ như sấm dậy. Nhà văn người Anh Chesterfield khuyên con trai: “Cha ước mong người ta thấy con luôn mỉm cười mà người ta đừng nghe con cười”.


E. Tạm kết

Cái cười trong ngôn ngữ Việt Nam có lẽ là một trong những lối diễn tả tư tưởng và phụ họa lời nói dồi dào nhất. Vì cái cười đi đôi với tiếng nói nên nó có một tính chất và một sự tiến triển hết sức linh động. Văn minh càng tiến bao nhiêu, càng đi lên cao bao nhiêu thì nó càng lôi cuốn, mở rộng đường lối cho cái cười đi theo nó bấy nhiêu. Nước nào có một nền văn minh sâu xa, phong phú và kỳ cựu thì lỗi diễn tả, hay đúng hơn, các chữ dùng để diễn tả cái cười càng dồi dào và rộng rãi hơn lên.

Bao giờ mới tiến tới giới hạn (Tendre vers la limite) của cái cười? Hay cái cười nó không có giới hạn, nó vô hạn (infini)? Có thể lắm; vì ngày nào nền văn minh trên trái đất này bị tiêu diệt đi, bị hủy diệt hoàn toàn đi thì chừng đó mới không còn tiếng cười nữa.

Nhưng hiện tại, văn minh con người – nhất là con người Việt Nam – đang trên đường đi tới, đi tới một cực vô hạn (vô cực, nếu nói theo tinh thần của khoa học toán, sciences mathématiques) thì cái cười tự nó cũng vậy, vì nó đuổi theo, hay bị lôi cuốn theo do nền văn minh mà ra. Nói theo chữ của ông Huỳnh Phan Anh thì cái cười trong thực tại, đang làm một cuộc hành trình vào vô hạn (voyager à l’infini), và vì vô hạn là một điểm (un point) hay đúng hơn, một vị trí (une position) không xác định được nên hiện tại, không ai định được giới hạn cuối cùng của cái cười.

Cho nên dù đã suy nghĩ nhiều và đã trải cạn ra đây, tác giả vẫn biết chắc là không thể nào một mình mình đạt đến vị trí tuyệt đối của cái cười được. Hay nói một cách khác, giản dị hơn, riêng chỉ cá nhân của tác giả thì không thể nào lục tìm cho ra gần hết – gần hết chứ không phải là hết – những tiếng cười ấy trong ngôn từ Việt Nam. Vì thế, khi bài này dừng lại ở dây thì nó chỉ có nghĩa là tạm dừng mà thôi, nó còn chờ đợi một sự đóng góp, một sự phụ giúp sâu xa của độc giả để ngõ hầu nó có thể tiến đến một vị trí gần tuyệt đối của bề rộng hoặc bề sâu của cái cười trong tự điển truyền khẩu Việt Nam.

Mặc khải (hay khải thị – révéler) là một nghệ thuật (un art) cười là một nghệ thuật khác; như vậy, mặc khải một cái cười, một lối cười là cả một vấn đề đặt một nghệ thuật trong một nghệ thuật khác. Và ta thấy, nghệ thuật mà không có quần chúng, không có khán giả để quan sát, để phê bình, để đóng góp tô điểm thì bấy giờ, nghệ thuật chỉ là một cái thùng rác tanh tưởi hay là một tờ giấy lộn, một cảnh tượng què quặt đui dại và phi nghệ thuật mà thôi.

Cái cười chính nó là như thế…

*

Tạm dừng bài này ở đây, tôi xin phép các độc giả để được hân hạnh gửi lời cám ơn của tôi đến nhà văn Lê Văn Siêu, người đã gợi ý cho tôi viết bài này qua một tiểu luận đặc sắc của ông mà chắc các độc giả cũng đã biết, đó là “Nói nghĩa là gì?”.


[1]Lê Văn Siêu, “Nói nghĩa là gì”, trang 12, dòng 11-12, đặc san Văn, tập 1, 1967.
[2]Xem Vũ Đình Lưu, “Tinh thần hài hước trong văn nghệ”, trang 49-97, đặc san Văn, tập 1.
Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ tam tam cá nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 53 đến trang 73. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Điện thoại: 23.595. K.D. số 1194 ngày 26-6-1967. Giá 30 đồng. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Nguyễn Văn Xuân: Nói

Loạt bài: Văn học miền Nam trước 1975


Nguyễn Văn Xuân
Nói

Tôi đọc Văn số 1 (loại Nghiên cứu và Phê bình Văn học) bài “Nói nghĩa là gì?” của Lê Văn Siêu, rất thú. Thú nhất là đọc câu này ở cuối tập “Tác giả bài Nói nghĩa là gì? xin trích tiền nhuận bút để tặng bạn đọc nào tìm thấy một ý nghĩa nào còn quên trong bài là năm mươi đồng một nghĩa”.

Bài tiểu luận ấy chắc tác giả hoài bão đã lâu lắm nên đến bây giờ mới có thể viết ra công phu đến thế. Và ông phải nghĩ là giá có ai tìm ra được nhiều lắm thì cũng năm mười nghĩa nữa là cùng, vì như thế đã mất năm ba trăm bạc rồi. Mà năm ba trăm bạc với một nhà văn Việt Nam trích trong nhuận bút thì cũng đã là cả một vấn đề, đã là một sự “đau xót” rồi, bởi mỗi trang báo viết trọn ngày nhận nhuận bút bao nhiêu mà còn phải cắt xén ra chừng ấy! Tôi cũng chợt nghĩ như ông định bỏ qua. Nhưng vì mấy lúc này cũng có hay nghiên cứu về ngôn ngữ (dù chưa học khoa ngôn ngữ bao giờ) nên táy máy cầm bút định ghi thêm một số chữ chợt hiện ra trong óc cho vui.

Nào ngờ mới cầm bút một lát, tôi không thể nào ghi kịp nữa. Những từ ngữ, thành ngữ, câu ca dao, câu thơ cứ xô đẩy nhau tuôn ra. Thành ra cái ý định ghi cho vui biến thành cái ý định viết hẳn một bài, một bài có lẽ khá dài, một bài mà nếu cố gắng tìm kiếm thêm, tôi chắc cũng không “nghèo” hơn bài của ông Siêu bao nhiêu.

Sở dĩ có sự phong phú đó, sự phong phú “đến vô tận” như ông Siêu nói, ấy là vì vốn có “Một nền văn nghệ miền Nam” trong nền văn nghệ chung của dân tộc, một nền văn nghệ có cá tính, có cội rễ có duyên do phát khởi và đã trưởng thành, nảy nở từ cuộc Nam tiến, chủ yếu là “Ngã rẽ Nguyễn Hoàng” [1] . Đã qua nhiều thế kỷ, đã trở thành một khối lượng, một thế lực, một bản sắc. Vậy thì bài tiểu luận này được viết ra không cốt để góp nghĩa những chữ nói với ông Siêu mà chỉ để phụ hoạ “Nói nghĩa là gì” (đa số là theo nghĩa miền Bắc) bằng một sự thu góp của một người ở một trong những tỉnh mở đầu và đồng thời có nhiều liên hệ mật thiết “tuy hai mà một” với đồng bào, tiếng nói trong Nam [2] . Tôi nhấn mạnh Nền văn nghệ miền Nam còn có ý nhắc tất cả những nhà văn, nhà biên khảo, nhà phê bình, văn học sử miền Bắc khi viết về người miền Nam cần chú ý nhiều thêm về các phương diện phát triển của nền văn nghệ có đặc tính không hoàn toàn giống miền Bắc; đặc biệt là các sáng tác phẩm văn học của nó phải cơ sở trên tâm lý, hoàn cảnh và ngôn ngữ của nó, một thứ ngôn ngữ vừa đương nhiên bao hàm ngôn ngữ miền Bắc vừa phối hợp thu hút ngôn ngữ nhiều dân tộc khác như Chàm, Thượng, Cao Miên v.v… đã trở nên phức tạp và như tôi đã nói trên, phong phú lạ lùng. Nói cách khác, nếu ai muốn biết ngôn ngữ ấy giàu có đến mức độ nào thì chỉ cần căn cứ vào một chữ, một tiếng Nói, thu góp hầu hết [3] những cái nghĩa của tiếng ấy trên 19 trang giấy nơi bài ông Siêu viết trong số Văn 1, chi chít những nghĩa, cộng với những nghĩa mà tôi sắp trình bày sau đây sẽ thấy rõ. Tức là tôi đã bỏ cái nghĩa trên 19 trang giấy ấy (mà tiếng Nói ấy, người miền Nam dùng ít ra đến 8 phần 10) để chỉ viết những trang nặng về tiếng Nói của miền Nam. Cộng cả hai bài ấy lại, bạn đọc sẽ có một bài biên khảo tạm đủ về tiếng nói miền Nam và chỉ là một phần miền Nam, chứ chưa phải đủ cả miền. Mong có một nhà văn miền Nam nào rất sành về tiếng trong Nam, nhất là cực Nam phụ hoạ vào, lúc ấy ta mới dám biết một cách tương đối chắc chắn sự phong phú kỳ diệu về nghĩa chữ Nói đó có khối lượng, có sức biến hoá ra sao. Thật tình, tôi không dám treo giải như ông Siêu, vì tôi không dám ước đoán khả năng tiếng Việt ở những vùng mà chúng ta chưa được sống suốt đời như những đứa con thân yêu từng vùng của đất nước, bám chặt vào tiếng Mẹ với cái vú sữa vô biên, càng già chừng nào, chất cung dưỡng càng tràn trề chừng ấy.

*

Nói nghĩa gì? Tôi không cần định nghĩa, e sẽ dông dài. Có lẽ điều ta cần nên biết là tiếng nói phát xuất từ đâu? Theo quan niệm đồng bào ta xưa có thể do cái miệng, cái lưỡi, cái cuống họng, cái phổi hay cái môi. Bởi thế, cái miệng hay cái mồm khi nói sai, nói bậy, nói nhiều không còn được giữ cái danh từ đẹp đẽ ấy mà biến thành: Cái mỏ, cái mỏ bể, cái mỏ ăn mắm ăn muối, cái ống loa, cái ống nhổ, theo thời đại tân tiến, nó còn hoá cái “máy phát thanh”, cái ra-dô, cái còi hú. Rồi cái lưỡi thì “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, “có miệng mà không có lưỡi”. Cái cuống họng, cái phổi thì “bán phổi”, “nói bể phổi”, “nói cháy cuống họng”. Cái môi thì hé môi, hở môi và cái môi hình như chỉ dùng… cho phụ nữ.

Những động từ về nói do đó cũng tùy trường hợp mà thay đổi. Vì chữ nói chỉ dùng cho trường hợp phát thanh thanh bình, có ý nghĩa nào đó. Chứ khi nói quá bậy, quá to, quá liều lĩnh thì nó biến thành mửa (thôi đừng mửa bậy ra, ngậm miệng lại), xổ (xổ chữ, xổ nho), hoặc bị súc vật hoá, một phương pháp thường dùng trong văn chương Việt Nam, như khi muốn hạ ai, người ta mượn: sủa (thằng ấy còn sủa dai nhách) rống (chồng: Rống vừa chứ, khuya rồi), gáy (thính giả: Ông diễn giả ơi, gáy thế là vừa), hót (Hót cả buổi sáng, chưa đủ à!). Và còn những nói như ếch kêu, nói như cóc kêu (nghiến hai hàm răng mà nói), nói như cú mổ (ăn nói độc địa).

Tiếng nói khi bị nhìn một cách hờn giận, ghét bỏ, chống đối cũng biến thành tiếng la, ré, hò, hét, thét, hô hoán, đánh hống. Chẳng hạn, người vợ có thể bảo chồng ngay khi chồng ghen, nhưng nói rất nhỏ: “Ông la lên để cho hàng xóm biết mà chạy đến xem à? Sao không thét lên luôn đi!” hay “Muốn cho mẹ nghe, mẹ đánh chị, tôi “đánh hống” lên bây chừ”.

*

Nói là lối tự động, thường do mình phát ra theo sở thích, ý muốn bày tỏ, hy vọng, nhưng cũng có khi bị một mệnh lệnh sai khiến. Sự sai khiến ấy tùy trường hợp hoàn cảnh mà tỏ nên lời:

Khi cha mẹ dặn con thì bảo “chớ nói” như thế lại khác hẳn khi đứa con quả quyết đối kháng: Con sẽ nói chớ. Khi người cảnh sát, công an viên tra kẻ có lỗi có tội thì: Hãy nói, phải nói, đừng nói bậy! Nói lẹ! Nói mau không đánh bể đầu! Nói gấp! Nói liền! Nói liền tay! Có nói không? Ráng nói, gắng nói, nên nói, đáng nói. Đáng ra phải nói. Lẽ ra phải nói. Chán nói chưa?

Kẻ nói thường có thái độ ngoẹo đầu, quay cổ, hoa chân múa tay, chống nạnh, lắc đầ. Đó là những:

Cái hạnh nói con mẹ ấy, tôi ghét lạ. Cái cách nói, cái lối nói, cái bộ nói, chưa nghe xong đã muốn đánh lộn, thằng cha nói như đóng tuồng, nói như hát, con mẹ đó nói như đóng kịch. Cái điệu nói sao mà dễ “hét” quá! Mới nghe đã muốn thương rồi, cái kiểu nói như con nhà quan, tiếng nói nghe như quen quen!

*

Nói là một điều khó. Thành ra người ta phải học ăn học nói, học gói học ghém, chứ đâu phải nói lấy được thế nào xong thì thôi. Chính vì quen và không quen nói, hoặc gặp hoàn cảnh khó dễ xử, hoặc vì đối tượng mà:

Nói mau, nói chậm, nói xuôi (chứ không phải xuôi theo, xuôi ro), nói lầy nhầy cả giờ, nói gì cho rõ ràng, sao cứ nói lằng nhằng chẳng hiểu gì cả! Nói cái vụt, nói vùn vụt, nói không ngớt, nói không nghỉ miệng, nói nhát gừng, nói bai bải, nói lụp chụp, nói tất bật, nói cà bật cà bưởi, nói lua lua như sợ ai cướp lời, con trai gì mà ăn nói rù rờ, thằng ấy nói không vấp, nói như bắp rang, nói không mỏi họng từ sáng đến chừ! Mới đến làm rể nên còn sợ, ăn nói lụp chụp, khiến mất lòng ông gia. Khó nói (theo văn chương là “khôn nói nên lời”), khó nói (không thể nói vì có những uẩn khúc) thì thành ngữ này đừng lộn với nói khó (vì cuống họng chưa thành thục). Nói không kịp nghe, nói sấn tới đi, nó sắp thua rồi đó! Nói cụt ngủn, nói gọn lỏn, nghe qua chẳng hiểu gì cả, ăn nói láu táu vừa mau vừa vô phép. Nói lúng túng trong miệng như vừa ngậm kẹo vừa nói. Nói đốp đốp như bắn súng, ai mà nghe cho kịp. Nói huyên thiên bạ đâu nói đó: Nói cù cưa hoài, không dứt khoát cái gì ra cái gì cả, nói liền liền không để ai kịp nói. Trẻ con nói rân ngoài kia, ra dẹp chúng nó đi!

Vì có những cách nói như thế mà người ta chán nói, ngán nói, hết muốn nói, hết chỗ nói, chớm nói (mới mở miệng), định nói rồi thôi, dợm nói mấy lần mà không nói được. Hoặc thích nói, ưng nói, nói say, nói như say máu ngà (một thứ cảm giác bàng hoàng như có chất men rượu, lôi kéo người ta đi trong lời nói). Biết rồi khổ lắm, nói mãi! (Vũ Trọng Phụng).

*

Người Việt là những kẻ xây dựng. Càng vào miền Nam mở rộng đất đai, cái tài xây dựng càng thấy rõ ràng. Vậy mà không hiểu tại sao trong thành ngữ của miền Nam, những tiếng đi với nói có tính cách yêu thương, giúp đỡ, giáo hoá, bao dung, rộng lượng có rất ít, phải tìm kiếm khó khăn lắm. Phải chăng dân tộc ta, kể cả miền Bắc, rất thông minh dạn ăn dạn nói, dạn miệng dạng mồm, khéo ăn khéo nói, nói dẽo nhẹo cái miệng, nói ngon nói ngọt là thế, mà căn bản vẫn là dân tộc hay cả thẹn. Sự cả thẹn đó có lẽ duyên do vì đời sống xã hội rất ít, gần như chỉ rút trong những lúc hội hè, đình đám. Còn những cuộc giao tiếp khác giữa những bạn bè, những người chung nghề nghiệp, những người đồng học, tinh thần “công cộng” không được gắn bó vững vàng bằng một tổ chức nào cả, còn tinh thần cá nhân, gia đình bao trùm mọi hành vi nên lấn át hết. Đã thế trong xã hội nông nghiệp lạc hậu sự tranh giành với nhau từng tấc đất, từng miếng thịt giữa làng, từng cây cột chèo, từng chút quyền lợi cỏn con giữa đàn ông (nông dân, đánh cá, thợ thuyền), sự tranh giành trong việc mua bán giữa đàn bà có thể diễn ra hằng ngày. Sự cả thẹn vì không quen thảo luận bàn cãi thường khiến người ta có những phản ứng không hay. Đàn ông gặp những trường hợp ấy họ chỉ nói nặng nói nhẹ, nói xỏ nói xiên, nói qua nói lại, nói tới nói lui, cũng có trường hợp xảy ra nói hung nói dữ, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Để chờ có ai nói giải hòa, nói phải không nhất là gặp hạng ăn nói biết điều thì cũng dễ dàn xếp. Chứ như đàn bà mà gặp phải hạng ăn nói hung hãn, ăn nói chua ngoa, nói như cú kêu, nói như cối xay cùn, nói không kể trời đất gì thì thật khó xử. Có khi chỉ vì một con cá, ban đầu là nói chơi rồi nói chơi thành thật, thế là nói chẹn, nói chận họng, nói đá, nói móc, thêm những kẻ bàng quang nói xía vô mấy câu, đổ dầu đổ lửa ra, thế là tá hỏa tam tinh. Thế là nói giành nói giật, nói không cần nghĩ, nói phong phóc, nói tưới hột sen, nói hỗn nói hào, nói không sợ trời đánh thánh vật. Những kẻ đứng ngoài càng nói châm nói chọc, nói chọc tức, nói phá đám, là các bà ở trong cứ thao thao bất tuyệt. Họ nói như điên, nói cho hả hơi, nói cho đã nư, nói cho hả giận, nói cho bớt xốn xang. Nhiều khi người ta đã về hết mà một mình đứng lại còn nói oang oang, nói có cô bác làm chứng, nói có quỷ thần trên đầu trên cổ, đứa nào nói gian cho nó hộc máu. Tới khi chỉ còn một mình vẫn nói lẩm bẩm, nói thì thầm, nói như con mẹ khùng. Về nhà chồng hỏi làm sao. Tức thì cơn giận lại nổi lên. Gặp anh chồng cộc (vợ chồng không quen bàn luận gì) ít ăn, ít nói, lầm lầm lì lì. Thấy vợ cứ nói sa đà, nói lải nhãi mãi, mất ngủ, đâm ra tức. Thế là nổi lên: “Tại sao mi không biết nói lại? Cái mỏ để ở đâu? Chỉ biết khôn nhà dại chợ”. – Rồi thì những: đồ nói ngu như bò, nói như chó, nói với chó chớ nói với tau như rứa à? Tôi có nói đâu? Chó nói (đổi hẩn chủ từ của vợ). Nói rứa Chó cũng không nghe được. Nói kiểu ông nội người ta, ai mà chịu cho được. Tức như rứa thì Phật trên bàn cũng phải nói, nữa là người. Thế rồi cứ kéo dài cái chuyện nói phải nói không, nói dông nói dài, nói tài nói giỏi, nói mỏi miệng khan hơi. Kết thúc bằng vài cú đấm, vài tiếng kêu thất thanh… rồi đi ngủ, giữa khuya chồng còn nghe vợ nói mớ.

Trong gia đình Việt Nam sự sống chung rất cần thiết cho hoàn cảnh nông nghiệp thiếu phương tiện sản xuất. Chế độ đại gia đình bắt nguồn từ sự cần thiết phải hợp tác giữa những người tin cậy lẫn nhau để giúp công, giúp sức với nhau. Bên Trung Hoa những Lưu gia thôn, Trương gia trang, với những giai thoại “chín đời không rời nhau ra” kiểu Trương Công Nghệ. Bên ta, không hẳn ở chung một nhà lớn khi con cái đã có vợ chồng và bầy trẻ dại, như các Thân, Loan (Đoạn tuyệt) với kiểu đại gia đình giàu có. Nhưng cha mẹ cũng thường tìm quanh quất trong vườn, trong xóm gần gũi, cho con cái lập nhà cửa để sự giúp đỡ đó được hiệu quả và liên tục. Cả cha mẹ lẫn con cái đều thấy vì quyền lợi vật chất lẫn tinh thần mà phải ở chung, hoặc ở gần gũi với nhau. Nhưng chính sự chung đụng “giữa đàn bà với nhau” mà hay sinh sự. Điều ấy cũng dễ hiểu. Đàn bà thường lo ăn uống, cắt xếp nên thấy quyền lợi rất cụ thể, rất rõ ràng lại không được chế độ cho phép tiếp xúc bên ngoài, nên tư tưởng, tình cảm thường khuôn theo những quyền lợi nhỏ mọn của mình. Do lẽ đó mà chị em dâu, bà gia mặc sức mà tiếng bấc tiếng chì, nói nặng nói nhẹ, nói gần nói xa, nói nên nói hư, nói chùng nói lén, nói úp nói mở, nói hùa (theo), nói kháy, nói theo, nói dìm, nói chọc tức, nói hàng hai, nói gạt, nói ba phải, nói giỡn không ra giỡn thiệt không ra thiệt, nói khống (biến âm của không), nói khống nguyền, nói lừa, nói phỉnh, nói xuôi theo, nói châm chọc, nói đẩy đưa, nói khích nói bác, nói lấp liếm, nói đổng, nói trống không, nói vu vơ, nói hành (nói trộm những điều xấu, một từ ngữ rất thịnh hành).

Đó là lúc còn ở chung, chứ khi đã ra riêng rồi, cái thế lực bà gia đã bớt, thì lời nói cũng có phần cứng cựa hơn. Dám nói cứng hơn. Bây giờ mà gặp phải cô dâu dữ, cô cũng dám nhiều lúc quay về phía các em chồng trong nhà bà gia mà nói cượng (chứ không phải nói gượng vì cô tự cho mình cứng lý chứ không phải đuối lý). Nói ác lỗ miệng, nói xấu hổ, nói đổ sông đổ biển, nói mang tội với trời chứ tôi đã cực khổ, đã đau đã xót, đã tốn kém, đã làm thân tôi mọi mà họ còn mần ri, mần rưa v.v… Họ chỉ nói dẽ cái lỗ miệng, họ ăn sàm nói sỡ, họ nói cho tan gia bại sản tôi, tôi phải nói bật, nói trớt, nói tuốt mi da ghè, cho ai muốn hiểu thì hiểu. Tôi phải nói cho đã miệng, chớ không dại chi mà giữ ấm ức trong bụng nữa. Tôi nói cho những ai nói trước quên sau, nói đứng dựng ngược, nói điêu nói ngoa, nói rắn nói rồng, cho họ biết là “nói dối lòi đuôi”, họ phải nghe “nói để vào tai” mà ngẫm nghĩ, cho họ không thể nói ngang như bứa, nói sóng nói gió gì thì tự do mà nói. Tôi nói để cho những ai mang gươm mang dao trong bụng mà miệng nói ngọt như mía lát, cái chi nói (cũng) xuôi ro, mới nghe tưởng sớt cửa sớt nhà mà nham hiểm không ai bằng khiến họ phải xấu hổ. Tôi đâu có phải hạng “thở ra khói nói ra lửa”, tôi nhắc lại những chuyện ni thiệt là cười ra nước mắt. Tôi cũng biết người đời có câu tục là me nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa”, nhưng mà oan quá, hiếp quá, thừa quá thì tới lúc còn ai mà nhẫn nhục. Lúc đó trời cấm cũng cứ nói.

Anh chồng của chị có tiếng là “nói như đinh đóng”, “nói như đinh đóng cột”, “nói như chặt đinh”, “nói như chém gạch”, “nói như rìu chém xuống đá rạ chém xuống đất” chứ không phải hạng nói như tép nhảy, mở miệng nói (là) sợ động thời văn, thật là hạng miệng nói có gang có thép, thế mà từ đằng xa định về nhà, nghe tiếng vợ với các em nặng lời với nhau qua không gian, cũng đành ngậm ngùi chân bước. Bênh vợ, bênh em đều mang tiếng, sợ thiên hạ nói. Mà vợ và em đều nói quá (tức nói quá nhiều, nói quá đáng, nói quá lời, tùy trường hợp mà hiểu nghĩa) như thế thì tình trạng bất hòa biết bao giờ cho hết, nói không còn chỗ vớt vát, mạnh ai nấy nói, nói hoài nói hủy, nói rồi lại nói, thật ngán hết chỗ nói.

Bạn hỏi đi đâu? Anh nói tỉnh là đi mượn vào món đồ. Rồi anh nhìn bạn dạy một thằng bé con nói chưa thành tiếng, chưa nên lời, vừa nói đớt (như lưỡi hụt) vừa nói chớt (nói không rõ tiếng), phải ăn nói đàng hoàng. Trẻ con cần nhất “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Anh dạy cho đứa lớn, một cô gái đừng nói hớt người lớn, đừng nói cướp lời, đừng nói thiên thẹo, đừng ăn gian nói dối, đừng nói khít hai hàm răng, đừng nói chọc tức, đừng nói dưa, nói đẩy đưa, nói bóng gió, nói lấy chừng, nói kiểu hàng tôm hàng cá. Phải thuộc câu thơ rất quen thuộc trong bản về Tam Khôi mà con gái thường thuộc lòng:

Khi ăn khi nói chững chàng
Khi ngồi khi đứng bẽ bàng dung nghi.

Anh cũng lại dạy con biết nói nhỏ nhẻ, nói tỉ tê, nói thủ thỉ, nói vớt. Gặp gia đình ai có đám nào đi hỏi mà con gái không ưng thì nên nói giúp, nói giùm (nói hộ), nói cho, nói vào (tức là nói, bàn những điều có lợi, cho nên việc, đừng phá đám – khác với câu bàn ra nói vào là dư luận phân vân) đừng nói ra (phá hoại), đừng nói thập ngộ (những điều bất ngờ có hại). Nếu có dịp sẽ nói đừng nói lãng nhách nói lạt thách. (Tiếng Bắc: Nhạt thếch; Trung: lạc thách; Nam: lạt nhách).

Thằng em trai thì anh dạy đừng nói xỏ xiên, nói cà đai (kéo dài), nói xỏ lá, nói ba que, nói lung tung, nói tùm lum tùa lua (không ra ngô ra khoai gì), nói cà riềng cà tỏi (kéo dài không đến đâu), nghệ sĩ khoả lấp, nói cho bằng được (không kiêng nể, không ngần ngại), nói liều mạng, nói trù trừ (nói lưỡng lự, không dứt khoát), nói bắt quờ (không rõ điều chính, điều quan trọng, gặp ý gì mới nghe thì nói theo), nói chận họng, nói lẫn lộn, nói lúng túng, nói gàn bướng, nói sai bét, nói lấp liếm (vì sai, phải nói cái gì đó để giữ thể diện), nói lạc đề, nói trêu gan (chọc tức ai) nói xạo, nói ba xạo, nói tránh trớ (nói ra khỏi điều chính với dụng ý khỏi làm việc), nói tránh (nói chệch để khỏi phạm điều không nên nói, như tên ông bà kỵ nói, phải nói Mạng ra Mệnh), nói xí xoá (nói chữa thẹn, nói cho quên việc nào đó), nói qua quít, nói hoạ may (may thì trúng, rủi thì trật, nhưng đã trúng), nói khoả lấp, nói xách mé, nói cà gật (nói không nghĩa lý gì, không chú tâm như kẻ ngái ngủ, gât gù), nói ba trợn ba nháng (không ra đâu vào đâu cả). Đừng có nói hoảng (vì hoảng sợ, bịa đặt), nói áp nạp (nói ép, nói buộc, nói mạnh khiến kẻ khác phải thua), nói trạng (nói tài giỏi, đừng lộn với trạng nói thường cũng có nghĩa là tay chỉ quen nói tài nói giỏi). Cần nhất là nói đằng thằng (có lễ độ, rõ ràng), nói cho cặn kẽ hay nói cho có kẽ có còi, nói có thứ có lớp, nói có lớp có lang, nói có trước sau, nói có nghĩ trước nghĩ sau (đừng lộn nói trước và nói sau), nói tách bạch rõ ràng, nói có văn vẻ, nói có cân nhắc. Cấm không được đụng đâu nói đó, không được nói tréo cuống họng, nói trật bản họng, nói đâm họng, nói móc gan móc ruột, nói độc địa, nói cho tức hộc máu, nói cho trào cơm người ta ra. Vậy thì nói là cốt cho rõ sự lý, chứ không phải nói gỡ rạc, nói xả hơi. Kỵ nhất là đừng lên giọng bề trên mà nói trịch thượng, nói dằn mặt, nói dạy đời, nói cù cao (cố vươn lên địa vị cao, ở trên), ăn nói trống trải (vô lễ, thiếu kín đáo, không nói rào đón), nói trù (tức hại ngầm người ta, không cho khá lên nổi, thường đi đôi với nói ếm), nói dặm (nói thêm một hai tiếng khi kẻ khác dứt câu, chứ chưa phải nói chêm là họ đang nói thì xía vô một hai tiếng) hoặc nói thêm là việc ít nói xít ra nhiều. Nhất là đừng nói trước (Tôi sẽ đỗ đầu kỳ này! Tôi nói trước). Cũng đừng nói thụi (nói theo có tính xu nịnh), nói sau (nói tỏ ra tài giỏi khi việc đã xong rồi như “thầy bói nói sau”, ai nói mà không được), nói vừa (tức là chỉ nói theo bụng kẻ khác: hoặc nói chừng chừng, ai cũng biết):

Bói xem một quẻ trong nhà
Chuồng heo ở dưới chuồng gà ở trên.

Cũng như nhà báo nói láo ăn tiền, lối nói ấy là nói lấy tiền gần những lối nói dè chừng, nói bắt quớ, nói dựa, nói cầu may, nói gợi ý, nói bất mánh (tức là liệu chứng sự phản ứng của kẻ đối thoại, rồi theo đó mà đoán già đoán non, đừng lầm với nói mánh nói khóe, nói có ý điêu ngoa gian giảo cũng không phải nói cạnh nói khóe là nói trêu gan bằng những cái xấu của người ta một cách gián tiếp. Cuối cùng là đừng ngồi nói lối suốt ngày (nói lối đây không phải dùng lối văn vần theo lệ thường mà chỉ có nghĩa là nói chuyện lung tung, say sưa, không làm gì cả).

Đã nói đến nói nhiều thì không thể không nói tới ăn. Người Việt Nam thường bảo: “Có tài ăn nói”, “Ăn nói giỏi”, “Ăn nói cừ khôi”, tay ăn nói ở vùng này đấy. Theo lối phát ngôn tự do bây giờ thì “một cây ăn nói” đó. Phàm ở đời hễ “có miệng ăn thì phải có miệng nói”, hễ những ai “ăn không nên đọi nói không nên lời” đều đáng chê trách cả.

Vậy thì có bao nhiêu câu mà ăn đi với nói?

Trước hết là chê hạng người muốn nói gì thì nói:

Ăn nói cẩu thả.
Ăn nói lộn xộn.
Ăn không nói có.
Bạ ăn bạ nói.
Ăn nói quàng xiên.
Ăn nói đĩ bợm.

Hạng người nay nói có, mai nói không, không nhất trí:

Ăn ngược nói ngạo.
Ăn nói phản phúc.
Ăn nói ngỗ nghịch.

Trái lại là hạng:

Ăn ngay nói thật.
Ăn to nói lớn.

Đôi khi cha mẹ dạy con đừng:

Ăn sóng nói gió.
Ăn chả nói chớt.

Và nên:

Ăn bớt bát nói bớt lời.

Tuyệt vời là lối giải thích những cách ăn nói đó mà chẳng giải thích gì cả, song lại chính là sự giải thích kỳ thú của bình dân:

Ăn ốc nói mò, ăn măng nói mọc.
Ăn cò nói leo.

Ăn đã thú mà nói trong lúc ăn thì còn gì thú cho bằng. Cho nên “Học ăn học nói” là điều các bậc trưởng thượng vẫn dạy con cháu để chúng ăn có nhai, nói có nghĩ, dám ăn dám nói, mạnh ăn mạnh nói để khi gặp sự tranh đua, gia đình khỏi lâm cảnh “mạnh miệng ăn, sưa miệng nói” [4] .

Cái miệng dùng để nói, để ăn và cũng để cười, cho nên có nói cười, cười nói:

Nói cười hỉ hả.
Nói cười hả hê.

(Khóc) hay: Nói hổ ngươi, cười ra nước mắt.

Những ai chưa nói đã cười,
Chưa đi đã chạy là người vô duyên.

Nói đi với cười thì cũng đi với thề:

Xưa kia nói nói thề thề,
Bây giờ bẻ khoá, trao chìa cho ai?

*

Nói cũng như một hoạt động cơ thể khác cũng có bệnh. Cái bệnh đầu tiên và trào phúng là bệnh hay nói. Nhưng nó cũng có bệnh thật như ta đã biết của trẻ con (đớt, chớt) và những thứ bệnh khác như bệnh nói cà lăm, một thứ bệnh mà người nói cứ gân cổ ra nói tiếng cứ lặp nhau, khó thành câu trọn vẹn (Tôi tôi… chưa chưa… ăn ăn). Nói ngọng là nói sai hẳn một số tiếng nào đó, chưa sửa được, do một thói quen lúc nhỏ hay do cuống họng (chữ đ nói không được) đi đâu: i âu; cái chuông: ái uông. Nói liệu là lối nói lạ nhất thường có ít bà mắc phải. Tức là nói luôn một hơi những tiếng rất thô tục hoặc một số tiếng nào đó. Đèn, dèn, dèn, đèn, đèn, đèn. Đèn đèn, địt địt, ỉa ỉa… mãi một lúc lâu rồi mới nói được cái điều muốn nói mà khi nói được lại trơn tuột. (Đừng lộn lối nói này với lối nói líu (líu lưỡi, lưỡi dính lại nói khó khăn). Nói lảng là nói không đúng vào vấn đề, thường do bệnh hoạn hay tinh thần sút kem khiến nói ra ngoài điều muốn nói, hoặc bỗng dưng không ai hỏi mà nói. Nói sảng là do một cơn bệnh, nhất là trẻ con khi bị sốt nhẹ thì nói mê, nặng quá thì phát nói liên miên, sợ hãi, cũng gọi mê sảng (đừng lầm nói hoảng trên kia, là tự nhiên bị bí, không biết nói gì đặt bậy ra mà nói cho qua việc, để đỡ đòn, nhất là ở các phòng tra tấn). Nói lẫn là lối nói của các ông già, quá già nói điều này lầm sang điều nọ vì trí nhớ bị kém, bị suy nhược (có hơi giống nói lảng và người ta cũng bảo “Cụ tôi bây giờ lẫn rồi nên hay nói lảng”). Thật xa hẳn cái thời mới bể tiếng nói hay bể giọng tức có giọng khàn khàn của bọn thiếu niên đang chẳng trong cơ thể để lớn vội (khoảng 14, 15 tuổi). Nói mớ nói trên kia tuy rât thường, nhưng đối với một số người cũng là một thứ bệnh vì mớ to mà mớ suốt đếm thường vẫn bị gọi là “kéo gỗ” ban đêm.

Những bệnh nói trên có liên quan đến các bổn phận trong họng, trong lưỡi, khiến cho khi nhắc đến nói người ta không quên giọng nói. Giọng đây không phải giọng Huế hay Hà Nội, mà chỉ là lối gọi tổng quát cách phát âm theo một cung bực, một màu sắc hoặc cũng chính là kiểu nói, cách nói không chừng đỗi.

Chẳng hạn nói giọng mãi là thứ giọng như hai cánh mũi bị ép lại (giọng Tây, giọng đầm, giọng lai). Nhưng khi nói giọng lên, hay lên giọng, tức đổi cách nói, đổi thái độ, nói hạ giọng, xuống giọng tức bỏ lối trịch thượng mà giữ lối cầu xin, nói giọng du côn, nói giọng ba rọi, nói giọng chó má, nói giọng mẹ rượt đều là những lối nói của hạng bất trị. Nhưng nói giọng lại cái, là của hạng nói không ra đàn ông không ra đàn bà rất khó nghe, hoặc nói giọng đực rựa là giọng đàn bà mà nghe như đàn ông.

*

Đã có giọng khi lên xuống bổng trầm, tức là có ca hát. Căn bản của mọi Văn nghệ miền Nam là Nói và trình diễn [5] : Vì dân miền Nam khi vào đây là để hành động chứ không phải để suy tư, để sản xuất, chiến đấu, mở mang, khai thác… mãi cho đến thời Gia Long trở lại việc học mới thành kỷ cương. Suốt mấy thế kỷ ấy mọi hoạt động văn nghệ đều lấy đối tượng là quần chúng, không vụ độc giả mà vụ khán giả thính giả nên tất cả đều dựa vào lối nói, lối kể, lối đọc, lối hát, lối trình diễn làm căn bản. Bởi vậy nên miền Nam gọi nói thơ, nói về, nói tuồng, nói truyện, nói tiếu lâm, là vì lẽ bao giờ cũng có người ngòi kể cho kẻ khác nghe bằng cách này hay cách khác. Nói thơ (có khi gọi nói truyện) là lối đọc những quyển bằng lục bát, với một giọng ngân nga hơi khác nói vè một chút vì giọng vè thường có tính cách thời sự, văn viết theo lối nói lối, ngắn giọng và linh hoạt (trừ vè dài, bằng lục bát như truyện thì không kể). Nói tuồng là một lối hát bộ thu gọn vào một (hay năm ba người) ngồi trước cái trống chầu, vừa ca hát vừa làm bộ tịch. Nói tiếu lâm là nói những “chuyện hoang” để cười. Cũng như nông dân các nước, dân ta rất thích cái cười thoải mái, tự do, cười bằng thích, cười bò lăn, bò càng ra đó.

*

Nói cũng bị ảnh hưởng từng thời kỳ tiếp xúc của lịch sử. Nhưng cứ xem như trên kia thì thấy rõ ràng Nói, ít dùng ngoại ngữ bằng Viết. Nói cách khác là dân chúng khi nói, giao thiệp, tiếp xúc đã tìm hết các cách để diễn tả rất gọn những điều cần diễn tả, một cách thông minh, đầy đủ mà những nhà trí thức khi viết cả khi nói, đã không cố gắng đến mức tối đa để đặt ra những tiếng cần thiết đó. Chỉ quen vay mượn rồi bằng lòng với sự vay mượn đó, lâu ngày thành một thói tục đến nay vẫn chưa bỏ. Điều thật lạ lùng! Một nhà văn sĩ Việt, chuyên viết tiếng Pháp là ông Phạm Duy Khiêm vẫn quả quyết là tiếng ta chỉ có tiếng cụ thể, không có tiếng trừu tượng bao nhiêu, do đó khi dùng tiếng trừu tượng phải mượn của Trung Hoa. Nếu nói dân ta không đủ tiếng trừu tượng phải mượn của Trung Hoa thì hầu hết những tiếng Nói trong bài ông Siêu và bài trên đây của tôi là tiếng cụ thể hay sao? Không cần nhìn đâu xa, qua các bệnh Nói mà tôi trình bày trên kia như nói ngọng, nói liệu, nói hoảng, nói lẫn, nói mớ, nói mê, nói sảng… là tiếng trừu tượng hay cụ thể? Tôi nghĩ là chỉ khi viết mới cần nhiều tiếng trừu tượng Trung Hoa đến thế. Chứ như viết tiểu thuyết là môn sở trường của ông Khiêm mà bảo phải dùng nhiều tiếng trừu tượng thì tôi tưởng đó là trừu tượng của ta, tiếng trừu tượng của quần chúng nhân dân vì tiểu thuyết chính là thể hiện cuộc sống đó. Nhưng bởi ít tiếp xúc với dân chúng, ít có dịp sống lâu trên đất nước, ông không được cơ hội thu nạp thật nhiều những tiếng đó nên ông có cảm tưởng lầm lạc trên, một cảm tưởng đã làm cho trí thức Việt Nam phẫn nộ một thời.

Thật ra, trong khi nói, không phải đồng bào ta không chịu thu nạp chút nào của người ngoại quốc, nhất là những nước có quan hệ trực tiếp với ta. Nhưng xét ra, số ấy vẫn rất ít so với sự sáng tạo của quần chúng.

Chẳng hạn chịu ảnh hưởng Hán học:

Nói đại, nói lý, nói lý sự, đại xạo, xàm ngôn, phét ngôn, xin ngôn rằng (kiểu nhật báo)… Tiếng Trung Hoa thuần túy thì: đại ngôn, đàm thoại, đối thoại, độc thoại, phát ngôn, phát biểu.

Những tiếng phát biểu là tiếng hay dùng nhất thời kháng chiến đi đôi với chữ xin nói [6] , có thể dùng bất cứ giờ phút nào. Thời ấy cũng có câu tục ngữ này rất thịnh hành:

Muốn sang làm hành chính.
Muốn đánh làm công an.
Muốn lang thang làm tình báo.
Muốn nói láo làm thông tin.

Chịu ảnh hưởng khi theo văn học Pháp, có một số tiếng nay rất được dùng để đùa như đía, đía ba son, đía sanh tử, nói xí lô xí là, nói phân-xi-lô, nói tiếng Tây (nghĩa là nói những gì không hiểu gì hết như thời K.C. người ta nói: Cô ấy 18 tuổi Đông Dương (bạc Đông Dương so bạc kháng chiến rất cao giá, ý nói muốn nói bớt tuổi, hay như bây giờ màu áo chiêu đãi viên là màu xanh đậm mà tươi) nói tiếng Tây bây giờ còn rất hay dùng. Ngoài ra, lối dùng theo phương pháp của Pháp để diễn đạt ý cũng nhiều: Tổng thống nói (không rõ chữ này dịch từ dire (Pháp) hay viết của Tàu) phim nói, nói cho đúng ra, nói vắn tắt, nói rút lại, nói cách khác, nói riêng, nói chung, chính danh mà nói, nói rộng nói hẹp, nói với ác ý, nói bằng mắt [7] .

Trong lối dịch tiếng Pháp này, có lẽ câu dịch sau đây của Hoàng Đạo là thú vị nhất (nguyên văn: Parlez moi d’amour, parlez moi des choses tendres) và ông đã dịch trong một truyện dài trào phúng:

Hãy nói với anh cái ái tình
Lại nói với anh những cái đồ mềm (!).

Viết tới đây, tôi sực nhớ một giai thoại mà Tế Hanh, một nhà thơ có lần từng kể cho tôi: - Buồn cười là khi tôi (lời T.H.) đề tựa cho tập Luật hỏi ngã của Nguyễn Đình, tôi bỗng chợt nhận ra cái gì, cậu biết không? Là phần ngoại lệ nhiều hơn phần chính”. Tôi không rõ nhà thơ Quảng Ngãi đùa hay thật. Nhưng cũng vì giai thoại đó mà tôi phải vội dừng lại ở đây. Vì tôi ngại lỡ kẻo bài viết của tôi (dù muốn dù không bài của tôi cũng là để đáp ứng và phụ hoạ phần chính trong bài ông Siêu) dài hơn bài của ông Siêu thì chẳng hoá ra… phần ngoại lệ lại dài hơn phần chính hay sao? Mà bản thảo của tôi đã đến trang 24 rồi! Không khéo lại có nói bô bô, nói không sợ mất lòng: Cái thằng cha “Quảng Nam hay cãi” quen thói “ăn một cục, nói một hòn” này, cứ nói cà trật cà hót không ra ngô, ra khoai gì mà lại nói dai nhách.


[1]Xin xem “Khi đám lưu dân trở lại” đăng ở Bách Khoa.
[2]Nói thế tức tôi không nhận tiền nhuận bút của ông Siêu. Tôi chỉ nhận nhuận bút của Văn như cộng sự viên của tạp chí.
[3]Tôi nói hầu hết, vì có một số chữ ông Siêu lấy ở tiếng trong Nam, nhưng chỉ là số rất ít.
[4]Nguyễn Du cũng là một tay ăn nói, trong truyện Kiều, giở ra phần nào cũng có thể tìm nhiều câu rất thú vị: “Những nghe nói đã lạ lùng”, “Ra vào một mực nói cười như không”.
Cho nên hễ có ăn nói, tất không thể quên nhà thơ thiên tài ấy mà các câu sau đây hình như đã đi vào tục ngữ:
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay.
Khi ăn khi nói nhỡ nhàng.
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ.
[5]Xem Bách Khoa: “Khi đám lưu dân trở lại”, Nguyễn Văn Xuân
[6]Vì có sự xin nói, rồi nói quá nhiều, nói quá dài, nên thường chủ tọa phải “tôi xin cắt”, tôi “xin cắt đứt”. Về sau, ở Mộ Đức, Quảng Ngãi có người đàn bà cắt mất vật quý của chồng nên ở Liên khu V trong những cuộc mạn đàm, những tiếng xin cắt đứt hoá thành “xin Mộ Đức”.
[7]Cũng nên nhắc hai câu thơ của Xuân Diệu:
Em phải nói, phải nói và phải nói
Bằng lời môi, nơi cuối mắt, đầu mày.
.....................
Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ tam tam cá nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 7 đến trang 21. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Điện thoại: 23.595. K.D. số 1194 ngày 26-6-1967. Giá 30 đồng. Bản điện tử do talawas thực hiện.