Nhớ Đỗ Thế Phiệt
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh (Bạch Cư Dị)
Mục lục
* Mơ Hương Cảng
* Ba người bạn
* En attendant Godot
* Nhất Linh đối diện Nhất Linh
* Độc thoại
* Bạt
Mơ Hương Cảng
Để ghi nhớ một chuyến đi, Nguyễn đặt tên con gái là Hương Cảng.
Gọi lên, Hương Cảng gợi đến sóng gió đại dương, boong tàu bềnh bồng và chất men tứ chiếng của những nơi chung đụng tạm bợ nhiều giống người và rất nhiều tâm sự. Hương Cảng lại bằng da, bằng thịt, gọi lên một chiều bức gió, giữa hai tợp rượu ở một xó đất liền, gọi lên để thấy nó sừng sững trước mặt, ngả nghiêng xô lại như bến cập tàu, để rồi ngậm ngùi thấy mình biến thành một con tàu cắm neo ở bến, - Hương Cảng – đặt tên cho con, mà chỉ cần gợi đến trong muôn một cái băn khoăn của mình, chỉ để ý đến sức gợi cảm của một chữ, bất chấp cả ý nghĩa một cái tên, bất chấp cả đến tên thằng con trai sinh trước vốn thuộc bộ Sơn… Nguyễn thật đã đạt tới cái mực tượng trưng của nghệ thuật đặt tên vậy.
Nhưng tại sao, chiều nay, tôi lại chợt nghĩ tới Nguyễn? Tại sao chiều nay tôi nhớ đến một cái tên người – dầu là đàn bà. Hương Cảng năm nay đã mười mấy rồi nhỉ? Có phải vì một chất rượu mạnh mà Nguyễn đã bảo tôi cách pha phác, hay là vì cái người khách hàng lêu nghêu mới bước vào, đườn đưỡn ngồi trước mặt tôi, trong quán rượu tôi thường lui tới? Có nhiều khi chỉ một tà áo thấp thoáng giữa hai cánh cửa khép hờ, một khóe mắt, một điệu hát rè rè, một mùi hương đăng đắng, một tiếng cười ngửa cổ trắng ngần, có nhiều khi cũng đủ làm cho ta nhớ tới bao nhiêu việc đã qua, bao nhiêu việc đã tưởng im lìm trong dĩ vãng. Có những chiếc tàu bể đắm từ một thế kỷ nào xa lạc, một đêm trăng thượng tuần nhếch mép, chợt cựa mình xê dịch ở đáy đại dương. Có những chiếc bánh madeleines của Proust trong cuộc phiêu lưu ngược dòng thời gian thăm thẳm vào vực ký ức…
Giờ đây – gió không nổi – chỉ có màu vàng một cốc men trộn ánh chiều tà, tiếng õng ẹo của cục đá nhấp nhô theo sóng rượu mà đùa với thành cốc. Giờ đây, ờ, lại còn cả một khung cảnh có hồ xa xa, có liễu xanh xanh, có chiếc Tháp Rùa, muôn hình vạn trạng, khi cục mịch cô đơn sừng sững, khi mỏng tanh như một tấm bia bài trí sân khấu.
Sân khấu là một quán rượu. Có hai nhân vật: một ngồi lặng bên cốc rượu, một mới tiến vào. Người ngồi lặng ngồi đã khá lâu. Không phải vì rượu cạn mà bởi không có gì nhắm với rượu. Nên khi người thứ hai tiến vào thì người thứ nhất vội rót liều chai nước soda vào cốc rượu mạnh. Nhắm liều. Không có mực Bắc Hải, âu là ta dùng cái khoản lạc rang. Khoản lạc rang là người thứ hai, khó định tuổi, y phục màu xám, may theo kiểu Anh Cát Lợi, sát vào người mà lại rộng rãi, kín đáo mà đỏm dáng. Nhưng có một cái gì ở con người này mà người thứ nhất – chính là kẻ cầm bút đang nguệch ngoạc những dòng vẩn vơ này – mà tôi thấy ngang ngang, khó chịu – một củ lạc thối, một sợi mực hãy còn dai – không biết có phải tại chiếc cà vạt lắm màu, lằng nhằng nhiều nét, hay đôi mắt hùm hụp một mí hay là tại chiếc áo lót mình màu quá sáng đối với nước da tái sạm… hay đôi giày cầu kỳ chạm trổ, mũi hớt cong veo? Có lẽ là tại tất cả. Tất cả là một không khí mà tôi đã linh tính được giá trị – một thứ đồ nhắm kể ra cũng thường nhưng có lúc, như lúc này chẳng hạn, lại rất được việc. Cái không khí đó, lưng chừng cốc rượu, tôi bèn mệnh danh là Hồng Kông – tại sao? Hồng Kông dắt dây Hương Cảng - tại sao?
Thế là danh từ Hương Cảng đã nổi lên nền ký ức. Theo liền ông cụ thân sinh: anh chàng Nguyễn. Tại sao?
Nhưng tại sao lại tại sao?
Nguyễn có một cuộc sống ồ ạt, một cá tính rất sắc cạnh và tất nhiên rất quyến rũ. Không những thế Nguyễn lại viết. Nghĩa là lấy ngay cái ồ ạt của cuộc sống bừa bãi của mình làm đối tượng cho sự suy nghĩ để rồi từng chữ, từng câu… giải rộng và dài những cơn tâm sự lên trên giấy trắng. Cũng vì thế mà ảnh hưởng của Nguyễn đã in hằn lên nhiều người chung quanh. Ở đây… thỉnh thoảng những người quen Nguyễn thường vẫn gặp lại, nhận ra, ngùi ngùi nhận ra đây đó một vài cử chỉ, một vài lối nói, nét cười… cách viết của một con người không những đã sống để viết… nhưng lại luôn luôn rất băn khoăn về cuộc sống và ý nghĩa của việc cầm bút.
Hương Cảng vào lúc này chắc là sắp nhộn nhịp. Cuộc sống bên đó hình như chỉ thực sự bắt đầu khi ánh điện thay thế cho ánh mặt trời… rền rĩ nhịp kèn, tơi bời nhịp trống, hững hờ, đen trắng những phím dương cầm. Có ai lại dò đài bá âm Hương Cảng vào lúc “nhật xuất”?
Người Hương Cảng chắc phải lắm loài. Có hệ thống ngang của Tưởng. Có hệ thống dọc của Mao. Nhưng cái hệ thống nhằng nhịt nhất vẫn là cái thứ hệ thống không Mao, không Tưởng, gồm những người đuổi theo tiền từ Nam Kinh tới Hoa Nam để rồi cập tới bến này – ruộng đất đã thành từng gánh quốc tệ, quan kim và nay lại trở nên những gói đô-la; những người đã từ lâu không nghĩ; những người chỉ còn biết có quay cuồng xanh đỏ với ánh nê-ông, này là nhịp ba, đây lại nhịp đôi; những người, giữa hai tợp trà và nửa cái bánh bao, ngây thơ rủ rỉ với nhau:
“Ồ… Mao cũng như Tưởng mà! Này nhé…”
“Ồ… Tưởng cũng như Mao mà! Này nhé…”
Chung quy chỉ có cái ông Ây-sen-hao-ơ và Ma-lên-cô là thiệt, hỡi ơi!
Đôi khi cũng có dăm ba bộ mặt cúi gầm: họ dạt về đây, bởi chẳng ai dung. Mao có lẽ cho họ là quá khích hoặc lừng khừng. Tưởng tất cũng không chịu được họ, bởi lừng khừng hay quá khích.
Người khách hàng ngồi trước mặt tôi, nếu có tản bộ ở một ngả đường Hương Cảng thì sẽ thuộc loại nào? Và tại sao con người đó lại gợi cho tôi cái danh từ Hương Cảng? Và tại sao đột nhiên cả một vấn đề lại được đặt ra? Vì tất cả – người khách hàng, cốc rượu mạnh, ánh chiều sắp tắt, Hương Cảng và Nguyễn – đã lùi hẳn về một bình diện thứ hai xa lắc. Chất xám của óc con người đã làm việc: bình diện thứ nhất tuy là bình diện trừu tượng, nhưng vấn đề đặt ra ở đó vẫn đòi hỏi một giải quyết thực tiễn… bởi phát sinh từ những hình ảnh, sự việc cụ thể. Con centaure là một quái vật, nhưng nhìn kỹ, quái vật đó cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng một nghệ sĩ nào đó bắt nguồn từ một con người và một con ngựa, từ một con người cưỡi ngựa.
Cho nên, đầu Ngô mình Sở, lôi thôi, lếch thếch, một vấn đề đã được đặt ra.
Vấn đề là: viết và sống.
Tôi gặp Nguyễn khi chàng đã ngấy cuộc sống, cuộc sống của chính chàng mà chính tay chàng đã tỉ mỉ phân tích, soi bới từng khía cạnh: tác phẩm của chàng kể lể một niềm tâm sự lê thê, ray rứt, rằng sống, thôi đã đến lúc mất hết bất ngờ, nhất cử nhất động chỉ là để bước lại những bước chân quá thuộc lối trên những nẻo đường mòn hôm qua mà ở mỗi lối ngoặt đều đều hiện lên những bộ mặt chán nhàm, mới thoáng đã thuộc giọng nói, vừa cất tiếng đã biết rõ hướng câu chuyện…
Chàng sống và viết, luôn luôn bị một cái “tôi” ám ảnh, viết và sống chỉ để thực hiện cái “tôi” quái đản của chàng.
Thế rồi một đêm trăng hạ tuần chênh chếch, Nguyễn bàng hoàng thấy cái “tôi” đó ngơ ngác nhìn chàng, ẩn hiện trên bãi nước tiểu của chính chàng. Nguyễn rùng mình, vì trong giây phút, chợt tìm thấy một thứ cử chỉ mà chàng chưa từng làm. Một cử chỉ ý thức mà lại hợp lý. Cái “tôi” ở bãi nước tiểu âm thầm đòi hỏi một giải quyết. Ngòi bút của Nguyễn trìu mến phác họa hình dáng một khẩu lục liên. Khẩu lục liên khạc ra nhiều tiếng nổ lịch sử. Nguyễn gục xuống, để rồi lại đứng dậy: cái “tôi” ở bãi nước tiểu lặng lẽ nhắm mắt, Nguyễn tập tễnh đi những bước đi mới, thẳng thắn, những bước đi không tùy ý ngắn dài, không được theo sở thích loạng choạng, những bước đi theo sát nhịp bước của người tiến trước để giữ nhịp cho những kẻ theo sau. Nguyễn lên đường, thôi cô đơn, thắc mắc, vì Nguyễn đã bỏ thói độc hành để đồng hành cùng những bạn đường mới. Con đường hẳn phải vui bởi Nguyễn vừa đi vừa hát. Ngòi bút của Nguyễn từ đó thôi bực dọc. Dòng chữ theo dòng tư tưởng đều đều sắp hàng thẳng tắp. Con đường vui cũng là con đường một chiều. Và người lên đường yên tâm dấn bước – còn đâu là những bước đi ngang, chân nam đá chân chiêu, còn đâu là những bước giang hồ thủng thẳng một mình, một gậy theo hút một ven đê? Còn đâu?... – Nhưng người lên đường không có thì giờ để nghĩ – phải tiến cho kịp bước tiến của bạn đồng hành -, người lên đường có lẽ cũng không có thì giờ để viết – vì phải sống, sống mạnh và đầy đủ. Bất bình tắc minh, nhưng con đường đã vui, cuộc sống đã trọn vẹn thì kêu lên làm gì, và viết thì viết gì?
Viết rằng:
Trăng hoa vàng lay lắt cạnh bờ mây
Có lẽ là tại Xuân Diệu đã bất bình với cuộc sống – để rồi trốn tránh – vào một thời mà trăng có chiếu xuống nơi Xuân Diệu ở thì cũng chỉ đủ để làm lấp loáng nổi được một bãi nước tiểu. Vũ Trọng Phụng rũ rượi chết trong nghèo khổ tất phải bất bình với những bữa tiệc quá linh đình, những tẩm bổ thừa thãi trong những cơn hành lạc của những thứ Nghị Hách. Nguyên Hồng hình như đã thôi viết và Gorki nếu có quyến rũ ta, cũng vẫn là Gorki của thời tiền cách mạng. Gide chỉ còn nguệch ngoạc vài trang nhật ký, đôi lời trối trăng, sau khi nhận giải Nobel. Và ở bên Pháp, mỗi khi một nhà văn mặc áo đeo gươm để trịnh trọng ngồi vào một cái ghế bành bất tử thì nhà văn đó cũng thôi bất tử. Thanh gươm hàn lâm tuy chẳng bao giờ sắc cạnh ấy thế mà cũng đủ đâm chết một người: một nhà văn nằm xuống, để một ông hàn được khai sinh, sống dai, ngồi dai, ăn tiền phụ cấp… Âu cũng là một cách sống!
Nhưng Nguyễn tất sống khác, bởi cái sống của Nguyễn không có nghĩa là ngồi dai ăn tiền mà có đủ ý nghĩa trọn vẹn của một cuộc sống nhật nhật tân, hựu nhật tân. Âu cũng là một cách sống.
Nhưng vấn đề không là sống, mà sống và viết.
Tôi xa Nguyễn từ buổi tôi lột xác lên đường. Tôi ở lại chịu nhận lấy nghiệp bất bình của một loại người mà viết đã thành ra một nhu cầu gần như sinh lý. Tôi ở lại bên cạnh một bãi nước tiểu, hằn học trong một thế ngõ cụt. Để sống không trọn vẹn. Để viết. Về những đêm tuần trăng đủ sáng, cái “tôi” hiện lên trên bãi nước tiểu thật ra cũng khá thiểu não. Ngòi bút đã thấy vùng vằng với giấy trắng mênh mang, đôi khi cũng muốn phác mạnh một nét đen xì… như Nguyễn, chẳng hạn. Nghĩa là cố tìm ra một thứ pháo xiết [1] gì để xóa nhòa hoặc cái “tôi” trên bãi nước tiểu, hoặc chính ngay bãi nước tiểu. Vì đôi khi, đóng kỹ cửa buồng, độc thoại, tôi lại hỏi tôi: viết để làm gì? Viết cho ai đọc? Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? Ôi là cái ma túy của những danh từ! Vì đã nhiều dòng chữ quằn quại qua bờ kiểm duyệt, dòng ngược dòng xuôi, mà tựu trung người cầm bút chân thành vẫn thấy băn khoăn mỗi khi cầm bút, nhất là mỗi khi đặt bút xuống bàn, đọc lại những gì mình viết.
Nghệ thuật? Một danh từ. Nhân sinh thì mờ ảo. Vậy sao không thành thực mà nhận là trước hết, mình viết cho mình? “Mình” là một cái gì rất cụ thể, đói ăn, khát uống, thèm viết. Mình viết cho mình, đã làm sao, nếu thành thực? Và nếu có ai động cỡn thêm một biểu ngữ hay một châm ngôn, nếu có ai thừa thì giờ lý luận, nếu có ai thích lý luận bởi lười viết, bởi sống yên, thì hãy đừng cười, hãy trịnh trọng tuyên bố: nghệ thuật vị nghệ sĩ!
Hãy cứ sáng tác cho nhiều. Nếu băn khoăn thì hãy lấy cái băn khoăn đó mà biến thành chất văn, chất thơ, chất họa, chất nhạc. Đừng để bút khô mực. Đừng cho giấy được phép trắng ngần. Hãy dằn xuống vải những hằn học của mình, ca lên những khúc đoạn trường, nếu thành thực thấy là đứt ruột. Hãy xoa mã tước bằng hai mươi lăm mẫu tự Latinh, xếp thành từng tập, tất cả những gì nó làm mình sực tỉnh nửa vời giấc ngủ đáng nhẽ phải ngon. Đừng bịt mũi nhắm mắt khi đi qua một bãi nước tiểu – của bất cứ ai – cố giữ đừng nôn để rồi chọn màu mà vẽ, truyền cái buồn nôn đó lên mặt vải.
Viết cho mình lại là viết cho người.
Tiếng tì bà Tầm Dương và đất trích Giang Châu. Giọt lệ người áo xanh nhỏ xuống vì ai? Mà người kỹ nữ nơi giang đầu “đìu hiu lau lách” nếu có ôm đàn cái đêm “quạnh hơi thu” thuở trước thật cũng chỉ để
… than niềm tấm tức bấy lâu nay…
Viết cho mình, tất nhiên, và luôn thể cho tất cả những ai “một hội, một thuyền”. Để gục đầu vào nhau mà cùng ý thức được cái kiếp lận đận ở một ven trời đất trích.
Cốc rượu đã cạn nửa. Ý nghĩ theo men đã bốc ra lời, bởi tôi cảm thấy hình như người khách hàng ngồi trước mặt có nhìn tôi. Cái nhìn đó có giá trị ngang một cái nhìn qua lỗ một khóa. Tôi tự thấy ngượng nghịu như một sương phụ đang thay áo. Tôi ngẩng đầu, đủ để biết rằng người khách hàng đang thưởng thức một cốc cà-phê đá, và bất chợt một khóe mắt đưa ngang cồm cộm một mi. Có những bộ mặt khó chịu, có những bộ mặt xấu xí mà quyến rũ, có những bộ mặt bự, có những mặt hoa da phấn và có những bộ mặt cứ thoạt trông đã muốn buồn nôn. Người khách hàng tất phải có một bộ mặt thuộc loại cuối cùng. Tại sao? Tại sao lại uống cà-phê đá? Tại sao lại nhìn ngang? Chiếc cà-vạt? Bộ áo diêm dúa? Tôi không muốn đặt câu hỏi – làm như là ở cái thời này, nơi đây đã thiếu hẳn những vấn đề chưa giải quyết! Tôi chỉ tưởng đến khi mà một người nào đó – thuộc loại người này – cầm lấy quyển sách này, mà đọc những dòng túy lúy này.
Không! Tôi không viết cho hắn. Nếu ở bến Tầm Dương tôi có là một kỹ nữ, thì hắn cũng không thể nào lại trở thành một ông Tư Mã áo xanh. Ở đây làm gì có lau lách? Đìu hiu, đất trích là đất trích của riêng những đứa chúng tôi.
Tôi nhìn xuống bàn tay. Mười ngón đang là mười con rắn độc. Thế ra ai cũng có thể là một sát nhân – ôi ý nghiệp! Tôi cầm vội cốc rượu. Cục đá đã tan – ơi hời, cái cụ Ẩm Băng! – trơ lại một chất nước vàng sủi bọt. Lòng cốc chìu chĩu dâng lên một cái “tôi”.
Nghệ thuật vị nghệ sĩ. Tôi là nghệ sĩ. Nghệ sĩ là tôi. Nhưng tôi là gì? Tôi là ai?
Hà Nội, 1953
Ba người bạn
Gửi Phạm Quang Tín
10 GIỜ ĐÊM 13-11
Sáng hôm nay bắt đầu tiêm P.A.S. Nghĩ lại mà thấy ái ngại cho ông bác sĩ. Ông ta hí hửng như chính ông ta được tiêm cái thuốc quý đó. Nhớ lại cả câu chuyện. Gọi là câu chuyện, nhưng thật ra, chỉ một mình ông nói.
"Thuốc này quý lắm. Tiêm vài chục ống, bệnh sẽ chuyển ngay. Nhất định. Tôi phải nói mãi đấy. Mà cũng tùy người mới được tiêm đấy."
Mình hiểu chữ tùy người theo cái nghĩa thông dụng trong bệnh viện. Nhưng, không còn thấy cái đau xót của những buổi đầu tiên khám bệnh nữa. Ông bác sĩ chắc cũng biết lỡ lời. Giọng ông khách quan hơn:
"Đêm qua ông ngủ được chứ?"
Mình gật đầu. Ông bác sĩ quay vội sang giường bên cạnh.
Không ngủ được, không hiểu có phải vì lọ thuốc quý của ông bác sĩ? Nghĩ lại lúc tiêm mà rùng mình. Rùng mình cho cả cái mạch máu xanh xanh nơi khoeo tay. Nửa lít thuốc, trong ba tiếng đồng hồ, dần dần chảy vào mạch máu. Nằm yên trong ba tiếng đồng hồ. Đột nhiên trở thành một thứ gì được cả buồng chú ý. Nhớ lại cái vẻ thèm thuồng trong cặp mắt ông ký già ở đầu buồng và một thoáng ghen ghen của anh lao công nằm giường bên cạnh. Chắc trong óc anh, đang thành hình cụ thể cả một “hệ thống tư tưởng đấu tranh giai cấp” rất sống. Nhưng lại thấy mắt anh dịu lại, không biết có phải vì anh đã hiểu. Ở đây – một bệnh viện công – sự phân chia giai cấp (!) đâu có dựa lên trên những quyền lợi kinh tế? Tiêu chuẩn chính là cái đường lên xuống của một nét bút ngoằn ngoèo theo sát triền bệnh giảm thăng. Trên một tờ giấy trắng. Móc ngay vào đầu giường. Đã vậy thì có là dại mới đấu tranh để cướp địa vị của một bệnh nhân được ưu đãi chỉ vì căn bệnh đã tới độ…
… Không viết thêm được. Vì mệt. Mệt đến bất thình lình. Như những cơn mưa miền Nam. Không biết có phải là vì nửa lít P.A.S? Không ngủ được. Thèm một hơi thuốc lá. Có cảm tưởng một hơi thuốc lá hít đầy phổi sẽ giải quyết dứt khoát được một cái gì. Phổi sẽ tan ra hay sẽ sạch cả vi trùng. Đột nhiên có cảm tưởng như bị lừa… Và “vi trùng” chỉ là một danh từ ngáo ộp, nhất là B.K…
Trăng chắc sáng ở ngoài vườn.
2 GIỜ TRƯA 14-11
Lọ P.A.S. thứ hai. Không có gì xảy ra cả. Mà tại sao lại có thể xảy ra một cái gì? Biết thế, nhưng đến khi tiêm nhói vào mạch máu, mắt nhìn chằm chằm vào nửa lít P.A.S. treo trên đầu giường thì hình như mình vẫn mang một tâm trạng chờ đợi… Vụt một cái, bệnh bay đi mất? Trở thành một người bình thường? Nghĩa là một người vô bệnh? Mình có ngây thơ gì mà tin như vậy. Vả lại đạt tới cái tình trạng mà mình đang sống (!), đã phải qua quá nhiều giai đoạn. Quay lại bất thình lình có lẽ cũng không kham nổi.
Giai đoạn I: cho rằng mình không có bệnh.
Giai đoạn II: biết rằng mình có bệnh.
Giai đoạn III: chữa bệnh.
Giai đoạn IV: làm quen với bệnh.
Giai đoạn V: chung sống hòa bình (!) với bệnh cho tới khi cả bệnh lẫn mình đều quay ra chết…
Luẩn quẩn rồi.
3 GIỜ SÁNG
Chợt tỉnh giác. Trăng sáng ngợp một góc phòng. Mọi khi cửa sổ vẫn đông. Đêm nay chắc anh gác lại quên. Thiên hạ ngủ yên cả, người nằm ngay đờ dưới lần chăn trắng toát. Có cảm tưởng rờn rợn là thiên hạ đã chết dưới ánh trăng. Có cảm tưởng quái đản như nửa đêm tỉnh giấc trên một chiếc tàu biển ngợp trăng, rồi chợt thấy mình vẫn sống cô đơn giữa một đám thủy thủ đã chết tự lúc trăng lên.
Muốn ghi một điều này, nhưng không hiểu sao lại ngập ngừng.
3 GIỜ 15
Thiếp đi một lát. Tưởng như thiếp đi rất lâu. Rất lâu. Trăng đã úa vàng. Ở xa vẳng lại có tiếng còi báo động của đoàn xe cứu hỏa. Tiếng còi rền rĩ to dần. Nhưng lẻn vào vẫn rõ rệt từng tiếng ho khan của ông ký già. Chợt cười trong bụng vì nghĩ đến tiếng hát nửa đêm của một kỹ nữ ngân lên giữa hai nhịp phách. Qua làn mưa của xênh và phách, hình dáng của lời ca vẫn thẳng nét, không mờ. Xênh, phách là tấm sơn mài Nguyễn Gia Trí. Lời ca là nét họa Matisse.
Chợt bặt tiếng cười câm. Vì thấy tiếng ho lẻ của ông ký già có giá trị ngang một tâm sự riêng tây lạc loài trong cái đau chung của thời đại, ở đây, tạm tượng trưng bằng một tiếng còi báo động kéo dài. Trong một cơn hỏa hoạn, có người lính cứu hỏa nào lại lẩm cẩm hy sinh tính mạng để chạy một con búp bê? Nhưng thật ra cái đau của một đứa trẻ mất búp bê rất nhiều khi lại ghê gớm hơn tất cả cái đau chung đúc của thiên hạ…
… Lan man mãi. Tại sao cứ trốn tránh mãi, mà không dám nói thẳng ra…
Thiên ơi…
Thiên đặt quyển vở nát nhàu xuống mặt bàn. Thiên mới chỉ dám có những cảm giác. Chàng chưa muốn có những cảm tưởng. Chàng châm một điếu thuốc lá. Hơi đầu tiên rít thấu phổi.
“Hút trả thù cho thằng Phan!”
Chàng biết là rồi ra sẽ phải có một thái độ. Tê liệt trước cuộc đời. Hay uất, hay vùng lên. Hay lại là chỉ có viết. Nhưng giờ đây – giữa một trưa chang nắng miền Nam – chàng mới chỉ biết có câm lặng để mặc cho cảm giác vờn quanh những dây thần kinh đang căng thẳng trong chàng.
Thiên ơi!
Tiếng gọi từ trong một thứ “thu phần” vẳng lên. Tiếng kêu thất thanh của một con người vừa chợt hiểu:
Thảo nào khi mới chôn rau…
Chàng cảm thấy Phan sắp sửa nói tới một điều gì quan trọng. Nếu không, Phan viết làm gì? Có bao giờ Phan viết đâu, cái con người chỉ muốn suy tư… Thiên ném mạnh điếu thuốc qua cửa sổ. Nắng miền Nam át cả ánh lửa của điếu thuốc cháy dở. Hình ảnh đó gợi đến cuộc sống của Phan. Nếu mà đêm có xuống! Nhưng lửa của đời Phan đã lỡ hơn một lần đêm xuống, để rồi mờ dần trong cái chói lòa xốn xang của cả một thời đại rục rịch đổi thay. Kém cả một ánh lửa chài ven một bờ sông tối sẫm, lửa quay lại âm ỉ thiêu dần điếu thuốc cháy dở. Phan tàn dần trong một góc phòng bệnh viện.
ĐÊM 17-11
Nghỉ hai hôm, không ghi một điều gì, Streptomycine, Rimifon, P.A.S. Không ăn được vì ngại nhai, ngại nuốt. Suốt ngày nằm dài. Ông bác sĩ có vẻ không bằng lòng. Ông ta nói:
“Thuốc men là một việc. Bệnh nhân phải giúp thầy thuốc. Bệnh nhân phải muốn sống trước đã.”
Hình như con mắt của mình nhìn ông ta có gì lạ lạ, ông ta quay vội đi.
Thiên ơi!
Mình để hai hôm đọc lại những gì mình ghi để xét lại một lần cuối cùng, trước khi nói rõ cái điều mình muốn nói, xét lại xem có đúng không.
Hôm 13-11, mình ghi: Nghĩ lại mà thấy ái ngại cho ông bác sĩ. Cũng ngay hôm đó, mình lại ghi: Nhưng không còn thấy cái đau xót của những buổi đầu tiên khám bệnh nữa.
Tại sao vậy? Mình nghĩ rồi. Mình nghĩ ra rồi. Thế ra đã manh nha từ lâu, ngấm ngầm, âm ỉ đã từ lâu, và đến khi – giữa trưa hôm 15-11 – Hà vào thì… mới rõ rệt thành hình.
Hà dừng lại ở giữa khung cửa mở rộng ra vườn bệnh viện. Ánh nắng hắt đằng sau, thân hình Hà tròn trặn, mặn mà. Mình giơ tay vẫy. Hà trông thấy và đi thẳng đến đầu giường mình. Thế rồi mình giật mình. Mình không thấy gì cả. Không thấy gì cả. Không một thoáng rung động. Không nhói nơi ngực. Không nghẹn nơi cổ. Mình ngắm Hà như ngắm một pho tượng. Một pho tượng đẹp, không hơn, không kém. Một thứ Vénus thành Milo. Ở Hà, mình cảm thấy thiếu hẳn một cái gì!
Không hiểu Hà đã nói những gì. Mình yên lặng với những điều vừa khám phá. Rồi chợt mình nghe thấy tiếng Hà – trời! cái giọng của Hà trước kia sau mà ấm!
“Anh… làm sao thế? Sao anh không nói lên! Mặt anh gầy, trông sợ lên được.”
Rồi như muốn nói đùa:
“Trông mặt anh như cái mặt nạ!”
Thế rồi Hà càng lặng yên. Mình nghĩ đến một cái mặt nạ. Một nắm thạch cao nhầy nhụa đắp lên một thứ mặt danh nhân đã chết.
Thế ra, ở mình cũng đã thiếu một cái gì, chính Hà đã nhận ra thế. Thế rồi mình hiểu. Một cái gì đã thiếu ở cả hai bên. Một cái gì đã biến mất, trước kia nó ràng buộc cả hai bên. Mình cố gắng cưỡng lại cái đà suy luận, cố nhớ lại những kỷ niệm giữa Hà và mình. Vô ích. Mình đã khác Hà. Và Hà cũng đã khác mình. Hai bờ một con sông. Hai đầu một chiếc cầu vừa gục. Hai thế giới. Hai thế giới. Trời ơi! Hai thế giới. Thế ra mình…
Hình như Hà nói gì thì phải. Hình như Hà nói rất to. Hà đứng dậy. Hà đẹp quá. Áo Hà màu khói hương. Thân hình mơn mởn. Mình thu tàn lực thử lại một lần cuối cùng. Tưởng tượng có một vòng tay đàn ông nào đó ôm chặt lấy thân hình mơn mởn đó, có một đôi môi đàn ông nào đó rít chặt lấy đôi môi mòng mọng đó, có một… Không thấy gì cả. Không! Không một rung động. Không thấy nhói nơi ngực. Không thấy nghẹn ngào. Không thấy chua xót nơi lòng. Hà ra khỏi phòng và đi nhanh vào ánh sáng của cuộc sống. Mình lùi dần, mờ dần, tàn dần…
Thiên ơi, mình ghi vội những dòng này và gọi tên cậu nhiều lần. Trong ba đứa chúng mình biết nhau từ thuở đi học, có cậu là hay băn khoăn, có cậu là hay quay về nội tại con người. Thằng Quang chắc còn đang bận tâm về chính trị. Tôi không muốn gặp các cậu trong những lúc này. Tôi muốn sống (!) một mình. Tôi vào đây, không bảo cho ai biết cả. Cậu sẽ đọc những dòng này và nếu thằng Quang nó muốn, thì đưa cho nó xem. Cũng không sao. Mình cũng chỉ còn có Thiên và Quang.
… Bắt đầu từ nay, mình nhận một sự, mình nhận CHẾT. Không đau xót, tiếc thương.
Đau xót, tiếc thương là những tình cảm thuộc cõi sống. Cõi chết có lẽ sẽ có những tình cảm đặc biệt của cõi chết. Mình sẽ biết. May ra cũng còn đủ một chút thời gian để kịp ghi lại. Có cảm tưởng rõ ràng là đối với mình thời gian cũng đã ngừng lại. Bắt đầu từ nay, mình sẽ không đề ngày tháng nữa. Ngày và tháng là của thế giới tương quan, cái thế giới của những ma chiết hằng ngày, cái thế giới của những triền phược, lổm ngổm rất nhiều vi trùng Kock. Cái thế giới đó, đối với mình, đã cùng với Hà, mờ dần vào một khoảng xanh lơ hư ảo. Có lẽ thiên hạ nhìn trời xanh thế nào thì mình nhìn cái thế giới của thiên hạ cũng như thế chăng? Tất cả, kể cả thiên hạ, đã thôi hiện hữu. Còn lại là một cảm giác mênh mang như có một cái gì là lạ, súc tích, vuông vắn, láng láng. Có cảm tưởng là cái gì đó cho đến nay vẫn không suy suyển. Nó không sợ vi trùng, bất chấp cả mọi bệnh viện và mọi thứ đồng hồ.
Còn nhớ có một lần, Thiên và mình đã có dịp linh cảm thấy nó. Thiên gọi nó là cái phần nội tại của con người. Nhưng nó có thật hay không? Nó là gì? Và sau khi con người đã chết thì nó sẽ đi đâu?
Cái dịp đó, Thiên vẫn còn nhớ, đã xảy ra tại Quảng Yên, một tỉnh nhỏ nằm sát biên giới Trung Hoa, phía Đông Bắc Bắc Việt, một trong những ổ quốc gia cuối cùng, vào đầu năm 1946, khi mà người cộng sản đã nắm giữ gần trọn chính quyền tại miền Trung và Bắc Việt. Thiên, Quang và Phan tuy không có chân trong một đảng phái nào, nhưng cũng như những người trí thức tự trọng, đã có mặt tại đó. Vốn là những sinh viên cùng một lứa tuổi 25, 26, học cùng một lớp, lại thêm tình đồng chí, ba người không rời nhau một bước. Trong những giờ nghỉ, trong những buổi học tập, ngay cả trong những phiên gác đêm.
Một đêm vào độ cuối xuân – tình hình đã khá bi quan, cộng sản sau khi ký kết với Pháp, bắt đầu tấn công những địa phương có quân quốc gia nắm giữ – nhằm phiên gác của Quang, hai người kia cũng rủ nhau cùng thức với Quang. Lúc bấy giờ, tiết trời tuy sắp bước vào hè nhưng vẫn còn rớt lạnh. Sương xuống đục mờ cả một bầu trời không trăng mà vắng cả sao. Một vài ánh lửa le lói đàng xa. Có tiếng chim ăn đêm kêu vẳng trên không và tiếng chèo của một chiếc đò vội vã sang ngang. Đè nặng lên trên tất cả, thỉnh thoảng là một vài tiếng súng lẻ. Phan lên tiếng:
“Tôi muốn hỏi các cậu một điều này. Có bao giờ các cậu băn khoăn về những vấn đề siêu hình như sống và chết không?”
Thiên biết Phan đã có lần bỏ học đi suốt vùng Yên Tử để tìm thầy hỏi đạo. Thiên thấy cần phải suy nghĩ trước khi trả lời. Nhưng Quang nóng nảy đáp liền:
“Đối với tôi thì sống với chết, không phải là vấn đề siêu hình. Sống chỉ có nghĩa là sống cho ra sống và chết…”
“Có nghĩa là chết cho ra chết.”
Phan cắt ngang lời của Quang và đợi một tiếng cười. Nhưng không có ai cười, kể cả chàng. Phan nói tiếp:
“Đó chỉ là một thái độ, một thái độ rất hợp lý, nhất là trong lúc này. Nhưng có một thời đại cũng chưa đủ.”
Thiên chậm rãi châm một điếu thuốc, ánh diêm lóe sáng trong đêm khuya rồi tắt ngấm. Thiên rằng:
“Tôi thì tôi hiểu cái thắc mắc của cậu. Đã có một độ tôi nghĩ như thế này: mỗi người sinh ra đời là mặc nhiên đã nhận làm một cái gì. Cái nghĩa của sự sống là như vậy. Và làm xong, mới được chết.”
“Vậy chết là một lạc thú!”
“Chính vậy, cho nên ông Trời – hãy tạm gọi là ông Trời – mới làm đủ trò để con người phải sợ chết. Nếu không, đời sẽ vợi hẳn người. Nhân loại đua nhau tự tử. Và công việc sẽ vì thế mà dở dang…”
“Công việc gì?”
“Công việc gì thì ai mà biết được? Vì người chỉ là người. Mỗi ngày làm một việc, hoàn thành, trong ba vạn sáu nghìn ngày, một bộ phận li ti của một cái máy khổng lồ. Còn tác dụng của cái máy đó thì họa có Trời mới biết!”
Cả ba lắng nghe. Trong cái xào xạc của gió lùa vào lá, tiếng súng nổ nghe đã gần gần. Mặt trận chuyển dần về phía tỉnh lỵ. Vòng vây của địch thắt chặt thêm một nút. Thiên nói tiếp:
“Hiện giờ thì tôi nghĩ khác. Sống chỉ có nghĩa là gom góp, dành dụm ít nhiều kỷ niệm. Và đến khi chết, thì chỉ cái phần vật chất là chết, còn linh hồn, một dúm nguyên tử đặc biệt mà chưa ai phân tích nổi được chất và lượng, linh hồn có thể tồn tại. Thôi bị trọng lượng của vật chất lôi kéo, linh hồn sẽ nhẹ nhàng bay vút lên không, mỗi lúc một nhanh, thoát khỏi cái vòng không khí và đến lúc bấy giờ mới bắt đầu một cuộc độc hành mãi mãi trong không gian vô tận.”
Giọng Thiên đều đều như giọng tụng kinh. Quang không hiểu là Thiên nói đùa hay nói thật. Phan bất giác vững vàng hiện ra sau những khoảng sương mỏng rồi lại vội vàng tắt ngấm… Cô đơn thay là những ngôi sao! Thiên lại nói tiếp:
“Trong cuộc độc hành đó, hành lý vĩnh viễn sẽ là những kỷ niệm của một cuộc đời đã sống. Những hân hoan, thương tiếc, lỡ dở, hối hận, xót đau, sẽ luẩn quẩn đời đời với một khối linh hồn bất diệt.”
Quang thốt lên:
"Cứ độc hành mãi à? Không gặp một ai cả hay sao?”
"Cũng có thể gặp. Nhưng có gặp nhau thì cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên ghê gớm. Gặp nhau trong một sát-na để vừa kịp biết và cũng vừa kịp xa nhau.”
Những mẩu chuyện tương tự thường vẫn xen vào câu chuyện giữa ba người vốn đang ở cái tuổi say mê Tuyệt Đối. Nhưng lần này, có lẽ vì cả ba người đều mang nặng tâm trạng của những chiến sĩ phù suy, gia dĩ khung cảnh lại có gió có cây, có sóng vỗ bờ, có sao mờ trong đêm khuya, có tiếng súng nổ mỗi lúc một mau, mỗi lúc một gần, cho nên những lời của Thiên nghe như có ma lực của một lời tiên tri. Quang muốn phá tan cái không khí u uất đó. Chàng lên tiếng vẩn vơ:
“Tiếng súng gần quá nhỉ!”
Phan cũng đồng ý với Quang:
“Lúc tối, có một tiểu đội qua sông. Hay lại chạm súng?”
Nói để mà nói, vì chính Phan đang bận tâm rất nhiều về Thiên. Tuy thân với nhau đã từ lâu, mà thực ra Phan biết rất ít về Thiên. Gia dĩ Thiên lại ít hay tâm sự – lần này, không hiểu sao Thiên lại nói nhiều – tuy thường nhật chàng hay tránh vấn đề những khi trò chuyện. Những lúc đó, trái hẳn lại với Quang vốn có tính hiếu thắng, Thiên chỉ mỉm cười, và bởi nụ cười của Thiên có duyên nên cả Phan lẫn Quang đều quên ngay vấn đề đang thảo luận để cùng cười xòa với nhau. Nhưng Phan biết rằng Thiên hay thắc mắc và viết cũng đã được khá nhiều. Có lần cả Quang lẫn Phan nhất định đòi Thiên đọc cho nghe “một chút gì”. Thiên từ tốn nhưng quyết liệt:
“Chưa được. Lúc nào xong đã…”
Lúc nào xong? Vẫn biết không một nghệ sĩ chân chính nào lại tự thấy thỏa mãn trước một tác phẩm vừa hoàn thành của mình. Vẫn biết nghệ sĩ là một thứ người luôn luôn bất mãn. Vẫn biết…
Phan chợt giật mình. Đồng thời với một tiếng còi rít lên tự phía bờ sông, Quang nắm chặt tay Phan:
“Cái gì…”
Thiên quay lại phía Phan:
“Cậu đi với tôi.”
Quang bị mắc phiên canh hậm hực chùn lại. Thiên và Phan vội vã đi tắt ngang lối chợ để tới thẳng bờ sông. Trong yên lặng khác thường, cả hai nghe rõ từng tiếng sỏi lăn dưới bước giày đinh, khẩu súng Colt nặng nề đập vào bên hông, từng nhịp thở không đều.
Gió ào vào mặt, hai người dừng lại. Mặt sông mênh mang xám ngoét. Vài ba ánh đèn chài chơi vơi trong sương mù. Một đám người lô nhô cạnh đồn canh.
“Cái gì thế, đồng chí?”
“Chạm súng.”
“Ở đâu?”
“Bên kia sông. Đi tuần chạm địch.”
“Có ai việc gì không?”
“Bên địch không rõ. Bên ta bị một."
"À… tiếng còi…"
"Báo động gọi người cấp cứu."
"Nặng hay nhẹ?”
Rồi không đợi câu trả lời, Thiên và Phan đã lách vào đồn. Người bị thương nằm mê man trên tấm phản lim bóng loáng dưới ánh đèn dầu. Hình như Thiên đã gặp người đó. Chàng nhíu mày cố nhớ. Ở đây, kẻ qua người lại, mỗi người một công tác, mỗi người một trách nhiệm, không ai hỏi ai, không ai biết rõ đời tư người khác – trường hợp bộ ba Thiên, Quang, Phan là một trường hợp đặc biệt – hơn nữa, mọi người lại còn tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc bí mật, cho nên cố nhớ lại, Thiên cũng chỉ còn thấy lờ mờ hiện lên trên ký ức, hình dáng mảnh khảnh của một thanh niên có bộ mặt khắc khổ của một thầy tu Ấn Độ.
Trước mắt Thiên và Phan, người thanh niên đó hiện đang nằm sóng soài, đã mảnh khảnh lại thêm mảnh khảnh.
Phan sẽ đặt tay lên trán người bị thương rồi reo lên:
“Còn nóng…”
Nhưng Thiên thì tuyệt vọng đã từ lâu. Hình như ngay từ lúc lách vào đồn. Có lẽ ngay từ cái phút nghe thấy tiếng còi rít lên trong yên lặng của đêm khuya. Thiên chắc chắn là người thanh niên sẽ chết. Chàng yên lặng đợi chờ. Giữa lúc bất ngờ, chợt người thanh niên mở mắt. Tròng mắt đảo một vòng. Tròng mắt bỗng xa ra như vừa bắt gặp một cái gì lãng đãng từ xa đi lại, và người thanh niên nở một nụ cười. Trong giây lát, nụ cười nở hoa trên khuôn mặt khắc khổ. Trong mắt từ từ khép lại. Khép theo là nụ cười vừa nở. Gian phòng của đồn canh tối sầm hẳn xuống. Người thanh niên duỗi thẳng hai bàn tay như bằng lòng trả lại một cái gì chàng đang nắm giữ…
Lúc trở về, Thiên và Phan không đi đường tắt mà theo đường cái thẳng dốc lên trại. Hai người cúi đầu yên lặng bên nhau. Chợt Phan dừng lại:
“Lúc nãy… cậu có thấy gì không?”
“Nụ cười…”
“Ờ… nụ cười…”
Cả hai bước đều đều. Rồi Thiên như nói một mình:
“Tại sao lại cười? Mà con mắt… ờ, con mắt…”
“Cái dúm linh hồn mà cậu vừa nói…”
“Tôi gọi nó là cái phần nội tại của con người.”
Phan không đáp lại, chàng nhìn lên trời. Sương vẫn phủ đặc. Có một tiếng gà gáy từ xa vẳng lại. Đêm bắt đầu tàn.
Lúc bấy giờ, đêm bắt đầu tàn. Thiên nhớ như vậy, nhớ từng chi tiết, nhớ cả đến cái cảm giác xa vắng mênh mang của một tiếng gà gáy lẻ, nhớ nhất là nụ cười của người thanh niên, nhớ cho tới bây giờ. Chao ôi, nụ cười!... Thích Ca Mâu Ni, tĩnh tọa ở gốc Bồ Đề nếu có nhếch một nhiệt đới giác ngộ thì Thiên dám tin ngay là cũng chỉ có thể đạt bằng nụ cười của người thanh niên trong đêm hôm ấy. Phải có tiềm ẩn một cái gì đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tục lụy mới có thể nở lên một nụ cười hồn nhiên, tươi sáng như thế, trước khi từ giã cuộc đời. Cái gì đó, là cái gì?
Từ đêm hôm ấy tới nay, mười năm đã qua, cả Thiên lẫn Phan và Quang đều không đả động gì tới việc cũ. Họ vẫn nương vào nhau mà sống, cố dìu nhau bước từng bước rụt rè dưới ánh sáng của mặt trời. Nhưng Thiên biết Phan cũng như mình vẫn bị nụ cười năm xưa ám ảnh.
Phải có một cái gì. Nhưng cái gì đó, là cái gì? Câu hỏi đó được đặt ra đã nhiều lần trắng đêm, nhưng đã bao nhiêu lần trắng đêm mà câu hỏi vẫn còn nguyên là một câu hỏi. Cho tới mãi bây giờ.
Thiên từ từ nâng quyển vở nát nhàu lên. Chàng có cảm tưởng như sắp được đọc đoạn cuối của một cuốn truyện trinh thám ly kỳ. Chàng tin chắc sẽ được đọc những lời giải đáp cho mối băn khoăn của chàng. Có một người đang sử dụng những phút cuối cùng của đời mình để làm một cuộc thí nghiệm. Cho Thiên. Sự tò mò làm át cả mỗi xót thương một người bạn thiết vừa nằm xuống Thiên đẩy mạnh cánh cửa sổ. Chiều bắt đầu xuống. Ánh nắng chiều tà thếp vàng lên những trang nhật ký đã thôi đề ngày tháng của một người hấp hối.
Rimifon. Streptomycine. P.A.S.
Rimifon. Streptomycine. P.A.S. P.A.S. P.A.S….
Thuốc men đã trở thành một thứ đồng hồ. Lơ đãng nhìn cánh tay chịu đựng mỗi ngày nửa lít P.A.S. Có cảm tưởng là cánh tay của người khác. Nhớ lại cánh tay này đã vòng quanh lưng của Hà, nhưng lại chẳng thấy gì. Cánh tay, nửa lít P.A.S. Hà, cái lưng của Hà… tất cả những thứ đó không còn liên quan gì tới mình nữa. Nhưng mình là gì? Cái dúm linh hồn sắp lìa thể xác, như một phi cơ sắp cất cánh? Cái phần nội tại của con người? Nghĩ nhiều đến Thiên. Và Quang. Trăng sáng quá. Nơi phi trường sắp tới, không biết trăng có sáng không nhỉ?
Cứ nhắm mắt là lại thấy hiện lên cái tròng mắt và nụ cười của anh chàng thanh niên năm nọ. Tất cả nở hoa trước mắt. Nhưng đến lúc mở mắt thì phải cố gắng lắm mới dần dần nhận thấy giường, ghế, cửa sổ và cây… và ông bác sĩ. Quang nó trẻ hơn mình và Thiên. Còn lại hai đứa. Một mâu thuẫn: Thiên thì suy tư. Quang thì định hướng. Một thằng yên lặng quay vào bên trong. Một thằng chồm chồm ôm lấy cuộc đời. Có lẽ mình là hai thằng họp lại? Thằng Quang là Hà, bàn, ghế, Rimifon, P.A.S. Thằng Quang trong mình đã chết. Còn lại thằng Thiên. Nghĩa là CÁI GÌ, nghĩa là nụ cười đêm xưa, nghĩa là một dúm linh hồn, nghĩa là cái phần nội tại của con người.
…Thiên ơi, trăng lại mọc rồi. Sắp sửa BIẾT đây. Cái gì… Sắp sửa…
Quang nâng ly rượu, nhăn mặt uống cạn một hơi rồi lại hấp tấp cầm chai rượu mạnh rót đầy ly. Giọng chàng bắt đầu líu lại.
“Uống đi… cậu…”
Trong ba người, Quang trẻ nhất. Quang lại không có gia đình. Mất Phan, Quang thấy là mất rất nhiều. Cho nên từ buổi chiều nghe được tin, tuy không thích uống rượu, Quang đã uống như một gã lê dương nghỉ phép. Từng ly một, chai rượu vơi dần. Giữa hai người đối diện, còn lại vài trang nhật ký của một người thứ ba đã mất.
Chợt Quang nấc lên cười. Tiếng cười nghe rờn rợn như một tiếng khóc cử ai. Chàng nói:
“Thế là rút cuộc, chẳng thằng đếch nào biết cái gì cả…”
Thiên hiểu là Quang định nói tới những chữ cuối cùng của Phan:
Thiên ơi, trăng lại mọc rồi… Sắp sửa biết đây… Cái gì… Sắp sửa…
Cuộc thí nghiệm bỏ dở. Sự huyền bí còn nguyên vẹn. Cảm giác đầu tiên của người chứng kiến là một cảm giác bực bội. Như một cuộc giao hoan nửa vời. Như một cuốn truyện trinh thám thiếu đúng trang cuối.
Quang lại cười, phá lên cười, rũ rượi mà cười:
“Này cậu… hay là thằng Phan nó xỏ chúng mình? Nó biết mà đếch nói?”
Quang say thật rồi. Vì vừa ngớt cơn cười, Quang lại đã nhăn mặt. Quang muốn khóc. Khóc thật sự, có nước mắt hẳn hoi. Cho nó hả. Nhưng kể ra khóc cho ra nước mắt trong lúc này cũng là một điều khó. Thiên châm một điếu thuốc. Chàng nghĩ rằng có thể Phan biết mà không nói. Có thể là những cái gì Phan biết, nó thường quá, thường đến cái mức vô nghĩa. Và đã như vậy thì ghi lại làm gì? Nhưng cũng lại có thể, chơi vơi nơi biên giới giữa Sống và Chết, những khám phá cuối cùng của Phan, nó lạ lùng quà, vĩ đại quá, đến vượt khỏi giới hạn eo hẹp của những danh từ. Và Phan đã chỉ biết câm lặng.
Thiên cầm ly rượu. Chàng vừa thấy tan đi cái cảm giác bực bội lúc đầu. Dầu sao thì Phan đã làm một cuộc thí nghiệm, đã ghi lại những bước tiến của cuộc thí nghiệm đó.
Những dòng chữ cuối cùng tuy chưa nói lên được cái gì, nhưng đã là kết quả của những dòng đầu. Và tất nhiên, kết quả của cả cuộc thí ngh iệm đã phải manh nha trong suốt mấy trang nhật ký. Có những cuốn truyện trinh thám đã được trình bày như một bài toán. Độc giả phải suy nghĩ, đem cái phần của mình góp vào để mà tìm ra đáp số.
Chàng đặt ly rượu xuống bàn. Vì Quang vừa lên tiếng, đột ngột như vừa khám phá ra một điều gì mới lạ:
“Thế ra chỉ còn có tôi và cậu.”
Thiên nâng vội ly rượu. Chàng cạn thẳng một hơi. Chàng nhăn mặt: men rượu vẫn còn lỏng lẻo. Chất vữa trộn vẫn chưa đều. Gạch ngói vẫn còn rời rạc. Những ly rượu chàng cạn từ buổi chiều vẫn là những ly rượu lẻ, men vẫn chưa nối được cái cầu liên lạc: vẫn còn một chỗ trống không.
Chàng nhớ lại lời Phan.
Còn lại hai đứa. Một mâu thuẫn: Thiên thì suy tư. Quang thì hành động. Một thằng yên lặng quay vào bên trong. Một thằng chồm lên ôm lấy cuộc đời. Có lẽ mình là cả hai thằng họp lại?
Nhưng Phan đã lên đường.
Vừa tan một chất men.
Vừa tàn một giai đoạn.
Giờ đây, còn lại hai đứa: một mâu thuẫn. Thiên chằm chằm nhìn Quang. Như một thù địch. Và cũng như một người bạn trăm năm.
Quang lại như mới khám phá được một điều gì mới lạ hơn điều lúc nãy:
“À… còn rượu. Uống nữa đi cậu. »
Bấy giờ, đêm đã xuống từ lâu, đêm miền Nam lành lạnh nhiều sao.
Thiên nói:
"Vô ích. Rượu không đủ."
25-10-1956
[1]Năm 1953 Tây lịch, người Hà Nội hay tự tử bằng pháo xiết.
Nguồn: Vũ Khắc Khoan. Mơ Hương Cảng. Kẻ Sĩ xuất bản lần thứ nhất 1971, ngoài những bản thường còn in thêm 50 cuốn trên giấy trắng dày, những bản này không bán đều man dấu son Bất Bình Tắc Minh và chữ ký của tác giả.