Hồ Hữu Tường
Trầm tư của một tên tội tử hình
Mục lục
* Tựa
* Trầm tư thứ nhất – Cái nghiệp tiên thiên
* Trầm tư thứ hai - Về võ trụ
* Trầm tư thứ ba - Về hoà bình
* Trầm tư thứ tư - Về nạn đói kém
* Trầm tư thứ năm - Về nạn nhân mãn
Tựa
Ngày 29 tháng 8 năm 1957, tôi bị Toà án Quân sự Sài Gòn lên án tử hình. Tôi có ký tên xin phá án, mà lòng không tin sẽ được, lại đã tự hẹn nếu không được phá án, thì âu để bị hành quyết cho rồi một đời, mà tôi muốn chấm dứt một cách khéo hơn là để bị giết mờ ám, nơi một chốn hẻo lánh nào đó, rồi tên tuổi thêm trầm luân trong một cái biển phỉ báng vô biên. Song lẽ, sự tự hẹn ấy được bè bạn ở nước ngoài hay được. Nên chi, sau ngày bác đơn xin phá án, ngày 31 tháng Chạp năm ấy, ông A. Camus, thay mặt cho bè bạn nói tiếng Pháp, bà R. Fischer, thay mặt cho bè bạn nói tiếng Anh, ông Nguyễn Ngọc Bích, thay mặt cho người Việt ở hải ngoại, đánh điện cho tôi, ân cần khuyên tôi nên ký tên xin ân xá để cho họ tiện bề vận động xin phóng thích cho tôi. Nể tình họ, tôi đã ký tên. Gần năm năm đã qua, mặc dầu các bè bạn này không ngớt kêu gào, tôi vẫn đội trên đầu bản án tử hình, và trong mấy năm này, trước khi đi ngủ, đêm nào tôi cũng tự hỏi: “Ngày mai phải chăng là mình phải đứng trước toán lính hành quyết?” Sống trong tâm trạng phập phồng nọ, những trầm tư của một tên tội tử hình, bị tử thần uốn nắn chiều hướng rất nhiều, chẳng khác nào tia sáng bị chạy gần một khối thu hút khổng lồ vậy. Phương chi, tôi còn mắc một cơn bệnh trầm kha, kéo dài từ tháng 4 năm 1959 đến tháng 9 năm 1961, mà đến nay, tháng 6 năm 1962, thời hồi xuân vẫn chưa dứt. Trong điều kiện ấy, những trang sau này phỏng có giá trị nào chăng?
Tuy vậy, tôi không ngại ngùng mà đăng chúng nó ra, trước để làm một bức thơ cảm ơn chung cho những ai, rải rác trong bốn phương trời, hoặc danh tiếng lẫy lừng như A. Camus hay Nehru, hoặc tên tuổi còn trong bóng như sinh viên và học sinh, sau để đặt một vấn đề mà tôi tin rằng là vấn đề trọng đại hơn hết của nửa thế kỷ sau của thế kỷ hai mươi. Tôi muốn nói đến sự đại nhất thống tôn giáo, triết học, khoa học và chánh trị.
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước đây, khi khoa học chưa phát sanh và sự hiểu biết của loài người chỉ còn thô sơ, khi chánh trị còn là cái luân lý của các tiểu quốc vương đối với nhau và đối với thần dân, đã có người, tôi muốn nói đến Thích Ca Mâu Ni, đem tôn giáo và triết học mà thống nhất lại, thành ra Phật pháp còn truyền đến bây giờ. Hơn trăm năm trước đây, Marx đem triết học của nước Đức thời ấy, dung hoà với kinh tế học của Anh và xã hội chủ nghĩa của nước Pháp mà đắp nền cho một cái văn minh mới, văn minh chánh uỷ, hiện nay đang chi phối cả tỉ người. Rồi, do một sự ngẫu ngộ của lịch sử, sáu trăm triệu dân Trung Hoa, đương sùng bái đạo Phật đây, lại phải tôn thờ một lý tưởng mới, mà Thánh nhơn là Marx, Engels, Lénine, Staline và Mao Trạch Đông... Hai nguồn văn minh này, của đạo Phật và của chủ nghĩa cộng sản, cả hai đều có xu hướng xa thơ, sai khi gặp gỡ nhau trên đất Trung Hoa, sẽ ai thắng, ai bại, hay sẽ tổng hợp nhau thành ra một cái gì mới mẻ?
Về một mặt khác, khoa học, phát sanh ở Hy Lạp vài thế kỷ sau Phật pháp, từ đấy vạch một con đường càng lâu càng rộng thênh thang và ngày nay không biết biên giới nào cả. Vào những buổi đầu, nó còn phải tuỳ thuộc vào tôn giáo. Vài thế kỷ này, nó gỡ được cái ách ấy, nhưng lại bị trói vào những tuỳ thuộc mới của chánh trị. Nó sẽ cởi được những tuỳ thuộc mới này chăng, hay sẽ hạ mình làm cái máy cho kẻ mạnh thế vặn theo ý muốn? Vài mươi năm nay, Phật pháp vừa bỏ vòi bò qua các xứ Tây phương, Anh, Đức, Pháp, Mỹ, Úc... Đụng chạm với khoa học của các xứ này, tôn giáo ấy sẽ ra sao, hay cũng sẽ bị khoa học bài bác, cũng như các giáo điều khác, trước kia?
Nói đến sự đại nhất thống tôn giáo, triết học, khoa học và chánh trị, mà chỉ đề cập đến Phật pháp, ấy không phải là một sự thiên lệch. Các giáo điều khác không nhận chịu một sự sửa lại, vaincre ou périr [1] . Hình như là giáo điều căn bản của các giáo điều. Đặt cái pháp của mình dưới sự dắt dẫn của trí tuệ. Phật pháp lấy sự sửa lại làm căn bản, và khi bảo rằng sau này Maitreya giáng thế làm vị Phật tương lai, để chỉnh lại cái pháp cũ, phải chăng là Thích Ca Mâu Ni dặn trước tín đồ mình nên dọn mình đón rước một cuộc sửa lại vĩ đại? Tôi bái phục cái tinh thần cải tiến canh tân ấy cũng như tôi bái phục điều mà trong khoa học, từ Copernic, Galilée, Képler, Newton và nhất là đầu thế kỷ XX, mỗi danh nhân đều đánh dấu cho một cuộc cách mạng trong tư tưởng. Cái tinh thần chung ấy phải chăng là miếng đất dung hoà Phật pháp và khoa học? Tôi tin rằng trong mấy năm gần đây sẽ có câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi trên đây.
Một ngàn năm trăm năm trước Thích Ca Mâu Ni, triết học của Ấn Độ đã phồn thịnh lắm rồi và dọn đường cho sự thống nhất cái triết học ấy với sự hiểu biết, dưới dấu hiệu của trí tuệ, để thành Phật pháp. Cái triết học của Tây phương, lập ra từ thời Socrate, và bắt đầu phồn thịnh từ Bacon, sẽ nhờ một Maitreya mà thống nhất với khoa học, cũng dưới dấu hiệu của trí tuệ, ắt một tôn giáo mới ra đời, một tôn giáo không dựa vào tín ngưỡng và cuồng tín mà bắt nguồn nơi từ tâm, do trí tuệ soi sáng. Ba viên đá lớn, là tôn giáo, triết học và khoa học, đã nhờ trí tuệ mà xây liền với nhau được, thì cái mộng lớn kia, cái mộng đại nhất thống, gần thành vậy.
Chỉ còn viên đá chót: chánh trị. Từ muôn thuở, chánh trị thay đổi sát theo người làm và lịch sử đầy dẫy những cái xảy ra bất ngờ, cũng như những cái hiển nhiên tránh không nổi. Đầu thế kỷ này, có mấy ai đoán trước được sự trổi dậy của Á châu và Phi châu, cũng như những cố gắng đâu có thể ngăn nổi chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai nổ bùng ra? Và mặc dầu bắt nguồn nơi chung hệ thống của Marx, chánh trị của Lénine, của Trotsky, của Staline, của Khroutchev, của Mao Trạch Đông đâu có liên tục với nhau! Thuyết tiền định, thịnh hành ở phương Đông, phải chăng căn cứ nơi sự vô định của chánh trị? Và từ khi, trong sách Cộng hoà, Platon ước mong những hiền triết cầm quyền, hơn hai ngàn năm qua, trên khắp địa cầu, đã đếm được bao nhiêu người như thế ấy? Thế mà, lúc này hơn lúc nào cả, thế giới của chúng ta đòi hỏi những nhà cầm quyền hiền triết. Sự phân hoá thế giới thành hai khối tương phản nhau, cả đôi bên đều nắm những khí giới tàn sát rất kinh khủng, đang đe doạ nhân loại bằng sự phá hoại vô chừng, có thể kéo lùi lịch sử năm mươi thế kỷ là ít. Sự khôn ngoan của đôi bên liệu có thể ngăn nổi một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba chăng? Nhìn theo tầm mắt của cái mộng đại nhất thống, liệu chánh trị có chịu đem viên đá của mình mà xây chung, cùng với tôn giáo, triết học và khoa học, cái lầu đài của ngày mai soi sáng bởi trí tuệ chăng? Hay chánh trị vẫn kiêu căng, vẫn bắt tôn giáo, triết học và khoa học làm nô lệ cho mình, và vẫn chỉ nghe tiếng gọi của bản năng và nhiệt tình?
Trong năm năm, lúc bịnh cũng như lúc mạnh, đầu óc tôi bị mấy vấn đề ấy ám ảnh, tôi nghĩ cách viết ra mấy bài trầm tư này. Chính tôi lấy làm lạ hơn ai hết sao một tên tội tử hình, số phận đặt nằm bên cạnh cái chết, lại không nghĩ về cái chết, mà lại lo chuyện của người sống. Mà lo nghĩ về chuyện của người khác, không lúc nào lòng tôi được yên nghỉ, cho đến đỗi lắm khi, tôi tự ví là một damné [2] . Đương đợi sự giải thoát của mình. Mà sự giải thoát này, tôi tin rằng khi đăng tập sách này để hỏi những ai suy nghĩ trong bốn phương trời, tôi sẽ đón rước được những lời chỉ giáo.
Côn Sơn, tháng Sáu năm 1962
*
Tái bút đúng ba năm sau
Khởi viết vào đầu tháng Sáu 1962, mỗi tháng được một bài, đến tháng Mười Hai năm ấy, tôi viết đến bài thứ năm. Nhưng tưởng có thể tiếp tục như vậy mãi, không dè cuối năm 1932, chúng tôi bị xét phòng.
Sách, mấy chục số Esprit của ông Domenach gởi cho, mấy chục số Preuves do bộ biên tập này tặng, ba bản thảo của ba bộ trường thiên tiểu thuyết đã viết xong, một quyển tự thuật, hai quyển tiểu luận, bị dồn vào một cần xé cất vào kho... để cúng dường cho bọn mối làm thực phẩm. Còn những cái viết lỡ dở, thì bị gom gởi lên ban quản đốc. Nhờ vậy mà, khi Ngô Đình Diệm bị hạ, mớ tài liệu này được trả lại. Những bài “Trầm tư”, nhờ vậy mà sống sót.
Gởi về nhà trước khi tôi bước chân ra khỏi Chí Hoà, tạp chí Bách Khoa lần lượt cho đăng ra. Tôi không hài lòng lắm. Những bài tôi viết, dựa vào mớ kiến thức tôi đã có năm 1954, vào tù có đọc chi thêm, chi cho khỏi là lỗi thời? Nay ông giám đốc nhà xuất bản Lá Bối ngỏ ý cho in ra thành tập, tôi càng không hài lòng hơn nữa.
Song nghĩ cho kỹ, tại sao có cái tự ái như vậy?
Công chúng muốn hiểu tâm trạng của một người tội tử hình, nằm trong bốn vách, chẳng biết chi xảy ra ngoài đời, bịnh hoạn liên miên, tử thần lảng vảng mãi bên cạnh. Thì thành thật cho công chúng hiểu.
Còn việc nói trúng hay trật, ai nỡ, mình là kẻ có đủ sách vở để học mỗi ngày, ai nỡ tranh hơn thua với một kẻ, chỉ có ký ức leo lét của tên tội tử hình ốm đau nhắc nhở?
Sài Gòn, tháng Sáu 1965
*
Trầm tư thứ nhứt
Cái nghiệp tiên thiên
Tôi sanh trưởng nơi một gia đình nông dân nghèo ở miền Hậu Giang. Cha tôi, mồ côi cha sớm từ mười hai tuổi đã phải đi ở đợ để nuôi thân và không được đi học. Nhờ tánh tình hiền hậu, ngay thẳng và siêng năng, ông được một nhà giàu gả cho đứa con nuôi, cho mướn ruộng và giúp vốn để cất nhà, làm mùa, rời thân phận ở đợ để trở nên một tá điền cho đến ngày lâm chung. Lúc ấy, cả hai đều không có học. Về mặt tư tưởng, cha tôi không theo đạo Phật, chẳng theo Lão giáo, mà cũng không biết Khổng giáo là gì, bình sanh rất ghét thầy chùa, thầy pháp, và chỉ biết thờ kính ông bà.
Làm mùa trúng luôn mấy năm, trong nhà dành dụm có dư chút đỉnh, cha tôi mới gởi anh cả tôi đến một ông đồ ở gần đó mà học chữ HÁN. Ngày thì đi làm ngoài đồng, tối lại quạt muỗi cho con học, ông học lóm được chữ Hán, chữ Nôm, đọc được truyện sách và bắt đầu giao thiệp rộng. Mỗi năm hễ hết mùa mưa, thì có ghe bầu từ những miền Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, chở những thổ sản ngoài ấy vào, thỉnh thoảng có một vài thầy thuốc bắc, một hai ông đó theo các ghe ấy vào mà đi tìm việc: đó là những mối giao du thích nhất của cha tôi. Tết năm 1910, lúc ấy tôi còn trong bụng mẹ, theo lời thuật lại, cha tôi giao thiệp được một người, không biết tên họ gì, mà thiên hạ sau này đều gọi là thầy Quảng, vì có giọng nói Quảng Nam đặc biệt. Không ai thấy ông này làm nghề gì, nhưng người ta đồn ông làm thợ mộc, rồi bởi ông giỏi bùa Lỗ Ban nên thiên hạ sợ ông ểm, mà không ai mướn cả. Ông say rượu cả ngày, ngồi trên một chiếc xuồng mà bơi đi hoài, ít ghé đâu cả. Thế mà ông thích ghé nhà tôi để thuyết đạo cho cha tôi. Ông thuyết cái gì? Sau này tôi chỉ nghe tóm tắt mà thôi. Thầy Quảng khuyên cha tôi nên theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương mà tin rằng Di Lặc sẽ giáng trần chỉnh lại pháp cũ, làm cho “minh đạo” sẽ tái sanh. Cha mẹ tôi bàn luận với nhau nhiều về sự này, nhưng rốt rồi không theo. Cha tôi đợi mãi đến năm 1930, vài chục tháng trước khi ông chết, mới thượng trần điều trên bàn thờ, để tỏ ra rằng bây giờ ông đã là tín đồ của đạo ấy. Nhưng đến lúc đó, toàn xứ Việt đếm không còn được vài ngàn tín đồ theo phái này.
*
Tôi lớn lên, đi học khoa học ở Âu châu, nhiễm thêm được một mớ chủ nghĩa Marx, về xứ rồi, thấy trần điều thượng lên bàn thờ, hỏi ra, mới biết nguồn căn của cái tôn giáo đã để hai mươi năm đặng thay đổi lòng của một nông dân thiếu học. Bây giờ đến phiên cha tôi đem những truyền thống mà ông và mẹ tôi đã nghe, lúc mà tôi chỉ là một cái thai vừa tượng, mà thuật lại cho tôi, đương đầy kiêu hãnh vì mớ khoa học và chủ nghĩa vừa nuốt được. Vì lòng kiêu hãnh của một tân đồ kia, tôi không chấp nhận lời truyền đạo ngay của người cha kính mến.
Hơn ba mươi năm đã qua. Nhiều sự thất bại trong cuộc vật lộn với đời làm cho tôi có nhiều kinh nghiệm hơn, và do đó, trở nên khiêm tốn. Vào nhà tù chuyến này, tôi lại chỉ thấy có một cửa ra: cái chết, vì mười hai viên đạn, hay vì bịnh, hoặc già. Càng gần cái chết, con người cần xét nét để ôn lại đời mình. Tôi mới thấy tôi đã vương lấy cái nghiệp của tôi, trước khi ra bụng mẹ: lúc ấy mẹ tôi đang nghe bàn đến sự sửa lại thường xuyên của đạo Phật mà tượng trưng là Maitreya, đức Phật đầu thai lại mãi để chỉnh lại cái pháp, nên chi bây giờ, mặc dầu tôi không phải là tín đồ của đạo Phật, tôi mãi lo âu về sự sửa lại ấy.
Tôi lo âu về sự này từ năm 1939, khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, lúc ấy tôi cũng bắt đầu một kỳ tù năm năm. Năm ấy, tôi bắt đầu hoài nghi về mớ lý thuyết mà tôi đã học của Marx, và thấy rằng, ngày sau mà thế giới một nhà được, vai trò của luân lý và tôn giáo rất là hệ trọng. Trong năm năm ở tù, không có sách đọc, tôi cứ suy nghĩ mãi về sự tổng hợp chủ nghĩa xã hội và đạo Phật. Về mặt lý thuyết, sự tổng hợp ấy có thể làm được, nhưng về đường thực tế, trong hai cái đại gia đình, gia đình xã hội chủ nghĩa và gia đình Phật tử, chẳng có ai ươm thử việc này. Từ ấy, cái nghiệp nói trên càng quấn quít tâm hồn tôi. Nên chi tôi đặt cái trầm tư thứ nhất này dưới dấu hiệu của Maitreya, không phải bởi tôi tin rằng ngài sẽ đến bằng xương thịt, mà bởi tôn tán thưởng cái tượng trưng sự sửa lại.
*
Với sự tấn triển của khoa học và nhất là của chủ nghĩa Marx, một tôn giáo nào, ở phương Đông hay ở phương Tây, mà muốn tồn tại, tất phải sửa lại giáo điều của mình. Đối với Phật pháp, sự sửa lại này gọi là chỉnh lại cái pháp. Và đạo Phật rất khoan dung đối với những sự chỉnh pháp như vậy. Năm trăm năm sau khi phát sanh, đạo Phật đã thay lốt một lần, do sự đụng chạm với các học phái Bà La Môn, mà phát xiển phần hình nhi thượng, mà sáng tạo lắm tượng trưng, đến đổi hoá ra hữu thần: ấy là buổi đầu của Phật giáo đại thặng. Cuối thế kỷ mười ba, dưới sự đô hộ của dân Mông Cổ, khắp nước Tàu tràn lan một chi phái mới, dưới tên là Bạch Liên giáo, truyền rằng Di Lặc giáng trần, để tổ chức tín đồ vào một giáo phái, nửa tôn giáo, nửa chánh trị Bạch Liên giáo này đã chủ động bao nhiêu cuộc khởi nghĩa làm rúng động cả nước Tàu, suốt mấy trăm năm, đến cuối thể kỷ mười tám mới dứt, mà dư ba hãy còn kéo dài đến cuối chiến tranh Quyền phỉ. Nay, trăm năm triệu tín đồ của Phật ở Trung Hoa lại lọt dưới sự chi phối của chủ nghĩa cộng sản, nếu không có một sự vươn mình thay lốt nào cả để tồn tại, thì chỉ còn một vài thế hệ thôi, đạo Phật sẽ rời bỏ xứ này. Còn lại gần trăm triệu người ở Nhật, gần trăm triệu người ở Đông Nam Á và các nơi: thì, ở đây, ngoài sự không an ninh về chánh trị, đạo Phật lại bị các tôn giáo khác và khoa học tấn công. Trong viễn đồ này, mấy năm chót của thế kỷ hai mươi hình như là những năm chót của đạo Phật trong thế giới. Muốn tồn tại, ở Tàu cũng như ở ngoài nước Tàu, đạo Phật cần phải chỉnh lại pháp mình.
Mà đạo Phật cùng các tôn giáo khác, cần phải tồn tại chăng? Nói một cách khác sự tiến bộ của loài người, về triết học, về khoa học và về chánh trị, đã đủ chưa để xây dựng một cái xã hội không cần đến tôn giáo và luân lý? Trả lời rằng đã đủ, ấy là một cái sự quá vội vã. Chánh trị chưa tìm tổ chức được một xã hội trong ấy chỉ cần luật pháp và quân đội để cai trị, mà chẳng nhờ đến luân lý và tôn giáo để đứa hoá đa số nhân dân. Khoa học chỉ khảo cứu được một phần các hiện tượng của vạn vật mà còn lưu lại vô số vấn đề đương đòi hỏi câu trả lời, mà triết học và khoa học chưa tìm được. Và lý lẽ quyết định hơn hết, là con người của thế kỷ hai mươi này vẫn còn những bản tính thô sơ, còn bị bản năng kích thích mạnh, còn bị nhiệt tình đốt nóng, thì còn cần có một cái văn mình mới để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc cho ngày càng cao quí đẹp đẽ hơn, trong ít lắm là năm ba trăm năm. Tôi muốn nói đến cái văn minh tu sĩ. Thì đạo Phật, cũng như các tôn giáo khác, cần phải hoà mình vào các văn minh tu sĩ ấy, cho loài người dùng, chẳng khác nào những cái phao cho người tập lội ôm trong buổi đầu vậy.
Tuy các tôn giáo thảy cần tồn tại, để hoà mình vào cái văn minh tu sĩ ấy, song không phải cái nào cũng dễ trường tồn. Xét về bản chất của nó, đạo Phật có nhiều nội lực giúp cho nó vượt thời gian dài hơn hết, thế mà nó bị những yếu tố ngoại quan của lịch sử làm cho nó bị đe doạ nhiều hơn cả. Bị nguy cơ kế đó là Ấn giáo, bởi đạo này không chịu đựng nỗi một cuộc cách mạng chánh trị mà động cơ chính là thuyết bình đẳng. Kế đến là Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi. Trong viễn đồ Đông Tây cộng tồn, thì Kitô giáo được sự an ninh chánh trị đảm bảo cho vững vàng hơn hết. Song sự cộng tồn này kéo dài được bao lâu? Hay là rồi đây nhân loại phải dấn vào một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba? Mỗi lần có chiến tranh thế giới, là có những thay đổi vĩ đại. Trông gương chiến tranh thế giới thứ nhất: nó sanh đẻ ra cách mạng Nga làm cho gần một trăm năm mươi triệu tín đồ của Kitô giáo chánh thống lọt vào lưới của cộng sản. Trông gương Chiến tranh Thế giới thứ Hai: nó làm cho cả Trung Âu bị Hồng quân chiếm và nó sanh đẻ ra cách mạng Tàu, làm cho năm trăm triệu tín đồ của Phật giáo lọt vào lưới của chủ nghĩa Marx. Rồi ta thử nhìn cái cứu cánh của một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba, với khí giới nguyên tử và khinh khí, với khí giới hoá học và vi trùng và nhất là với khí giới lợi hại hơn tất cả là lý tưởng chiến tranh thế giới thứ ba, hơn cả thứ nhất và thứ hai, sẽ làm trúc đổ bao nhiêu đế quốc khổng lồ, làm tan nát lắm kiến trúc chánh trị cũng như tôn giáo, làm cho nhân loại trở lùi trên đường lịch sử năm ba trăm năm là ít. Nó sẽ là cái mạt pháp cho tất cả, chớ không phải riêng cho đại Phật, ở xứ thắng cũng như ở xứ bại, nối tiếp sự tàn phá và sợ hãi, là luồng gió bi quan, sau đó mới đến sự mong mỏi thuận lợi cho một tôn giáo bao trùm cả loài người.
Qua những đợi hãi hùng ấy, trong bốn tôn giáo lớn cũ, cái nào có thể thay lốt mấy lần, như con tằm từ trứng sang sâu, hoá nhộng để thành bướm bay đi được? Tôi không biết trong Ấn giáo, trong Hồi giáo, trong Kitô giáo có những lo âu như thế chăng? Riêng Phật giáo, với sự bá chiếm cộng sản của nước Tàu và sự không an ninh ở Đông Nam Á, thì vấn đề đã đặt ra hơn mười mấy năm nay rồi và đòi hỏi những giải quyết cấp bách. Thế mà tôi chưa nghe được một tiếng vang nào cả về một cái ướm thử chỉnh lại Phật pháp: năm 1959, tạp chí France-Asie, trong số đặc biệt về sự hiện diện của đạo Phật, mặc dầu có rất nhiều bài của các vị bác học và cao tăng, không có nói phớt qua đến vấn đề trọng đại này.
Tôi không phải là một nhà bác học hay một bực cao tăng. Nhưng, đứng trước sự bức bách này mà chẳng ai thốt lời nào, và bị cái nghiệp tiên thiên nói trên kia thúc đẩy, âu là tôi lên tiếng vậy.
*
Điều mà cần chỉnh lại hơn hết trong đại Phật, là xu hướng xuất thế. Trong Phật giáo tiểu thặng cũng như trong Phật giáo đại thặng, cái xu hướng này là của chung và Thích Ca Mâu Ni dạy người giải thoát cá nhân vào Niết Bàn, khi còn sống, cũng như sau khi tịch diệt. Có lẽ hồi thời của Phật, kinh tế còn là tự nhiên, con người ít bị đớn đau mỗi ngày vì sự bóc lột, chánh trị còn là đơn sơ, thần dân ít bị khổ sở vì sự thiếu tổ chức xã hội, nên chi nhìn nhận cái khổ, người thấy rõ chỉ có sanh, bịnh, lão, tử, không ưa mà hợp, ưa mà phải xa lìa, muốn mà không được, mất cái vinh lạc. Cái khổ này là cái khổ cá nhân, thì sự tìm giải thoát bằng phương pháp cá nhân là một việc giải thích được. Nhưng loài người càng tiến triển, liên hệ xã hội càng phức hoá, thì một cái khổ khác tràn lên, cái khổ tập thể bởi sự tiến triển này. Cái khổ tập thể này xảy ra thường xuyên, mà thỉnh thoảng dồn thành cơn ngặt nghèo là chiến tranh: là chiến tranh nội loạn và chiến tranh dân tộc, lần lần gom lại thành chiến tranh lý tưởng và chiến tranh thế giới. Đối với cái khổ mới và lớn này, nếu không có một lối diệt khổ thích đáng, thì quần chúng quên hẳn lối xuất thế của của đạo Phật, hay của bất cứ tôn giáo nào khác, nghe theo những khẩu hiệu tuyên truyền của các đảng phái chánh trị. Mà những người tu sĩ cũng không thể yên lòng được để nhập định.
Đối với một tối tiểu thiểu số, có thể duy trì cái xu hướng xuất thế, để an lòng họ trong khi họ bị vi trùng của bịnh hình nhi thượng đục khoét. Nhưng đối với tối đại đa số, cái pháp mới phải có một đại xu hướng xử thế. Làm thế nào để tránh chiến tranh và cách mạng? Nói một cách khác, tôn giáo phải đồng nhất với chánh trị. Sự đồng nhất này không thể quan niệm bằng cách lập những đảng chánh trị để bệnh vực cho những giáo điều sẵn có – cái mà ta thường thấy sau trận chiến tranh thế giới thứ hai – mà phải hiểu rằng đây là một sự cố gắng làm cho quần chúng đến một sự giải thoát đích thực, miễn cho loài người làm chánh trị cái trạng thái con tằm nhả tơ tự dệt cái ổ để nhốt mình vào. Chính cái xu hướng xuất thế xưa kia làm cho người ta lầm tưởng rằng đạo Phật dạy tín đồ nhẫn tùng, rồi cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của dân”. Maitreya của thời này phải đánh tan cái lầm ấy và đáp lại lời đòi hỏi của tín đồ Bạch Liên giáo suốt năm trăm năm, của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gần một trăm hai mươi năm, là lập thiên đàng trên cõi thế.
*
Đồng nhất với chánh trị để xử thế, không phải là tôn giáo chạy theo chánh trị để a dua theo kẻ có quyền thế và để ban phép lành cho họ. Kẻ làm chánh trị, hơn hẳn người thường, là những kẻ bản năng mạnh, nhiệt tình nồng, hay thiên về cực đoan, hay ngã về bạo lực. Để tránh những việc như đày hàng mấy chục triệu người vào trại giam, như đốt ngòi chiến tranh thế giới để củng cố địa vị cá nhân cha mình, thì không nên để cho sự ngẫu nhiên của tranh đấu, đưa kẻ tranh đấu lên dẫn đầu, mà phải tuyển trạch kẻ ấy trong hàng những người sáng suốt, bác ái và hiền lành hơn cả. Nếu không có cả một cái văn minh mới để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc con người theo cái mẫu này, để rồi tuyến trạch những phần tử ưu tú hơn hết trong đó, đặng đưa lên làm người lãnh đạo, thì cái văn minh đương thịnh hành ngày nay, cái văn minh chánh uỷ, chỉ cung cấp cho ta những người cầm đầu bạo ngược và man trá.
Đồng nhất với chánh trị, cái tôn giáo đội lốt mới này mở màn cho cái văn minh mới ấy, gọi là văn minh tu sĩ. Từ ngàn xưa, hễ bắt đầu có tôn giáo, thì đã có người tu hành. Có lắm lúc, kẻ tu hành này lại nắm luôn quyền chánh trị. Nhưng, những hình thức đó chưa lập nên được cái văn minh tu sĩ. Nay là lúc phải nâng sự tu hành này lên bực văn minh để nó dìu dắt loài người, từ trạng thái ly tán từng dân tộc, từng giai cấp, đến cái thế giới đại đồng, điều mà chánh trị chỉ thấy thực hiện được bằng máu lửa của chiến tranh và cách mạng. Nếu mà cái văn minh tu sĩ này sớm xuất hiện được, hoạ may sẽ miễn cho nhân loại cuộc đại chiến thế giới thứ ba. Rủi mà chiến tranh thứ ba nổ ra trước rồi, thì quả địa cầu sẽ đầy dẫy tàn phá, tang tóc và căm hờn. Dẫu ai là chủ của mai sau, kẻ thống nhất được địa cầu bằng máu lửa sẽ chẳng hơn gì các Cásars xưa lập đế quốc La Mã lên để dọn cho Kitô giáo cũ: một văn minh tu sĩ sẽ rất cần để hàn vá những vết thương và dập tắt các căm hờn, để xây đắp sự thống nhất loài người trên những nền tảng vững chắc và vĩnh cửu hơn là quân đội và cảnh sát.
Từ mấy năm nay, nhiều nhà cách mạng cũ rời bỏ hàng ngũ của chủ nghĩa Marx, vì cái chánh trị của đảng này thiếu một cơ sở luân lý. Khroutchev, khi chỉ trích cái chánh trị của Staline, cũng đưa những lý lẽ thuộc nhơn luân. Kinh nghiệm của gần năm mươi năm cách mạng Nga chứng cho ta thấy rằng chánh trị mà buông lung, thì chẳng khác nào ngựa mạnh mà không cương, thêm bịt mắt, nó có thể đưa vào hố thẳm. Mà nếu không có một cái văn minh tu sĩ đặt những lignes de force [3] cho kẻ làm chánh trị hướng theo, thì họ biết nghe vào đâu khác hơn là tiếng gọi của bản năng?
Kẻ chiến sĩ, người lãnh đạo đã cần có luân lý, thì đám quần chúng lại cần đến tôn giáo để biết đâu là nên, đâu là không, hầu xử sự. Những tôn giáo có giáo điều phản khoa học là những cái lần lần bị khoa học gạt bỏ. Nhưng những thị kiến của đạo Phật không trái với khoa học, thì đạo Phật có nội lực để trường tồn. Những học thuyết dựa vào sự “chúa sáng tạo” đụng chạm hẳn với thuyết duy vật vô thần, thì một bên thắng một bên tiêu đã đành. Mà thuyết vô thường vô ngã của đạo Phật có thể dung hoà với biện chứng pháp được.
*
Đồng nhất với chánh trị, vươn mình lên thành một cái văn minh mới, mà mỗi năm thêm lại bị một phát minh mới của khoa học kích bác, thì là một việc không thể dung thứ được. Đạo Phật xuất hiện trước khi khoa học phát sinh, nên thay vì một sự hiểu biết chính xác bằng vào thực nghiệm, chỉ có những thị kiến về vũ trụ, về vật lý, về sinh vật, về tâm lý. Đã đành rằng lắm thị kiến này thật là thiên tài và đến thế kỷ mười chín và hai mươi, sự hiểu biết của thời này nhận rằng Phật và các vị Bồ Tát đã thấy đúng. Nhưng không nên lấy đó mà bảo rằng giáo điều của Phật là hơn tất cả. Cái tương quan giữa Phật giáo và khoa học, cả hai đều căn cứ vào lý trí, không nên xây dựng trên sự dùng khoa học mà chứng minh tôn giáo, hoặc sự dùng tôn giáo mà thay thế cho khoa học.
Đạo Phật, và chỗ này nó khác hơn các tôn giáo khác, là một sự tu luyện, theo nghĩa tầm nguyên của danh từ này: tu là làm cho càng tốt đẹp thêm mãi, luyện là làm cho tinh ròng thêm mãi. Phật tử tu luyện để làm cho lý trí càng thuần thục hơn hầu đến cái giác. Nếu sự tu luyện ấy dùng để dự bị vấn đề, chuẩn bị các điều kiện, vạch lối trước bằng trực giác hay thị kiến cho các sự giải đáp các vấn đề này, thì tôn giáo sẽ là hướng đạo cho đại hội quân của khoa học. Chừng ấy Niết Bàn sẽ không còn là một cái chứa không có gì đựng ở trong và chỗ nhằm của các vị Bồ Tát, (tự giác nhi giác tha), mới đạt được. Trong hai mươi lăm thế kỷ đã qua, những thị kiến của đạo Phật đã làm khởi hứng cho văn chương và nghệ thuật của nhiều dân tộc ở Á châu. Nay, nếu làm khởi hứng được cho khoa học, những thị kiến của cái văn minh tu sĩ mới này sẽ làm cho văn minh này tràn lan khắp địa cầu, trở nên một cái chung của nhân loại.
Phần nào của những thị kiến này chứng minh bằng khoa học được, thì tài bồi cho miếng đất khoa học rộng lớn và phì nhiêu thêm, phần nào chưa thực nghiệm được, thì dùng trực giác để thẩm xét và phê phán. Như vậy các thị kiến mới này sẽ làm chất phân nuôi sống các loài câu triết học cho cành là sum sê, hoa quả vinh mậu. Chừng ấy cái gạch nối liền tôn giáo – triết học – khoa học – chánh trị sẽ thành được.
*
Nhưng chừng ấy, tôn giáo đó không còn là đạo Phật cũ xưa nữa. Sau mấy lần thay lốt đổi hình, nó không còn giữ vững nét dáng mà người ta thường thấy. Vậy, dưới cái sắc mới, ta hãy cho một cái danh mới, và gọi là minh đạo. Nhìn trong minh đạo, ta thấy có từ bi và bác ái, có công bình và thương người, có bình đẳng và tự do... tóm một lời là tất cả các cao vọng của các tôn giáo, kể cả xã hội chủ nghĩa hiện kim. Thế thì tuy bắt nguồn nơi đạo Phật, minh đạo phải tổng hợp tất cả các nền tảng luân lý của tất cả các tôn giáo, để xây đắp cái cơ sở chung cho việc xử thế: đạo đức.
Có nền tảng đạo đức vững chắc rồi, thì chánh trị mới hoàn về cái sửa trị, sửa đường vạy để đi theo đường chính, một con đường rộng thênh thang, lại được trí tuệ soi sáng tỏ, chớ không phải lối mê ly eo hẹp mà trong mù tối như từ xưa đến nay. Có cái chánh trị như thế mới tránh được hoạ dân tộc và giai cấp tương tranh, lập được cảnh thanh bình cho loài người. Như vậy, sẽ không còn là cái chánh trị cũ xưa, theo lối của Thương Ưởng ở phương Đông và Machiavel ở phương Tây; bởi vì, một khi đã được cảnh thanh bình, thì cần quyền xử thế không còn là những người đầy dục vọng, mà là những bậc hiền triết, vậy đâu còn cần những thuật man trá và bạo ngược như bây giờ?
Khoa học và triết học sẽ hun đúc theo một tinh thần mới. Minh đạo cũng sẽ khởi hứng cho nghệ thuật và văn chương. Các thứ này sẽ nhờ nó mà có một gia tốc lớn và tiến tới với một vận tốc chưa từng thấy. Đó là cuộc cách mạng văn hoá, cuộc cách mạng đích thực và bền vững hơn hết. Nó đã đến không nhờ những trúc đổ ầm ĩ và phá hoại khổng lồ. Nó đã đến trong đôi giày nhung, không ai nghe mà ngờ, chỉ có kẻ sáng suốt mới trông thấy được.
*
Như thế người sáng ra cái minh đạo – là Maitreya giáng trần như đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tin – là người cách mạng vĩ đại hơn hết, chớ chẳng phải chỉ là vị Phật cao hơn hết như lời của Thích Ca Mâu Ni đã nói ba lần dưới cây Long Hoa. Mẹ tôi, một đàn bà nông dân quê mùa, đã nghe tới việc ấy, khi mang tôi trong bụng và đem chuyện ấy mà thuật lại chung lộn với những cổ tích đầy thần tiên cho tôi nghe khi tôi còn nhỏ xíu. Cha tôi, khi gần lâm chung, nhắc lại cho tôi nhớ, dường như là một lời di chúc. Thế mà, mấy chục năm nay, tôi không hiểu, chẳng khác nào thấy cây mà chẳng thấy rừng.
Nay hiểu được, thì thân đã bị giam vào giữa bốn bức tường, với một cái án không thấy thoát ra được. Làm sao mà đeo đuổi được cái nghiệp tiên thiên này? Âu là ước mong sao cho những trầm tư này động được lòng ai đương khổ vì cái khổ lớn của thế kỷ hai mươi vậy.
Côn Sơn, tháng Bảy 1962
Trầm tư thứ hai
Về võ trụ
Trường học ở gần nhà tôi chỉ có đến lớp dự bị. Tôi mài trôn quần tôi trên bàn của lớp ấy suốt mấy năm, mới được cha mẹ tôi gởi tôi ra chợ, ở trọ nơi nhà người quen, mà đến học ở lớp sơ đẳng. Lúc ấy tôi được mười tuổi, nên còn dại, chẳng biết lo học mà chỉ mê xem hát bội: đêm nào tôi cũng len lỏi vào được trong rạp hát, xem cho tới khuya, để rồi ngày sau, vào lớp ngủ gục. Tình thế ấy buộc cha mẹ tôi phải dời chỗ ở trọ, bấy giờ đem tôi gởi nơi một cái am, cách chợ gần hai cây số, từ ấy, sự cách xa nọ làm cho tôi không lân la được với các thú vui, mà ràng buộc tôi, ngoài giờ đi học, lẩn quẩn quanh am. Mỗi ngày ba lần tụng kinh, đều có tôi nghe cả.
Kinh tụng thảy đầu viết bằng chữ Hán, ban đầu tôi nghe không hiểu chi cả, thì lấy làm bực lắm. Ông sư mới cho tôi mượn một tập bằng thơ lục bát, mỗi câu dạy được bảy chữ với nghĩa của nó, để cho tôi học. Tôi không học mặt chữ, mà chỉ học tiếng Hán – Việt cùng nghĩa, chẳng bao lâu hiểu được nghĩa của mấy ngàn tiếng và bắt đầu hiểu hơi hơi các kinh tụng có nghĩa gì. Cái Phật học của tôi rất đơn sơ, vì chỉ là cái nghe lóm trong hai năm ở trọ nơi am để đi học.
Tuy vậy, nó cũng đủ mà giúp cho tôi biết rằng cái thị kiến của Phật về vũ trụ mà khoa học tả ra, cũng na ná như thế thôi.
*
Trong tám tháng đầu năm 1956, tôi bị nhốt ở Đề lao Gia Định để chờ đưa ra thẩm vấn. Chúng tôi không có một tí gì để đọc cả. Thình lình, có người cho chúng tôi một số báo Paris Match, mà ngẫu nhiên, trong ấy có một bài dài về vũ trụ. Trong hai mươi lăm năm đã qua, mê mải với những thăng trầm của chánh trị thực tiễn, tôi không có dịp nào đọc về vấn đề này. Nay lại được nghe đến những tên của Hubble, Lemaitre, Hoyle, v.v... và những lý thuyết của họ, tôi mới hay rằng thị kiến của Phật bị vượt qua quá xa rồi.
Kế tôi bị thẩm vấn, rồi đưa ra toà. Trong lúc ấy, thần trí không lúc nào rảnh rang để suy nghĩ gì khác. Đến chừng bị lên án tử hình xong, tôi thấy dường như đã phủi sạch nợ đời, không còn vướng víu với chánh trị nữa, tôi lại sực nhớ đến bài báo đã đọc trong Paris Match, và lấy đó làm đề để trầm tư. Không có kính viễn vọng như các nhà thiên văn, chẳng có sách vở nào để khảo cứu, ngay cho đến cái mớ toán học đã thu thập ở nhà trường thì, bị hai mươi lăm năm ruồng bỏ, đã quên hết phần nhiều, tôi sực nhớ còn đường lối mà Thích Ca Mâu Ni đã vạch, là thiền định, để lắng trong thần trí của mình, rồi chừng ấy xoay qua trầm tư cái đề của mình để đến một thị kiến. Và sau đây, là kết quả của cuộc trầm tư về vấn đề này. Tôi thuật nó ra để cống hiến cái thị kiến hầu như các nhà bác học thẩm xét lại bằng khoa học.
Sự phát minh của Hubble thuộc về thực nghiệm: người tìm thấy rằng các tinh vân đều dang xa ra với một tốc lực càng lớn lên, nếu tinh vân ấu càng xa vời. Bằng vào sự phát minh này, Lemaitre diễn dịch ra bằng cái giả thiết, là vũ trụ là kết quả của một cái nổ lớn của một nguyên tử khổng lồ sơ khai. Tôi phải mất mấy tháng để trầm tư về giả thiết này. Tôi thấy nó thiếu sót về hai điểm trọng đại.
Điểm thứ nhất về do lai của cái nguyên tử khổng lồ sơ khai. Do đâu mà có nó? Tại đâu phải đặt vị trí của nó? Nếu ta quay ngược cái phim nói về quá khứ của nó, ta sẽ thấy gì?
Điểm thứ hai về do lai của cái làm cho muôn vàn tinh vân, càng xa vời thêm, thì càng có tốc lực lớn hơn. Do đâu mà có cái ấy? Nếu bằng vào luật hấp dẫn, thì dầu có cái nổ đầu tiên tung các mảnh văng ra sáu phương, sức các mảnh ấy thu hút nhau chỉ làm cho các tốc lực phải giảm hoài với thời gian, rồi đổi chiều hướng lại, làm cho các tinh vân hết dang ra nữa, mà bu lại cùng nhau. Ngày nay, các tinh vân đều dang xa. Cái xa hơn hết, mà đo lường thấy được, ước độ 228 triệu năm ánh sáng, với tốc lực 40.000 cây số trong một giây. Bằng vào các con số ấy, thì tốc lực đầu tiên của lắm tinh vân lại cao hơn tốc độ của ánh sáng. Vậy thì cái làm cho các tinh vân, càng xa vời hơn thì càng có tốc lực lớn hơn, là một sức gia tốc chung, nó ở ngoài cái “vũ trụ” gồm có các tinh vân này.
Có cái gia tốc lực này, thì cái vũ trụ, ngày nay đang dang ra, sẽ không bao giờ rút lại, như Gamow cho, và cách tinh vân, mà càng xa thì tốc lực càng cao, sẽ đạt được cái tốc lực của ánh sáng, như Hoyle đã thấy.
*
Tuy Hoyle thấy được rằng các tinh vân, hết phiên cái này đến cái khác, sẽ đạt được tốc lực của ánh sáng, nhưng thuyết của Hoyle không sao cắt nghĩa do lai cái sức hấp dẫn nguyên nhân của sự này. Và nó cũng không nói được, sau khi đạt được tốc lực này, các tinh vân sẽ trở nên cái gì, và đi đâu? Hoyle cho rằng những câu hỏi này không nghĩa, vì một khi đạt được tốc lực cùa ánh sáng rồi, thì vật ấy lọt ngoài không phận của cái thấy hoặc của tất cả sự đo lường nào khác. Nhưng cái ý, cái giác quan thứ sau của nhà Phật, không sao thoả mãn được bằng một lời giải đáp như vậy. Sự bất mãn này làm cho tôi phải trầm tư, và một khi thị kiến được “cái chung” của vũ trụ của Hoyle, tôi lại thị kiến được “cái thuỷ” của cái nguyên tử khổng lồ sơ khai của Lemaitre.
*
Tôi gọi là “univers” của chúng ta cái tập hợp của tỉ, tỉ, tỉ “galaxies” đương làm đối tượng cho sự nghiên cứu của thiên văn học ngày nay. Cái univers của chúng ta có biên giới: ấy là nơi mà các galaxies đạt tới tốc độ của ánh sáng. Tới cái biên giới ấy, mỗi ngôi sao đều có một khối lượng vô biên và một tinh lực vô biên, cái chất của nó không còn là photons, neutrons, protons, électrons rung động vô cùng mau lẹ nên không kết hợp nhau lại. Toán học có thể tính được cái biên giới ấy xa ta là bao nhiêu, nói một cách khác là có thể tính được cái hình của univers và mấy bề lớn của nó, nếu biết được toàn thể cái cosmos. Nhưng cái cosmos, vô biên và vô thủ, vô chung, là vô thường, thay đổi hoài, thì cái hình và bề lớn của univers chúng ta, nếu có tính được, là tương đối với thời gian.
Ngoài cái univers của chúng ta, có vô số cái univers khác mà tôi gọi là univers extérieurs. Để đếm những cái univers extérieurs này cho được, hoạ may là mượn phép mạng số xưa (mười lần một là mười, mười lần mười là trăm, trăm lần trăm là vạn, vạn lần vạn là ức, ức lần ức là triệu, triệu lần triệu là kinh, kinh lần kinh là cai, cai lần cai là tỉ, tỉ lần tỉ là nhương, nhương lần nhương là câu, câu lần câu là giản, giản lần giản là chánh, chánh lần chánh là tải, và vân vân). Thế mà một phép mạng số như vậy hoá ra vô lực để đếm những univers của cosmos. Mỗi univers đều có thủy có chung có biên giới, nhưng cả cái cosmos là vô thuỷ vô chung và vô biên.
Khởi thuỷ của một cái univers nào đó là một nguyên tử khổng lồ sơ khai. Cả vật chất của nó (protons, neutrons, électrons) và cả tinh lực của nó (protons) gom vào một khối có lẽ bằng một ngôi sao thôi. Nhưng mật lực vì vậy mà to lớn vô cùng, đến những số khổng lồ, và nhiệt độ cũng lên hàng mấy tỉ độ. Đó có lẽ là cái “vô minh”, cái nhân đầu tiên của thập nhị nhân duyên của Phật. Nó là cái hỗn độn sơ khai, bởi lúc ấy chưa có một nguyên tử vật chất nào có được.
Sức dồn ép ấy, nhiệt độ ấy đốt cháy cái nổ đầu tiên: đó là “sáng thế” không phải của cả cái cosmos, mà chỉ riêng của univers nọ. Đối với cái univers mà chúng ta ở, các nhà bác học Lemaitre, Gamow, Dirac... đã viết được lịch sử của sự sáng thế này, mà họ tính lâu chừng 30o Năm phút đầu, nhiệt độ rớt xuống còn một tỉ độ và khối lượng nổ ra được cả ngàn lần. Từ đó những bộ phận của hạch tâm bắt đầu kết khối nhau được. Mười hai phút sau, vật chất hiện hình với các nguyên tử của hydrogène và hélium. Và mười ba phút nữa, tất cả nguyên tử, (dưỡng khí, lân tinh, calcium, sắt, uranium, v.v...) đều hiện diện. Đám mây do sức nổ gây ra đó tràn túa và nguội lại. Vài trăm triệu năm sau nó phân ra làm prégalaxies, rồi đến các galaxies. Mấy cái này, do tốc độ đầu tiên. Những cái càng xa thì đi càng mau, cái gần thì chậm hơn, mà khoảng cách chúng nó càng thêm ra mãi.
Nhưng sự nổ ấy không xảy ra nơi một cái trống không tuyệt đối. Nó xảy ra giữa một cái milieu cosmique trong ấy đầy dẫy vật chất cũ xưa tràn lan thành mây, hoặc đã hoàn nguyên như sau này sẽ nói. Có những ngôi sao, cũng như mặt trời, mà tình cờ đi gần một đám mây nọ, thì kết tụ mây này thành hành tinh chạy quanh theo mình. Các hành tình này, mới tạo ra thì nguội, lần lần bị sức dồn ép mà trung tâm ấm dần, đến một lúc, trên hành tinh sự sống phát sanh, cũng như trên địa cầu, rồi vạn vật phục sanh, có loài người có óc suy nghĩ và có óc sáng tạo. Có những ngôi sao khác lại thình lình nổ banh ra mà trở nên đám mây... Bởi sức ngăn trở của cái milieu cosmique này và bởi sức tự hấp dẫn của cái trọng tâm lực của hệ thống, cái univers không thể nào nổ ra mau lẹ được như bây giờ. Vì vậy mà trong cái milieu cosmique này, phải có một cái gì khác hơn.
*
Cái gì khác hơn ấy là thứ vật chất đã đạt đến tốc lực của ánh sáng có một khối lượng vô biên, và một tinh lực vô biên, mà phải hoàn nguyên lại. Khi lọt ra ngoài không phận của các univers rồi, thì các galaxies hoàn nguyên kia lại bị luật hấp dẫn mà kết tụ lại. Bởi chúng nó do nhiều univers mà đến, nên cái tụ lại đó, tôi gọi nó là multivers.
Chính những multivers này, với những khối lượng vô biên của nó, thu hút các galaxies về chúng nó và làm cho trong các univers, những galaxies nào càng gần chúng nó, tức là gần biên giới, có tốc độ gần tới của ánh sáng. Sức nổ đầu tiên, làm cho các galaxies có một tốc lực đầu tiên là một chuyện. Nhưng thêm vào, có sự hấp dẫn của các multivers, chung quanh cái univers, nó cao hơn cái hấp dẫn nội tại của cái univers này, mới có cái gia tốc lực làm cho các galaxies càng dang xa ra lại càng có tốc lực gia thêm hoài, cho đến khi đạt tới cái tốc lực giới hạn. Sự hấp dẫn này làm cho các galaxies hoàn nguyên, bu lại chung quanh các multivers, để thành chung một khối với chúng. Thêm các multivers lại kết khối với nhau.
Các multivers này lại càng lâu càng thu khối lượng lại, bởi các bộ phận thu hút lẫn nhau. Mật lượng lớn lên, áp lực lớn lên và nhiệt độ cao lên. Đến một lúc, áp lực này đốt cháy một cái multivers, bây giờ là một nguyên tử khổng lồ, một cái sáng thế mới diễn ra, một trang sử mới của vụ trị bắt đầu.
Và cuốn sử này không biết bao nhiêu trang như vậy. Có một cái nổ gần với univers, thì ảnh hưởng của cái nổ ấy dội đến ta mạnh bạo. Có nổ xa, thì ảnh hưởng nhỏ hơn. Từ ngày có quả đĩa cầu, trái đất đã mấy lần thay trục, phải chăng mỗi lượt nam bắc cực thay như vậy, là bởi gần univers của chúng ta có những cái nổ khổng lồ? Và biết đâu những hiện tượng trong quả địa cầu ta, mà ngày nay khoa học chưa thấy được nguyên nhân, lại do những biến thiên của cái milieu cosmique?
Univers và multivers, từng cái này nổ ra thành cái kia, những mảnh múng của nhiều cái kia hiệp lại thành cái này, có thể phân biệt nhau nơi chỗ trong multivers thì vật chất hoàn nguyên, không có sự sống được, còn trong univers thì vật chất phức hoá và cái điểm tối cao của sự phức hoá này là sự sống.
*
Loài người, sống trong một cái univers, đã sáng tạo ra được khoa học để thẩm xét, đo lường, nghiên cứu cái univers của mình. Có lẽ những luật chi phối cho những hiện tượng của univers này có thể áp dụng cho những univers khác được. Nhưng mà trong cái milieu cosmique, khi mà các galaxies vượt ra ngoài không phận của các univers và hoàn nguyên, chúng nó sẽ theo những luật nào? Tốc độ nó sẽ không đổi, hay sẽ dịu lần khi đến gần kề một cái multivers? Các multivers hấp dẫn lẫn nhau theo định luật nào? Chúng nó kết hợp với nhau làm sao? Biết bao câu hỏi mà dùng khoa học tương đối của chúng ta để giải đáp không được.
Mà có thể nào lập một cái khoa học mới cho các multivers chăng? Và nghiên cứu chúng nó có ích gì?
Tôi thị kiến vài thế kỷ nữa đây, loài người sinh sản quá nhiều, các địa lục quá trù mật, không đất để ở và trồng trọt cho đủ, chừng ấy vấn đề di cư vài ba tỉ những người sang cung trăng, sang cách hành tinh gần ta như Kim tinh (Vénus) và Hoả tinh (Mars) sẽ đặt ra. Nhưng trước khi, phải làm cho các hành tinh này có nước, có không khí, có thảo mộc, rồi mới ở được. Làm sao mà cho hằng tỉ tỉ tỉ tấn nước, hằng tỉ tỉ tỉ tấn không khí, từ địa cầu sang qua các bên ấy? Rồi làm sao di cư hàng mấy tỉ người đi?
Nếu nghiên cứu vũ trụ, tìm được cái tinh lực vũ trụ và chế ngự được cái tinh lực này, có lẽ những vấn đề trên không phải là nan giải. Nhưng đây không phải là việc của thị kiến nữa, mà trở nên công việc của khoa học và kỹ thuật. Tìm được đề tài cho khoa học là sứ mạng của thị kiến, mà thị kiến được khoa học chứng minh là đúng thì được một cái vinh hạnh lắm rồi.
Côn Sơn, tháng Tám 1962
[1]Thắng hay bị diệt.
[2]Kẻ bị đày địa ngục
[3]Đường trực tuyến.
Nguồn: Hồ Hữu Tường, Trầm tư của một tên tội tử hình, Lá Bối ấn hành lần thứ nhất, xong ngày 20-8-1965 tại ấn quán Sen Vàng. Ngoài những bản thường còn in thêm 100 bản trên giấy quý dành riêng cho tác giả và nhà xuất bản. Giấy phép số 199/HĐKD – Huế, ngày 15-6-1965.