Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồ Hữu Tường - Trầm tư của một tên tội tử hình ( 2). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồ Hữu Tường - Trầm tư của một tên tội tử hình ( 2). Hiển thị tất cả bài đăng

14/7/10

Hồ Hữu Tường - Trầm tư của một tên tội tử hình ( 2)

Hồ Hữu Tường
Trầm tư của một tên tội tử hình
1 2

Trầm tư thứ ba – Về hoà bình

Đạo Phật, muốn vươn lên để thành minh đạo, tất phải gặp nhiều vấn đề thuộc về xử thế, mà vấn đề trọng đại hơn hết là vạch lối cho tín đồ mình xử sự với chiến tranh, trong hai hình thức mới của nó: chiến tranh nguội ở từng địa phương và chiến tranh nóng ở khắp toàn thế giới. Tuy là hai song vốn là một: cả hai đều do sự phân hoá thế giới thành hai khối tương phải nhau và mỗi bên đều muốn biến cả thế giới theo khuôn mẫu của mình. Bây giờ chiến tranh không còn là sự tranh giành quyền lợi nữa, như nước thắng trận vừa rồi bỏ tiền của ra mà nuôi các nước đã thua. Mà bây giờ, chiến tranh trở nên sự dùng quân lực mà ép buộc nước khác theo thế lý tưởng của mình. Và như vậy, đối với kẻ bại trận, lý tưởng không ưa mà phải thờ, lý tưởng đáng mến yêu lại phải xa lìa, còn đối với cả đôi bên thì tang tóc, tàn phá, nghèo khổ, truỵ lạc... Đích thị chiến tranh, trong hình thức mới này, là cái khổ to hơn tất cái khổ khác mà Thích Ca Mâu Ni đã phác hoạ.

Sau trận đại chiến thế giới thứ nhất, thì đã bắt đầu, sau trận đại chiến thế giới thứ hai, thì phồn thịnh hơn, ở các xứ Âu châu, người ta khổ về chiến tranh và tổ chức lại thành đoàn thể để đề cao hoà bình. Lắm đoàn thể này trở nên những phong trào quốc tế và huy động được khá đông. Nó đã giác được cái khổ này trước hơn số đông của tín đồ đạo Phật, và sau mấy chục năm hoạt động, ắt có nhiều kinh nghiệm. Người xướng ra minh đạo, nếu tìm được lối giải thoát chung cho nhân loại khỏi cái khổ lớn này, ắt được hàng triệu những hưởng ứng, và nhờ đó minh đạo sẽ có một số người cảm tình rải rác khắp bốn phương trời.

*

Đồng thời với cái khổ lớn này, xuất hiện những điều kiện để dập tắt nó: ấy là những phát minh về vi trùng học, về hoá học và nhất là về vật lý học. Những phát minh này giúp cho các cường quốc chế tạo được lắm thứ khí giới vô cùng lợi hại, gần như tuyệt đối, hễ tung ra thì giết chóc hàng triệu người, tàn phá trọn những thành phố rộng lớn, làm hại mùa màng và làm cuộc chiến tranh thế giới thứ ba có tính cách là kéo lui lịch sử loài người vài ba thế kỷ là ít.

Cái viễn đồ này làm cho lắm người giựt mình và những nhà cầm quyền các cường quốc phải suy nghĩ lại rất nhiều, trước khi quyết định dùng biện pháp quân sự để giải quyết sự tranh chấp với nhau. Đó là cái tâm trạng làm cho cái biện pháp ahima, mà Gandhi rút trong đạo Phật ra để chủ trương cuộc đấu tranh giải phóng cho Ấn Độ, được nhiều người nhắc tới khi phải xử sự với nhau trên trường quốc tế. Do đó mà nhiều người tin rằng cuộc chiến tranh nóng, toàn diện, bằng khí giới vi trùng, hoá học, nguyên tử và nhiệt hạch tâm (thermo-nucléaires) giữa khối Đông và khối Tây sẽ không thể nào xảy ra, vì cả đôi bên đều sợ sự tiêu huỷ. Nhưng kết luận này có hơi vội vã: sự khả hữu của chiến tranh thứ ba tuy có giảm bớt nhiều, song không phải là mất hắn. Loài người phải hoạt động nhiều lắm mới tránh được cái tàn phá tập thể này.

Bởi vì, và ở đây ai cũng phải đồng ý, từ hồi dứt chiến tranh thế giới thứ hai đến bây giờ, cuộc chiến tranh nguội không khi nào ngớt, cho đến đổi người ta quen với nó và cho nó là cái nếp sống hiển nhiên của thời này. Khởi lên là sự thức tỉnh của các thuộc địa cũ ở Á châu và Phi châu, đến khi các cuộc chiến tranh giải phóng này thành công, thì các nước mới ấy lần mò tìm con đường của mình. Chừng ấy, mỗi bên, Đông và Tây, đem cái lý tưởng mình mà quyến rũ, nội chiến bùng nổ, hai đại cường quốc đem binh tiếp viện cho phe mình: ấy là chiến tranh nguội đã hiện trọn hình của nó. Mà nếu cuộc chiến tranh nguội này làm nghiêng hẳn đòn cân lực lượng của đôi bên, thì ngòi lửa của chiến tranh nóng châm rồi: hai bên sẽ trực tiếp đánh nhau và thuyết ahimsa trở nên vô hiệu.

*

Vậy thì, cái nguyên nhân của chiến tranh thế giới thứ ba là lý tưởng Đông Tây tương tranh, mà cái duyên khởi của nó là chiến tranh nguội ở mấy vùng mà hai bên tranh giành ảnh hưởng. Do sự nhận xét đó mà có nhiều người kèm cái thuyết trung lập cho các nước nhỏ vào cái chủ trương cộng tồn của hai khối lớn. Thuyết trung lập vì vậy mà phát triển mau lẹ và đã được thẩm xét trên thứ bực quốc tế trong Hội nghị Genève (1960).

Trung lập chế của các nước nhỏ là điều kiện tất yếu chớ chưa phải là điều kiện sung mãn: nó chỉ qui định sự bang giao của các nước này mà chẳng ảnh hưởng được lịch trình biến đổi ở trong. Do đó mà thỉnh thoảng, trong xứ ấy lại mất thăng bằng, nội chiến nổ bùng ra, đốt ngòi cho chiến tranh nguội nữa. Muốn tránh sự mất thăng bằng này, cần phải nghiên cứu lại vì sao mà nó có và phương pháp nào để tránh.

Những nước nhỏ thường là những nước hậu lạc, hoặc là những nước văn minh xưa mà trải qua mấy trăm năm đồi truỵ. Nó kém về đủ phương diện kinh tế, xã hội, chánh trị, văn hoá. So sánh ra, phần đông chỉ gần bằng các nước Âu châu khi vừa có cách mạng công nghiệp, và trong khoảng mấy chục năm phải rượt theo kịp khúc đường mà các nước ấy đã đi trong gần hai trăm năm. Để vượt tới với tốc độ này, khối Tây phương không bày cho họ được phương pháp nào, mà quần chúng của họ lại thấy gương nước Nga, nhờ phương pháp độc tài mà trong không đầu năm mươi năm, rượt theo kịp các cường quốc. Thế nên, mặc dù Nga không nhúng tay vào, như trong trường hợp nước Tàu, quần chúng này cũng tự động mà làm cách mạng. Ấy là nguyên nhân là mất thăng bằng. Huống chi Tàu, vì muốn tranh làm bá chủ với Nga trong một khối cộng sản, lại can thiệp một cách tích cực để thúc đẩy các cuộc cách cuộc cách mạng ấy.

Để tránh sự mất thăng bằng do biến thiên nội tại này, phương pháp không phải là dùng ngoại viện để đàn áp các phong trào dân chúng bằng quân sự và chánh trị. Làm như thế chỉ tổ chế dầu thêm cho chiến tranh nguội dễ nổ bùng ra mà thôi. Cái phương pháp phù hợp hơn hết là vạch cho quần chúng một lối tiến tới mau lẹ, thoả mãn được sự thèm khát đi mau của chúng, còn đem thêm cho chúng những điều mà chế độ cộng sản không sao cho họ được. Lối tiến tới ấy không phải là cái văn minh của Tây phương cung cấp được, mà cũng không thể bắt chước theo các nước cộng sản mà có được. Nó là đường lối ở giữa, thu nạp được cái hay của mỗi bên, rồi tài bồi thêm những sở kiến của mình. Ta gọi nó là “trung đạo”. Nó giúp cho các nước nhỏ giải thoát được nạn chiến tranh nguội, đồng thời giúp cho cả nhân loại xô dang ra xa cái hoạ chiến tranh thứ ba, cũng như cái trung đạo xưa của Thích Ca Mâu Ni giúp cho cá nhân giải thoát cái khổ nhỏ vậy.

*

Trung đạo tách dang xa đường lối buông lung của tư bản chủ nghĩa, cái này làm cho bần phú cách biệt, kẻ nghèo làm vật bị bóc lột và áp bức của nhà giàu, làm cho bình đẳng và bác ái trở nên những tiếng trống rỗng, làm cho công bình mất hẳn, và do đó bao nhiêu bất bình nổi lên, gây xung đột, mầm móng của chiến tranh nội loạn. Trung đạo cũng tách dang xa đường lối độc tài chà đạp tự do và nhân phẩm của con người, ngăn đón sự phát triển của cá nhân về bề cao để san phẳng bề dưới. Vì vậy, mà đi ở giữa, trung đạo sẽ là một xã hội chủ nghĩa nhân đạo.

Bởi là nhân đạo, xã hội chủ nghĩa này không bóc lột thợ thuyền và nông dân tận xương tuỷ để tích luỹ theo lối sơ khai số tư sản cần thiết hầu kiến thiết kỹ nghệ một cách cấp tốc. Vã lại có kỹ nghệ nhiều thì nước chỉ mạnh về võ lực, mà bởi các thị trường thế giới đều đầy nghẹt hàng hoá rồi, sự kỹ nghệ hoá Á châu và Phi châu chưa phải là lối hay để giải quyết các khó khăn về kinh tế. Hiện nay nạn đói kém, nhất là ở Tàu và Ấn Độ, đương giày vò cả tỉ người, thì điều mà nhân loại đòi hỏi cấp bách hơn cả, là cuộc cách mạng nông nghiệp ở Á châu và Phi châu. Áp dụng đến triệt để máy móc trong nghề canh tác, áp dụng hoá học để làm cho mùa màng tăng lên gấp đôi gấp ba, áp dụng sinh vật để chọn lựa giống tốt hơn, áp dụng tất cả khoa học để chế tạo các đồ dùng từ nông sản, thêm vào sự khai thác những rừng hoang minh mông ở Đông Nam Á và Phi châu... đó là một chương trình cách mạng nông nghiệp sẽ tiêu thụ được bao nhiêu sản phẩm kỹ nghệ của Tây phương cũng như của Đông phương và sẽ cung cấp thức ăn cho bao nhiêu người đói kém cũng như nó sẽ làm giàu cho hàng tỉ khách hàng của các nước kỹ nghệ. Có số khách hàng này trước, sự kỹ nghệ hoá các nước Á Phi sẽ đi sau chẳng muộn. Ấy là, thay vì sự người bóc lột người, một sự tân khai thác thiên nhiên. Lấy vốn ở đâu mà chi phí cho cuộc cách mạng nông nghiệp này? Câu hỏi này là một cái thử thách cho thuyết viện trợ mà các cường quốc cao rao trong mười mấy năm nay. Nếu viện trợ mà không có ý nghĩa thầm kín nuôi cuộc chiến tranh nguội, thì đây là dịp để viện trợ cho các nước yếu đó.

Tiến tới trong con đường của xã hội chủ nghĩa nhân đạo thì tất nhiên nhẹ về oai trị bằng quân đội, công an, cảnh sát mà nặng nề về đức trị bằng luân lý và đạo đức. Vậy cần một văn minh tu sĩ để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc người cho càng ngày cao quí đẹp đẽ hơn. Cái văn minh tu sĩ này cũng tuyển trạch giùm cho xã hội những cán bộ chánh trị, kinh tế. Các tăng già xưa, sống bằng khất thực như trong Phật giáo tiểu thặng, sống bằng tự sức mình làm như trong Phật giáo đại thặng, không thể cung cấp các loại cán bộ này được. Phải có những cán bộ mới, lấy sự sáng suốt mà mình nuôi sống mình đồng thời dìu dắt cho quần chúng sống nữa. Một cán bộ là một tu sĩ thêm một chuyên môn, chừng ấy đạo và đời nhất thống rồi, đạo ấy mới thật là xử thế. Đã có lúc tăng già đảm bảo được sự giáo huấn và nền y tế của nhiều nước ở Á châu, thì cũng đến lúc cái tăng già mới của minh đạo cung cấp được cán bộ cho mọi ngành hoạt động.

*

Điều cốt yếu là nhịp phát triển kinh tế đo bằng mức sống trung bình của dân chúng và sức sản xuất theo đầu người, và nhịp phát triển của xã hội của nghĩa của những nước theo trung đạo đây phải được mau lẹ hơn của những xứ tương đương bên phía cộng sản. Thiếu điều kiện này, quần chúng ắt bị phương pháp độc tài thu hút mà mầm nổi loạn không dập được.

Điều nên cố gắng kế đó là tận dụng những tự do, do sự nhân đạo đảm bảo, mà thu nhập những cái hay về khoa học, về văn chương, về nghệ thuật của cả đôi bên Đông Tây mà làm một cuộc tập đại thành, để xâu dựng một cái văn hoá mới. Có cuộc cách mạng văn hoá này, những nước theo trung đạo mới quyến rũ người lại, những phần tử bên Đông cũng như bên Tây, theo đường lối của mình.

Việc thứ ba là năng gặp gỡ nhau, cũng như ở Bandoeng, để vạch một đường lối chung về chánh trị ngoại giao quốc tế mà chủ đích là tránh nạn chiến tranh nguội và chiến tranh nóng, để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau và để giúp đỡ lẫn nhau. Trong việc giúp đỡ này, phần quan trọng hơn hết là thoả thuận một chương trình di cư, để cho những nước rộng đất mà thưa dân mở cửa đón rước số người thặng dư ở các nơi có hoạ nhân mãn và đói lạnh. Kế đến là việc trao đổi cán bộ trong mọi ngành hoạt động, những cán bộ len lỏi trong dân gian được và ít đòi hỏi như các cán bộ do sự viện trợ hiện hành.

Nếu có nhiều nước nhỏ như vậy mà ở chung một vùng, như những nước nhỏ ở Đông Nam Á, nhiều nước ở Phi châu, thì nên tổ chức lại thành Tổng liên bang, để xây những viên đá đầu của cái xã hội đại đồng. Được nhiều cái tổng liên bang trung lập như vậy thì cái viễn đồ đặt thế giới trên thế chân vạc mới có cơ thành tựu được.

Chiến tranh nội loạn ở các xứ nhỏ dứt, thì chiến tranh nguội không có cơ khởi nhúm lên được. Chiến tranh nguội không nhúm lên được, thì sự tương tranh giữa hai khối Đông Tây có thể gom về hình thứ đơn giản hơn hết của nó là thử thách với lịch sử coi chế độ nào thích ứng hơn mà tồn tại. Để gom như vậy, cần phải thuận ước nhiều điều như là sự không dùng tinh lực nguyên tử để chế khí giới, tài giảm binh bị và hạ bớt ngân sách chiến tranh, giải quyết ổn thoả một số vấn đề làm cho đôi bên găng nhau, tôn trọng trung lập chế của các nước nhỏ... Những bước đầu này khai mào cho những thi thố có tính cách bền vững hơn, như là giảm bớt chủ quyền của các cường quốc và nhượng một mớ quyền hạn cho Liên hiệp quốc, khoáng đại, để đi tới một chính phủ liên bang thế giới gồm có sự giải tán các quân đội quốc gia, để thay thế bằng một đội quân cảnh sát quốc tế, lập những cơ quan quốc tế để thi hành những kế hoạch tài chánh, kỹ nghệ, nông nghiệp, văn hoá chung cho cả loài người.

Chừng nào đến thế giới đại đồng rồi thì mới hết sợ hoạ chiến tranh và loài người mới bước vào ngưỡng cửa của một ngươn thanh bình.

*

May mắn cho cả loài người, nếu có thể tránh được nạn chiến tranh thế giới thứ ba. Như vậy nó sẽ khỏi bị bắt buộc đi lại khoảng đường đôi ba thế kỷ mà sự tàn phá xô lùi nó trở lại. Trong cái giả thiết mà một đôi nơi nhen nhúm được mầm mống của trung đạo và như vậy lách mình ra ngoài cuộc binh lửa, thì rủi có chiến tranh thứ ba nổ ra, sau cuộc chém giết và tàn phá rồi, những mầm mống ấy sẽ là những nơi nhen nhúm cho cái văn minh mới. Mấy dân tộc ấy sẽ dẫn đầu loài người trong một hai trăm năm và văn minh nọ sẽ lan tràn khắp địa cầu. Rủi hơn hết là minh đạo chưa xuất hiện, mà thế giới đại chiến đã nổ bùng, đâu đâu đều chịu cảnh tang tóc và tàn phá chung, thì một khi chiến tranh dứt rồi, cái ý bây giờ mới gieo ra, chừng ấy mới tràn lan ra được. Bởi nghĩ như vậy mà tôi mới viết bài trầm tư này.

Khi trầm tư, tôi muốn áp dụng lối tư duy của Phật vào một vấn đề mới, đem tứ thánh để làm khuôn, để dắt vào đó vấn đề chiến tranh và hoà bình của thời đại này. Tôi thấy cả hai đường lối của Đông phương và của Tây phương, đều đi ngang qua chiến tranh mới đến cái hoà bình trong ấy mình độc chiếm thế giới. Đường lối thứ ba, cái trung đạo, lấy hoà bình làm mục đích và cũng làm phương tiện, hạp với từ bi và bác ái mà cũng hạp với cao vọng của phần đông các tôn giáo, và vạch thuyết ahima một lối đi hợp lý. Làm như thế, trong đám rừng hình như thượng học, nó không cho mọc chen một cây nào mới để giành chỗ với những cội cũ. Nó không giành phần nắm chân lý với một tôn giáo nào hiện hành. Đặt một vấn đề nhận thật một cái khổ, rồi tìm phương giải thoát nhân loại khỏi cái khổ ấy, minh đạo sẽ có thể đồng minh với nhiều tôn giáo, nhiều phong trào hoà bình đang lan tràn khắp thế giới. Nó có tràn lan mau lẹ chăng là nhờ len lỏi theo lối ấy. Nhưng như thế, lắm phần hình như thượng trong Phật pháp cần phải chỉnh lại. Đó là sứ mạng của người khai đạo, của Maitreya thời nay. Thích Ca Mâu Ni thường ví cái pháp mình như cái bè để đưa người sang bờ bên kia. Hai ngàn năm trăm năm qua, bây giờ không còn chỉ vượt qua một con sông mà cần đưa cả loài người vượt qua cái biển cả đầy sóng to gió lớn. Nếu Maitreya tìm được phương pháp nào thích ứng cho trọng trách mới thì Thích Ca Mâu Ni là người hoan nghinh trước nhất. Nhưng một Maitreya có thể đem hoà bình lại chăng? Hay là hoà bình phải do tất cả loài người cố gắng mới đến được?

Đối với cái khổ tập thể, chỉ có lối giải thoát tập thể mà thôi.

Côn Sơn, tháng Chín 1962


Trầm tư thứ tư - Về nạn đói kém

Cái khổ đang làm mối lo âu hàng ngày của hơn phân nửa loài người là nạn đói kém. Không phải mới bây giờ mới có cái khổ ấy. Vào thời của Thích Ca Mâu Ni, chắc chắn là đã có nó từ lâu rồi, cho nên trong đạo Phật, tăng già đặt sự bố thí làm phép thứ nhất trong lúc đó, và tuy không viết trắng ra, song dạy dân chúng sự nhẫn tùng đối với sự nghèo khổ. Nhưng sau thế kỷ mười chín, trong lúc ấy xảy ra những cuộc cách mạng thợ thuyền ở Âu châu, và sau hai cuộc cách mạng lớn của thế kỷ hai mươi này, cách mạng Nga và cách mạng Tàu, thì quần chúng đói kém hết nghe những lời dạy nhẫn tùng của các tôn giáo nữa. Các đảng chánh trị có cơ sở tôn giáo như ở Đức, ở Pháp, ở Ý đã thấy rõ điều này và ghi sự chống nạn nghèo đói vào chương trình của mình. Đã đến lúc mà Phật pháp phải đạt vấn đề xử thế đối với bạn đói kém này, bằng không thì sẽ bị lịch sử quét bay ra ngoài không phận của nó.

*

Lịch sử đặt vấn đề đói kém này nặng nhất là cho Á châu, đặc biệt cho hai dân tộc Ấn và Tàu hơn ở đâu tất cả, mà hai xứ này, một xứ là nơi phát sanh của đạo Phật, một xứ là nơi đạo này có tín đồ đồng nhất. Lòng từ bi, bác ái thúc đẩy, viễn đồ nạn đói kém có thể gây nội loạn nữa, làm cho hai xứ này phải đi tiền đạo trong việc chống nạn đói, và phương pháp của họ chủ trương sẽ là bài học cho bao nhiêu dân tộc.

Trước năm 1949, vì ảnh hưởng của hơn tám năm chinh chiến, nước Tàu cũ phải trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng về đủ mọi phương diện, chánh trị, tài chính, kinh tế, xã hội. Nạn đói tràn lan khắp nơi làm động lực cho mấy trăm triệu nông dân khởi loạn: cuộc cách mạng, khởi từ các thôn quê hẻo lánh, bao vây các thành thị, để rồi tràn ụp đến không phương chống cự nổi. Nông dân, mượn học thuyết của Marx, và đó là cái éo le của lịch sử, đưa đảng cộng sản lên nắm chính quyền mà giải quyết các vấn đề theo lối độc tài. Riêng có nạn đói kém thì không sao đánh lui nổi. Chánh phủ bèn ban bố những phương pháp độc tài hơn nữa, chế độ công xã hiện ra, thế mà đói kém vẫn còn y như cũ. Nếu chế độ công xã thất bại, xui giục nông dân chống trả lại, thì một điều tuyên truyền xấu cho chính sách độc tài và làm giảm bớt ảnh hưởng của nước Tàu đối với các dân tộc láng giềng.

Ở Ấn Độ, chế độ tư hữu điền địa được tôn trọng hơn và tự do của nông dân được rộng rãi hơn. Nhưng sự gia tăng của sản xuất về nông nghiệp không theo kịp sự gia tăng của nhân số. Chánh phủ thi hành nhiều biện pháp, trong ấy có sự kiểm soát sanh dục. Nhưng nạn đói kém không vì đó mà bớt được.

Ở Tàu cũng như Ấn Độ, để cung cấp công việc cho một số đông thất nghiệp, và tăng gia sản xuất, người ta lập ra những kế hoạch kỹ nghệ hoá, Vì thiếu vốn lớn, nhất là vì thiếu người tiêu thụ, bởi các thị trường quốc tế đều bị các nước khác chiếm hết và cạnh tranh ráo riết, nên sự kỹ nghệ hoá hai nước này không thể mau lẹ được. Không xuất cảng sản phẩm kỹ nghệ, thì lấy tiền đâu mà nhập cảng thực phẩm để bài trừ nạn đói? Bởi vậy cho nên, đối với cả hai nước, muốn bài trừ nạn đó, cũng như muốn tạo một số người tiêu thụ cho kỹ nghệ, điều cần thiết là gia tăng gấp đôi, gấp ba sự sản xuất của nông nghiệp.

*

Muốn gia tăng sản xuất của nông nghiệp, không cần phải có chế độ này, hay chế độ kia, không cần phải nắm chính quyền hay chỉ là một phong trào dân chúng. Điều cốt yếu là cần động viên đa số nhân dân hưởng ứng với cuộc cách mạng nông nghiệp, cũng như gần hai thế kỷ rồi, người ta đã hưởng ứng với cuộc cách mạng nông nghiệp.

Cuộc cách mạng nông nghiệp không phải chỉ làm một cuộc cách mạng điền địa. Vả lại, như lịch sử nước Nga đã chỉ trong năm mươi năm này, để động viên đám nông dân, đảng cộng sản nêu ra khẩu hiệu chia đất cho dân cày, thế rồi mười mấy năm sau, Staline lại thâu đất cát để lập đồn điền công cộng và đồn điền Sôviết; và như lịch sử của nước Tàu, chỉ trong khoảng năm sáu năm thôi, chính phủ Tàu phải tịch thâu ruộng đất của nông dân để lập công xã. Thế thì, cuộc cách mạng điền địa chỉ là một khẩu hiệu chánh trị để lừa gạt nông dân, chớ không thay đổi gì được trong nông nghiệp.

Muốn làm cách mạng trong nông nghiệp, cần phải áp dụng phát minh tối tân của khoa học để gia tăng sức sản xuất lên gấp đôi, gấp ba. Điều này ta thấy có thể làm được, nếu ta so sánh năng suất của mỗi mẫu ruộng ở các nước: ở Á châu và Phi châu việc canh tác còn thủ cựu và thô sơ, nếu chỉ áp dụng được những phương pháp hiện hành ở Âu, Mỹ thì là một cuộc thay đổi lớn lắm rồi. Những rừng hoang có thể khai phá, một phần trồng lại, một phần đổi làm ruộng rẫy, sẽ tăng thêm số mẫu đất được trồng trọt. Nhờ những cách trồng cây không đất, một mớ triền núi kém đất sẽ cản xuất được.

Cuộc cách mạng nông nghiệp này cần phải động viên cho nông dân hưởng ứng và huấn luyện cho họ thuần thực được các phép canh tác mới. Những cơ quan của chánh phủ gánh hai trách nhiệm này đã đành, mà các nhà sư có thể trở nên những cán bộ tuyên truyền đắc lực và các nhà chùa, rải rác khắp nơi ở thôn quê có thể biến thành những trường canh nông thực nghiệp. Thay vì chờ có bạn đói rồi đi quyên tiền để chẩn bần, các nhà chùa có thể chống nạn đói nơi căn cội của nó là sự kém sản xuất về nông nghiệp. Họ cũng có thể tổ chức dân nghèo thành những đoàn thể để đi khai phá thêm đất hoang để trồng trọt, miễn cho xứ được nạn khất thực.

*

Tránh cái nạn khất thực, của bần dân cũng như của tăng già, ấy là cung cấp một số tay làm cho nông nghiệp chuyển từ lối canh tác theo bề rộng qua lối canh tác tập thúc và khai phá thêm hoang vu. Mà như thế, ấy là đổi cả nếp sống, đổi cả một cái văn minh, nhất là của phái tiểu thặng.

Thay đổi được nếp sống rồi, mấy nhà sư có thể biến thành những người cầm đầu các đoàn di cư, rời những nơi quá trù mật dụ người làm đến những chỗ thưa thớt cần khai phá thêm mà lập những điểm dinh điền mới, áp dụng những phương pháp canh tác mới.

*

Có một phong trào như thế và khá mạnh rồi, thì mới có thể đặt vấn đề di cư từ nước này sang nước kia, trên lãnh vực quốc tế. Các nước rộng đất, thưa dân, nhiều rừng, mới có thể đón rước mớ nhân công thuần thục và có kỷ luật, họ đem đến sự phồn thịnh và an ninh với họ.

*

Những việc trên đây, nếu đạo Phật cứ chấp cái cũ mà không chịu cải tiến canh tân, thì chắc chắn sẽ không còn bao lâu nữa sẽ bị đào thải. Bởi vì nói giải thoát con người, mà để cho con người bị nạn đói kém mà phải sa đoạ, là việc không thể dung được.

Trái lại, nếu đạo Phật dẫn đầu được cuộc cách mạng nông nghiệp mà chống nạn đói kém được đắc quả, thì đạo Phật làm được một việc hi hữu. Dìu dắt được cả tỉ nông dân ở Á châu, đạo Phật sẽ làm gương cho các dân tộc ở Phi châu, được cảm tình của họ, mới có cơ tràn lan qua Phi châu được. Hai thế kỷ trước, ở Âu châu cũng có nạn cơ cực. Nhờ cách mạng công nghiệp mà Âu châu giải quyết nhiều vấn đề, kể cả cuộc cách mạng văn hoá, là phong trào dân chủ. Đến nay, Á châu bị vào lối nghẽn, bởi tiến tới trễ, mà lắm dân tộc chọn lối độc tài, thủ tiêu tự do của con người để nêu cao cái lịnh của đoàn thể. Nếu đạo Phật mở rộng được lối nghẽn ấy, thì thay vào sự giải thoát cá nhân cũ xưa, đem lại cho số đông sự giải thoát tập thể. Điều mà tôi mong muốn vậy.

Nhưng lúc ấu đạo Phật hết còn là phái đại thặng. Ta gọi nó là minh đạo, dùng danh từ mới mà gọi cái mới vậy.

*

Đứng về một mặt khác mà xét, thì chủ nghĩa cộng sản ở Tàu cũng bị vấn đề đói kém bức bách mà phải vượt đi xa hơn học thuyết của Marx, xa hơn phương pháp của Staline. Cuộc cách mạng chánh trị, đã lấy nông dân làm chủ lực, làm cho những nhà lý thuyết phải suy nghĩ nhiều rồi, và lắm người cho rằng chủ trương của họ Mao không theo lề lối của Marx nữa. Nếu mai kia mà ở Tàu đảng cộng sản buộc mình phải làm cuộc cách mạng nông nghiệp nữa, thì thêm một lần, nông dân lại làm chủ lực cho cuộc cách mạng kinh tế.

Rồi cái chánh trị độc tài phải nhượng bộ ít nhiều cho nông dân, cũng như hồi xưa ở Nga, Lénine nhượng bộ cho họ mà thi hành Tân kinh tế chính sách (NEP). Rồi đường lối của Nga và đường lối của Tàu sẽ lần ra, bàn cờ thế giới đổi nước. Đó là điều mà nhà làm chánh trị nên chủ ý tới.

Mà điều đáng chú ý hơn nữa là sự thay đổi song song, một bên của đạo Phật, nếu có, một bên của chủ nghĩa cộng sản, mỗi bên cổi bỏ những lỗi thời của mình, thêm áp dụng những phát minh của khoa học, triết học từ hồi Marx qua đời cho tới bây giờ, để làm một cuộc tập đại thành. Thì chừng đó không còn chủ nghĩa cộng sản nữa, mà cũng chẳng còn đạo Phật nữa. Một cái lý tưởng mới xuất hiện, thích ứng với loài người của cuối thế kỷ hai mươi và của thế kỷ thứ hai mươi mốt.

*

Để giúp cho sự tổng hợp này xuất hiện được, một vài nước nhỏ ở Đông Nam Á có một vai trò chẳng nhỏ. Tôi nghĩ trước nhất đến nước Miến Điện vì ở đây, đạo Phật thịnh hành xã hội chủ nghĩa cũng nhiều nhựa sống, lại ở đây giàu lúa gạo. Nếu hợp nhất được đạo Phật và xã hội chủ nghĩa để gây một phong trào chủ lực cho cuộc cách mạng nông nghiệp, thì Miến Điện sẽ xuất cảng lúa gạo nhiều gấp bốn năm lần, giúp cho Tàu và Ấn Độ có chỗ mua gạo mà đồng thời nêu một cái gương sáng tỏ. Xã hội chủ nghĩa ở Miến Điện không có độc tài như chủ nghĩa cộng sản, thì sự tập đại thành với đạo Phật có cơ dễ dàng hơn. Cái khổ là ở bên đạo Phật: chẳng biết phát tiểu thặng ở đây có vươn mình nổi để làm cuộc cách mạng văn hoá này chăng?

Nếu ở Miến Điện mà thành công được cuộc cách mạng nông nghiệp và cuộc cách mạng văn hoá, thì ảnh hưởng của sự thành công này sẽ tràn lan qua các nước gần Đông Nam Á và Ấn Độ, rồi đến lượt các nước Tàu. Chừng ấy đặt vấn đề tổng liên bang ở Á châu có thể được hưởng ứng: điều này tuỳ nơi có chiến tranh thế giới thứ ba cùng chăng?

Nếu sớm thực hiện được cuộc cách mạng nông nghiệp và cuộc cách mạng văn hoá cho Đông Nam Á, rồi rủi có chiến tranh thế giới thứ ba nổ bùng ra, Đông Nam Á nên lách mình ra ngoài vòng binh lửa để sau chiến tranh cứu độ cả loài người khỏi nạn đói kém, dĩ nhiên sau cơn tàn sát. Đó là một viễn đồ nêu ra để cho nhà cầm quyền ở Đông Nam Á lưu ý tới.

Đến đây, tôi chỉ nghiên cứu nạn đói và cách chống lại nó bằng những phương pháp tự lực. Nhưng từ khi có Liên hiệp quốc và chánh sách viện trợ của các cường quốc, thì ta cũng chớ nên bỏ qua vấn đề này.

Bấy lâu nay, sự viện trợ này không phù hợp với những sự nhu cầu khẩn thiết của các nước được viện trợ. Người ta giúp tài chánh nhiều để tổ chức quân đội, cảnh sát và công an mạnh hơn chứ không phải để làm những công cuộc dẫn thuỷ nhập điền khai phá hoang vu. Người ta viện trợ súng đại bác, xe tăng và tàu bay hơn là giúp máy cày gặt hay phân bón. Những ngoại tệ được giúp không dùng để mua máy móc cho nông nghiệp, mà để cho các giai cấp hữu sản mua xe hơi và tủ lạnh. Những học bổng cho sinh viên là cốt rèn luyện cho chúng trở nên cán bộ của giai cấp hữu sản chứ chẳng cố gắng đặc biệt đào tạo cán bộ cho nông nghiệp. Các cố vấn gọi qua không có vị nào chuyên cho ngành này.

Nay đến lúc “phản kỳ sở vi” mà tập trung năng lực lại giúp cho Á châu thoát nạn đói kém. Cần yếu nhất lá được vay dài hạn để làm vốn cho mọi khuếch trương nông nghiệp như các công cuộc dẫn thuỷ nhập điền, khai phá đất hoang, mua sắm máy móc và phân bón, cất kho vựa, dựng các nhà máy chế nông sản...

Có viện trợ như thế thì các dân tộc được viện trợ mới biết cám ơn các nước đi viện trợ.

Côn Sơn, tháng Mười 1962



Trầm tư thứ năm - về nạn nhân mãn

Từ đầu thế kỷ hai mươi, đã có nạn nhân mãn. Nhiều nước kỹ nghệ, nhưng dân số quá trù mật, nhiều nước nông nghiệp, mà thiếu đất để trồng trọt hoặc thiếu vốn để khai thác thêm chỗ cày cấy, nên rất khốn đốn vì nạn này. Lắm nơi, đã thành nguyên nhân cho sự đói kém. Nhiều chỗ, nó đã thôi thúc cho lắm phong trào chánh trị, đem rắc rối tăng thêm sự rắc rối.

Để giải quyết nạn nhân mãn này, một đôi cường quốc đã chủ trương đòi đấy để sống, và mượn cớ đó mở ra những cuộc chiến tranh chinh phục, như Ý ở A-bit-xi-ni và Nhựt ở Mãn Châu, nối tiếp các cuộc chiến tranh thực dân của thế kỷ thứ mười chín. Nhưng cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kéo màn mở lớp cho cuộc tranh đấu giải phóng ở tất cả các nơi bị trị, Á châu và Phi châu đã thức tỉnh và mang hia bảy dặm mà rượt theo các nước tiền tiến. Thì tình thế này làm cho sự đòi hỏi trên kia hoá ra ảo vọng, nếu còn đeo mãi cái mộng xâm lăng.

Mà dầu có đạt được cái ảo vọng này, chánh sách dùng chiến tranh để xâm chiếm đất thêm là một biện pháp phản kinh tế. Sự hao tốn về chiến tranh, nhất là với chiến tranh hiện thời, rất nhiều, sánh với số vốn cần thiết để thực hành một cuộc công nghiệp cách mạng đủ nuôi được số dân tính di cư sang đất thưa. Những thủ lãnh chánh trị khôn ngoan không thể nào chọn lựa một phương pháp tai hại như vậy. Vả lại, đốt ngòi cho một cuộc chiến tranh xâm lăng, biết chắc sẽ nắm được phần thắng trong tay chăng? Việc Nhựt lấy Mãn Châu rồi đánh luôn nước Tàu, chiếm cả Đông Nam Á, rồi thua, việc Ý thất bại ở A-bi-xi-ni, sự thắng lợi của các cựu thuộc địa trong các cuộc chiến tranh giải phóng, sự thắng lợi của Ai Cập trong cuộc xung đột ở Trung Đông..., tất cả các điều ấy đều chứng tỏ rằng chiến tranh là bất lợi.

*

Hiến đất để sống cho các dân tộc mang nặng hoạ nhân mãn, thì hoạ may có lợi là khi dùng biện pháp thoả thuận hoà bình, tức là phải làm sao cho những nước rước dân mới vào thấy có lợi và có vui mà mở cửa.

Trước nhất là miễn cho các nước đón rước ấy những cái hiểm hoạ hoặc những điều phiền phức. Mà cái hiểm hoạ đầu tiên là sự mất an ninh chánh trị: nếu cho dân kiều cư đến ở mà chúng đem theo những rắc rối như là gây các cuộc khởi loạn, thì chẳng có nước nào bằng lòng. Về điểm này, gương của Tàu, thì năm cộng sản lên nắm chánh quyền nên chẳng có Hoa kiều xuất ngoại được, là một gương làm cho các nước bị hoạ nhân mãn nên nghiền gẫm. Kế đến là nạn trộm cướp, do bọn bất lương mang đến, làm cho chánh quyền phải hao tốn rất nhiều để đàn áp. Sau cùng là nạn thất nghiệp do sự cho vào những kẻ không sanh kế, rồi phải làm thứ ăn hại của xã hội. Còn một viễn đồ cần phải cố tránh trước, là đừng để cho dân trong xứ đón rước thấy một ngày mai sau họ sẽ trở nên là thiểu số đối với một chủng tộc nào khác đến, rồi họ phải diệt tộc cũng như người da đỏ bị ở Mỹ châu.

Nói như thế, tất phải có một kế hoạch quốc tế để dời dân ở các nơi trù mật đến những nơi còn thưa thớt và cần dùng tay là để khai phá thêm. Theo kế hoạch này, cần phải làm hiển hiện những quyền lợi cấp thời và vĩnh viễn của những xứ đón rước, cũng như trong thế kỷ mười tám và mười chín, sự di cư sang Mỹ châu đã làm cho châu này từ bán khai nhảy vọt đi đầu trong lịch sử. Cũng cần cho những nước khác, không có dân cần di cư mà cũng chẳng có quyền lợi gì đón rước người di cư, nhận thấy những quyền lợi to mà ủng hộ một kế hoạch như thế không ngoài một cuộc cách mạng nông nghiệp ở cấp bực quốc tế. Cuộc cách mạng này, có thể thi hành xong trong vài chục năm, sẽ cung cấp đầy đủ thực phẩm cho các dân tộc ở toàn địa cầu, thêm nhiều nông sản nguyên liệu cho kỹ nghệ, sẽ đào tạo thêm một số khổng lồ khách hàng mới cho kỹ nghệ phẩm nhờ mức sống của nông dân lên cao, đổi những xứ bán khai thành những nước trù phú và phân phối lại dân cư trên trái đất.

Nếu có được một chánh phủ liên bang thế giới để chủ trừ kế hoạch này thì các vấn đề pháp lý, tài chánh, kỹ thuật, chuyên môn đều có đủ điều kiện để giải quyết. Nhưng một Liên hiệp quốc, như bây giờ, vì muốn có một viễn đồ an ninh công cộng, có thể đề xướng ra một kế hoạch tích cực như thế. Công việc có hơi chậm trễ và khó khăn hơn, nhưng không phải là không thi hành được.

*

Vấn đề nhân mãn, nhờ cách mạng nông nghiệp ở thứ nguyên quốc tế mà tạm đánh lui được vài ba trăm năm, song sẽ hiện tại, lần này không có phương pháp giải quyết nào khác hơn là sản xuất thực phẩm bằng kỹ nghệ, bằng phương pháp tổng hợp, rút chất C, Az, N, O, H,... ở trong thiên nhiên mà chế các loài ăn cần dùng, thay quyền của tạo hoá mà thực hiện các thức tổng hợp bấy lâu nay chỉ xảy ra trong cây cối hay trong thân thể các loài thú. Tôi tin rằng trong vài ba trăm năm nữa, hoá học đã tiến bộ đến mức ấy.

*

Nhưng rồi ít trăm năm nữa, trái đất sẽ quá chật, vì số người tăng lên đến gấp ba gấp năm. Đến chừng ấy, vấn đề di cư loài người từ trái đất lên cung trăng, sang Hoả tinh (mars) và Kim tinh (vénus)... phải đặt ra mới mong có biện pháp. Hiện nay, khoa học đi tới với một tốc lực ngày càng gia tăng thêm, thì chúng ta có thể hy vọng thực hiện được chương trình này. Nhưng ngay từ bây giờ, cần phải kể sự nghiên cứu và đặt những viên đá đầu tiên của việc ấy.

Việc thứ nhất là dời qua các hành tinh ấy không khí để nuôi sống vạn vật và nước để nuôi sống cây cỏ. Muốn dời các thứ này phải sẵn có những nguồn tinh lực vô tận và rẻ tiền. Tôi nghĩ đến tin lực của vũ trụ, bấy lâu nay đã gây được nhiều cuộc biến thiên lớn, như là làm cho quả địa cầu mấy lần thay trục, làm cho mặt trăng tách rời trái đấy để thành một vệ tinh, ắt có thể giúp cho ta dời sang qua các nơi kia nước và không khí cần thiết.

Hễ đem bớt nước đi, thì mực nước của các đại dương và các biển có thể sụt xuống độ mấy trăm thước. Điều ấy làm cho bày thêm đất liền cho các địa lục và mọc lên nhiều đảo giữa các biển. Ấy là những đất thêm cho người ở và trồng trọt. Ấy cũng là một cách giải quyết tạm bợ nhỏ nạn nhân mãn, dùng được cho một hai thế kỷ.

*

Khi mà di cư được một hai tỉ người sang qua mặt trăng hay sang qua các hành tinh kế cận, thì chẳng những giải quyết được nạn nhân mãn, mà có thể giảm bớt sự đe doạ của chiến tranh bằng cách thoả thuận nhau mà dời người cùng lý tưởng nhau sang cùng một hành tinh. Như vậy sẽ có bao nhiêu thế giới khác nhau về lý tưởng mà bởi ở xa cách nhau quá, nên ít có dịp xung đột với nhau. Giữa hành tinh Hoả tinh (mars) và Mộc tinh (jubiter pata), có hàng ngàn hành tinh nhỏ để cho loài người giải quyết vấn đề trên một cách ổn thoả.

*

Dầu di cư có đông đến thế nào, thì lối giải quyết vẫn là một lối tạm bợ có giá trị trong một thời hạn nào mà thôi. Lối giải quyết vĩnh viễn phải là sự kiểm soát sanh dục như phần đông các nhà bác học đã chủ trương.

Côn Sơn, tháng Mười Một 1962
Nguồn: Hồ Hữu Tường, Trầm tư của một tên tội tử hình, Lá Bối ấn hành lần thứ nhất, xong ngày 20-8-1965 tại ấn quán Sen Vàng. Ngoài những bản thường còn in thêm 100 bản trên giấy quý dành riêng cho tác giả và nhà xuất bản. Giấy phép số 199/HĐKD – Huế, ngày 15-6-1965.