Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư Gửi một Quốc gia Ki tô giáo – Phần 3. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư Gửi một Quốc gia Ki tô giáo – Phần 3. Hiển thị tất cả bài đăng

23/5/10

Thư Gửi một Quốc gia Ki tô giáo – Phần 3

Sam Harris

PHẦN 4

Tôn giáo, Bạo hành và Tương lai của Nền văn minh

Cả tỉ ngưòi chia xẻ cùng niềm tin với bạn rằng đấng tạo dựng vũ trụ đã viết (hay đọc cho ngưòi khác viết) các cuốn kinh sách của chúng mình. Kém may mắn thay, có quá nhiều cuốn sách đã giả tạo như có nguồn gốc từ các tác giả thánh thần và đã khẳng định những điều không không giống nhau về việc tất cả chúng ta phải sống như thế nào. Các học thuyết tôn giáo cạnh tranh đã làm tan nát thế giới của chúng tan ra từng mảnh cộng đồng đạo đức riêng rẽ, và những chia rẽ này đã trở nên một cội nguồn liên tục của đối kháng nhân loại.

Ðể đáp ứng với tình hình này, nhiều ngưòi nhạy cảm cổ võ cho cái gọi là lòng khoan dung tôn giáo. Dù khoan dung tôn giáo chắc chắn là tốt hơn chiến tranh tôn giáo nhưng sự khoan dung không phải không có vấn đề của chính nó. Nỗi lo sợ của chúng ta về sự khiêu khích các hận thù tôn giáo đã dẫn chúng ta đến việc không sẵn lòng phê bình các tư tưởng đang ngày càng tăng thêm các áp dụng không đúng chỗ và lố bịch rõ rệt. Nỗi lo sợ này cũng ép buộc chúng ta phải tự lừa dối mình – lập đi lập lại và ở những mức cao nhất của bàn luận – về sự tương thích giữa đức tin tôn giáo và hợp lý khoa học. Những cạnh tranh về xác quyết tôn giáo của chúng ta đang cản bước xuất hiện của một nền văn minh toàn cầu vốn có thể thành tựu được. Ðức tin tôn giáo- đức tin cho rằng có một đấng Thiên chúa, Ngưòi quan tâm đến chính cái danh xưng mà mình đưọc xưng danh, đức-tin tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, đức tin rằng các ngưòi tử đạo Hồi giáo sẽ đi thẳng lên Thiên đàng – đang ở phía sai lầm của cuộc chiến tranh tư tưởng đang leo thang.

Tôn giáo làm tăng những xung đột nhân loại hơn là sự đề cao bộ lạc, phân biệt chủng tộc, hoặc chính trị từng gây ra, vì đó là hình thái duy nhất của những suy tưởng của ngưòi cùng hội /kẻ ngoài hội, đúc khuôn được những khác biệt giữa con ngưòi trong các phạm vi về trừng phạt và phần thưởng đời đời. Một trong những bệnh lý học lâu dài của văn hoá nhân loại là khuynh hướng nuôi dạy trẻ em biết sợ hãi và quỷ ma hóa con người khác bằng những căn bản của đức tin tôn giáo. Do vậy, đức tin tối thiểu đã khơi dậy bạo hành trong hai cách. Một là, con ngưòi thường giết hại kẻ khác vì họ tin rằng đấng tạo hóa muốn họ phải hành động như thế. Những kẻ khủng bố Hồi giáo là thí dụ gần đây nhất cho hành xử loại này. Hai là, rất đông ngưòi rơi vào các đối nghịch với kẻ khác vì họ muốn vạch định tập thể đạo đức của mình trên căn bản của mối quan hệ tôn giáo: Hồi giáo đứng về phe những ngưòi Hồi giáo khác, Thệ phản giáo với thệ phản giáo, Công giáo với công giáo. Những xung đột này không chỉ dứt khoát vì tôn giáo. Nhưng sự mù quáng cố chấp và thù hận vốn chia rẽ cộng đồng này với cộng đồng khác thường còn là các sản phẩm của sự nhận dạng tôn giáo. Bỏi vậy, những xung đột dưòng như bị chi phối hoàn toàn từ những quan hệ trần thế này lại thưòng có căn nguyên sâu xa từ trong tôn giáo. Cuộc chiến đã quấy rối ngưòi Palestine (Do thái giáo chống Hồi giáo), vùng Balkans (Chính thống giáo Serbians chống Công giáo Croatians; Chính thống giáo Serbians chống Hồi giáo Albanian và Bosnian), Bắc Ái nhĩ Lan (Phản thệ giáo chống Công giáo), vùng Kashmir (Hồi giáo chống Ấn độ giáo), Sudan (Hồi giáo chống Ki-tô giáo và những ngưòi theo thuyết vật linh), Nigeria (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Ethiopia và Eritrea (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Ivory Coast (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Sri Lanka (Phật giáo Sinhalese chống Ấn độ giáo Tamil), Phi luật Tân (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Iran và Iraq (Hồi giáo Shiite chống Hồi giáo Sunni) và vùng Caucasus ( Chính thống giáo Nga chống Hồi giáo vùng Chechen, Hồi giáo Azerbaijan chống Công giáo và Chính thống giáo Armenie), tất cả chỉ là những trường hợp rất gần đây trong sự kiện này.

Và cho đến lúc này, khi các phân rẽ tôn giáo trong thế giới của chúng ta là hiển nhiên, nhiều ngưòi vẫn tưởng tượng rằng xung đột tôn giáo luôn luôn có nguyên nhân từ sự thiếu giáo dục, nghèo đói hay chính trị. Hầu hết những ngưòi không theo tôn giáo nào hoặc những ngưòi tự do, ôn hòa hình như cho rằng chẳng có ai phải thực sự hy sinh mạng sống của cá nhân mình hay của ngưòi khác vì các xác chứng tôn giáo của mình. Những ngưòi như thể đơn giản là chưa hiểu được việc muốn chắc được vào chốn thiên đàng là phải như thế nào. Do đó, họ không tin là có ai chắc chắn được lên thiên đàng. Ở đây, cũng đáng để nhớ lại là những không tặc của ngày 11 tháng 9 là những ngưòi tốt ngiệp cao đẳng, những con ngưòi trung lưu rõ ràng là chưa từng trải qua sự áp bức chính trị. Thế mà, họ đã bỏ rất nhiều thì giờ ở các đền thờ địa phương của họ để trao đổi về sự trụy lạc của những tên phản đạo và về những lạc thú đang dành cho những người tử đạo trên thiên đường. Phải cần đến bao nhiêu kiến trúc sư, kỹ sư húc vào bức tường ở tốc độ bốn trăm dặm một giờ trước khi chúng ta tự nhận rằng bạo lực thánh chiến ấy không một mảy may là sự kiện của thiếu giáo dục, nghèo kém hay chính trị? Sự thật, khá lạ lung là như thế này: vào năm 2006, một ngưòi có thể đủ trí tuệ cần thiết và tài nguyên vật liệu để tạo một quả bom hạch nhân và kẻ ấy vẫn tin rằng mình sẽ có được bảy mươi hai trinh nữ trên thiên đường. Những nhà tư tưởng thế tục, tự do và ôn hòa ở phương Tây đã rất chậm hiểu vấn đề này. Sự nhầm lẫn, bối rối có nguyên nhân rất đơn giản: Họ không biết rằng sự cả tin vào Thượng đế là như thế nào.

Hãy đề chúng tôi cân nhắc ngắn gọn xem những xác quyết trái nghịch của tôn giáo sẽ dẫn chúng ta về đâu trên bối cảnh toàn cầu. Hiện nay quả đất là nhà ở của khoảng 1.4 tỉ ngưòi Hồi giáo, đa số họ tin rằng có một ngày bạn và tôi hoặc sẽ cảỉ đạo trở thành Hồi giáo để sống khuất phục dưói một vị giáo chủ Hồi giáo, hoặc sẽ bị giết chết vì sự không tin theo của mình. Hồi giáo hiện là tôn giáo phát triển nhanh nhất ở Âu châu. Mức sinh sản của ngưòi Hồi giáo ở Âu châu nhiều gấp 3 lần ở các láng giềng không Hồi giáo. Nếu khuynh hướng hiện này cứ tiếp tục, và dù ngay ngày mai những cuộc di dân có bị chặn đứng lại, thì hai mươi lăm năm nữa, Pháp sẽ là quốc gia có đa số là Hồi giáo. Khắp Âu châu, các cộng đồng Hồi giáo thường rất ít có khuynh hướng thu nhận các giá trị dân sự và thế tục từ các nước chủ nhà của họ, lại còn lợi dụng tối đa những giá trị này, yêu sách đến sự tha thứ cho tính thù ghét phụ nữ, oán hận ngưòi Do Thái của họ, và lòng oán hận tôn giáo thường xuyên được rao giảng trong các đền thờ của họ. Cưỡng bức hôn nhân, giết người vì danh dự, hãm hiếp tập thể để trừng phạt và sự ghê tởm hành vi giao hợp đồng tính đến độ giết ngưòi, tất cả là hiện là những đặc điểm của một Âu châu thế tục khác nhờ vào Hồi giáo.[i] Sự phải đạo chính trị và nỗi lo sợ về sự kỳ thị chủng tộc đã khiến nhiều ngưòi Âu châu do dự trong việc chống lại các cống hiến tôn giáo đáng sợ của những ngưòi cực đoan lẫn trong họ. Với một vài ngoại lệ, các khuôn mặt cộng đồng từng có can đảm nói thẳng về mối hiểm họa của Hồi giáo đối vói Châu Âu là những ngưòi Phát-xít. Ðây là một dự báo không lành mạnh cho tương lai của nền văn minh.

Ý tưỏng cho rằng Hồi giáo là “một tôn giáo hòa bình bị những kẻ cực đoan cướp đoạt” là một ý tưởng hoang đường, và ý tưởng đó hiện là một hoang đường đặc biệt nguy hiểm vì Hồi giáo đang được thụ hưởng ý tưởng ấy. Không rõ chúng ta sẽ tiến hành cuộc đối thoại của mình với thế giới Hồi giáo bằng cách nào, nhưng tự đánh lừa mình bằng những uyển ngữ không thể là một giải đáp. Hiện nay, rõ ràng các phạm vi của chính sách đối ngoại nói lên sự thật là những cải cách thực sự trong thế giới Hồi giáo không thể áp đặt từ bên ngoài vào. Nhưng nhận thức được nguyên nhân tại sao như vậy là một điều quan trọng – sự thể như vậy là vì hầu hết những ngưòi Hồi giáo đều cực kỳ loạn trí bởi đức tin tôn giáo của họ. Người Hồi giáo có khuynh hướng thường nhìn các vấn đề của chính sách công cộng và xung khắc toàn cầu qua các phạm trù liên quan đến Hồi giáo của họ. Và ngưòi Hồi giáo nào không có cùng cái nhìn như thế sẽ có cơ nguy bị gắn cho nhãn hiệu bội giáo và bị những ngưòi Hồi giáo khác giết chết.

Nhưng làm sao chúng ta có thể mong thuyết phục những ngưòi Hồi giáo nếu như chúng ta không thể tự thuyết phục chính mình? Sẽ chẳng đạt được gì nếu chỉ khẳng định rằng “chúng mình thờ phượng cùng một Thiên chúa”. Chúng ta không hề thờ phượng một Thiên chúa chung, và không có gì thực chứng cho điều này hùng hồn hơn là một lịch sử nhuộm máu vì tôn giáo của chúng ta. Trong nội bộ Hồi giáo, người Shi’a và ngưòi Sunni cũng không thể đồng lòng với nhau trong việc cùng thờ phượng một Thiên chúa chung, và chính vì lý do này mà họ đã chém giết lẫn nhau trong nhiều thế kỷ.

Dường như rất khó để hàn gắn được những rạn nứt trong thế giới chúng ta thông qua đối thoại giữa những người không cùng tín ngưỡng. Người Hồi giáo cuồng nhiệt cũng tin rằng tôn giáo của họ là hoàn hảo như chính bạn tin vào tôn giáo mình như thế và bất kỳ sự trệnh hướng nào cũng sẽ dẫn đến địa ngục. Lẽ dĩ nhiên, thật dễ dàng cho các vị đại diện các tôn giáo lớn thỉnh thoảng hội họp vớí nhau để cùng đồng ý rằng nên có hòa bình trên địa cầu, hay rằng là tình thương yêu sẽ là sợi chỉ xuyên suốt để kết họp được tất cả các đức tin tôn giáo trên toàn cầu. Nhưng không thể thoát khỏi sự thực là niềm tin tôn giáo của một cá nhân đã đon độc chi phối suy nghĩ của y về mối ích lợi của một nền hòa bình cũng như y thực sự muốn nói gì về “tình bác ái”. Có hàng triệu – có lẽ hàng trăm triệu – ngưòi Hồi giáo sẵn sàng chết trước khi họ có thể cho phép phiên bản bác ái của bạn đạt được chỗ đứng trong các bán đảo Ả Rập. Làm sao mà các đối thoại không cùng tôn giáo, ngay cả ở cấp cao nhất, hoà hợp được những thế giới quan vốn đã không thể tương thích tự nền tảng, miễn nhiễm với những cải tiến tự trong nguyên tắc. Sự thật là, cái gì và nguyên nhân tại sao đã khiến nhiều tỉ người tin theo mới là điều hệ trọng.

Kết luận

Một trong những thử thách lớn nhất đối với nền văn minh của thế kỷ hai mươi mốt là để cho nhân loại học hỏi được cách bày tỏ những quan tâm cá nhân sâu kín nhất của mình – về luân lý, kinh nghiệm tâm linh và những đau khổ không tránh khỏi được của con ngưòi – trong những phương cách không tỏa ra mùi vị phi lý. Chúng ta rất cần đến một cuộc bàn luận công khai để khuyến khích những suy tưởng phê phán và lương thiện trí thức. Không có gì ngăn cản dự án này hơn là lòng kính trọng mà chúng ta đang dành cho đức tin tôn giáo.

Chắc tôi là người đầu tiên thú nhận rằng các triển vọng nhằm tiệt trừ tôn giáo trong thời đại của chúng ta không được tốt đẹp lắm. Thế nhưng, một thú nhận tương tự như thế có thể đã từng xảy đến trong nỗ lực tiêu diệt tệ nạn nô lệ vào cuối thế kỷ mười tám. Ai hằng phát biểu tự tin về cuộc diệt trừ nô lệ ở Mỹ vào năm 1775 chắc chắn tưởng là mình phí thì giờ và phí thì giờ một cách nguy hiểm.

So sánh tương đồng ấy không được hoàn hảo lắm nhưng có tính gợi ý. Nếu như chúng ta có từng vưọt qua được niềm hoang mang về tôn giáo của chúng ta, chúng ta có thể sẽ nhìn lại giai đoạn này trong lịch sử nhân loại với nỗi kinh hoàng và hết sức sửng sốt. Làm sao mà con người ta có thể từng tin những điều như thế ở thế kỷ hai mươi mốt này. Làm sao ngưòi ta có thể để cho xã hội của họ trở nên vỡ nát một cách hiểm nghèo bởi những khái niệm trống rỗng về Thiên chúa và Thiên đàng? Sự thật là, một số niềm tin mà chúng ta hằng ấp ủ nhất đã đáng xấu hổ như con tàu chở nô lệ cuối cùng đến Mỹ trễ đến tận cuối năm 1859 (cùng vào niên đại mà Darwin xuất bản Nguồn gốc của Sinh vật).

Rõ ràng, đến lúc chúng ta phải học cách thoả mãn những nhu cầu xúc cảm của mình mà không phải ôm lấy sự lố bịch. Chúng ta phải tìm cách nào để mỗi khi cầu xin đến sức mạnh của các nghi thức tế lễ và ghi dấu các chuyển hoá của đời sống thường nhật vốn đòi hỏi đến chiều sâu – như các việc sinh sản, hôn nhân, tử biệt – mà không phải tự dối mình về chức năng tự nhiên của đời sống. Chỉ khi nào việc nuôi dạy con trẻ để khiến chúng tin mình là ngưòi Ki-tô giáo, ngưòi Hồi giáo hay người Do Thái giáo sẽ bị xem như một sự xuẩn ngốc lố bịch như chính bản thân sự việc ấy. Chỉ khi ấy chúng ta mới có được cơ hội hàn gắn những rạn vỡ quá sâu và nguy hiểm trên thế giới của chúng ta.

Tôi không hề nghi ngờ rằng sự chấp nhận chúa Ki-tô của bạn trùng hợp vói những thay đổi tốt đẹp trong đòi sống của bạn. Có thể là bạn hiện đang yêu kẻ khác trong một phương cách mà bạn chưa hề từng nghĩ rằng bạn có thể yêu thương như vậy. Có thể bạn còn chứng nghiệm được cảm giác hạnh phúc khi bạn cầu nguyện. Tôi không hề có ý dèm pha bất cứ chứng nghiệm nào như thế của bạn. Tuy nhiên, tôi chỉ muốn vạch ra rằng, hàng tỉ con ngưòi khác của cả nhân loại đang có cùng những chứng nghiệm tương tự – nhưng họ có chứng nghiệm ấy khi suy tưởng về Khrisna, hoặc Allah, hoặc Phật thích ca, khi sáng tạo nghệ thuật, âm nhạc, hay khi suy tưởng về vẻ đẹp của thiên nhiên. Không có nghi ngờ gì về năng lực chứng nghiệm những chuyển biến sâu sắc của con ngưòi. Và không có nghi hoặc gì về khả năng diễn đạt sai những chứng nghiệm ấy, và đi xa hơn nữa trong sự tự lừa dối mình vể bản chất của thực tại. Dĩ nhiên, bạn có lý khi tin rằng cuộc đời còn có những điều quan trọng hơn là việc chỉ am hiểu cơ cấu và nội dung của vũ trụ. Nhưng điều này không hề khiến những khẳng định phi lý và không thể biện giải đưọc về cấu trúc và nội dung của vũ trụ trở nên đứng đắn hơn.

Thật là quan trọng để ý thức đưọc rằng khác biệt giữa khoa học và tôn giáo không phải là vấn đề ở sự việc loại trừ trực giác luân lý và chứng nghiệm tâm linh của chúng ta ra khỏi cuộc bàn luận về thế giới; mà vấn đề là ở sự chân thật của chúng ta về những gì chúng ta có thể kết luận hợp lý được từ căn bản của chúng. Có những lý lẽ đúng để tin rằng những đấng như Jesus và Phật thích Ca không hề nói điều vô nghĩa khi phát biểu về năng lực con ngưòi của chúng ta để chuyển hóa đời sống chúng ta bằng những phương cách đẹp đẽ và hiếm có. Nhưng bất cứ khám phá chân thực nào của luân lý hay suy tưởng cuộc sống đòi hỏi các tiêu chuẩn giống nhau về tính hợp lý và tự phê phán để làm sinh động tất cả các bàn luận trí thức.

Như một hiện tượng sinh học, tôn giáo là sản phẩm của tiến trình nhận thức vốn có gốc rễ sâu trong quá khứ tiến hoá của chúng ta. Một số nhà khảo cứu đã nghiên cứu rằng có lẽ bản thân tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khiến cho các nhóm lớn các con ngưòi tiền sử gắn bó xã hội với nhau. Nếu điều này là đúng, chúng ta có thể nói rằng tôn giáo đã cống hiến một mục đích quan yếu. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là tôn giáo đang cống hiến một mục tiêu quan yếu cho ngày hôm nay. Cuối cùng, không có gì tự nhiên hơn sự hãm hiếp. Nhưng không ai có thể biện luận rằng hãm hiếp là tốt, hoặc hãm hiếp là thích ứng với một xã hội dân sự, bởi vì hãm hiếp có thể có thể đã từng là một lợi thế tiến hoá cho tổ tiên của chúng ta. Một tôn giáo từng phục vụ cho một số chức năng cần yếu cho chúng ta trong quá khứ không thể ngăn ngừa khả năng là tôn giáo ấy đang là bước cản lớn nhất cho việc xây dựng một nền văn minh toàn cầu của chúng ta.

LÁ THƯ này là một sản phẩm của một sự thất bại. Thất bại của những cuộc tấn công đầy tài năng vào tôn giáo từng đến trước đây, thất bại của nhà trường chúng ta trong việc làm thế nào để đả thông được cái chết của Thiên chúa đến từng thế hệ, thất bại của truyền thông trong sự phê phán các khẳng định tôn giáo thấp hèn của những con ngưòi thuộc công chúng của chúng ta – thất bại lớn, hoặc nhỏ đã giữ cho mọi xã hội trên địa cầu này cứ luẩn quẩn lúng túng về Thiên chúa và khinh miệt những ai luẩn quẩn lung túng bằng cách khác.

Những ngưòi không tin vào tôn giáo như cá nhân tôi đứng cạnh bạn, lặng ngưòi đi bên lũ Hồi giáo đang cầu tử thần đến trên cả đất nước của bao ngưòi còn đang sống. Nhưng chúng tôi cũng lặng ngưòi đi vì bạn nữa – vì sự từ chối cái thực tế hiển nhiên của bạn, vì sự khổ đau mà bạn đang tạo ra trong sự phục vụ cho những bí hiểm tôn giáo của bạn, và bởi vì những dính líu của bạn với một Thiên chúa tuởng tượng. Lá thư này là là diễn đạt của những sửng sốt ấy – và, có lẽ của một hy vọng nhỏ nhoi.

LỜI BẠT CHO ẤN BẢN CỦA VINTAGE BOOKS

NHÂN LOẠI đã từng có thời gian dài hoang tưởng với sự hiến máu tế. Thực vậy, không có gì bất thường cả trong việc một đứa trẻ sinh ra trong thế gian này để chỉ được thương yêu và kiên trì dạy dỗ nuôi lớn từ những kẻ cuồng đạo, những kẻ tin rằng cách tốt nhất để giữ mặt trời ở yên trong vòng quay hay để bảo đảm một vụ mùa sung túc là âu yếm dắt đứa trẻ ra đồng hoặc lên núi để giết, chôn vùi hoặc thiêu sống nó như một dâng hiến cho Thiên chúa vô hình. Vô số trẻ em đã bất hạnh sinh ra trong thời kỳ quá đen tối, khi ngu dốt và hoang tưởng không thể tách bạch trong kiến thức và khi tiếng trống của những kẻ cuồng tín tôn giáo thúc lên ăn khớp với mỗi nhịp tim con ngưòi. Thực tế, hầu như không nền văn hóa nào đưọc miễn trừ bởi loài quỷ này : người Sumerians, Phoenicans, Ai Cập, Do thái cổ, Canaaties, Maya, Inca, Aztecs, Olmecs, Hy Lạp, Romans, Carthaginians, Teutons, Celts, Druids, Vikings, Gauls, Hindus, Thái Lai, Tàu, Nhật bản, Maoris, Melanesians, Tahitians, Hawaiians, Balinese, Thổ dân Úc, Iroquois, Huron, Cherokee và vô số không đếm xuể những xã hội giết ngưòi đồng loại cho những lễ nghi tôn giáo vì họ tin vào những nam nữ thánh vô hình thích ăn thịt người sống, để có thể nguôi giận. Thực tế, nhiều nạn nhân của họ vốn có đồng quan điểm đã tự nguyện để bị giết hại, hoàn toàn bị thuyết phục rằng cái chết của họ có thể thay đổi khí hậu, hoặc cứu sống nhà vua khỏi các bệnh sinh dục, hoặc để xin tha cho đồng loại khỏi các cơn giận của những đấng khuất mặt trong một số trường hợp khác.

Trong nhiều xã hội, mỗi khi xây một tòa cao ốc, ngưòi ta từng nghĩ cách khôn ngoan duy nhất là làm thổ công nguôi giận bằng cách chôn sống trẻ con ngay dưói bệ móng (đây chắc là cách thực hành đức tin ở những thế gian không có kỹ sư về cấu trúc). Nhiều xã hội thường hy sinh các trinh nữ để ngăn ngừa lụt lội. Một số nơi khác lại giết con so và ăn cả thịt chúng nữa, như là một phương cách để bảo đảm người mẹ được mắn đẻ. Ở Ấn độ, trẻ thơ sống nhăn bị cúng hiến cho cá mập ở cửa Grange cũng vì những mục đích này. Ngưòi Ấn độ thiêu sống các phụ nữ góa để họ có thể đi theo chồng về thế giới bên kia. Không để cái gì rơi vào may rủi, ngưòi Ấn còn gieo xuống đồng ruộng mình thịt đàn ông tươi sống của một số đẳng cấp được đặc biệt nuôi lớn cho mục đích này và chặt tay chân khi họ vẫn còn sống nhăn, để bảo đảm rằng mọi vụ gặt turmenic sẽ được thắm đỏ đúng mức. Nước Anh đã phải thực sự thúc ép mạnh để chấm dứt những hung bạo giả đạo đức này.

Trong một số nền văn hóa mỗi khi có ai đáng kính trọng qua đời, nhiều đàn ông, đàn bà khác cho phép chính mình được chôn sống theo để phục vụ như những kẻ hầu cận cho đấng quá cố ấy trong thế giới bên kia. Ở Rome thời cổ đại, trẻ con đôi khi bị giết đi để ngưòi ta có thể đọc được tương lai trong ruột chúng. Một số ngưòi phi thường Fijian sáng tạo ra một kiểu lễ ban phước rất quyền lực gọi là “Vakatoga”, nghi lễ này cần một nạn nhân tự chứng kiến tứ chi của một mình bị chặt ra cho kẻ khác ăn sống. Trong những giống người Iroquois, các tù binh bị bắt trong chinh chiến thường được cho phép sống trong bộ lạc trong nhiều năm, ngay cả đưọc phép cưói vợ, tất cả đã bị kết tội chết bằng cách lột da sống để làm lễ vật cúng cho thần chiến tranh, các con trẻ mà họ sinh sản cũng bị giết hết theo trong lễ cúng tế. Một số bộ lạc Phi châu có một lịch sử lâu dài về việc giết ngưòi để gửi đi như một người đưa tin trong cuộc đối thoại một chiều với tổ tiên của họ hoặc đề cải biến các bộ phận cơ thể của họ thành các loại bùa mê. Các loại giết ngưòi để cúng tế như thế này vẫn còn ở nhiều xã hội Phi châu cho đến ngày nay.[ii]

Rất cần yếu để nhận ra rằng những lạm dụng mạng sống con ngưòi một cách ghê gớm đó là rõ ràng từ tôn giáo. Chúng là sản phẩm của điều ngưòi ta nghĩ mình hiểu biết về các nam nữ thần vô hình, và cái hiển nhiên không hề hay biết về sinh học, khí tượng học, y học, vật lý học, và hàng tá các khoa học khác. Và đó là sự dạng chân của lịch sử đáng khinh của hung bạo tôn giáo và ngu dốt khoa học mà Ki tô giáo đang có giá trị như một sự sùng bái vô ý thức và đáng khinh. Ý niệm rằng Jesus Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta và cái chết của ngưòi đã thành công trong việc làm nguôi lòng Thiên Chúa “nhân từ” là sự thừa kế trực tiếp không che dấu của những đổ máu mê tín dị đoan nhiễm dịch bệnh vào con ngưòi hoang mang dọc suốt lịch sử.

Thiên chúa của Abraham, dĩ nhiên không phải là người xa lạ đối với những sự giết hại để tế lễ. Có khi, Ngưòi kết án việc tế thần ( Deuteronomy 12:31; Jeremiah 19:4; Ezekiel 16:20-21), ở những lúc khác, Người lại yêu cầu hoặc ban thưởng việc ấy ( Exodus 22:29-30; Judges 11:29-40; 1 Kings 13:1-2; 2 Kings 3:27; 2 Kings 23:20-25; Numbers 31:40; Deuteronomy 13:13-19). Trong trưòng họp Abraham, Thiên chúa đòi ông phải hy sinh Issac, con trai của mình nhưng Ngài đã dừng tay giết vào phút cuối (Genesis 22:1-18) mà không hề xem hành vi giết hại chính con của kẻ khác là vô đạo đức. Ở những chỗ khác, Thượng đế thú nhận xúi dục sự hy sinh trẻ con để làm ô uế ngưòi thực hành (Ezekiel 20:26) trong khi chính tự Ngưòi lại hành động như thế trong việc giết hại các con so của ngưòi Ai Cập (Exodus 11:5). Nghi thức cắt da quy đầu nảy sinh như một sự thay thế cho việc hiến tế trẻ con (Exodus 4:24-26), và Thiên chúa dường như thường khuyến khích việc thay thế súc vật cho con người. Thực thế, sự khát máu súc vật của Người cũng như sự chú tâm của Người đến các tinh vi của việc giết hại và huỷ diệt chúng thì thật không còn có thể phóng đại vào đâu được nữa.

Khi gặp Jesus lần đầu, Thánh John, nghe đồn đã nói rằng “Ðây là chiên của Thiên chúa, Ðấng sẽ xóa đi tội lỗi của thế gian” (John 1:29). Ðối với hầu hết ngưòi Ki-tô giáo, ý kiến kỳ quặc này vẫn còn có giá trị và duy trì như cốt lõi đức tin của họ. Ðạo Ki-tô gần như đồng nghĩa với sự xác định rằng sự đóng đinh của Jesus đại diện cho những giọt máu cuối cùng và đủ để dâng lên Thiên chúa, Ngưòi dứt khoát cần phải được như thế ( Hebrews 9:22-28). Ðạo Ki-tô chung qui là lời xác định rằng chúng ta phải yêu thương và được yêu thương bởi một Thiên chúa vốn chấp nhận việc tế chuộc, hành hạ và giết hại một con ngưòi-chính là con trai của Thiên chúa – để đền bù cho những cư xử sai lầm, bị xem là tội lỗi của tất cả những ngưòi khác.

Hãy để những tin tốt lành được hiển lộ: chúng ta sống trong một vũ trụ, cõi bao la đến mức chúng ta chắc chắn không thể hình dung, ngay cả sơ sài trong tư tưởng chúng ta, trên một hành tinh tràn ngập các sinh vật mà chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu chúng thế nhưng cả một công trình đã đạt đến thành quả huy hoàng từ hai mươi thế kỷ trước đó, sau khi một sinh vật linh trưởng (của chính chúng ta) leo xuống khỏi những rừng cây, sáng tạo ra nông nghiệp và các dụng cụ bằng kim loại, thoáng thấy (như thể qua lớp kính mờ tối), khả năng giữ cho phân của mình khỏi vương vào thức ăn, rồi lựa ra một con trong số đó để đánh đập tàn bạo xong đóng đinh lên một cây thập tự.

Phép linh Mình Thánh Chúa, một biểu tượng của tục ăn thịt ngưòi đã được thêm thắt vào thần thoại khốn khổ chung quanh cái chết của một con ngưòi bị hành hạ – khổ hình của Chúa- Xin lỗi bạn, tôi dùng chữ “biểu tưọng “. Vì theo Vatican phép Mình Thánh Chúa dứt khoát không phải là một biểu tượng. Thực thế, phán quyết của công đồng Trent vẫn còn hiệu lực như sau :

Tôi cũng công bố rằng trong Thánh lễ, một sự hy sinh thực sự đúng đắn làm

nguôi giận đã dâng lên Thiên chúa thay cho những ngưòi sống và kẻ chết, và

rằng thân xác cùng máu huyết cùng linh hồn và thần thánh của chúa Jesus

chúng ta đã thực sự, đúng như thế chứ không hề tưởng tưọng đã dâng hiến

trong một sự thiêng liêng nhất của phép Mình thánh chúa, và phép ấy mang ý

nghĩa một sự hoán đổi của chất bánh mì thành thân xác, và toàn thể rượu đỏ

thành máu, và sự này nhà thờ công giáo gọi là sự hóa thể. Tôi cũng công bố

rằng tất cả và toàn bộ Chúa Jesus cùng bánh và rượu lễ đã được tiếp

nhận trong từng hình dạng riêng.

Lẽ tất nhiên, Công giáo đã thực hiện một số lý thuyết rất tích cực và rất không thuyết phục về lãnh vực này, trong nỗ lực hợp lý hòa sự việc làm thế nào mà họ có thể thực sự ăn được thịt của Jesus, chứ không phải chỉ là bánh chùm trong chiếc áo ẩn dụ, và thực đã uống máu của ông ấy mà không phải là một giáo phái ăn thịt ngưòi. Tuy vậy, cũng đủ để cho rằng, cái thế giới quan của hình dung rõ nét về “sự hy sinh làm nguôi giận thay cho ngưòi sống và kẻ chết” đang khó bảo vệ được vào năm 2007. Nhưng điều này vẫn không hề ngăn cản được những bậc trí thức khác và những ngưòi có chủ ý trong việc bảo vệ thế giới quan ấy.

Ngày nay, chúng ta được biết rằng ngay cả mẹ Theresa, nhân vật tiểu biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa giáo điều này trong suốt thế kỷ, đã không ngừng hoài nghi về sự hiện diện của Chúa, của thiên đàng và ngay cả sự hiện hữu của thượng đế như trong phép Mình thánh Chúa :

Lạy chúa, con là ai mà Ngưòi nên tha thứ cho? Đấng con của người – mà giờ

đây đang trở nên kẻ bị ghét bỏ nhất – duy nhất – Ngưòi đã ném bỏ đi như kẻ

không cần đến nữa, không yêu thương nữa – Con gọi, con bám víu, con cầu

cạnh – nhưng không có Ai đáp lời – Không một Ai trong những Ngưòi con

con bám víu – không, Không đấng nào. Cô độc … đức tin của con ở đâu rồi

– ngay cả nơi sâu thẳm dưói kia cũng không có gì ngoài bóng tối và rỗng

không – Chúa ơi – thật đau đớn làm sao cho nỗi đau chưa từng biết đến này –

con không còn Đức tin – con không dám thốt ra những lời nói và ý tưỏng

đang tràn ngập lòng mình – và khiến con đau đớn một nỗi đau không hề được

chỉ dạy.

Biết bao nhiêu tra vấn không được giải đáp sống bên trong e rằng sẽ phải bày

tỏ ra ngoài – bởi vì sự báng bổ – Nếu như có Thượng đế – xin hãy tha thứ cho

con – Khi con muốn dâng ý nghĩ của mình đến Thiên đàng – chỉ có sự trống

không như kết án dội lại như dao nhọn làm đau đớn chính linh hồn con. – Con

được dạy rằng Thiên chúa thương yêu mình – nhưng sao thực tại lạnh lẽo

trống không quá lớn đến nỗi không còn gì chạm đến linh hồn con được. Có

phải con đã nhầm lẫn khi mù lòa quy phục vào lời gọi của đấng thiêng liêng

hay không?

(Xưng tội lên chúa Jesus theo đề nghị của một cha giải tội-

không ghi ngày tháng)

Những thư từ của Mẹ Theresa được xuất bản gần đây đã tiết lộ một tâm hồn bị xé nát bởi hoài nghi (như vốn phải là như thế). Những lá thư cũng lộ ra một ngưòi phụ nữ chắc chắn đã khổ đau từ những chán nản cùng cực, mặc dù giới phê bình thế tục đã bắt đầu lịch sự che đậy sự thực này trong màu sắc thánh thần và tử đạo. Câu trả lời của Mẹ Theresa cho nỗi hoang mang và giả đạo đức (ý của bà) của chính mình đã hé lộ ra đức tin tôn giáo giống như một vùng cát lầy lún như thế nào. Những hoài nghi của bà về hiện hữu của Thiên chúa được diễn dịch từ ngưòi bà xưng tội như dấu hiệu rằng bà đang chia xẻ nỗi giằng xé của Chúa trên thập giá; sự tán dương này về dao động đức tin của bà đã cho phép bà “được yêu bóng tối” mà bà chứng nghiệm về sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên chúa. Đó là một thiên tài không thể giả mạo được. Chúng ta có thể nhìn thấy nguyên tắc tương tự trong hàng ngũ những ngưòi Công giáo như bà. Các hoài nghi của mẹ Theresa đã chỉ làm tăng thêm tầm vóc của bà dưói mắt Nhà thờ, được diễn giải như một khẳng định hơn nữa về ơn huệ của Thiên chúa. Hãy tự hỏi chính bạn, khi ngay cả những hoài nghi của các bậc chuyên gia được mang ra để xác định một chủ thuyết, thì còn có thể phủ định cái gì được nữa ?

Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi Thư gửi một quốc gia Ki tô giáo được xuất bản, cuốn sách vẫn còn gây ra những nóng giận. Nhiều lời chỉ trích nhằm vào cuốn sách này đã được gom cùng với các công kích về cuốn đầu tiên của tôi, Tận Cùng của Ðức Tin, và vào những ngưòi vô thần khác có các tác phẩm bán chạy, đặc biệt là cuốn Breaking the Spell của Dan Dennett, cuốn The God Delusion của Richard Dawkins và cuốn God is not Great của Christopher Hitchens. Thực tế, tôi, Dennett, Dawkins và Hitchens đã thường xuyên bị tấn công như thể chúng tôi là một ngưòi có bốn đầu. Những lời kết án và tranh luận chống lại chúng tôi luôn luôn giống nhau và luôn luôn sai trật. Thật thế, cái ngạc nhiên nhất của sự tranh luận về đức tin là sự ít ngạc nhiên của nó.

Vấn đề với tôn giáo ôn hòa

Bất cứ khi nào những ngưòi không tin đạo giáo như cá nhân tôi phê bình ngưòi Ki-tô giáo về việc tin vào sự sắp trở lại của Chúa, hay ngưòi Hồi giáo về việc tin vào sự tử vì đạo, thì những ngưòi ôn hòa công bố rằng chúng tôi xuyên tạc Ki-tô giáo và Hồi giáo, mang những “người cực đoan” ra để đại diện cho những tôn giáo “vĩ đại” này, hoặc không nhìn được cả một đại dương lung linh sắc màu. Chúng tôi luôn luôn được bảo rằng sự hiểu biết chín chắn về đức tin từ thánh kinh tuyệt đối phù hợp với lẽ phải, do đó, sự công kích tôn giáo của chúng tôi là sự “đơn giản hóa”, “ giáo điều” và, ngay cả “ Chính thống”.

Nhưng quả có một số vấn đề với lối bảo vệ tôn giáo như thế. Trưóc tiên, nhiều ngưòi ôn hòa (ngay cả một số ngưòi theo chủ nghĩa thế tục) cho rằng “chủ nghĩa cực đoan” tôn giáo thì hiếm có, do đó, không phải tất cả đều là hậu quả từ đấy ra. Nhưng thực tế, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo không hiếm, do vậy, hậu quả của nó thực sự rất nặng nề. Hiện nay Hoa kỳ là nhà ở của 300 triệu con ngưòi, có ảnh hưởng nhiều hơn đến công chúng trong lịch sử nhân loại, trong số này, 240 triệu người tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, sẽ thu xếp việc chấm dứt thế gian này bằng quyền hạn thần thông của Người. Nỗi khao khát được tha tội, một cách thiêng liêng, đạo giáo đã trở nên quá khích trong mọi ý nghĩa của nó – đó là sự tận cùng của hiểm nguy , ngớ ngẩn và đáng phỉ báng – chứ không phài sự tận cùng trong ý nghĩa nào của sự ít ỏi, hiếm hoi. Tất nhiên những ngưòi ôn hòa có thể cũng băn khoăn, nghi hoặc như những ngưòi tin tôn giáo đang băn khoăn, nghi hoặc. Thực tế, nhiều ngưòi vô thần đã tin tưởng rằng các thăm dò ý kiến của chúng tôi không chính xác vì nhiều người thực sự cho rằng chuyện tâm linh của họ là việc riêng tư không cần phải bày tỏ với ai. Nhưng thực không còn nghi ngờ gì rằng hầu hết ngưòi Mỹ khẳng định một cách chắc chắn niềm tin vào những điều lố bịch ngớ ngẩn, và những khẳng định này tự chúng đã thực sự tổn thương đến tiến trình chính trị, chính sách công chúng và uy tín của chúng ta trên thế giói.

Những ngưòi ôn hòa tôn giáo còn có khuynh hướng tưởng tượng ra rằng thực có một đường kẻ rõ ràng phân ranh giữa tôn giáo cực đoan và ôn hòa. Những thật là không hề có một đường phân ranh như thế. Văn bản kinh thánh tự nó vẫn còn là cỗ máy bất diệt của chủ nghĩa cực đoan: Bởi vì, mặc dù Thiên chúa có thể là nhiều thứ khác nhưng Thiên chúa trong Kinh Thánh và kinh Koran không thể là môt đấng ôn hòa. Đọc kỹ kinh bản, ngưòi ta sẽ không thấy các lý lẽ để trở nên một tôn giáo ôn hòa. Người ta sẽ tìm thấy đủ lý lẽ để trở nên một ngưòi điên cuồng tôn giáo đích thực – những ngưòi sợ lửa thiêu của địa ngục, phỉ báng những ai không có đạo, kết án những kẻ đồng tính luyến ái v.v… Lẽ tất nhiên, ngưòi ta có thể lọc lựa từ kinh bản để tìm được những lý lẽ cho việc yêu thương kẻ láng giềng và chìa má bên kia ra. Nhưng càng đặt lòng tin vào kinh sách chừng nào, ngưòi ta càng tin rằng những kẻ dị giáo, phản đạo, chống đạo đáng bị nghiền nát ra thành phân tử trong cỗ máy công lý yêu thương của Thiên chúa.

Những ngưòi theo tôn giáo ôn hòa luôn khẳng định rằng họ “thông thái” hơn ngưòi chính thống (và ngưòi vô thần). Nhưng làm sao một ngưòi có thể là người theo đạo một cách thông thái khi chỉ cần nhìn vào những mập mờ đáng nghi hoặc trong kinh sách để từ đó mà đọc cho kỹ càng hơn, sơ lược hoá những đoạn cần phải sơ lược hoá, để cho những xác quyết về thực tại của kinh sách bị xáo trộn liên tục bởi những hiểu biết mới lạ – một cách khoa học (“Bạn muốn nói rằng trái đất này không phải 6000 năm tuổi? Được thôi”), một cách y học (“ Tôi nên mang con gái mình đến một bác sĩ thần kinh chứ không mang đến một kẻ bị quỷ ám ? Có vẻ hợp lý…”), và một cách đạo đức (“Hừm, tôi không đánh đập nô lệ của mình, ngay cả không được giữ nô lệ nữa hay sao ?). Có một loại khuôn mẫu không thể chối từ được ở đây. Ôn hòa tôn giáo là kết quả trực tiếp của sự việc đọc hiểu kinh bản không đủ và không nghiêm chỉnh. Vậy tại sao vẫn cứ đọc không đủ nghiêm chỉnh ? Tại sao không thú nhận rằng cuốn Thánh kinh chỉ là một sưu tập của nhiều cuốn sách không hoàn hảo viết nên bởi những con ngưòi đầy sai sót ?

Một vấn nạn khác nữa với sự ôn hòa trong tôn giáo là nó đại biểu chính xác cho cách suy luận rằng nó sẽ ngăn ngừa được cái tinh thần hợp lý không giáo phái khỏi nổi dậy trong thế giới của chúng ta. Bất chấp sự thực của chúng tôi là gì, tinh thần hay luân lý, cần phải được khám phá ngay bay giờ. Bởi hậu quả là, sẽ chẳng tạo nên một ý nghĩa gì khi cứ có một đời sống tinh thần của ai đó đóng cọc vào những phép lạ của thời cổ đại. Cái chúng ta cần là sự tranh luận về các chứng nghiệm luân lý và tinh thần vốn không bị cưỡng ép bởi sự ngu xuẩn cổ đại như các tranh luận khoa học đã từng có. Khoa học thực đã vượt quá được tính đỏng đảnh của văn hóa” Không hề có những thứ đại loại như khoa học “của Nhật” khác với khoa học “của Pháp”; chúng ta không nói về “sinh học Ấn độ” hay “Hóa học Do Thái”. Hãy tưởng tượng một thế giới mà chúng ta có thể có một cuộc bàn luận thực sự chân thật và cởi mở về nơi chốn của chúng ta trong vũ trụ, về khả năng làm phong phú kiến thức tự hiểu của chúng ta, các thông thái luận lý và lòng bác ái. Những ngưòi ôn hòa tôn giáo, bằng cách cứ sống như thể các thước đo của mê tín đạo giáo vẫn còn quan yếu đến hạnh phúc của nhân loại, thì chính họ thực đang cản ngăn một cuộc đối thoại như thế khiến không thể hình thành được.

Tính lương thiện trí thức

Tôn giáo từng mang đến lời giải đáp cho nhiều câu hỏi mà ngày nay đã phải nhường lại cho khoa học. Tiến trình lấn chiếm và tước đoạt tôn giáo của khoa học là một tiến trình không thương xót, một tiến trình có định hướng và hoàn toàn có thể tiên liệu được. Khi đi vào thực tiễn, kiến thức chân chính vừa có giá trị vừa có thể tái kiểm nghiệm thông qua các nền văn hóa, và là phương thuốc duy nhất chữa trị được mối bất hoà tôn giáo. Chẳng hạn như Hồi giáo, Ki-tô giáo không thể bất đồng với nhau về nguyên nhân gây bệnh dịch tả, bởi vì bất kể truyền thống của họ nói gì về căn bệnh di truyền này, thì một hiểu biết chân chính về bệnh dịch tả đã đến từ nguồn thông tin khác. Khoa dịch tễ học (rốt cuộc) đã tráo đổi được mê tín tôn giáo, nhất là khi con ngưòi phải chứng kiến con cái mình chết vì tật bệnh. Ðấy chính là nơi mang chứa niềm hy vọng của chúng ta cho một tương lai thực sự không thuộc về giáo phái: khi sự việc gây ra tác động, ngưòi ta có khuynh hướng muốn hiểu được điều gì thực sự xảy ra trên thế giới. Khoa học cung ứng sự hiểu biết này trong một dòng chảy xiết mạnh, khoa học cũng cung ứng sự giám định chân thực trong giới hạn hiện thời của nó. Tôn giáo thất bại với cả hai mong đợi như vậy.

Hy vọng hòa giải được đức tin của mình với các hiểu biết đang tăng trưởng của khoa học về thế giới, nhiều ngưòi tin đạo giáo tìm được chỗ nương náu trong công thức phản bội của Stephen J. Gould về “thẩm quyền không chồng tréo” – Cái ý tưởng cho rằng khoa học và tôn giáo, khi được phân tích, hiểu đúng đắn, không thể đối nghịch được, bởi vì cả hai đại diện cho sự tinh thông của hai phạm trù khác nhau. Chúng ta hãy thử xem điều này tác động ra sao: Trong lúc khoa học là một thẩm quyền cao nhất về các công trình của thế giới vật chất, thì tôn giáo là thẩm quyền cao nhất về …chính xác về cái gì ? Về thế giới không vật chất? Chắc là không thể. Thế còn về ý nghĩa, giá trị, luân lý và đời sống tốt lành ? Thật không may là, hầu hết mọi người – ngay cả các khoa học gia và những người thế tục – đã nhường những bộ phận quan trọng này của hạnh phúc con ngưòi cho sự chăm sóc của các nhà thần học và các nhà biện giải tôn giáo mà không hề tranh cãi gì. Chính điều này đã giữ cho tôn giáo một vị trí tốt ngay cả quyền lực của tôn giáo đã bị tấn công, bị vô hiệu trên mọi mặt.

Nhưng cái khả năng đặc biệt nào khiến một linh mục, một thầy tế Hồi giáo, một giáo sĩ Do Thái có thể đánh giá cái ngụ ý luân lý của việc nghiên cứu tế bào phôi, kế hoạch hóa gia đình, hoặc các ngăn ngừa chiến tranh? Sự thật ở chỗ là cái kiến thức về các truyền thồng kinh sách của một con ngưòi thì chẳng còn liên quan gì với luân lý cũng như chiêm tinh học. Ðại biểu của các tôn giáo trên thế giới có thể nói với chúng ta về các giáo đoàn của họ tin vào điều gì trên một lãnh vực rộng rãi các chủ đề khác nhau (và thường là tin dựa trên những chứng cứ tồi), họ có thể nói cho chúng ta biết các kinh sách của họ đã dạy gì mà ngưòi ta nên tin theo để thoát khỏi lửa hỏa ngục; nhưng điều họ không thể làm-hoặc không thể làm tốt hơn những ngưòi xẻ thịt, ngưòi làm bánh, ngưòi làm đèn cầy là mang lại được một cứ điểm cho thấy tại sao những địa vị chính thống này là hợp đạo đức. Có đạo đức không khi giết một người muốn đổi đạo của mình? Tôi sẽ đánh đổi mạng sống của mình cho câu trả lời “Không”. Nhưng, theo một cuộc thăm dò gần đây, 36 phần trăm ngưòi Hồi giáo Anh (tuổi từ 16-24) không đồng ý với tôi. Như sự thăm dò chỉ ra, các tín đồ Hồi giáo Anh này thuộc một lập trường cứng nhắc của thần học: vì trong khi kinh Koran không rõ ràng đòi hỏi việc giết bỏ những ngưòi bội giáo, chính tài liệu thiêng liêng của hadith đã lập đi lập lại, không lập lờ một đòi hỏi như thế. Chỉ dụ này có hợp đạo đức không? Có thích hợp với một xã hội thường dân hay không? Có phải sự tín nhiệm vào một quyền lực đã mang lại sự man rợ này qua nhiều thế hệ ngay cả nó rất ít liên quan đến khoa học?

Lẽ tất nhiên, thật cũng đúng, một cách bình thường, không đáng kể, rằng tôn giáo và khoa học có tương thích với nhau bởi vì một số nhà khoa học là (hoặc đưọc kể là) những người có đạo. Nhưng nói như thế chẳng khác gì bảo rằng khoa học và dốt nát là có liên quan bởi vì nhiều nhà khoa học đã thoải mái thú nhận sự ngu dốt rộng rãi của mình trong rất nhiều chủ đề. Ðể làm rõ ràng những vấn đề này, rất hữu ích nếu chúng ta tự nhắc mình rằng cả tôn giáo và khoa học đều cấu thành bởi niềm tin và sự minh chứng hoặc thiếu minh chứng của các niềm tin ấy. Có sự đối chọi nào giữa một niềm tin được minh chứng và một niềm tin không được minh chứng không ? Dĩ nhiên đó là con số không. Cho rằng đức tin ấy nói chung chỉ là một sự cho phép mà ngưòi có đạo này ban cho ngưòi có đạo khác để mà mạnh tin vào điều gì vốn không có chứng cứ, thì sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học thật không thể tránh khỏi.

Tôn giáo và khoa học cũng mâu thuẫn bởi vì không có cách gì gỡ rối đưọc những sự thật được khẳng định bởi tôn giáo và khoa học: niềm tin rằng Jesus được sinh ra từ sự đồng trinh có thể là một trọng điểm của Ki-tô giáo, nhưng đấy cũng là một một khẳng định rõ ràng về sinh học; niềm tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian bằng xương bằng thịt trong một tương lai đưa đến nhiều khẳng định khác nhau về lịch sử, con ngưòi sống lại từ sự chết, và, hiển nhiên là, một cỗ máy của con ngưòi bay lên mà không có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật. Ðã đến lúc tất cả những ngưòi có lý trí nhận ra rằng ở đâu có dính dáng đến các khẳng định về bản chất của thực tại, thì ở đấy chỉ có một huấn quyền bất di bất dịch.

Cuộc Ðánh Cược rỗng tuếch

Vấn đề quan yếu của tôn giáo là ở chỗ tôn giáo đã xây dựng trên sự dối trá ở một mức độ đáng chú ý. Tôi không chỉ nhắc đến hai mươi megaton trưng bày về đạo đức giả, khi các nhà rao giảng Phúc âm bị bắt gặp xử dụng thuốc ảo giác hoặc các điếm nam. Hơn thế, tôi muốn nhắc đến sự thất bại ở mọi nơi chốn hàng ngày của những ngưòi sùng đạo nhất đã thú nhận là những khẳng định an toàn nhất của họ về đức tin đã trở nên đáng nghi một cách sâu sắc. Bà mẹ khẳng định rằng ông bà đã đi thẳng lên thiên đàng sau khi chết. Nhưng bà mẹ ấy không thực sự biết là như thế. Sự thực là, bà mẹ đã nói dối – hoặc với chính mình hoặc với con cái mình- và hầu hết chúng ta đều xem hành vi này thật là bình thường. Thay vì dạy con cái chúng ta đau buồn rồi nên vui mặc dù với thực tại của cái chết, chúng ta đã nuôi dưỡng con cái chúng ta bằng sự tự lừa dối.

Cái việc Jesus thực đã sinh ra từ một trinh nữ, đã sống lại sau khi chết, để sẽ trở lại thế gian này bằng chính thân xác mình vào một ngày nào đó trong tương lai thực sự là như thế nào ? Tin vào các móc xích của phép lạ như thế trên căn bản của các khẳng định từ sách Phúc âm, là chuyện có lý hay không? Những học thuyết này nhận đưọc bao nhiêu ủng hộ từ chứng nghiệm của những ngưòi Ki-tô giáo trung bình trong nhà thờ? Các câu trả lời chân thật cho những câu hỏi này chắc sẽ nổi lên một cơn sóng thần của sự hoài nghi. Tôi không biết chắc rằng cái gì sẽ là “Ki-tô giáo” đối với bất kỳ ngưòi Ki-tô giáo nào còn trụ lại.

Nhiều độc giả của Thư gửi một Quốc gia Ki-tô giáo đã cảm hứng từ Blaise Pascal và đã tranh cãi rằng chứng cứ chính ở ngay bên cạnh vấn đề và rằng những ngưòi theo đạo đơn giản đã khôn ngoan hơn trong việc chọn phần chắc ăn: nếu người theo đạo sai lầm về Thiên Chúa, sẽ chẳng có tổn thất gì nhiều cho y hay ai khác, nhưng nếu như đúng, y sẽ thắng được một hạnh phúc đời đời; tuy nhiên, nếu ngưòi vô thần sai, hắn sẽ được dành cho cuộc đời vĩnh viễn trong địa ngục. Căn cứ vào quan niệm này, vô thần là hình ảnh của sự ngu xuẩn liều lĩnh.

Dù Pascal xứng đáng với danh tiếng của ông là một nhà toán học xuất sắc, sự đánh cuộc của ông chẳng có gì khác hơn là một phép loại suy đáng yêu (và sai lầm) mà thôi. Như nhiều ý tưởng duyên dáng khác trong triết học, dễ nhớ và thường được lập lại, ý tưởng này đã vay mượn cho mình một diện mạo không xứng đáng của sự sâu sắc. Một suy nghĩ thoáng qua hé lộ rằng, nếu cuộc đánh cược đó có giá trị, nó sẽ thẩm định được bất kỳ hệ thống niềm tin nào, bất kể nó phản nghịch và lố lăng như thế nào đối với Ki-tô giáo, Một vấn nạn khác của sự đánh cược này- và chính là vấn nạn đã nhiễm bệnh vào các suy nghĩ đạo giáo nói chung- là nó cho rằng một ngưòi có lý trí có thể tự cho phép mình tin vào một xác nhận mà kẻ ấy không hề có một chứng cứ nào. Một ngưòi có thể bày tỏ bất kỳ tín ngưỡng nào mình thích, dĩ nhiên, nhưng để thực sự tin tín ngưỡng ấy, ngưòi đó phải tin rằng tín ngưỡng ấy đúng. Chẳng hạn như, để tin rằng có một Thượng đế, nghĩa là tin rằng mình không đang tự lừa phỉnh mình; nghĩa là tin rằng mình đang đứng trên một số liên hệ với sự hiện hữu của Thượng đế như thế, nếu như Ngưòi không hiện hữu, mình không thể tin vào Người. Cái đánh cược của Pascal lọt vừa vào trong hệ thống này như thế nào? Nó thật không thể lọt vừa được.

Các nguyên nhân để nghi ngờ hiện hữu của Thiên Chúa được đặt trong một bối cảnh dễ hiểu để mọi ngưòi cùng nhìn vào: mọi ngưòi đều thấy rằng cuốn Thánh kinh không phải là những ngôn từ hoàn chỉnh của một đấng toàn trí; mọi ngưòi đều thấy rằng không hề có bằng chứng gì về một Thiên Chúa từng đáp lại lời cầu xin của chúng ta, rằng bất kỳ Thiên Chúa nào từng ban phát các giải vô địch túc cầu cho những ngưòi cầu xin, để chỉ nhỏ từng giọt ra cho chứng ung thư hoặc tai nạn xe cộ đến những trẻ em nam nữ, thì Thiên Chúa ấy không xứng đáng với sự dâng hiến của chúng ta. Mọi ngưòi có mắt để nhìn có thể nhìn thấy rằng nếu Thiên chúa của Abraham hiện hữu, Ngưòi là một kẻ bệnh thần kinh nặng và Thượng đế của thiên nhiên cũng thế. Nếu bạn không thể nhìn thấy những việc này chỉ bằng cách quan sát mà thôi, thì đơn giản bạn là ngưòi đang nhắm nghiền mắt đối vói các thực tiễn của thế giới chúng ta.

Tôi không hề nghi ngờ gì về việc nhiều ngưòi Ki-tô giáo tìm được niềm an ủi lớn lao từ đức tin của mình. Nhưng đức tin không phải là cội nguồn tốt nhất cho an ủi. Ðức tin giống như một tên móc túi cho ngưòi ta vay món nợ bằng chính đồng tiền của ngưòi ấy với các điều kiện rộng rãi. Lòng biết ơn của nạn nhân thì hoàn toàn có thể hiểu được nhưng dứt khoát là không đúng chỗ. Chúng ta là cội nguồn của tình yêu thương mà các linh mục, mục sư quy là do bởi Thiên chúa (chúng ta có cảm thấy cách nào khác không?) Ý thức của chúng ta là căn nguyên, là cốt lõi của bất kỳ chứng nghiệm nào bạn có thể muốn cho là “linh hồn” hay “thần bí”. Nhận thức được như vậy, nhu cầu khả thi nào ở đấy để phải giả vờ như mình thực biết chắc về những phép màu cổ đại ?

Sam Harris

Tháng 9 2007

Nữu Ước

MƯỜI TÁC PHẨM NÊN ÐỌC :

1. The God Dellusion của Richard Dawkins.

2. Breaking the Spell của Daniel C. Dennett.

3. Misquoting Jesus của Bart D. Ehrman.

4. Kingdom Coming của Michelle Goldberg.

5. The End of Days của Gershom Gorenberg.

6. Freethinkers của Susan Jacoby.

7. Extraodinary Popular Delusion and the Madness of Crowds của Charles Mackay.

8. Why I am not a Christian của Bertrand Russell.

9. God, the Devil, and Darwin của Niall Shanks.

10. Atheism: The Case Against God của George H. Smith.

1 Nếu bạn có thể tin được: Vatican đang chống lại việc xử dụng bao cao su để ngăn ngừa bệnh HIV ngay cả giữa những người có cưói hỏi với nhau. Có tin đồn cho rằng Giáo Hoàng đang xem xét lại chính sách này. Hồng Y Javier Lazano Barragan, lãnh đạo Uỷ ban Y tế của tòa thánh, đã thông báo trên đài phát thanh Vatican rằng văn phòng của ngưòi đang “thực hiện một nghiên cứu sâu sắc rất kỹ thuật, khoa học, và đạo đức” về vấn đề này. Thật không cần phải nói, nếu học thuyết Nhà thờ thay đổi do kết quả của những cân nhắc đạo đức giả này, sẽ là một chỉ dấu rằng không phải đức tin ấy thâm thúy mà là đức tin của giáo điều ấy đã phát triển không thể cứu chữa được nữa.

2 Và tính vô thần của Hitler có lẽ đã được phóng đại quá mức như sau :

Cảm thức Ki-tô giáo đã dẫn tôi đến Chúa và bậc cứu rỗi của mình như một chiến sĩ.

Nó hướng tôi đến con ngưòi đã từng cô độc, chung quanh chỉ một vài người tin theo, nhận

ra những ngưòi Do Thái này như chính họ và kêu gọi con người chống lại họ; và chính Người, Lạy Chúa lòng lành – là kẽ vĩ đại không phải chỉ vì sự khổ nhục mà là vì như một

chiến sĩ. Trong tình yêu không bờ bến của một ngưòi Ki-tô hữu và của một con người, tôi

đã đọc được những dòng được những ẩn ngữ dạy cho chúng ta biết cuối cùng đức Chúa

đã vươn dậy trong sự mạnh mẽ của người, cầm roi quét sạch khỏi Ðiện thờ lũ rắn độc. Cuộc chiến đấu cho thế giới chống lại nọc độc Do Thái của người lớn lao biết

dường nào (…) là ngưòi Ki-tô giáo tôi còn có trách nhiệm với riêng dân tộc của mình.

Hitler đã nói như thế trong bài diễn văn đọc ngày 12 tháng 4 năm 1922. (Norman H. Bayes, ed. The Speeches of Adolf Hitler, April 1922- August 1939. Vol. 1 of 2, pp. 19-20. Oxford University Press, 1942.

3 “phỉ báng huyết thống” (với chủ ý đến người DoThái) gồm các cáo buộc sai lầm rằng ngưòi Do Thái đã giết hại những ngưòi không phải Do Thái để lấy máu của họ dùng vào những nghi thức tế lễ. Sự kết án này vẫn còn được tin là thật ở nhiều nơi trong các nước Hồi giáo.

4 Sự thật cần được nói, hiện nay tôi nhận được các điện thư phản kháng từ những ngưòi khẳng định với tất cả chân thành rõ rệt, rằng họ tin Thuỷ thần (Poisedon) và các thần linh khác của thần thoại Hy lạp là có thật.

5 Thí dụ như nhà vật lý học Stephen Hawking hình dung không-thời gian như một hiện hữu đa dạng kín, bốn chiều, không có đầu, không có cuối (giống như bề mặt của một quả cầu)

6 Ðể chữa trị chứng sanh nghẹt thai, chỉ cần đến một giải phẫu đơn giản- chứ không cần phải cầu nguyện. Dù nhiều ngưòi có đức tin vẫn cứ tin rằng cầu nguyện có thể chữa lành nhiều căn bệnh

(bất kể là các chúng bệnh đã được các khảo cứu khoa học tốt nhất tìm ra). Chuyện cầu nguyện này cũng kỳ cục ở chỗ là ngưòi ta chỉ cầu nguyện trong những trường hợp bệnh tật hoặc thương tích có giới hạn thôi. Chẳng hạn như không ai tin rằng lời cầu nguyện có thể khiến cụt tay chân có thể mọc ra lại. Sao không nhỉ? Giống kỳ nhông có thể làm được việc này, đoán chừng là không phải cầu xin gì. Nếu Thiên chúa từng đáp lại lời cầu xin, sao Ngưòi không đôi lúc chữa lành một trường hợp cụt tay chân? Và sao ngưòi có đức tin không trông mong vào cầu nguyện trong những trường hợp ấy? Có một trang WEB rất phi thường đang dốc lòng khám phá bí hiểm này: www.whydoesgodhatesamputees.com

7 Phụ nữ, khi dám chối từ các hôn nhân cưỡng ép, đòi ly dị, phạm tôi ngoại tình hoặc ngay cả khi bị cưỡng hiếp, là nạn nhân của các sách nhiễu tình dục thưòng bị xem là đã “làm mất danh dự” của gia đình mình. Các phụ nữ trong tình huống này thường bị sát hại bởi chính ngưòi cha đẻ, anh em trai của họ hoặc có khi từ sự hợp tác của những phụ nữ khác. Giết ngưòi vì danh dự, có lẽ, quan niệm đúng nhất là một hiện tượng văn hóa (hơn là thuần túy tôn giáo), và nó không chỉ xảy ra riêng trong thế giới Hồi giáo. Tuy nhiên, hành vi này, đã có hậu thuẫn đáng kể từ Hồi giáo, khi tôn giáo này rõ ràng coi ngưòi phụ nữ như tài sản của ngưòi đàn ông và xem ngoại tình như một trọng tội. Trong khắp thế giới Hồi giáo, ngưòi đàn bà nào dám thưa mình bị cưỡng hiếp sẽ phải nhận lãnh sự nguy hiểm của việc bị giết hại như “kẻ ngoại tình” bởi lẽ, cuối cùng ngưòi đàn bà ấy cũng phải nhận tội đã có quan hệ thân xác với kẻ không phải chồng mình.

8 Ðể biết thêm về lịch sử của hy sinh nhân loại, xem N.Davies, Human Sacrifies : In History and Today. Dorset.
Sam Harris