Phạm Lưu Vũ
Di truyền thời… trộm cắp
Ông anh họ tôi, mặt lúc nào cũng sưng húp như vừa bị đánh. Được cái hào hoa, quan hệ rộng, lại chuyên làm thơ hay. Một bận nghe anh đọc thơ, tôi bảo:
“Thơ mà đến như bác thì loài cú phải diệt chủng.”
“Thế nào là loài cú phải diệt chủng?” - Anh hỏi
“Nghĩa là không còn con cú nào sống sót. Như thế gọi là... tuyệt cú” - Tôi trả lời.
Lẩn mẩn thế nào anh lại bỏ ngang thơ, đi học tiến sĩ. Thấy thế, tôi lại bảo:
"Thơ bác bây giờ mới đạt đến tuyệt tác”.
"Thế nào là tuyệt tác?" - Anh lại hỏi.
"Nghĩa là bác đã... tuyệt đường sáng tác, bác không ‘tác’ thơ nữa" - Tôi trả lời.
Nhưng cũng phải ngoài năm mươi tuổi, anh mới đỗ tiến sĩ. Bấy giờ lại sinh chứng rầu rĩ, mặt lúc nào cũng như người vừa bị mất của. Gặp tôi, anh túm lấy khóc hu hu. Ngạc nhiên quá, tôi hỏi:
"Bác đã đậu đến tiến sĩ, đời này thế là hiếm lắm, cả nước may ra mới được... vài chục triệu, phải sướng mới đúng. Sao lại khóc lóc thế này?"
Vị tân tiến sĩ già lau nước mắt, vừa sụt sịt, vừa kể lể:
"Chính thế mới vừa đau, vừa tiếc đấy chú ơi. Chú xem. Ở đời quý nhất là di truyền lại được cái giỏi giang, sành sõi của mình cho con cái. Thế mà tôi có ba thằng con giai, lại trót đẻ trước cả mất rồi, đẻ từ cái hồi tôi còn ngu lắm. Bây giờ mình thành tiến sĩ, dẫu có giỏi, có thông minh ra mấy cũng không còn cơ hội di truyền lại cho con nữa. Cái gien di truyền đang nằm trong người chúng lại là cái gien ngu của tôi ngày trước. Giá bây giờ hẵng đẻ chúng ra, có phải chúng được thừa hưởng cái gien tiến sĩ này hay không?"
Té ra vị tiến sĩ của tôi “nhiễm” Tây học nặng quá. Tôi nghĩ hay là đem thuyết di truyền của phương Đông ra trình bày thử xem. Bèn bảo:
"Thế bác không biết câu chuyện tuyệt giáo ngày trước hay sao?"
"Cái gì là tuyệt giáo?, tôi chưa nghe thấy bao giờ." - Vị tiến sĩ trố mắt.
Tôi bèn kể chuyện “tuyệt giáo” cho tiến sĩ nghe. Đầu đuôi câu chuyện như sau:
Có một ông thầy giỏi bách nghệ. Nghề nào cũng đạt tới chỗ tinh tuý, thâm diệu không ai lường được. Từ những nghề vặt vãnh, tầm thường như làm ruộng, làm nhà, đến những nghề khó nhọc, cao quý như làm thầy, làm quan, cả những nghề viết sách, viết sử, làm thơ, đi buôn, làm ra âm nhạc... Ai cũng tưởng những nghề ấy tồn tại trong thiên hạ là chuyện bình thường, đời nào chẳng có. Thế mà qua kiến thức của ông thầy, mới biết nghề nào cũng có chỗ cao thâm, tinh diệu của nó. Người ta sống ở đời, biết việc gì, làm nghề gì, cứ tưởng đến thế thì thôi, gặp chăng hay chớ. Nhưng nếu biết được cái chỗ tinh diệu cuối cùng của nghề nghiệp, thì bất cứ nghề nào cũng mang lại hiệu quả không thể đo đếm nổi. Ví dụ nghề làm ruộng chẳng hạn. Đừng có tưởng nghề này đơn giản, chỉ dành cho những kẻ chân cu bụng bị. Làm ruộng mà đạt tới mức thâm diệu thì nhàn nhã như thể thóc lúa tự tìm về nhà, gọi là làm ruộng như thần. Hay là nghề làm thơ. Những kẻ làm thơ mà nhăn trán cau mày, vò tóc bứt tai rồi chân cẳng múa may, mồm ngâm ông ổng là làm thơ hạng xoàng. Làm thơ mà đạt tới trình độ thâm diệu thì nhàn nhã như không, nhìn cái gì cũng ra thơ, làm nhảm cũng thành thơ, ngủ mê cũng thành thơ...
Ông thầy đi khắp thiên hạ để truyền nghề, ai thích nghề gì truyền nghề ấy. Có người chỉ học được một phần, có người học được ba bẩy phần. Cũng có người học đến hết sách, nghĩa là đạt tới cái chỗ tinh tuý cuối cùng của nghề nghiệp. Nhưng lạ một điều, bất cứ ông dạy nghề gì, những kẻ học được ít thì không nói, hễ kẻ nào học đến cái chỗ cuối cùng ấy thì thay vì hành nghề cho tử tế, lại xoay sang... ăn cắp. Giỏi nghề nào, ăn cắp kiểu nghề ấy. Cứ gọi là muôn hình vạn trạng, ăn cắp từ thô thiển đến tinh vi, từ ngẫu hứng đến bài bản, ăn cắp từ tiền bạc, của cải đến cả ý nghĩ của người khác, thậm chí ăn cắp vặt... Trăm người như một, nếu chưa học được đến tận cùng thì còn tử tế đàng hoàng, hễ cứ học đến hết sách là y như rằng lại biến thành... kẻ cắp.
Hiện tượng này các nhà Đức giả gọi là “thoái hoá” hay “biến chất” gì đấy. Nó đúng trong mọi trường hợp, nó không chừa một hạng người nào. Nó làm cho ông thầy thất vọng lắm. Chẳng lẽ đi truyền nghề hoá ra lại gieo rắc kẻ cắp khắp thiên hạ. Từ đó ông thề không dạy đến hết nghề nữa. Gặp ai ông cũng chỉ dạy có chừng có mực, dạy cho thạo việc thì thôi. Nghề nào cũng vậy, dù kẻ theo học có giỏi đến đâu, ông cũng giữ lại cái chỗ thâm diệu cuối cùng của nó mà không truyền cho nữa. Nhưng oái oăm thay cái nghiệp làm thầy, biết trò giỏi mà không được truyền cho đến hết nghề thì không đau đớn nào bằng. Ông thầy luôn phải day dứt, vật vã giữa hai ngả, nghiệp làm thầy và trách nhiệm với cuộc đời như thế.
Bấy giờ có một vị học trò giỏi lắm, đã theo học ông thầy suốt ba chục năm trời, nay đã ngoài sáu mươi tuổi, con cháu đầy đàn. Không biết học phải nghề gì, chỉ biết rằng trình độ đã gần đạt tới cái chỗ cuối cùng, tinh vi của nghề ấy. Tất nhiên ông thầy kiên quyết giữ lại, không truyền hết cho nữa. Bất ngờ người học trò mắc phải bạo bệnh, lên cơn hấp hối, sắp ngoẻo đến nơi. Ông ta chết mà có nguy cơ không nhắm được mắt, vì vẫn tiếc là chưa được thầy truyền đến hết nghề cho mình. Thật là một tinh thần ham học hiếm có. Con cháu vị học trò kéo đến van ông thầy rủ lòng thương. Ông thầy nghĩ đến tình nghĩa thầy trò, vả lại vị học trò cũng sắp toi rồi, có truyền hết nghề cho thì chắc cũng chẳng sao, làm gì còn cơ hội mà trở thành kẻ cắp nữa. Bèn tạm gác lời thề, đến ghé tai người học trò già, thì thầm truyền nốt cái bài cuối cùng ấy. Vị học trò lúc này đã chỉ còn thở hắt ra, vậy mà vẫn tỏ ra sung sướng, mãn nguyện khi nghe thầy giảng, ánh mắt vẫn sáng lên những tia sáng cuối cùng. Bài học vừa kết thúc, thì cũng là lúc vị học trò lìa khỏi cõi trần, mang theo cả cái tinh tuý nghề nghiệp vừa học được về nơi chín suối.
Ông thầy sau lần được truyền hết nghề cho vị học trò kia thì khoan khoái như giải được nỗi niềm ấm ách bấy lâu. Lại yên chí rằng không phải vì việc ấy mà thiên hạ sinh thêm một kẻ ăn cắp. Ông vẫn tiếp tục đi khắp nơi để truyền đủ các loại nghề. Tất nhiên lời thề không truyền cái bài học cuối cùng thì ông vẫn giữ. Bất ngờ một thời gian sau, vị học trò kia không biết đã mồ yên mả đẹp cỡ nào, mà từ đó, đám con cháu ông ta lại nhất loạt chuyển sang... ăn cắp. Ăn cắp nổi tiếng cả một vùng, ăn cắp y như những kẻ cũng được ông thầy truyền hết nghề trước kia. Chẳng những thế, cái sự ăn cắp của đám con cháu nhà này còn tỏ ra... có mả hẳn hoi. Chúng không những chỉ ăn cắp được của cải ở đời này, mà còn ăn cắp tận mấy đời sau, không những chỉ ăn cắp của một vài nhà, mà còn ăn cắp của rất nhiều nhà... Không nghi ngờ gì nữa, chung quy cũng tại cái bài học cuối cùng kia. Ông thầy đã tính toán sai, cứ tưởng truyền hết nghề cho một kẻ sắp chết, thì kẻ đó dù có muốn biến thành kẻ cắp cũng không còn cơ hội nữa. Ai ngờ xuống dưới mả rồi mà nó vẫn truyền lại được cho con cháu, để rồi sinh ra cả một ổ ăn cắp tuyệt đỉnh thế này... Khỏi phải nói ông thầy tuyệt vọng, đau đớn biết chừng nào. Từ đó ông đóng cửa nằm nhà, treo bảng viết hai chữ “tuyệt giáo” ngay trước ngõ, thề từ nay không dạy cho bất cứ ai nữa.
Vị tiến sĩ nghe tôi kể đến đây, mặt vẫn có vẻ băn khoăn chưa thỏa mãn. Tôi bèn kết luận:
"Di truyền bằng cái gien mà bác lo ấy là của Tây học, người ta nhìn bằng kính hiển vi. Còn cái thứ di truyền bằng mồ mả, bằng hồn vía này là thuyết của phương Đông, khoa học không giải thích được, kính hiển vi làm sao nhìn ra nổi. Bác thấy đấy. Người ta xuống mả rồi mà vẫn còn di truyền lại được cho con cháu cái nghề ăn cắp tuyệt đỉnh khôn ngoan, đời đời kính nể ấy. Huống chi bác còn sống lâu chán, lo gì..."
© 2007 talawas