Hiển thị các bài đăng có nhãn Lại Nguyên Ân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lại Nguyên Ân. Hiển thị tất cả bài đăng

27/11/08

LẠI NGUYÊN ÂN Phan Khôi và cuộc thảo luận sử học năm 1928 trên Đông Pháp Thời Báo

LẠI NGUYÊN ÂN

Phan Khôi

và cuộc thảo luận sử học

năm 1928

trên Đông Pháp Thời Báo



Các nhà nghiên cứu lịch sử chung, lịch sử báo chí, lịch sử văn học lâu nay hầu như chưa ai nói đến cuộc thảo luận này, có lẽ vì một lý do dễ thấy: ngành nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam hiện giờ còn để những khoảng trống quá lớn trong việc mô tả diện mạo cụ thể của báo chí từng thời kỳ lịch sử.

Để thấy đường viền của cuộc thảo luận này, ta hãy trở lại sinh hoạt báo chí ở Sài Gòn những năm 1920-1930: bên cạnh báo chí tiếng Việt còn có khá nhiều báo chí tiếng Pháp, báo chí chữ Hán, trong đó lớn giọng nhất vẫn là các báo tiếng Pháp tuy chắc hẳn không chiếm được số đông công chúng. Không phải tất cả các tờ báo tiếng Pháp đều giữ lập trường thực dân trong khi họ có quá nhiều vấn đề của thế giới đương thời để tham dự. Tuy vậy không hiếm khi một vài ký giả hay học giả, hoặc cố ý hoặc vô ý, động chạm đến tự ái dân tộc của người bản xứ. Lúc đó một số ký giả người Việt đọc được các tờ báo Pháp đó sớm muộn cũng sẽ lên tiếng thông tin với đồng bào mình và tỏ thái độ trên các báo tiếng Việt.

Nội trong năm 1928, ít nhất có hai lần, hai tác giả Pháp là Albert de Pouvourville và Jean Bouchot đã viết trên báo chữ Pháp ở Sài Gòn rằng tổ tiên người An Nam mời người Pháp sang bảo hộ, rằng người Pháp đã giúp cho người An Nam chinh phục đất Nam Kỳ. Các ký giả Việt Nam như Đào Trinh Nhất, Nguyễn Phan Long,v.v.. đã lên tiếng phản bác trên cả các báo tiếng Việt lẫn báo tiếng Pháp, nhưng, như ký giả Tân Việt cay đắng nhận xét, đó chỉ là những lý sự giữa sa mạc, chính quyền thuộc địa không trách cứ răn đe gì các tác giả người Pháp, còn các tác giả ấy thì không đáp lại phản ứng của dư luận từ phía người bản xứ. Vì vậy, để sự bàn luận có quy mô và khiến đông đảo công chúng Việt Nam chú ý thì tốt hơn là nên chuyển thành cuộc trao đổi giữa các tác giả, ký giả người Việt. Có lẽ Phan Khôi đã tính như vậy nên khi bắt gặp một vài phát ngôn thiếu chính xác về nhận định sử học, ông bèn tận dụng để gây thành cuộc thảo luận lớn.

Hai phát ngôn rơi vào tầm ngắm nói trên thuộc về hai ký giả tên tuổi đương thời: Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng và Nam Kiều Trần Huy Liệu. Ở một bài xã thuyết trên tờ Tiếng dân (xuất bản ở Huế) Minh Viên có chỗ viết rằng Gia Long đã nhờ được binh lực nước Pháp mà làm thành cuộc thống nhất đất nước, còn Nam Kiều trong sách Một bầu tâm sự (lúc đó vừa mới phát hành thì bị cấm) cũng có chỗ nói Pháp quốc giúp cho [vua Gia Long] hai cái tàu và một ít súng thần công.

Dưới bút danh C.D. (viết tắt từ tên hiệu Chương Dân), Phan Khôi châm ngòi thảo luận bằng bài Mấy cái quái trong sách và báo ta (Đông Pháp Thời Báo, 1/5/1928). Ông nhắc người viết bài trên tờ Tiếng dân rằng bản điều ước ký khi hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc được phái sang Pháp cầu viện, rốt cuộc đã không được phía Pháp thực hiện. Vì vậy chỉ có việc Bá Đa Lộc mộ được vài mươi người Pháp sang giúp Gia Long, song đó chẳng qua là người riêng của nước Pháp giúp chứ không phải chính nước Pháp giúp. Ông cũng nhắc tác giả Một bầu tâm sự nhớ rằng chuyện nước Pháp tặng tàu và súng là chuyện thời Tự Đức, sau khi đã ký hòa ước Pháp Nam, chứ không phải thời nội chiến Nguyễn Ánh chống Tây Sơn.

Trần Huy Liệu gửi đến tòa soạn Đông Pháp Thời Báo bài Trả lời ông C.D. (Đông Pháp Thời Báo, 12/5/1928), bảo vệ ý kiến cũ của mình bằng việc dẫn cuốn Đại Nam sử ký, một chỗ nói cuối năm 1784 Gia Long giao hoàng tử Cảnh cho cố đạo Bá Đa Lộc sang cầu cứu bên Pháp một vài chỗ khác nói trong năm 1789, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi tàu về, có vài chiếc tàu chở về súng đạn, và kể tên mươi người Pháp sang giúp việc trong quân.

Phan Khôi không chú trọng việc trả lời ý kiến phản hồi của Trần Huy Liệu. Ông muốn nhân dịp này làm rõ một số tình tiết lịch sử quan trọng và nhất là hiểu đúng ý nghĩa của chúng. Ông đã lần lượt cho in các bài: Bác cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII (Đông Pháp Thời Báo, 2 kỳ: 15/5 và 19/5/1928); Trở lại việc nước Pháp giúp nước Nam: Sách Tàu nói bướng. Các nhà Hán học ta mở mắt ra mà coi (Đông Pháp Thời Báo, 10/7/1928); Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam. Một cuốn sách Tàu minh oan cho chúng ta (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928). Đối tượng tranh cãi của Phan Khôi trong loạt bài này không phải là Minh Viên hay Nam Kiều mà là cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam, cái thuyết mà những tác gia đầu tiên có lẽ là một số học giả thực dân, cái thuyết mà giới quan chức nho sĩ Việt Nam tuy không muốn nhưng vì thiếu một nhận thức rạch ròi, họ đã ngấm ngầm cam chịu thừa nhận, cái thuyết mà tính đến những năm 20 thế kỷ XX - đã phổ biến khá rộng, đã thâm nhập không ít đầu óc trí thức người Việt, thâm nhập cả vào một số thư tịch sử học Trung Hoa, tóm lại đã thành một thảm họa nhận thức.

Phải nói ngay rằng tác giả bài báo đã nêu trong Tiếng dân lên tiếng phục thiện rất sớm. Trong bài Nói điều lỗi của ta là sự may cho ta (Tiếng dân số 79, Đông Pháp Thời Báo đăng lại 24/5/1928) tác giả Minh Viên nói thẳng rằng tôi tâm phục lời chỉ trích của ông C.D, rằng thấy có kẻ mới nghe mấy chữ nhờ binh lực nước Pháp mà đã lấy làm bất bình, cho là quái lạ thì theo ông (Minh Viên), thật không khác gì giữa vùng sa mạc mà thấy chòm cây tốt, ở chốn rừng không mà nghe tiếng chân người, dầu cho người vô tâm đến đâu cũng phải cảm động, huống tác giả là một kẻ đa tình, không thể nào ngăn mối lòng hứng khởi được.

Tuy vậy Minh Viên vẫn chưa dứt bỏ được quan niệm đồng nhất chủng tộc với quốc gia, vẫn cho rằng dầu thế nào mặc lòng, người nước mình hồi đó cũng có cầu cứu nước Pháp, nước Pháp cũng có hứa lời, trong cuộc chinh chiến cũng có tàu Pháp súng Pháp và người Pháp, rằng đương thời đại đó thì vua Gia Long tức là nước Nam ta, mà những người tóc vàng da trắng mũi nhọn mắt thau tức là nước Pháp; người Pháp cùng nước Pháp cũng không phân biệt là mấy, ông giám mục d’Adran cùng đôi mươi người Pháp, mà nói là nước Pháp cũng không sai bao nhiêu. Quan niệm còn đậm màu sắc trung đại này khác với quan niệm mang tính hiện đại của Phan Khôi theo đó nhận thức sử học cần dựa trên cơ sở phân biệt các quan hệ giữa quốc gia với quốc gia, và các quan hệ giữa các cá nhân với quốc gia hoặc tập đoàn chính trị quân sự, dù cá nhân ấy thuộc dân tộc, quốc tịch nào.

Việc đầu tiên Phan Khôi thấy cần giải trình với công chúng là cái sự thật mà vẻ tù mù của nó đã tạo cơ hội cho sự hình thành cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam hồi cuối thế kỷ XVIII. Kiểm lại sự việc thông qua các sử liệu, Phan Khôi ưu tiên lấy sử sách của người Nam chép ra làm chủ yếu vì việc này quan hệ với nước Nam nhiều hơn (Đông Pháp Thời Báo, 15/5/1928); ông đã đưa độc giả đi qua đoạn sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép truyện Bá Đa Lộc, sách Quốc triều chính biên toát yếu chép việc các năm Quý Mão 1783, Giáp Thìn 1784, Bính Ngọ 1786, Kỷ Dậu 1789 trong đó có ghi việc Nguyễn Ánh giao con trai là Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin, nhờ Bá Đa Lộc sang thuyết phục vua Pháp đem binh sang giúp mình; Bá Đa Lộc và Cảnh lưu lại Pháp hai năm, song nhân vì trong nước có việc, người Tây không thể giúp được. Sách chính thống của triều Nguyễn chép về việc này quả thật hãy còn sơ lược quá, nhưng đã nói rõ phía nước Pháp chưa giúp gì cho Nguyễn Ánh. Phan Khôi cũng chọn sách sử Việt Nam do soạn giả Pháp viết để làm rõ sự kiện này. Ông nhận thấy sách Histoire moderne du Pays d’Annam của tiến sĩ văn khoa Charles B. Maybon viết khá dài và kỹ về sự kiện này nên đã tóm tắt lại cho công chúng. Sách này cho biết Nguyễn Ánh có giao cho giám mục d Adran (tức Bá Đa Lộc) một bức thư gồm 14 khoản, đại ý là nhờ nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn thì Ánh sẽ nhường cho nước Pháp cửa Hàn, đảo Côn Lôn và cho Pháp độc quyền buôn bán ở nước mình. Đoàn của Bá Đa Lộc rời Việt Nam tháng 12/ 1785, đến Pondichéry (đất Ấn Độ lúc đó thuộc Pháp) tháng 2/1786, Bá Đa lộc xin viên Tổng đốc Pháp ở đây đem quân sang giúp, nhưng không được hưởng ứng, chỉ được họ cho tàu chở sang Pháp. Tháng 2/1787 đoàn của Bá Đa Lộc tới Pháp, gặp được vua Pháp Louis XVI. Tờ giao ước Pháp Việt được ký kết tại Versailles, nhưng việc thực hiện nó thì vua Pháp giao cho Tổng đốc Pháp ở 5 tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp lúc ấy. Tuy được vua Pháp cắt cho ngân khoản 2 vạn đồng (tiền Pháp đương thời) dự chi cho việc can thiệp này, nhưng bộ ngoại giao Pháp lại có thư riêng nhắc viên Tổng đốc đương nhiệm là De Conway thận trọng, có lợi thì hãy cử binh, đừng làm gì si sứt khoản tiền trên vì vua Pháp đang túng bấn về tài chính. Vì vậy, khi đoàn của Bá Đa Lộc từ Paris trở về đến Pondichéry, mọi đề nghị của giám mục đều bị De Conway bác bỏ. Ông ta không cử binh sang Nam Kỳ, không cấp dù chỉ một chiếc tàu nhỏ đi báo tin cho Nguyễn Ánh, thậm chí không cấp tiền chi tiêu cho Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh. Tháng 3/1789, Bá Đa Lộc được liên lạc từ Nam Kỳ cho biết Nguyễn Ánh đã chiếm lại được 5 tỉnh phía Nam, có nhiều tàu thuyền, nhưng vẫn mong có đạo quân lớn đến làm thanh viện. Một lần nữa Bá Đa Lộc xin De Conway phái một số tàu, một trăm lính pháo thủ sang Nam Kỳ và phía Nguyễn Ánh xin chịu phí tổn. Nhưng De Conway vẫn không nghe, thậm chí còn viết thư về bộ ngoại giao Pháp xin bác bỏ đề nghị của Bá Đa Lộc và bộ ngoại giao Pháp đã đồng ý với chủ trương không can thiệp của De Conway. Bá Đa Lộc đành nhờ tiền của một số nhà buôn Pháp ở Pondichéry và Ile de France, lại cũng dùng tiền Nguyễn Ánh gửi sang cho, mua một số tàu thuyền, súng ống, đạn dược, lại rủ được vài chục người Pháp, kể cả một số người đang là sĩ quan trong hải quân Pháp bỏ ngũ đi với mình sang đầu quân giúp Nguyễn Ánh. Rốt cuộc Nguyễn Ánh đã thắng trong cuộc nội chiến, lập nên triều Nguyễn, xác lập nền thống trị khắp đàng trong, đàng ngoài.

Tóm tắt đoạn sách của Maybon như trên, Phan Khôi đặt câu hỏi: Vậy thì, nhơn thấy giám mục Bá Đa Lộc nhờ tiền của mấy nhà buôn Pháp hoặc lấy tiền của Gia Long gởi sang mà mua tàu súng và mộ người Pháp về giúp vua để đánh lại Tây Sơn, rồi nói rằng đó là nước Pháp giúp, có được không? Và trả lời: Không được, vì đó là mấy mươi người riêng của nước Pháp giúp, chứ không phải chính nước Pháp giúp. Mấy mươi người ấy hoặc có vì lòng háo nghĩa chăng nữa, song đã không phụng mạng bổn quốc mình, ăn lương của vua Cao hoàng [ý nói Nguyễn Ánh] mà đi đánh giặc mướn, thì người ta chỉ coi như một bọn lính thuê mà thôi. (Đông Pháp Thời Báo, 19/5/1929)

Thêm một bước nữa, Phan Khôi còn khẳng định: nói rằng nước Pháp giúp đi chăng nữa, thì sự giúp ấy cũng chỉ giúp vua Gia Long mà thôi, nào có giúp gì cho nước An Nam mà hòng kể công với dân An Nam? Vì bấy giờ, cuộc loạn trong nước Nam chỉ là một cuộc nội tranh, bên nào thắng thì làm vua đó thôi; còn dân An Nam vẫn cứ làm dân, và nước An Nam cũng không hề bị mất mà! (Đông Pháp Thời Báo, 19/5/1928).

Phan Khôi phán đoán, nếu sự việc diễn ra ngược lại, tức là nước Pháp thi hành giao ước, đem quân giúp Nguyễn Ánh thì có lẽ nước Nam lại vong quốc ngay bởi nước Pháp trong lúc đó chưa biết chừng chứ không phải có thêm hơn nửa thế kỷ tự chủ nữa rồi mới bị Pháp xâm lược.

Cách trình bày và lý giải của Phan Khôi có lẽ đã giành được sự tán thưởng của khá đông độc giả Đông Pháp Thời Báo. Báo có đăng vào mục Độc giả luận đàm ý kiến của một điền chủ ở Vĩnh Long nguyên là một giáo viên là ông Huỳnh Ích Lợi bài Một cái đại ngộ điểm ta phải liệng ra ngoài sử Nam Việt (Đông Pháp Thời Báo, 22/5/1928). Vị độc giả này tỏ ý thấm thía nhất là học được cách hiểu mới mẻ, không dừng lại ở cách nghĩ hồ đồ rằng Tây giúp vua Gia Long, mà phải phân biệt việc nước Pháp tức là chính phủ Pháp giúp Gia Long với việc vài mươi người Pháp ăn lương của Gia Long mà giúp Gia Long. Sự việc mà Phan Khôi tóm lược trong sách của Maybon được ông xác nhận bằng cách dẫn thêm tư liệu từ cuốn Histoire générale do E.Lavisan chủ biên, và cuốn L’ Empire d’Annam của Gosselin.

Việc thứ hai Phan Khôi thấy cần phải làm rõ là xem cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam kia đã lây nhiễm như thế nào vào thư tịch Trung Hoa, nguồn thư tịch mà các giới sử học, văn hóa học Việt Nam xưa nay thường xem trọng. Ông khảo hai cuốn Thanh giám dị tri lục của Hứa Quốc Anh soạn dưới thời Thanh (trước 1911) và sách Bách khoa toàn thư của Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải soạn dưới thời Dân quốc (sau 1911). Thanh giám dị tri lục viết rằng khoảng ngang thời Gia Khánh (1796-1821) ở Việt Nam chúa Nguyễn cũ dấy lên ở Nam Kỳ giành nước với Nguyễn mới (Tây Sơn), mượn binh của Pháp, hẹn trả bằng tiền nhưng về sau chỉ trả được phân nửa, lại vì việc giết cố đạo nên bị Pháp đánh chiếm lấy Nam Kỳ. Bách khoa toàn thư thì viết rằng Phước Ánh thuộc dòng Nguyễn cũ muốn chống Nguyễn mới (Tây Sơn) và thống nhất cả nước, bèn cầu cứu nước Pháp, hứa cho tự do giảng đạo và cắt cho cù lao Hóa Nam (?); sau Nguyễn cũ thống nhất được cả nước, nhưng bội lời ước; người Pháp giận, đánh các pháo đài ven biển miền Trung rồi chiếm Nam Kỳ.

Cái sai của cả hai cuốn sách Tàu này rất rõ. Phan Khôi phán đoán rằng họ viết sai vì họ đã theo những cuốn sách của những sử gia thực dân. Ông tin rằng các soạn giả Tàu đã dùng sách Pháp vì thấy họ đã để lại ở văn bản những dấu vết là những tên riêng viết lầm, ví dụ cù lao Hóa Nam (?), hoặc tên riêng Lê Tuấn chép ra Lê Tuần. Thế là cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam không những nhồi một mình sọ An Nam thôi, mà lại nhồi luôn cả sọ Chệt nữa! (Đông Pháp Thời Báo, 10/7/1928).

Để xảy ra điều này, theo Phan Khôi, có lỗi một phần ở giới sử gia Việt Nam. Phép chép sử hai chiến quốc nào phải lấy sử liệu của cả hai nước ấy làm gốc. Như người Tàu chép chuyện Pháp chiếm lãnh Việt Nam đây, tất phải căn cứ ở sách Pháp và sách Việt Nam. Song trong khoảng trăm năm nay trừ ra bổn sử chữ quốc ngữ và chữ Pháp của Trương Vĩnh Ký, Việt Nam có ai chép cái gì bằng chữ Hán đủ làm tài liệu cho người Tàu tham khảo đâu, trách nào họ chẳng vớ lấy chỉ một mình sách Pháp! (Đông Pháp Thời Báo, 10/7/1928).

Bởi vậy Phan Khôi cắn cỏ mà kêu các nhà Hán học trong nước, các ông tiến sĩ triều Nguyễn, hãy làm sách mà đính chính lại những sai lầm của sử gia nước láng giềng phương Bắc về sử cận đại nước mình như ở mấy cuốn sách trên kia đi! Vạch ra những sai lầm về sử Việt Nam trong một số cuốn sách Trung Hoa cũng tức là nhắc nhở sự cẩn trọng trước nguồn thư tịch này, nhất là về sử cận đại, tuy nhiên Phan Khôi vẫn tin rằng các học giả thực dân đã dựng nên ngụy thuyết trên kia dù sao cũng không thể lừa gạt được mọi học giả Trung Hoa. Ông tìm thấy cuốn Cận thế đại quốc gia chủ nghĩa của Lưu Văn Hải xuất bản năm Dân quốc 14 (1925) như tìm thấy lời minh oan cho sự kiện đang bàn, nhờ vậy ông có thể yên tâm viết bài cuối cùng, kết thúc một cuộc thảo luận mà càng về sau ông càng trở thành người độc diễn tuy được công chúng lắng nghe; đó là bài Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928). Phan Khôi đã tìm thấy một nhà sử học Tàu hiện đại, nghiên cứu các điều ước quốc tế theo tinh thần mới. Tương tự các học giả Pháp Gosselin và Maybon, Lưu Văn Hải xác định điều ước Pháp Việt 1787 chưa được ký và cũng chưa được thi hành. Sang giữa thế kỷ XIX, khi cách mạng Pháp đã qua, chính phủ Pháp muốn mở thêm thuộc địa, đã viện đến bản điều ước 1787 và việc triều Nguyễn giết cố đạo như hai cái cớ cho sự xâm lược. Lưu Văn Hải cho rằng phía Pháp chưa thực hiện giao ước thì chưa thể đòi quyền lợi từ phía Việt Nam. Vả chăng, nếu coi chút đỉnh viện binh và súng ống Bá Đa Lộc đưa sang là thi hành điều ước Versailles thì tính hợp pháp của bản điều ước này vẫn là điều cần xét kỹ. Theo công pháp quốc tế, khi lập một giao ước mà có dấu hiệu lừa gạt, gian dối thì bản điều ước ấy vô hiệu. Phía Việt Nam tham gia điều ước Versailles chỉ là cậu bé 8 tuổi, những người cùng đi với cậu đều là người Pháp, còn phía Pháp là vua Louis XVI và các chính trị gia hàng đầu. Dấu hiệu không bình thường, không công bằng khá rõ. Lại nữa, việc phía chúa Nguyễn hứa sẽ cho phía Pháp những thứ mà mình chưa có, - là điều không có giá trị về luật pháp. Những thứ của cải đem ra làm điều kiện trao đổi đó (hòn đảo, cửa biển, độc quyền buôn bán) lại mang tính ác liệt mà công lý không dung được, và hành động của phía Pháp thực hiện điều ước ấy là xúi giục cuộc nội loạn của các nước khác để kiếm lợi ích riêng cho mình; đây là điều mà các dân tộc văn minh nên lên án.

Phan Khôi đánh giá rất cao lập luận này: Xem những lời nghị luận trên đó thì thấy ra ông Lưu Văn Hải chẳng những không bị cái ngụy thuyết kia phỉnh gạt, mà lại đã ra công bài bác nó nữa và bài bác đến tận gốc (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928).

Với việc dẫn giải cuốn sách của Lưu Văn Hải, Phan Khôi thấy đã có thể tạm kết thúc cuộc thảo luận mà thực chất nhằm đính chính một sai lầm trong nhận định về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông kết luận bằng lời đề nghị: Xin hết thảy người trong nước phải biết tôn trọng quốc sử, phải biết tôn trọng sự thực của lịch sử nước mình, đừng để cho người khác xáo bậy đi. (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928).

Vậy là cuộc thảo luận về một sự kiện thuộc lịch sử Việt Nam cận đại đã được Phan Khôi khơi lên và kéo dài suốt ba tháng ròng trong năm 1928 trên một tờ báo phát hành mỗi số khoảng 9 ngàn bản ở Sài Gòn và nhiều nơi trong nước. Điều này có ý nghĩa không nhỏ, cả về mặt nhận thức lịch sử, cả về mặt nâng cao ý thức dân tộc cho công chúng đương thời.

LẠI NGUYÊN ÂN

LẠI NGUYÊN ÂN : Phan Khôi và cuộc thảo luận sử học năm 1928 trên Đông Pháp Thời Báo

LẠI NGUYÊN ÂN

Phan Khôi

và cuộc thảo luận sử học

năm 1928

trên Đông Pháp Thời Báo



Các nhà nghiên cứu lịch sử chung, lịch sử báo chí, lịch sử văn học lâu nay hầu như chưa ai nói đến cuộc thảo luận này, có lẽ vì một lý do dễ thấy: ngành nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam hiện giờ còn để những khoảng trống quá lớn trong việc mô tả diện mạo cụ thể của báo chí từng thời kỳ lịch sử.

Để thấy đường viền của cuộc thảo luận này, ta hãy trở lại sinh hoạt báo chí ở Sài Gòn những năm 1920-1930: bên cạnh báo chí tiếng Việt còn có khá nhiều báo chí tiếng Pháp, báo chí chữ Hán, trong đó lớn giọng nhất vẫn là các báo tiếng Pháp tuy chắc hẳn không chiếm được số đông công chúng. Không phải tất cả các tờ báo tiếng Pháp đều giữ lập trường thực dân trong khi họ có quá nhiều vấn đề của thế giới đương thời để tham dự. Tuy vậy không hiếm khi một vài ký giả hay học giả, hoặc cố ý hoặc vô ý, động chạm đến tự ái dân tộc của người bản xứ. Lúc đó một số ký giả người Việt đọc được các tờ báo Pháp đó sớm muộn cũng sẽ lên tiếng thông tin với đồng bào mình và tỏ thái độ trên các báo tiếng Việt.

Nội trong năm 1928, ít nhất có hai lần, hai tác giả Pháp là Albert de Pouvourville và Jean Bouchot đã viết trên báo chữ Pháp ở Sài Gòn rằng tổ tiên người An Nam mời người Pháp sang bảo hộ, rằng người Pháp đã giúp cho người An Nam chinh phục đất Nam Kỳ. Các ký giả Việt Nam như Đào Trinh Nhất, Nguyễn Phan Long,v.v.. đã lên tiếng phản bác trên cả các báo tiếng Việt lẫn báo tiếng Pháp, nhưng, như ký giả Tân Việt cay đắng nhận xét, đó chỉ là những lý sự giữa sa mạc, chính quyền thuộc địa không trách cứ răn đe gì các tác giả người Pháp, còn các tác giả ấy thì không đáp lại phản ứng của dư luận từ phía người bản xứ. Vì vậy, để sự bàn luận có quy mô và khiến đông đảo công chúng Việt Nam chú ý thì tốt hơn là nên chuyển thành cuộc trao đổi giữa các tác giả, ký giả người Việt. Có lẽ Phan Khôi đã tính như vậy nên khi bắt gặp một vài phát ngôn thiếu chính xác về nhận định sử học, ông bèn tận dụng để gây thành cuộc thảo luận lớn.

Hai phát ngôn rơi vào tầm ngắm nói trên thuộc về hai ký giả tên tuổi đương thời: Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng và Nam Kiều Trần Huy Liệu. Ở một bài xã thuyết trên tờ Tiếng dân (xuất bản ở Huế) Minh Viên có chỗ viết rằng Gia Long đã nhờ được binh lực nước Pháp mà làm thành cuộc thống nhất đất nước, còn Nam Kiều trong sách Một bầu tâm sự (lúc đó vừa mới phát hành thì bị cấm) cũng có chỗ nói Pháp quốc giúp cho [vua Gia Long] hai cái tàu và một ít súng thần công.

Dưới bút danh C.D. (viết tắt từ tên hiệu Chương Dân), Phan Khôi châm ngòi thảo luận bằng bài Mấy cái quái trong sách và báo ta (Đông Pháp Thời Báo, 1/5/1928). Ông nhắc người viết bài trên tờ Tiếng dân rằng bản điều ước ký khi hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc được phái sang Pháp cầu viện, rốt cuộc đã không được phía Pháp thực hiện. Vì vậy chỉ có việc Bá Đa Lộc mộ được vài mươi người Pháp sang giúp Gia Long, song đó chẳng qua là người riêng của nước Pháp giúp chứ không phải chính nước Pháp giúp. Ông cũng nhắc tác giả Một bầu tâm sự nhớ rằng chuyện nước Pháp tặng tàu và súng là chuyện thời Tự Đức, sau khi đã ký hòa ước Pháp Nam, chứ không phải thời nội chiến Nguyễn Ánh chống Tây Sơn.

Trần Huy Liệu gửi đến tòa soạn Đông Pháp Thời Báo bài Trả lời ông C.D. (Đông Pháp Thời Báo, 12/5/1928), bảo vệ ý kiến cũ của mình bằng việc dẫn cuốn Đại Nam sử ký, một chỗ nói cuối năm 1784 Gia Long giao hoàng tử Cảnh cho cố đạo Bá Đa Lộc sang cầu cứu bên Pháp một vài chỗ khác nói trong năm 1789, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi tàu về, có vài chiếc tàu chở về súng đạn, và kể tên mươi người Pháp sang giúp việc trong quân.

Phan Khôi không chú trọng việc trả lời ý kiến phản hồi của Trần Huy Liệu. Ông muốn nhân dịp này làm rõ một số tình tiết lịch sử quan trọng và nhất là hiểu đúng ý nghĩa của chúng. Ông đã lần lượt cho in các bài: Bác cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII (Đông Pháp Thời Báo, 2 kỳ: 15/5 và 19/5/1928); Trở lại việc nước Pháp giúp nước Nam: Sách Tàu nói bướng. Các nhà Hán học ta mở mắt ra mà coi (Đông Pháp Thời Báo, 10/7/1928); Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam. Một cuốn sách Tàu minh oan cho chúng ta (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928). Đối tượng tranh cãi của Phan Khôi trong loạt bài này không phải là Minh Viên hay Nam Kiều mà là cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam, cái thuyết mà những tác gia đầu tiên có lẽ là một số học giả thực dân, cái thuyết mà giới quan chức nho sĩ Việt Nam tuy không muốn nhưng vì thiếu một nhận thức rạch ròi, họ đã ngấm ngầm cam chịu thừa nhận, cái thuyết mà tính đến những năm 20 thế kỷ XX - đã phổ biến khá rộng, đã thâm nhập không ít đầu óc trí thức người Việt, thâm nhập cả vào một số thư tịch sử học Trung Hoa, tóm lại đã thành một thảm họa nhận thức.

Phải nói ngay rằng tác giả bài báo đã nêu trong Tiếng dân lên tiếng phục thiện rất sớm. Trong bài Nói điều lỗi của ta là sự may cho ta (Tiếng dân số 79, Đông Pháp Thời Báo đăng lại 24/5/1928) tác giả Minh Viên nói thẳng rằng tôi tâm phục lời chỉ trích của ông C.D, rằng thấy có kẻ mới nghe mấy chữ nhờ binh lực nước Pháp mà đã lấy làm bất bình, cho là quái lạ thì theo ông (Minh Viên), thật không khác gì giữa vùng sa mạc mà thấy chòm cây tốt, ở chốn rừng không mà nghe tiếng chân người, dầu cho người vô tâm đến đâu cũng phải cảm động, huống tác giả là một kẻ đa tình, không thể nào ngăn mối lòng hứng khởi được.

Tuy vậy Minh Viên vẫn chưa dứt bỏ được quan niệm đồng nhất chủng tộc với quốc gia, vẫn cho rằng dầu thế nào mặc lòng, người nước mình hồi đó cũng có cầu cứu nước Pháp, nước Pháp cũng có hứa lời, trong cuộc chinh chiến cũng có tàu Pháp súng Pháp và người Pháp, rằng đương thời đại đó thì vua Gia Long tức là nước Nam ta, mà những người tóc vàng da trắng mũi nhọn mắt thau tức là nước Pháp; người Pháp cùng nước Pháp cũng không phân biệt là mấy, ông giám mục d’Adran cùng đôi mươi người Pháp, mà nói là nước Pháp cũng không sai bao nhiêu. Quan niệm còn đậm màu sắc trung đại này khác với quan niệm mang tính hiện đại của Phan Khôi theo đó nhận thức sử học cần dựa trên cơ sở phân biệt các quan hệ giữa quốc gia với quốc gia, và các quan hệ giữa các cá nhân với quốc gia hoặc tập đoàn chính trị quân sự, dù cá nhân ấy thuộc dân tộc, quốc tịch nào.

Việc đầu tiên Phan Khôi thấy cần giải trình với công chúng là cái sự thật mà vẻ tù mù của nó đã tạo cơ hội cho sự hình thành cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam hồi cuối thế kỷ XVIII. Kiểm lại sự việc thông qua các sử liệu, Phan Khôi ưu tiên lấy sử sách của người Nam chép ra làm chủ yếu vì việc này quan hệ với nước Nam nhiều hơn (Đông Pháp Thời Báo, 15/5/1928); ông đã đưa độc giả đi qua đoạn sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép truyện Bá Đa Lộc, sách Quốc triều chính biên toát yếu chép việc các năm Quý Mão 1783, Giáp Thìn 1784, Bính Ngọ 1786, Kỷ Dậu 1789 trong đó có ghi việc Nguyễn Ánh giao con trai là Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin, nhờ Bá Đa Lộc sang thuyết phục vua Pháp đem binh sang giúp mình; Bá Đa Lộc và Cảnh lưu lại Pháp hai năm, song nhân vì trong nước có việc, người Tây không thể giúp được. Sách chính thống của triều Nguyễn chép về việc này quả thật hãy còn sơ lược quá, nhưng đã nói rõ phía nước Pháp chưa giúp gì cho Nguyễn Ánh. Phan Khôi cũng chọn sách sử Việt Nam do soạn giả Pháp viết để làm rõ sự kiện này. Ông nhận thấy sách Histoire moderne du Pays d’Annam của tiến sĩ văn khoa Charles B. Maybon viết khá dài và kỹ về sự kiện này nên đã tóm tắt lại cho công chúng. Sách này cho biết Nguyễn Ánh có giao cho giám mục d Adran (tức Bá Đa Lộc) một bức thư gồm 14 khoản, đại ý là nhờ nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn thì Ánh sẽ nhường cho nước Pháp cửa Hàn, đảo Côn Lôn và cho Pháp độc quyền buôn bán ở nước mình. Đoàn của Bá Đa Lộc rời Việt Nam tháng 12/ 1785, đến Pondichéry (đất Ấn Độ lúc đó thuộc Pháp) tháng 2/1786, Bá Đa lộc xin viên Tổng đốc Pháp ở đây đem quân sang giúp, nhưng không được hưởng ứng, chỉ được họ cho tàu chở sang Pháp. Tháng 2/1787 đoàn của Bá Đa Lộc tới Pháp, gặp được vua Pháp Louis XVI. Tờ giao ước Pháp Việt được ký kết tại Versailles, nhưng việc thực hiện nó thì vua Pháp giao cho Tổng đốc Pháp ở 5 tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp lúc ấy. Tuy được vua Pháp cắt cho ngân khoản 2 vạn đồng (tiền Pháp đương thời) dự chi cho việc can thiệp này, nhưng bộ ngoại giao Pháp lại có thư riêng nhắc viên Tổng đốc đương nhiệm là De Conway thận trọng, có lợi thì hãy cử binh, đừng làm gì si sứt khoản tiền trên vì vua Pháp đang túng bấn về tài chính. Vì vậy, khi đoàn của Bá Đa Lộc từ Paris trở về đến Pondichéry, mọi đề nghị của giám mục đều bị De Conway bác bỏ. Ông ta không cử binh sang Nam Kỳ, không cấp dù chỉ một chiếc tàu nhỏ đi báo tin cho Nguyễn Ánh, thậm chí không cấp tiền chi tiêu cho Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh. Tháng 3/1789, Bá Đa Lộc được liên lạc từ Nam Kỳ cho biết Nguyễn Ánh đã chiếm lại được 5 tỉnh phía Nam, có nhiều tàu thuyền, nhưng vẫn mong có đạo quân lớn đến làm thanh viện. Một lần nữa Bá Đa Lộc xin De Conway phái một số tàu, một trăm lính pháo thủ sang Nam Kỳ và phía Nguyễn Ánh xin chịu phí tổn. Nhưng De Conway vẫn không nghe, thậm chí còn viết thư về bộ ngoại giao Pháp xin bác bỏ đề nghị của Bá Đa Lộc và bộ ngoại giao Pháp đã đồng ý với chủ trương không can thiệp của De Conway. Bá Đa Lộc đành nhờ tiền của một số nhà buôn Pháp ở Pondichéry và Ile de France, lại cũng dùng tiền Nguyễn Ánh gửi sang cho, mua một số tàu thuyền, súng ống, đạn dược, lại rủ được vài chục người Pháp, kể cả một số người đang là sĩ quan trong hải quân Pháp bỏ ngũ đi với mình sang đầu quân giúp Nguyễn Ánh. Rốt cuộc Nguyễn Ánh đã thắng trong cuộc nội chiến, lập nên triều Nguyễn, xác lập nền thống trị khắp đàng trong, đàng ngoài.

Tóm tắt đoạn sách của Maybon như trên, Phan Khôi đặt câu hỏi: Vậy thì, nhơn thấy giám mục Bá Đa Lộc nhờ tiền của mấy nhà buôn Pháp hoặc lấy tiền của Gia Long gởi sang mà mua tàu súng và mộ người Pháp về giúp vua để đánh lại Tây Sơn, rồi nói rằng đó là nước Pháp giúp, có được không? Và trả lời: Không được, vì đó là mấy mươi người riêng của nước Pháp giúp, chứ không phải chính nước Pháp giúp. Mấy mươi người ấy hoặc có vì lòng háo nghĩa chăng nữa, song đã không phụng mạng bổn quốc mình, ăn lương của vua Cao hoàng [ý nói Nguyễn Ánh] mà đi đánh giặc mướn, thì người ta chỉ coi như một bọn lính thuê mà thôi. (Đông Pháp Thời Báo, 19/5/1929)

Thêm một bước nữa, Phan Khôi còn khẳng định: nói rằng nước Pháp giúp đi chăng nữa, thì sự giúp ấy cũng chỉ giúp vua Gia Long mà thôi, nào có giúp gì cho nước An Nam mà hòng kể công với dân An Nam? Vì bấy giờ, cuộc loạn trong nước Nam chỉ là một cuộc nội tranh, bên nào thắng thì làm vua đó thôi; còn dân An Nam vẫn cứ làm dân, và nước An Nam cũng không hề bị mất mà! (Đông Pháp Thời Báo, 19/5/1928).

Phan Khôi phán đoán, nếu sự việc diễn ra ngược lại, tức là nước Pháp thi hành giao ước, đem quân giúp Nguyễn Ánh thì có lẽ nước Nam lại vong quốc ngay bởi nước Pháp trong lúc đó chưa biết chừng chứ không phải có thêm hơn nửa thế kỷ tự chủ nữa rồi mới bị Pháp xâm lược.

Cách trình bày và lý giải của Phan Khôi có lẽ đã giành được sự tán thưởng của khá đông độc giả Đông Pháp Thời Báo. Báo có đăng vào mục Độc giả luận đàm ý kiến của một điền chủ ở Vĩnh Long nguyên là một giáo viên là ông Huỳnh Ích Lợi bài Một cái đại ngộ điểm ta phải liệng ra ngoài sử Nam Việt (Đông Pháp Thời Báo, 22/5/1928). Vị độc giả này tỏ ý thấm thía nhất là học được cách hiểu mới mẻ, không dừng lại ở cách nghĩ hồ đồ rằng Tây giúp vua Gia Long, mà phải phân biệt việc nước Pháp tức là chính phủ Pháp giúp Gia Long với việc vài mươi người Pháp ăn lương của Gia Long mà giúp Gia Long. Sự việc mà Phan Khôi tóm lược trong sách của Maybon được ông xác nhận bằng cách dẫn thêm tư liệu từ cuốn Histoire générale do E.Lavisan chủ biên, và cuốn L’ Empire d’Annam của Gosselin.

Việc thứ hai Phan Khôi thấy cần phải làm rõ là xem cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam kia đã lây nhiễm như thế nào vào thư tịch Trung Hoa, nguồn thư tịch mà các giới sử học, văn hóa học Việt Nam xưa nay thường xem trọng. Ông khảo hai cuốn Thanh giám dị tri lục của Hứa Quốc Anh soạn dưới thời Thanh (trước 1911) và sách Bách khoa toàn thư của Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải soạn dưới thời Dân quốc (sau 1911). Thanh giám dị tri lục viết rằng khoảng ngang thời Gia Khánh (1796-1821) ở Việt Nam chúa Nguyễn cũ dấy lên ở Nam Kỳ giành nước với Nguyễn mới (Tây Sơn), mượn binh của Pháp, hẹn trả bằng tiền nhưng về sau chỉ trả được phân nửa, lại vì việc giết cố đạo nên bị Pháp đánh chiếm lấy Nam Kỳ. Bách khoa toàn thư thì viết rằng Phước Ánh thuộc dòng Nguyễn cũ muốn chống Nguyễn mới (Tây Sơn) và thống nhất cả nước, bèn cầu cứu nước Pháp, hứa cho tự do giảng đạo và cắt cho cù lao Hóa Nam (?); sau Nguyễn cũ thống nhất được cả nước, nhưng bội lời ước; người Pháp giận, đánh các pháo đài ven biển miền Trung rồi chiếm Nam Kỳ.

Cái sai của cả hai cuốn sách Tàu này rất rõ. Phan Khôi phán đoán rằng họ viết sai vì họ đã theo những cuốn sách của những sử gia thực dân. Ông tin rằng các soạn giả Tàu đã dùng sách Pháp vì thấy họ đã để lại ở văn bản những dấu vết là những tên riêng viết lầm, ví dụ cù lao Hóa Nam (?), hoặc tên riêng Lê Tuấn chép ra Lê Tuần. Thế là cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam không những nhồi một mình sọ An Nam thôi, mà lại nhồi luôn cả sọ Chệt nữa! (Đông Pháp Thời Báo, 10/7/1928).

Để xảy ra điều này, theo Phan Khôi, có lỗi một phần ở giới sử gia Việt Nam. Phép chép sử hai chiến quốc nào phải lấy sử liệu của cả hai nước ấy làm gốc. Như người Tàu chép chuyện Pháp chiếm lãnh Việt Nam đây, tất phải căn cứ ở sách Pháp và sách Việt Nam. Song trong khoảng trăm năm nay trừ ra bổn sử chữ quốc ngữ và chữ Pháp của Trương Vĩnh Ký, Việt Nam có ai chép cái gì bằng chữ Hán đủ làm tài liệu cho người Tàu tham khảo đâu, trách nào họ chẳng vớ lấy chỉ một mình sách Pháp! (Đông Pháp Thời Báo, 10/7/1928).

Bởi vậy Phan Khôi cắn cỏ mà kêu các nhà Hán học trong nước, các ông tiến sĩ triều Nguyễn, hãy làm sách mà đính chính lại những sai lầm của sử gia nước láng giềng phương Bắc về sử cận đại nước mình như ở mấy cuốn sách trên kia đi! Vạch ra những sai lầm về sử Việt Nam trong một số cuốn sách Trung Hoa cũng tức là nhắc nhở sự cẩn trọng trước nguồn thư tịch này, nhất là về sử cận đại, tuy nhiên Phan Khôi vẫn tin rằng các học giả thực dân đã dựng nên ngụy thuyết trên kia dù sao cũng không thể lừa gạt được mọi học giả Trung Hoa. Ông tìm thấy cuốn Cận thế đại quốc gia chủ nghĩa của Lưu Văn Hải xuất bản năm Dân quốc 14 (1925) như tìm thấy lời minh oan cho sự kiện đang bàn, nhờ vậy ông có thể yên tâm viết bài cuối cùng, kết thúc một cuộc thảo luận mà càng về sau ông càng trở thành người độc diễn tuy được công chúng lắng nghe; đó là bài Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928). Phan Khôi đã tìm thấy một nhà sử học Tàu hiện đại, nghiên cứu các điều ước quốc tế theo tinh thần mới. Tương tự các học giả Pháp Gosselin và Maybon, Lưu Văn Hải xác định điều ước Pháp Việt 1787 chưa được ký và cũng chưa được thi hành. Sang giữa thế kỷ XIX, khi cách mạng Pháp đã qua, chính phủ Pháp muốn mở thêm thuộc địa, đã viện đến bản điều ước 1787 và việc triều Nguyễn giết cố đạo như hai cái cớ cho sự xâm lược. Lưu Văn Hải cho rằng phía Pháp chưa thực hiện giao ước thì chưa thể đòi quyền lợi từ phía Việt Nam. Vả chăng, nếu coi chút đỉnh viện binh và súng ống Bá Đa Lộc đưa sang là thi hành điều ước Versailles thì tính hợp pháp của bản điều ước này vẫn là điều cần xét kỹ. Theo công pháp quốc tế, khi lập một giao ước mà có dấu hiệu lừa gạt, gian dối thì bản điều ước ấy vô hiệu. Phía Việt Nam tham gia điều ước Versailles chỉ là cậu bé 8 tuổi, những người cùng đi với cậu đều là người Pháp, còn phía Pháp là vua Louis XVI và các chính trị gia hàng đầu. Dấu hiệu không bình thường, không công bằng khá rõ. Lại nữa, việc phía chúa Nguyễn hứa sẽ cho phía Pháp những thứ mà mình chưa có, - là điều không có giá trị về luật pháp. Những thứ của cải đem ra làm điều kiện trao đổi đó (hòn đảo, cửa biển, độc quyền buôn bán) lại mang tính ác liệt mà công lý không dung được, và hành động của phía Pháp thực hiện điều ước ấy là xúi giục cuộc nội loạn của các nước khác để kiếm lợi ích riêng cho mình; đây là điều mà các dân tộc văn minh nên lên án.

Phan Khôi đánh giá rất cao lập luận này: Xem những lời nghị luận trên đó thì thấy ra ông Lưu Văn Hải chẳng những không bị cái ngụy thuyết kia phỉnh gạt, mà lại đã ra công bài bác nó nữa và bài bác đến tận gốc (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928).

Với việc dẫn giải cuốn sách của Lưu Văn Hải, Phan Khôi thấy đã có thể tạm kết thúc cuộc thảo luận mà thực chất nhằm đính chính một sai lầm trong nhận định về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông kết luận bằng lời đề nghị: Xin hết thảy người trong nước phải biết tôn trọng quốc sử, phải biết tôn trọng sự thực của lịch sử nước mình, đừng để cho người khác xáo bậy đi. (Đông Pháp Thời Báo, 4/8/1928).

Vậy là cuộc thảo luận về một sự kiện thuộc lịch sử Việt Nam cận đại đã được Phan Khôi khơi lên và kéo dài suốt ba tháng ròng trong năm 1928 trên một tờ báo phát hành mỗi số khoảng 9 ngàn bản ở Sài Gòn và nhiều nơi trong nước. Điều này có ý nghĩa không nhỏ, cả về mặt nhận thức lịch sử, cả về mặt nâng cao ý thức dân tộc cho công chúng đương thời.

LẠI NGUYÊN ÂN

Lại Nguyên Ân Liệu có thể xem Phan Khôi (1887-1959) như một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?

Lại Nguyên Ân



Liệu có thể xem Phan Khôi (1887-1959)

như một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?









Tham luận gửi tới hội thảo khoa học"Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945" do Khoa Ngữ văn và Báo chí, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, 26/5/2006







1/ Điều nêu ra ở nhan đề bài này, sở dĩ phải đặt như một nghi vấn hơn là một khẳng định, bởi vì người viết những dòng này cũng như các đồng nghiệp trong giới nghiên cứu không thể không phải đương diện với một tập quán, tuy không mấy "khoa học" nhưng khá thông dụng trong việc biên soạn các bộ địa chí văn hoá hiện nay ở các tỉnh thành trong hầu khắp nước ta (những bộ địa chí thường được xếp vào loại công trình cấp quốc gia, thường được cấp tiền tỉ từ ngân sách công), theo đó căn cứ để tính một tác gia văn học vào trong số tác gia của địa phương mình thường là : a/ quê quán (thường tính theo quê cha, đôi khi xét thêm đến thuộc tính quê mẹ) , và b/ trên thực tế có sống và hoạt động văn học tại địa phương. Tiêu chí đầu thường được vận dụng phổ biến trong các bộ địa chí cấp tỉnh, và vận dụng bất chấp tiêu chí sau, bởi vì những tỉnh không có thành phố lớn thường chỉ có rất ít tác gia "quê gốc" lại đồng thời hoạt động "tại chỗ" (các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ chẳng hạn, tài năng văn học thường tụ hết cả về lòng chảo Hà Thành!); và thế là mặc dù "ngài" tác giả hoạt động ở tận đẩu tận đâu, ít khi bước chân về quê, chỉ cần bố mẹ "ngài" quê gốc ở địa phương này thì địa phương này sẽ tôn vinh tên tuổi "ngài" làm vinh dự cho quê hương. Tiêu chí sau, có vẻ như được ưu tiên trang bị cho việc biên soạn địa chí của những địa phương có thành phố lớn, có trung tâm văn hoá lớn, những nơi từng có mặt hoặc đang có mặt số lượng lớn người hoạt động văn học; dữ kiện để chọn dồi dào thì người biên khảo sẽ khoác bộ mặt cau có của kẻ khó tính, sẽ chẳng những đòi hỏi quê gốc tác gia phải ở tỉnh thành này, mà còn đòi hỏi chính tác gia phải từng sống và hoạt động văn học tại đây nữa. Nhưng ở trung tâm lớn thời nào cũng thường quần tụ nhiều tác gia; trong khi đó, động cơ và mục đích đầu tư cho biên soạn các bộ địa chí là tôn vinh địa phương, là chứng tỏ đất này "địa linh nhân kiệt" hơn những đất khác, cho nên rốt cuộc nhà biên khảo vẫn sử dụng tra vấn "quê gốc" làm căn cứ để loại trừ bớt những tác gia tuy hiển nhiên hoạt động văn học tại đây nhưng chỉ là dân nhập cư từ những nơi khác! Tóm lại, tiêu chí quê quán hầu như vẫn là tiêu chí duy nhất để tập hợp tác gia theo vùng đất trong các công trình địa phương chí. Tiêu chí này, ngoài những công dụng hiển nhiên của việc biên khảo theo chủ đề, cũng chứa đựng nguy cơ làm đơn giản hoá, thậm chí làm méo mó (trong sự hình dung của người tiếp nhận tri thức văn học sử) diện mạo thực của đời sống văn học ở những đô thị lớn qua những giai đoạn khác nhau.

Sở dĩ phải dài lời như trên là vì thực sự tôi chưa rõ đề tài "Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945" được dẫn dắt theo những quy tắc nào, nhất là về nghiên cứu tác gia, có vận dụng quy tắc "địa phương chí" hiện hành (như mô tả bên trên ) hay không?



Sự việc cụ thể là tôi đưa ra tác gia Phan Khôi (1887-1959): quê gốc không ở Nam Bộ, nhưng có thời gian đáng kể sống và hoạt động báo chí, văn học ở thành phố Sài Gòn trên đất Nam Kỳ (nay gọi là Nam Bộ). Vậy có thể đề cập đến hoạt động của Phan Khôi trong đề tài nghiên cứu này không? Vả chăng, Phan Khôi cũng chỉ là một trong khá đông trường hợp các tác gia "nhập cư" vào báo chương Sài Gòn hiện bị quên lãng thậm chí tại "quê gốc" của mình, ví dụ Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình), Bùi Thế Mỹ, Phan Thứ Khanh (quê Quảng Nam), và hẳn còn không ít các trường hợp khác.



Phần dưới đây sẽ nêu khái lược hoạt động báo chí và văn chương của Phan Khôi tại Sài Gòn, trong những đoạn thời gian ông sống và viết báo viết văn ở đây.





*









2/ Theo một vài tác giả ( ví dụ : Phan Thị Nga(1936), Phan Cừ và Phan An (1996) (1) , v.v.) và theo kết quả sưu tầm nghiên cứu của bản thân người đang viết những dòng này, thì Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn từ năm 1919 và từ đó đến đầu thập niên 1940 (hoặc cuối thập niên 1930) đã liên tục gắn với đời sống văn chương báo chí Sài Gòn, dù suốt thời gian ấy không phải lúc nào cũng sống ở đây. Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành, là nơi cây bút viết báo viết văn của ông làm việc năng sản nhất, hiệu quả nhất. Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã đề xuất Phan Khôi như một trong không nhiều những tên tuổi xuất chúng của mình trên trường dư luận toàn quốc đương thời.



Phan Khôi can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Và ở Việt Nam, nếu đời sống văn học, trước hết là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, bắt đầu dạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thông hiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của Phan Khôi được thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu, ...) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả !





Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài có lẽ là tờ Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo này hầu như ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuối cùng ông đăng Nam phong ( Về việc cấm rượu ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta // N.P.s. 23, tháng 5/1919) thì cũng ngay trong tháng ấy, ngày 7/5/1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca Đưa chồng và Nhớ chồng, thác lời người vợ có chồng là lính tùng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong (Sau này vào năm 1958 ở miền Bắc, Phùng Bảo Thạch sẽ "hồi cố" nội dung hai bài này để tố cáo thái độ "ôm chân đế quốc" của Phan Khôi). Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là về đề tài thường thức xã hội và về ngôn ngữ. Đó là mục Làm dân phải biết (với những nội dung bài từng kỳ báo lần lượt là : -- Nước mẹ đẻ; -- Địa dư nước An Nam; -- Chính trị nước An Nam; -- Phong tục nước An Nam; -- Dân phải nộp thuế;...) và mục Ghi chép tiếng An Nam (tôi tìm được 10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12/5 đến 25/6/1919).



Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936, tài liệu dẫn trên) thì "làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc ...".



Bài báo "kịch liệt quá" ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theo tìm hiểu của tôi, đó có thể là bài Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị đăng hai kỳ báo (LTTV. 14/5 và LTTV. 21/5/1919). Theo thông tin trong bài báo ấy thì trước đó ít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lục tỉnh tân văn đã đăng toàn văn bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giả Chương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích có chỗ nói rằng: « chữ "Đông Dương tự trị" đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dương đối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu », tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toàn quyền Sarraut nói "Đông Dương tự trị" là nhằm đòi thêm quyền cho mình chứ không phải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến Toà soạn Lục tỉnh tân văn cho là "kịch liệt quá" và buộc ông thôi cộng tác?



Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn của Phan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, nhận lời cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành.



Vài ba năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, chưa rõ từ thời điểm cụ thể nào, cũng chưa rõ khi vào có viết ngay cho tờ báo nào hay không; chỉ có nguồn tư liệu (theo Phan Cừ và Phan An, 1996, tư liệu đã dẫn) cho rằng, sau khi vào Nam lần này, vì một lý do gì đó, Phan Khôi phải chạt xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.



Theo tìm hiểu của tôi, thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933 hoặc 1934, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, Hà Nội báo): "Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam"( ta nên lưu ý điều này : bà Phan Thị Nga khi đó đang làm cho báo Tràng An ở Huế; bài báo của bà là kết quả hỏi chuyện trực tiếp Phan Khôi, -- khi đó đang làm chủ nhiệm tờ Sông Hương cũng ở Huế, nên nhiều điều trong bài có lẽ là ghi lại lời bộc bạch của chính Phan Khôi).



Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc "báo chí sử" Sài Gòn, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thích môi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giả khá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể ái đầy vơi,...lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứt hương thề đăng Thần chung từ 4/7/1929; đây cũng là một trong những tác giả cần được xét xem có phải là "tác gia Nam Bộ" hay không). Cuối năm 1927 hai ông hội đồng Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từ tay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếng Pháp Le Courrier Indochinois). Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhận xét rằng «hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo», biến nó từ chỗ «có khuynh hướng thân chính phủ» trở nên «có khuynh hướng đối lập» và «là tờ báo có rất nhiều người đọc » (2). Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắc vào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương văn hoá trong nội dung tờ báo, -- thì nhiều nhà nghiên cứu ( Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Huỳnh Văn Tòng,...) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờ báo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, -- thì ít thấy nhà nghiên cứu nào ghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viết cho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thể gì hơn. Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này của chính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn : tất cả các bài đưa đăng Đông Pháp thời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII - XVIII, kể cả "Nam âm thi thoại" mà tên sách và những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-1919, kể cả bài thơ "Dân quạ đình công" làm từ sau "vụ án xin xâu" ở miền Trung hồi cuối thập niên đầu thế kỷ XX, v.v..., tất cả, Phan Khôi đều ký tắt hai chữ C.D. -- hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Nam phong hồi trước.



Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy // ĐPTB 28/8/1928; Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp //ĐPTB 30/8/1928), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là "cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII"; cạnh đó là những bài cũng phản bác "cái thuyết châu Âu sắp tan nát" của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải "Âu hoá", phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại (Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu // ĐPTB 26/7/1928; Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát //ĐPTB 15/9/1928; Tư tưởng của Tây phương và Đông phương //ĐPTB 27/9 và 2/10/1928; Bác cái thuyết tân cựu điều hoà //ĐPTB 11/10/1928).



Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với Đông Pháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của "văn hoá đọc", khi mà trên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáo như là phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo. Vào dịp có một loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình, toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần do Chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh "Phụ trương thể thao" và "Phụ trương phụ nữ và nhi đồng".



Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng : sáng tác thơ (Dân quạ đình công // ĐPTB 2/6/1928; Cái chết của con nhà nghèo // ĐPTB 21/7/1928), bình luận văn học (Cấm sách, sách cấm //ĐPTB 1/9/1928; Thi văn với thời đại // ĐPTB 6/10/1928; Văn chương và văn chương của nhà báo // ĐPTB 27/10/1928); khảo chứng (Cái dốt cuả triều Huế // ĐPTB 8/5/1928; Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử : "Hà Nội chánh khí ca» // ĐPTB 4/10/1928 ); giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài ( Cái thế lực của nhà văn hào // ĐPTB 5/6/1928 [nói về L. Tolstoy]; Hồ Thích với Quốc dân đảng // ĐPTB 18/12/1928; Ông Eroshenko, thi nhân mù nước Nga // ĐPTB 19/5/1928); dịch thuật văn chương (dịch bài Quan về vườn // ĐPTB 5/5/1928 của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670]; dịch một số tác phẩm của Eroshenko; dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas-père và cho đăng đều kỳ như một cuốn "tiểu thuyết chánh trị") (3). Chính trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi đã bắt đầu thử việc trong một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong tiểu mục "Câu chuyện hằng ngày" do Chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một "mặt nạ tác giả"(4) hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại của nó gắn liền với kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí. Vai trò Tân Việt trong "Câu chuyện hằng ngày" sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung. Trong việc tìm tòi cách viết hài đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Charles de la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le Journal và L' Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời (5).



Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báo và Thần chung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc "báo chí sử" Sài Gòn : theo khảo sát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phải vì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả mô tả, mà sự thể đơn giản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác. Nói rõ hơn, tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xin giấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thần chung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên : ông chấm dứt Đông Pháp thời báo từ ngày 22/12/1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫn tại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn với nguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7/1/1929, báo mới với nhan đề Thần chung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) ra mắt số 1. Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tên thành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thì lại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở báo khác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảy ra.



Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện thực đã xảy ra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quả theo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ở ngoài Bắc (22/3/1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toà soạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhà một vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc (6).



Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục "Câu chuyện hằng ngày" dưới bút danh Tân Việt . Tôi đếm thử, được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thần chung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần, nên "câu chuyện hằng ngay" vẫn ở tình trạng "cách nhật". Nay nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủ nhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là "câu chuyện hằng ngày" với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài. Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi, chuyện các quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả, khi cười cợt khi nghiêm chỉnh.



Trên Thần chung Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình từ 3/10/1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn (7).



Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về vùng đất Tây Nguyên, về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v...Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò của Phan Khôi. Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30 nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗi bản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi), -- ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo.



Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930 : tuần báo Phụ nữ tân văn. Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức được gọi là "đứng mũi chịu sào" (8) cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu Đào Trinh Nhất thường đảm nhận vai trò chủ bút thì Phan Khôi trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài viết của ông đăng trên tuần báo này là khá lớn : khoảng trên 100 bài lớn nhỏ (nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ) trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2/5/1929 đến 21/4/1935.



Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình : nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài để viết cho hợp với nhãn một tờ báo, mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Hoạt động báo chí đương thời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn mà còn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác động đến xã hội, tạo ra những chuyển biến trong nếp sống. Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương giải phóng phụ nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết ( Việt Nam phụ nữ liệt truyện // PNTV 2/5/1929; 13/6; 4/7; 1/8; 8/8; 15/8; 12/9/1929; Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do // PNTV 12/9/1929; Chữ trinh: cái tiết với cái nết // PNTV 19/9/1929; Luận về phụ nữ tự sát // PNTV 26/9/1929; Chuyện bà cố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam) // PNTV 17/10/1929; Nữ công // PNTV 24/10/1929 ; Hoàng đế với phụ nữ // PNTV 9/1/1930; Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình) // PNTV 1/5/1930; Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ // PNTV 8/5; 15/5/1930; Thân oan cho Võ Hậu // PNTV 22/5/1930; Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi // PNTV 21/5/1931; Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh // PNTV 4/6/1931; Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay // PNTV 18/6/1931; Lại nói về tam cang với ngũ luân // PNTV 2/7/1931; Tống nho với phụ nữ // PNTV 13/8/1931; Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu // PNTV 20/8/1931; Vấn đề cải cách cho phụ nữ // PNTV 28/1/1932; Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan // PNTV 7/7; 21/7/1932; Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng? // PNTV 14/7/1932; Thanh niên với tổ quốc // PNTV 13/10/1932; Câu chuyện lấy vợ đầm // PNTV 6/12/1934 )...Ơ' khía cạnh văn học, Phan Khôi đã nhân tính chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thử nêu các khía cạnh : văn học của các tác gia phụ nữ ( Về văn học của phụ nữ Việt Nam // PNTV 2/5/1929; Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thịnh // PNTV 2/5/1929), và văn học về đề tài phụ nữ ( Văn học với nữ tánh // PNTV 9/5/1929; Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh // PNTV 6/6/1929; Cái tánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra // PNTV 23/5/1929; Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta // PNTV [11 kỳ] từ 30/5 đến 29/8/1929, v.v...).



Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong (Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim // PNTV 29/5/1930; Cảnh cáo các nhà học phiệt // PNTV 24/7/1930), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,... lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn được đông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả,...Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người anh rể là Lê Dư trong chuyện "nước ta có quốc học", mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử và lịch sử tư tưởng ở tầm xa : Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (PNTV 29/11/1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13/12/1934).



Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn đóng kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v...), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với nhiều loại việc, từ việc đề xuất "viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng"(PNTV 12/6/1930), "đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam"(PNTV 26/6/1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi // PNTV 11/6/1931), phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24/3/1932),...Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong là "vai ngự sử trên đàn văn". Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu "tạp trở" về đủ thứ chuyện cổ kim đông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn [từ 23/10 đến 30/11/1930] đến hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò "thày đồ" dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc tu [phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre] của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18/8 đến 29/12/1932, sau nữa Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37).

Ơ' phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại ( Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật // PNTV 30/7/1931; Một lối văn mà xứ ta chưa có : nhật ký // PNTV 23/6/1932; Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan // PNTV 15/9/1932; Cái địa vị khôi hài trên đàn văn // PNTV 3/11/1932; Sử với tiểu thuyết // PNTV 1/12/1932; Lối văn học của bình dân // PNTV 15/12/1932), về văn chương và nghề văn nói chung (Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân // PNTV 4/2/1932; Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích // PNTV 18/8/1932; Cái bịnh ăn cắp của Tàu // PNTV 1/9/1932; Văn học chữ Hán của nước ta // PNTV 22/9/1932; Sách tiếu lâm đời xưa // PNTV 22/12/1932).

Tất nhiên trong số đó ta không thể quên bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (PNTV 10/3/1932), bài báo được coi như lời phát động cho phong trào thơ mới tiếng Việt (1932-45), mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ XX. Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc sau suốt ba bốn chục năm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 năm phong trào thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lại một cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong trào cách tân văn học này. Thế nhưng nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôi gắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh (9) đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi "duy tân" ,"cải lương"trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại một cách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn những năm 1929-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trong những cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổi trong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trong đó có phong trào thơ mới. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn học sử và văn hoá sử Việt Nam thấy nhận định này là hữu lý.

Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một số hoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao "học bổng phụ nữ" cho học sinh đi du học sang Pháp.







Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập.



Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, sđd.) xếp nó vào loại báo thiên về thông tin thương mại, "tự nhận mình không làm chính trị, đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, có chủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyền thuộc địa"(sđd., tr.398). Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri de Lachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vào chính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26, cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg ( theo Huỳnh Văn Tòng, sđd., tr.411). Có những thời kỳ, Trung lập báo bị các đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó là Nguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệm Phan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu du học Pháp trở về...Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bút danh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báo và Thần chung từng không ít lần châm chọc Trung lập.





Vậy mà tới giữa năm 1930, cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ lại đến với tờ Trung lập. Có điều gì xảy ra đây?

Trước tiên phải kể tai nạn đột ngột xảy ra với tờ Thần chung, việc tờ này bị đóng cửa dẫn đến sự chia lìa của nhóm nhà báo trẻ cấp tiến từng quần tụ nhau quanh tờ báo này. Chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ vẫn còn là chủ nhà in Bảo Tồn, lại hành nghề luật sư; chủ bút Nguyễn Văn Bá thì sang làm chủ bút Công luận báo nhưng lúc làm lúc bỏ, vì khi nào ông này để cho ngòi bút ngả theo ông chủ tờ báo là Jules Haag thì liền bị các đồng nghiệp người Việt chế nhạo; rút cuộc đến 1932 thì hai ông chủ cũ của Thần chung trở thành hai ông chủ mới của tờ Công luận đã đổi chủ. Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn rồi làm chủ bút Đuốc nhà Nam, Ngô Tất Tố trở về Bắc với các tờ báo ở Hà Nội. Hai cây bút quê Quảng Nam là Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi thì bước sang Trung lập.

Khi khảo về quan hệ của các nhóm tài phiệt với báo chí Đông Dương đương thời thuộc Pháp, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng có đưa ra ví dụ nhóm tài phiệt Octave Homberg mua các tờ Impartial và Trung lập rồi về sau bỏ rơi khi nhà tài phiệt này trở về Pháp kinh doanh và bước vào chính trường; sự "bỏ rơi" này được nhà nghiên cứu xem là nguyên nhân dẫn đến chỗ tờ Trung lập thua lỗ và phải đóng cửa vào năm 1933 (sđd, tr.409-413). Từ sự tìm hiểu của mình, tôi cho rằng nếu sự "bỏ rơi" kia là sự thực thì vẫn cần tìm hiểu thêm về hoạt động của giới quản trị và kinh doanh báo chí người Việt đã tiếp thu và duy trì các tờ báo ấy, -- chính điều này tạo ra diện mạo cụ thể của những tờ báo đã đổi chủ; và đây là trường hợp của cả tờ Trung lập lẫn tờ Công luận ở Sài Gòn trong những năm 1930.



Về trường hợp tờ Trung lập. Từ 13/8/1929, vai trò Tổng lý (directeur propriétaire) Trung lập báo chuyển từ Nguyễn Phú Khai sang Trần Thiện Quý tự Tôn Hiền. Những điều được toà soạn thông tin trên mặt báo và những biến chuyển thể hiện qua tin tức bài vở đăng ra cho thấy Trần Thiện Quý đã mua lại tờ báo này và đổi nó thành tờ báo khác, có khuynh hướng dân tộc rõ rệt so với tờ báo cũ tuy vẫn mang tên như cũ (10). Chẵn một năm sau ngày 2/5/1929 (ngày khai sinh tuần báo Phụ nữ tân văn), báo giới Sài Gòn lại nhấn vào cái ngày đáng nhớ này bằng một việc mà họ cho là cũng sẽ đáng nhớ khác nữa, ấy là việc đúng ngày 2/5/1930 chính thức ra mắt tờ Trung lập đổi mới, tuy không ghi chú "bộ mới" hay "tục bản", không đánh số lại, chỉ khai trương một manchette mới ( chữ "trung lập" màu đỏ với các nét cách điệu hình thân và cành lá thông) và một bộ biên tập mới, do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (rédacteur en chef). Phan Khôi vẫn giữ nguyên tắc riêng của ông là chỉ cộng tác viết bài chứ không ở trong toà soạn, tuy có lúc bài ông viết được đăng với tên ký Trung Lập tức là ký tên toà soạn.

Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm «Những điều nghe thấy» mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục « Những điều nghe thấy ».



Ở trên nhân nói về chuyện Phan Khôi vào vai Tân Việt trong Câu chuyện hằng ngày ở Đông Pháp thời báo và Thần chung, tôi có dẫn khái niệm "mặt nạ tác giả", một khái niệm dầu sao cũng mang dấu tư duy Tây phương, trỏ một thứ "thi pháp" của cái "tôi" trong vai lệch ở tản văn; tiếp đây xin thuật thêm một sự việc thực mà hoá ra lại liên quan đến khái niệm ấy. Đó là từ giữa năm 1932, sau khi "Hội chợ Phụ nữ" ở Sài Gòn do báo Phụ nữ tân văn và hội Dục anh Sài Gòn đồng tổ chức kết thúc, những lời phàn nàn về một vài xử sự không hay của Nguyễn Đức Nhuận (chủ báo Phụ nữ tân văn) đã từ bé xé ra to, lời qua tiếng lại đến mức đưa nhau ra toà. Một nửa báo giới Sài Gòn do Tổng lý Trung lập Trần Thiện Quý và Chủ nhiệm Sài thành Bút Trà dẫn đầu hăng hái lên án vợ chồng chủ báo Phụ nữ tân văn; còn vợ chồng chủ báo ấy thì đưa đơn ra toà kiện hai tờ Sài thành và Trung lập về tội phỉ báng. Tình thế ấy khiến Bùi Thế Mỹ, -- người lên tiếng bênh vực chủ báo Phụ nữ tân văn lúc sự việc mới phát lộ, -- phải từ chức chủ bút Trung lập ra đi. Phan Khôi được tiếng là người thân thiết với chủ báo Phụ nữ tân văn, cũng không còn ký tên mình đăng bài trên Trung lập nữa. Trên vài tờ báo khác lúc đó đã thấy đăng những ý kiến trách Trần Thiện Quý đã để cho cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ bỏ Trung lập ra đi. Thế nhưng Thông Reo với chuyên mục "Những điều nghe thấy" thì vẫn xuất hiện đều đặn trên chính tờ Trung lập cho đến tận số cuối cùng, trước khi báo này đột nhiên bị cấm; và đáng lưu ý là Thông Reo cũng có những bài đồng tình với phe nhà báo lên án chủ nhân Phụ nữ tân văn là "con buôn hám lợi". Vậy là chính nhờ "mặt nạ tác giả" đó, trang viết của Phan Khôi vẫn có thể xuất hiện ở những tờ báo mà tình thế và thời điểm khiến họ tên thật (vốn đi liền với nhân thân thật) của ông không thể hoặc không nên xuất hiện (Xin nói thêm: chuyện "mặt nạ tác giả" nói ở đây là chuyện nghề nghiệp hơn là chuyện đạo đức).

Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập -- Đuốc nhà Nam xoay quanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến dấu mặt im lặng...). Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽ nói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra. Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến...) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng (bắt đầu từ bài Ý kiến Trung lập : Phải nói minh bạch // TL 20/6/1930, qua một loạt bài : Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử ?// TL 21/6/1930 ; Trung lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe : Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu // TL 23/6/1930 ; Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào ? // TL 24/6/1930 ; 4 bài nhỏ : Ai nói dối ? ; Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long ; Trung lập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ ; « Kiến hiền tư tề yên » đều in trên Trung lập ngày 25/6/1930, v.v… đến loạt bài Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi [ kỳ I - IV] từ 26/6/1930 đến 30/6/1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ (Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2/7/1930, đến kỳ XIII, 25/7/1930, với những tiểu mục từng kỳ như : Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Y' kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,...). Đó là những bình luận xã hội chính trị mà về nội dung thì những người nghiên cứu lịch sử hiện đại có lẽ có thẩm quyền đánh giá hơn những người nghiên cứu về văn học sử hiện đại. Chỉ xin lưu ý rằng năm 1929, chính Phan Khôi trên báo Thần chung đã có bài luận về bút chiến (không ký tên tác giả, nhưng tôi đoán là do Phan Khôi viết); có thể nghĩ rằng ông cũng mong có dịp thực hiện một cuộc bút chiến đúng như ông hình dung trong ý niệm. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Những gì diễn ra có lẽ không thật giống với hình dung thuần ý niệm, tuy Phan Khôi giữ nguyên tắc của mình. Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12/7/1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài Viếng mộ ông Lê Chất của Phan Khôi rồi viết rằng "người mình có cái tật "vì người mà bỏ lời nói" nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến", tức là mượn một câu ở sách Luận ngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới về mình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây Phan Khôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là "đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo", "làm xấu trong trường ngôn luận" (Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm "Đuốc nhà Nam" // TL 19/7/1930; Một sự buồn trong báo giới // TL 21/7 ; 24/7 ; 1/8/1930).

Xin kể thêm một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bài báo đăng 4 kỳ nhan đề Vấn đề cải cách (TL 9/8; 12/8; 13/8; 18/8/1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: "muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước"; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.

Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được "Phụ trương văn chương", thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởi đầu vào đúng ngày 2/5/1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làm báo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2/5/1931 đến 29/5/1933 ra được cả thảy 104 kỳ. Ở mỗi kỳ, ngoài những mục như "Văn uyển" đăng sáng tác thơ, mục "Giấy thừa mực vụn" đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có một lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam (ví dụ bài Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam của Bùi Kỷ từ PTVC số 8 : 20/6/1931, đến PTVC số 13: 25/7/1931), nêu các vấn đề mang tính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như "đạo văn" (Cao Minh Chiếm PTVC số 41 : 13/2/1932, "tố giác cái án đạo văn" nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác; Mai Lan Quế PTVC số 47: 26/3/1932 nhận thấy họ Cao nghiệt ngã vô lý, đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi PTVC số 48: 2/4/1932 giải rõ những trường hợp ấy không phải là "đạo văn"), hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá (11), v.v...Chính ở "Phụ trương văn chương" số 2(TL 9/5/1931) một tác giả ký T.S. đã nêu vấn đề lý thuyết về "nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh" (chứ không phải đợi đến Hải Triều với những cuộc tranh luận sau này vào năm 1936). Nhân nói về phụ trương này, phải kể đến sự đóng góp của một cây bút khác cũng đến từ xứ Quảng là Phan Thứ Khanh, người đã có khá nhiều bài giới thiệu các nội dung lý thuyết mới về văn nghệ như : văn học và quốc dân tính, văn học tiến hoá với sự biến thiên của xã hội, văn học với cách mạng, văn học bình dân, khái niệm "trào lưu", về chủ nghĩa tả chân của Zola và Flaubert, nguyên lai tiểu thuyết Tàu và tiểu thuyết thời Đường, xuất xứ các bộ Thuỷ hử, Tam quốc, Tây du, lược qua về bộ Kim Bình Mai, v.v...Đây cũng là một trong số những tác giả đang bị quên lãng cả ở Sài Gòn đây lẫn ở quê gốc của mình.

Phần văn học Phan Khôi góp mặt với Trung lập cũng gần với các bài loại này ông đăng Phụ nữ tân văn. Thường thì một bài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược lại, và cũng có trường hợp đăng đồng thời cả trên hai tờ đó (thậm chí nhiều tờ khác cũng đăng lại), chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về "quốc học" với Lê Dư, v.v.... Riêng ở Trung lập Phan Khôi còn có những bài về ngôn ngữ, về thể loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người chê bai lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộ Việt Nam tân tự điển của hội Khai trí Tiến đức, v.v...Ông không chỉ thường xuyên có bài về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật, giới thiệu văn hoá Trung Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệu Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải (PTVC số 36: 31/12/1931; số 37: 9/1/1932). « Phụ trương văn chương » của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi trích dịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại của Viên Mai, v.v...Nhân đây cũng cần nhắc lại rằng hầu hết các bài trong mục "Những điều nghe thấy" chính là một dạng sáng tác của văn chương báo chí; không có báo chí thì không có đất sống cho loại tản văn này; ngoài ra, trong khá nhiều loại để tài mà các bài trong mục này đề cập cũng có nhiều bài về văn chương nghệ thuật, khá nhiều bài bàn đến văn chương Truyện Kiều, đến các sáng tác đương thời.

Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tác với một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Một trường hợp đã biết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôi chỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung Hoa Ngô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái ; sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử của ông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Sau này, vào năm 1939, trên tờ Tao đàn ở Hà Nội, Phan Khôi viết rằng khoảng 1928 ông từng đăng bài với bút danh Khải Minh Tử trên Hoa kiều nhật báo nói về văn học chữ Hán của người Việt (12). Riêng về thông tin này hiện vẫn chưa có kiểm chứng trên tư liệu.





Trên đây là sơ lược về hai thời kỳ Phan Khôi tham gia báo chí văn chương tại Sài Gòn. Giữa năm 1933, ông ra Bắc cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Phụ nữ thời đàm. Giữa năm 1934 ông vào Huế cộng tác với tờ Tràng An, rồi sáng lập và điều hành tờ Sông Hương, tờ báo tư nhân đầu tiên mà ông là chủ trong đời mình. Năm 1937, sau khi nhượng tờ Sông Hương ở Huế này cho nhóm cộng sản của Phan Đăng Lưu, theo một nguồn tài liệu (Phan Cừ, Phan An, 1996, sđd), Phan Khôi lại vào Sài Gòn, nhưng không biết ông có cộng tác với tờ báo nào tại đây hay không. Do đó cũng chưa rõ ông có một thời kỳ thứ ba làm việc với văn chương báo chí Sài Gòn nữa hay không? Tôi chưa tìm hiểu được kỹ điều này nhưng ngờ rằng không có.









3/ Trở lại điều nêu ở phần đầu bài này. Rõ ràng là Phan Khôi có thời gian làm báo viết văn tại Sài Gòn, tức là tại Nam Kỳ (nay ta dùng từ "Nam Bộ"). Hoạt động văn chương báo chí ấy của ông (ở đây chưa kể đến hoạt động văn chương báo chí của ông tại các nơi khác) chẳng những để lại dấu ấn tại đây mà còn có tiếng vang và ảnh hưởng đến tiến trình chung của văn học Việt Nam trên quy mô cả nước. Vậy thì, từ góc độ văn học sử, khi tập trung vào một quy mô nhỏ, ở đây là quy mô vùng văn học Nam Bộ, các nhà nghiên cứu có nên tính đến hoạt động của những "cây bút nhập cư" như Phan Khôi (và không chỉ có Phan Khôi) hay không? Nếu loại bỏ không kể đến những "cây bút nhập cư" đã đến, sống và viết ở đây, thì đời sống văn học thực diễn ra ở đây có vì vậy mà trở nên nghèo nàn hơn thực tế đã có hay không?



Hà Nội, tháng Ba 2006

Lại Nguyên Ân





2006 Lại Nguyên Ân - tác giả giữ bản quyền

-------

Chú thích



(1) Phan Thị Nga: Lối tự học của những bực đàn anh nước ta : [ kỳ 1] Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận Lý // Hà Nội báo, Hà Nội, s. 10 (11 Mars 1936);

Phan Cừ&Phan An : Phan Khôi niên biểu //[trong sách] Chương Dân thi thoại (tái bản), Đà Nẵng 1996 : Nxb. Đà Nẵng, tr.152-163.



(2) Huỳnh Văn Tòng : Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Tp HCM : Nxb TP HCM, 2000, tr. 185.



(3) Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi : Tác phẩm đăng báo 1928 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng : Nxb. Đà Nẵng, 2003.



(4) Khái niệm "mặt nạ tác giả" [maska avtorskaja] được một số học giả Nga định nghĩa như phương thức mà nhà văn dùng để che giấu nhân thân của mình nhằm tạo nên ở độc giả cái hình ảnh một tác giả khác hẳn (so với dạng thực có); đây là thủ pháp chính của mê hoặc (mistifikacija) trong văn chương (theo O.E. Osovsky, Maska Avtorskaja / Mặt nạ tác giả / trong sách : Literaturnaja Enciklopedija Terminov i ponjatij // A.N. Nikoljukin tổng chủ biên // Moskva: HPK "Intelvak", 2001, tr.511-512).



(5) Về hai nhà báo và nhà văn Pháp này, mới đây dịch giả Trần Thiện Đạo từ Paris đã tra cứu và thông tin về, cho biết : Georges [chứ không phải Charles] de la Fouchardière (1874-1946): năm 1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập tờ L' oeuvre (Xây dựng), viết liên tục 15 năm những bài luận bàn thế sự với giọng hài hước hóm hỉnh, thu hút đủ loại độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến 1939-45; Clément Vautel ( 1876-1954; tên thật Clément Vaulet; trong bút danh đảo let thành tel ) : viết cho các báo ngày ở Paris như Le Matin, La Liberté..., đặc biệt giữ mục "Mon film" (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cái nhìn rất "phải lẽ" của một "francais moyen" (thường dân), được độc giả đương thời hâm mộ; ngoài ra còn là tác giả một số tiểu thuyết; cũng là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến II. Xin chân thành cảm ơn dịch giả Trần Thiện Đạo về những thông tin trên.



(6) Xem : Vương Lệ Thiên : Thỏ chết động lòng chồn (Tại sao báo Thần chung bị cấm xuất bản?) // Trung lập, Sài Gòn, 27/3/1930; Phan Khôi: Có lẽ là điều sai lầm của những người trí giả // Trung lập, Sài Gòn,10/5/1930.



(7) Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004.



(8) Tin : "Phụ nữ tân văn" bị đóng cửa 5 tháng // Trung lập, 14/5/1931.



(9) Bùi Đức Tịnh : Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới(1865-1932), [in lại có sửa so với bản in lần đầu 1975], Tp. HCM : Nxb. TP HCM, 1992, tr . 235



(10) Chi tiết hơn xin xem : Tiểu dẫn [trong sách] Phan Khôi : Tác phẩm đăng báo1930 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội : Nxb. Hội Nhà Văn, 2005, tr.8-14.



(11) Xem thêm : Lại Nguyên Ân : Vài tư liệu về việc Vũ Trọng Phụng bị gọi ra toà năm 1932 // Tiền phong, 5/11/2005; Thế giới mới, s.660 (7/11/2005).



(12) Phan Khôi : Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta // Tao đàn, Hà Nội, s.1, 1 Mars 1939, tr.13-18 ; s. 2, 16 Mars 1939, tr.107-114 ; dẫn theo Sưu tập trọn bộ TAO ĐÀN 1939, / Nguyễn Ngọc Thiện và Lữ Huy Nguyên sưu tầm / Hà Nội : Nxb Văn học, 1998.



© Copyright Lại Nguyên Ân 2006

Phan Khôi và cuộc thi quốc sử của báo Thần Chung, Sài Gòn 1929

thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN



Số 13 - Tháng 3/2008





Phan Khôi và cuộc thi quốc sử

của báo Thần Chung, Sài Gòn 1929



Lại Nguyên Ân



Đề tài nêu trong bài này là một phần việc mà tôi đã tạm gác lại khi biên soạn để công bố sưu tập Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo 1929. [1]

Sự thể là, khi xem lại diễn tiến cuộc thi quốc sử được nhật báo Thần chung tổ chức trong năm 1929, người nghiên cứu hẳn phải nghĩ rằng cuộc thi này, từ ý đồ đến việc triển khai, không thể thiếu sự tham gia của những nhà báo khi đó đang bỉnh bút hay trợ bút cho toà soạn nhật báo này ở Sài Gòn, ví dụ Phan Khôi, Bùi Thế Mỹ, Đào Trinh Nhất, Ngô Tất Tố, v.v… Tuy vậy, đứng trước những bài vở chỉ phát ngôn nhân danh toà soạn, hoàn toàn không ký một tên riêng nào khác, người sưu tầm, − nhất là khi người đó chỉ thuộc trong đám hậu thế, − không thể “quy” mỗi văn bản ấy cho một ai cụ thể được. Tôi ngờ, có can dự khá nhiều vào cuộc thi này là Phan Khôi, người đã bộc lộ xu hướng hoạt động sử học ngay từ khi mới cầm bút viết báo, người mà ngay trong năm 1928 đã triển khai ít ra là một cuộc tranh luận về sử Việt cận đại trên Đông Pháp thời báo, tiền thân của nhật báo Thần chung này.[2] Song cái cần nhất là một vài chứng cứ thì lại vẫn còn thiếu…

Điều khiến tôi hôm nay quay lại với mảng tài liệu này, là do nhận ra một số chứng cứ trong một cuốn hồi ký của Nguyễn Vỹ (1912-71). Không phải đơn giản là Nguyễn Vỹ xác nhận sự kiện nêu trên; trái lại, chính việc nhận ra một sự lầm lẫn rõ rệt trong ký ức Nguyễn Vỹ đã khiến tôi tin nhiều hơn rằng Phan Khôi đã có vai trò chính trong cuộc thi quốc sử nói trên.

Xin đề cập cụ thể.

Trong cuốn truyện ký nhan đề Tuấn, chàng trai nước Việt (xuất bản lần đầu vào năm 1970 tại Sài Gòn), − cuốn sách mà chính tác giả đoan quyết rằng, các sự kiện, phong trào, nhân vật, biến cố được ghi lại trong đó đều “hoàn toàn xác thực”, rằng trong cuốn sách ấy “không có chỗ đứng cho tưởng tượng, cũng như cho chủ quan, thành kiến”, [3] − khi nhớ về thời kỳ những năm 1930 với tuần báo Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn, Nguyễn Vỹ viết:

“… tờ Phụ nữ tân văn chỉ làm được hai việc có thể gọi là vĩ đại nhất lúc bấy giờ. Một là báo ấy mở cuộc thi “Danh nhân Việt Nam”. Nhà báo chọn một danh sách không quá hai mươi lăm người, tức là “hai mươi lăm danh nhân” trong lịch sử Việt Nam, không theo thứ tự nào cả. Mỗi tuần, nhà báo đăng tiểu sử và sự nghiệp của một người, đại khái như: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Trần Bình Trọng, Quang Trung, Trưng Trắc, Phan Thanh Giản, v.v… Xong rồi nhà báo nhờ độc giả sắp hạng, căn cứ trên sự nghiệp của mỗi vị danh nhân, để ai trên ai dưới, thành một bản danh sách dự thi. Những bản danh sách nào gần giống nhau nhất sẽ được coi như trúng giải. Cuộc thi danh nhân lịch sử ấy không có kết quả tốt đẹp, vì sự lựa chọn của độc giả rất là lộn xộn, phiền phức, không theo tiêu chuẩn nào cả.

Việc làm thứ hai có tính cách “ái quốc” cuả tuần báo Phụ nữ tân văn là mở cuộc lạc quyên giúp bốn học sinh nghèo du học sang Âu châu.”… [4]

Đọc lại sưu tập báo Phụ nữ tân văn, chưa cần có cặp mắt chăm chú của người nghiên cứu cũng có thể nhận ra rằng, điều mà Nguyễn Vỹ gọi là “việc làm thứ hai có tính cách “ái quốc” của tuần báo Phụ nữ tân văn” quả là sự việc có thật; nhưng việc làm thứ nhất, “mở cuộc thi danh nhân Việt Nam” với những điều Nguyễn Vỹ phác họa như trên thì hoàn toàn không có dấu vết nào trên toàn bộ sưu tập 274 kỳ báo Phụ nữ tân văn; điều đó có nghĩa là trên thực tế, tờ tuần báo này không hề tổ chức cuộc thi ấy!

Nhưng chắc chắn rằng Nguyễn Vỹ đã hoàn toàn không tưởng tượng ra một sự việc không có thật. Trên báo chí Sài Gòn những năm 1929-30 không phải là đã không có ít ra là một cuộc thi với nội dung tương tự như Nguyễn Vỹ mô tả. Đó là cuộc thi quốc sử do nhật báo Thần chung tổ chức.

Cơ chế của hồi ức vốn làm khúc xạ các sự việc có thực từng xảy ra trong quá khứ, điều đó đã rõ; nhưng ta hãy suy luận thêm: vì sao một sự việc do báo Thần chung thực hiện, Nguyễn Vỹ lại nhớ như là do tuần báo Phụ nữ tân văn thực hiện?

Theo tôi, chính là do vai trò của Phan Khôi trên cả hai tờ báo ấy nói chung, và vai trò chủ chốt của Phan Khôi trong cuộc thi quốc sử do Thần chung tổ chức, nói riêng.

Khi nhớ đến tuần báo Phụ nữ tân văn, ngoài cái họ tên riêng ông chủ tờ báo ấy, Nguyễn Vỹ chỉ nhắc đến duy nhất một cái họ tên riêng khác nữa, ấy là Phan Khôi: “Ông chủ bút Phan Khôi là tay văn học cừ khôi nhất ở Sài Gòn lúc bấy giờ.” [5]

Kết quả sưu tầm nghiên cứu cho tôi biết chắc rằng, nhà báo quê xứ Quảng này (Phan Khôi) giữ nguyên tắc riêng: không đứng tên trong các toà soạn, chỉ cộng tác viết bài, nghĩa là đối với các tờ báo ở Sài Gòn mà ông cộng tác hồi những năm 1928-1933, Phan Khôi chỉ có thể được mệnh danh là trợ bút. Trên thực tế, Phan Khôi chưa khi nào làm chủ bút Phụ nữ tân văn như Nguyễn Vỹ ghi nhớ lầm. Song, phương diện tạm gọi là “chức danh” ấy hoàn toàn không mâu thuẫn với một sự thực khác trong chiều sâu và thực chất của sự việc, ấy là: Phan Khôi và Đào Trinh Nhất luôn luôn được nhờ cậy như là hai người “đứng mũi chịu sào” tờ tuần báo tư nhân này. Trong khi đó, Phan Khôi cũng cộng tác rất chặt chẽ với tờ nhật báo của hai ông chủ Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá ngay từ khi hai ông này mua lại tờ Đông Pháp thời báo từ tay Nguyễn Kim Đính, rồi từ đầu năm 1929 thì đổi tên nó thành Thần chung, theo giấy phép ra báo mà đến lúc ấy họ Diệp mới được cấp, cho đến tận số báo cuối cùng trước khi Thần chung thình lình bị cấm (24/3/1930).

Với tờ Thần chung, cũng như tờ Đông Pháp thời báo, Phan Khôi viết khá nhiều loại bài, từ luận thuyết đến tạp bút; có những bài ký họ tên thật, có những bài ký tên hiệu Chương Dân, có những bài ký tên toà soạn, có những bài viết cho mục “Câu chuyện hằng ngày” (chuyên mục do Diệp Văn Kỳ đặt ra) ký bút danh Tân Việt, lại có những bài để trống tên tác giả, ví dụ bài đăng 2 kỳ về vùng đất Tây Nguyên ngày nay, hoặc bài về văn bút chiến cũng đăng 2 kỳ, rất đặc sắc và nổi tiếng. Do vậy, việc Phan Khôi có thể đã là người khởi xướng ý tưởng về cuộc thi quốc sử, và là người chấp bút chính cho loạt bài vở của Thần chung trong cuộc thi quốc sử, cũng là điều dễ hiểu.



***

Cuộc thi quốc sử được báo Thần chung khởi động từ 28/ 6/ 1929 với bài xã thuyết nhan đề Phổ thông sử học (có phụ đề: Cuộc thi lịch sử của “Thần chung” nay mai quan hệ là thế nào?)

“Phàm làm người ở đời, làm dân ở một nước, bất luận già trẻ, trai gái, sang hèn, nghèo giàu, đều phải có biết về sử học.

Nói rằng sử học thì nó bao hàm khí rộng quá, nên phải tách ra làm hai, là: sử học chuyên môn và sử học phổ thông.[….]

Sử học chuyên môn là phần việc của những học giả nào chuyên về khoa ấy. [….] Thứ sử học mà chúng tôi nói mọi người đều phải biết đây, là thứ sử học phổ thông. […]

Đã nói rằng phổ thông, nghĩa là học theo một cái trình độ thông thường, ai ai cũng có thể học được, chớ không phải cao xa mầu nhiệm gì. [……]

Đọc sử một nước cốt phải chia ra từng thời đại. Mỗi một thời đại đều có một cái hoàn cảnh riêng. Rồi mỗi một thời đại nào lại có nhân vật của thời đại ấy. Do hoàn cảnh sản xuất nhân vật, hoặc do nhân vật chế tạo ra hoàn cảnh, mà rồi trong thời đại ấy có sự biến động, thay đổi, làm cho một nước được bước lên đường tấn hoá. Ấy có thể gọi là cái công lệ của sử học.

Vậy, về phổ thông sử học, và về bổn quốc sử, chúng ta nên nhận rằng “thời đại” và “nhân vật” là hai cái cốt yếu cho sự biết của chúng ta. Chúng ta biết hai điều ấy rồi, có thể biết các điều quan hệ khác trong một thứ lịch sử. [….]

Bởi vậy, Thần chung nay mai sắp mở một cuộc thi về lịch sử mà chuyên trọng về nhân vật và thời đại.

Ai muốn dự cuộc thi nầy phải lấy sử Việt mà đọc lại một bận đi, nghiên cứu về thời đại và nhân vật cho đích xác, rồi sẽ cứ theo chương trình của thí cuộc mà làm bài trả lời.” [6]

Ngay sau đó, từ 1/7/1929, toà soạn Thần chung công bố thể lệ cuộc thi, theo đó, báo sẽ lần lượt đăng khoảng 30 bài sự tích các nhân vật lịch sử Việt Nam, làm căn cứ cho độc giả tìm hiểu và lựa chọn. Yêu cầu đầu tiên của bài thi là mỗi độc giả sẽ chọn ra trong số đó 10 nhân vật sử Việt tiêu biểu; một nội dung thi nữa là mỗi độc giả viết một bài chừng 2 trang giấy nói về lý do xếp ba nhân vật trong số đó lên hàng đầu. [7]

Tuy vậy, thể lệ thi đưa ra ban đầu còn thiếu rõ ràng dứt khoát; khoảng một tháng sau, sau khi báo đã đăng được khoảng trên một chục bản sự tích (được gọi là “biên bản”) các nhân vật sử Việt, đồng thời nhận được sự góp ý của độc giả, toà soạn Thần chung thông báo sửa đổi thể lệ cuộc thi theo hướng đơn giản và rõ ràng hơn cho người dự thi. Thể lệ mới chia hẳn ra làm hai loại nội dung thi khác nhau, ứng với hai loại giải thưởng khác nhau. Một là “giải sắp sổ”, − nghĩa là:

“Ai muốn dự thi thì cứ lựa trong ba chục cái biên bản có hình chép sự tích các danh nhơn nước Việt của Thần chung đương đăng mà cắt ra 10 tấm, sắp thành một cái sổ từ 1 đến 10 theo ý mình lựa. Sắp rồi, xin biên rõ tên họ đính theo sổ sắp và mười tấm biên bản nói trên kia mà gởi cho bổn báo” [8]

Hai là “giải thưởng luận thuyết”, nghĩa là:

“Ai muốn dự thi về giải thưởng nầy thì chỉ lựa 1 người trong số 30 người của bổn báo đã đăng rồi làm một bài luận thuyết đừng dài quá 3 trương mà cắt nghĩa tại sao, vì ý gì mà mình lại lựa người ấy cho là bực nhứt trong sử Việt” [9]

Từ 4/7/1929 đến 19/9/1929, Thần chung lần lượt cho đăng 30 bản sự tích các nhân vật lịch sử Việt Nam để cung cấp cơ sở tài liệu dự thi cho độc giả. Sau đó, thể theo yêu cầu của độc giả, toà soạn còn cho đăng lại các bản sự tích đó trên các trang ruột của báo, thường là xen lẫn với quảng cáo, có số đăng cùng lúc 3 bản sự tích kèm hình vẽ, có số chỉ in lại hình vẽ để độc giả cắt ra làm phiếu dự thi. Hạn nhận bài dự thi cuối cùng được đưa ra là chiều ngày 1 tháng 12/1929.

Theo dõi các sưu tập Thần chung hiện còn, − tất nhiên sưu tập nào cũng không trọn bộ, song ít nhất ở hai sưu tập mà tôi biết, − thì tôi không thấy trên tờ báo này về sau có thông tin gì về việc trao giải cuộc thi quốc sử. Có thể vì báo bị đóng cửa bất ngờ vào cuối tháng 3/1930 nên chưa kịp tổ chức chấm thi và trao thưởng chăng? Hay vì lý do nào khác liên quan đến kiểm duyệt? Tất cả điều này, người nghiên cứu thời nay đều khó mà làm cho rõ.

Còn theo hồi ức của Nguyễn Vỹ như đã dẫn ở trên thì “Cuộc thi danh nhân lịch sử ấy không có kết quả tốt đẹp, vì sự lựa chọn của độc giả rất là lộn xộn, phiền phức, không theo tiêu chuẩn nào cả”. Có thể, đấy cũng là một trong số những khả năng thực tế.

Có điều, nhất là ngày nay nhìn lại, ta hoàn toàn không thể vin vào việc cuộc thi này đã không diễn ra đến cùng, tức là không thấy có việc chấm giải và công bố trao giải, mà cho rằng đây là một việc hoàn toàn thất bại. Ngay từ đầu toà soạn Thần chung đã nói rõ mục tiêu của họ trong việc tổ chức cuộc thi là “phổ thông sử học”, cụ thể hơn, là phổ biến một số hiểu biết về một số nhân vật lịch sử Việt Nam. Nói chuyện sử, tức là chuyện quá khứ, trên mặt báo hàng ngày, là điều không bình thường, nếu không dựa vào lý do đang cung cấp một vài nội dung thiết yếu nào đó cho độc giả. Thành ra, làm một cuộc thi như ở đây thì rốt cuộc cũng chỉ là dùng một hình thức hoạt động, − hình thức giao lưu trên kênh truyền thông, − nhờ đó có thể nhắc lại tích xưa người cũ, trong đó phần nhiều nhất lại là những gương chống xâm lược, giành độc lập cho xứ sở. Chính nội hàm những lời nhắc lại đó, trong khí hậu đời sống đương thời, lại thấm đẫm “yếu tố nhạy cảm”, khi mà bất cứ người dân Việt nào cũng nhận biết sự hiện diện của người ngoại bang trong vai trò kẻ cai trị xứ mình, khi mà bất cứ công chức nào, dù là người Pháp hay người bản xứ, đều cảm nhận được tính chất gây sự ẩn đằng sau những gì tương tự như những câu chuyện hồi cố lịch sử đó.

Một vài cảm nhận của độc giả đương thời mà toà soạn trích đăng (trong bài Lòng người đối với cuộc thi quốc sử, Thần chung 25 Septembre 1929) đã phần nào cho thấy, bản thân việc đăng tải một vài lần 30 câu chuyện về 30 nhân vật lịch sử Việt Nam cho công chúng trong khuôn khổ cuộc thi này, đã có tác dụng không nhỏ.

Chỉ cần đem sự việc cuộc thi quốc sử trên Thần chung 1929 đặt cạnh, chẳng hạn, một sự việc được thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh từ cuối năm 2006 với nội dung tương tự (cụ thể là việc dựng các banner trên đường phố về các nữ danh nhân lịch sử Việt Nam nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2006, nhằm bước đầu thực hiện ý tưởng “học sử trên đường phố” hoặc “dân ta biết sử ta”), [9b] người ta sẽ nhận ra ai là người đi trước trong việc đề xuất giải pháp cho cùng một mục đích là phổ biến kiến thức sử Việt vào công chúng.

Tôi sẽ không bàn rộng hơn nữa về khía cạnh này. Theo tôi, điều cốt yếu đối với những người chủ trương cuộc thi quốc sử của nhật báo Thần chung năm 1929, − như chính họ đã nói rõ, là “phổ thông sử học”, “phổ thông quốc sử”, giới hạn trong một số nội dung cụ thể − thì họ đã thực hiện được, bằng việc đăng tải lên mặt báo 30 bản sự tích 30 nhân vật Việt sử. Chỉ với việc đó, cuộc thi quốc sử năm 1929 của nhật báo Thần chung đã đáng được ghi nhận như một nỗ lực, một sáng kiến được đề xuất rất sớm, dùng công cụ báo chí để giáo dục ý thức về lịch sử dân tộc.



***



Điều đáng quan sát kỹ hơn ở sự kiện cuộc thi quốc sử của nhật báo Thần chung năm 1929, là nội dung những sự tích các nhân vật lịch sử Việt Nam được toà soạn đem ra kể chuyện cho độc giả, − nhằm mục đích xa “phổ thông quốc sử” vào công chúng, đã đành, song đặt trong phạm vi cuộc thi này thì các sự tích kia giúp cho độc giả lựa ra những nhân vật tiêu biểu hơn, thậm chí một nhân vật tiêu biểu nhất cho lịch sử Việt Nam, theo ý kiến của mỗi độc giả.

Các nhân vật lịch sử Việt Nam được toà soạn Thần chung nêu ra cho độc giả lựa chọn gồm: 1/ Đinh Tiên Hoàng; 2/ Lê Thái Tổ; 3/ Chu Văn An; 4/ Quang Trung Đế; 5/ Trưng Nữ Vương; 6/ Trần Hưng Đạo; 7/ Lý Thường Kiệt; 8/ Gia Long Đế; 9/ Tô Hiến Thành; 10/ Lý Nam Đế; 11/ Ngô Vương Quyền; 12/ Nguyễn Bỉnh Khiêm; 13/ Phạm Ngũ Lão; 14/ Phò Đổng Vương; 15/ Mạc Đĩnh Chi; 16/ Lê Đại Hành; 17/ Nguyễn Trãi; 18/ Lý Ông Trọng; 19/ Bố Cái Đại Vương; 20/ Lý Nhân Tôn; 21/ Đào Duy Từ; 22/ Đoàn Thượng; 23/ Trịnh Kiểm; 24/ Triệu Ẩu; 25/ Nguyễn Xí; 26/ Lê Thánh Tôn; 27/ Phan Đình Phùng; 28/ Lý Thánh Tôn; 29/ Phạm Đình Trọng; 30/ Mai Hắc Đế.

Trong số các danh nhân trên đây, có thể thấy chỉ có 2 vị thuộc huyền sử (Phù Đổng Thiên Vương tức Thánh Gióng và Lý Ông Trọng tức Thánh Chèm), còn lại đều là nhân vật lịch sử thực thụ; đây là nét đáng chú ý về tư duy sử học của người khởi thảo cuộc thi.

Một nhận xét khác, về thành phần của các nhân vật lịch sử được đưa vào danh mục lựa chọn, thì đông đảo nhất (15 vị) là những người khởi nghiệp bá vương, kể cả thành lẫn bất thành, như Trưng Vương, Triệu Ẩu, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Mai Hắc Đế, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lê Thái Tổ, Trịnh Kiểm, Quang Trung, Gia Long; bên cạnh đó là những vị vua tuy không phải là người khởi đầu một triều đại nhưng có công tích lớn trong vương triều của mình: Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông.

Thành phần đáng kể thứ hai (10 vị) là các võ tướng: Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Đoàn Thượng, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Xí, Phạm Đình Trọng, Phan Đình Phùng; hai nhân vật truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương và Lý Ông Trọng, thực ra, cũng thuộc loại này, tức là được coi như những võ tướng có kỳ công.

Thành phần thứ ba (5 vị), ít hơn hẳn, là các mưu sĩ, văn thần: Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ.

Ba chục nhân vật này, mỗi nhân vật được toà soạn trình bày trong một bản sự tích vắn tắt dài khoảng 400 đến 500 từ, kể về xuất xứ và hành trạng từng nhân vật, chú ý nhấn mạnh công trạng của mỗi nhân vật đối với lịch sử Việt Nam.

Dù nhắm tới mục tiêu phổ thông kiến thức sử Việt, nhưng những người chủ trì không quên đây là những nội dung soạn ra cho người ta đọc để tham dự một cuộc thi. Vì vậy, có lẽ toà soạn đã buộc phải xáo trộn thứ tự niên đại (không đưa lần lượt từ nhân vật xa nhất dần dần đến nhân vật gần nhất), đồng thời, toà soạn cũng không để lộ quá rõ những gợi ý về sự đánh giá. Câu cuối cùng ở mọi bản sự tích các nhân vật đều láy theo một mô thức giống nhau: “Có lẽ nhân vật nước ta từ xưa đến nay, vị này [người đang được nói tới] là bậc nhứt”!

Tất nhiên, sự gợi ý cho người dự thi dù sao vẫn tiềm tàng trong phần toà soạn nêu ra, có điều nó không nằm ở một vài “từ khoá” hàm ẩn nhất định nào đó; nó bộc lộ rõ nhất ở nội dung kể vắn tắt sự tích và công trạng mỗi nhân vật. Người ra đề cung cấp cho độc giả dự thi một nội dung tự sự lịch sử rút từ những nguồn đáng tin cậy; người dự thi căn cứ vào cái nhận thức lịch sử có thể có được qua nội dung được cung cấp ấy để làm bài dự thi. Ngoài mục tiêu phổ biến kiến thức sơ lược về sử nước mình, những người tổ chức cuộc thi không cài thêm bất cứ nội dung nào khác, kể cả những nội dung mang tính quảng cáo hoặc kích thích hứng thú tham dự của công chúng.

Mặc dù không có tài liệu nào khác về cuộc thi này ngoài những gì còn lại trên mặt báo, ta vẫn có thể dự đoán rằng, những người tổ chức thi có thể sẽ lấy chuẩn đáp án ở chính kết quả lựa chọn của những người dự thi, như đã hé lộ ra ở thể lệ thi ban đầu theo đó cuộc thi này được xem như “một cuộc tuyển sử” (“Cái bổn ý của chúng tôi là trọng về sự phổ thông và công chúng, nên cuộc thi nầy chúng tôi muốn làm như một cuộc tuyển sử để cho phần đông lựa lấy người trúng tuyển” − Thần chung 1/7/1929); hình thức các cuộc vận động bầu cử hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố đương thời và hình thức làm bài dự cuộc thi này đã được người đề xướng cuộc thi chủ động tạo một sự liên tưởng cho độc giả (qua bài Tuyển cử người đời nay với tuyển cử người đời xưa, đăng Thần chung 12/11/1929).

Với định hướng nói trên, những người tổ chức cuộc thi hầu như dồn mọi nỗ lực vào việc thể hiện thật mạch lạc các bản sự tích và công trạng của mỗi nhân vật đối với tiến trình lịch sử của đất nước.

Chẳng hạn, trong số những người khởi nghiệp bá vương, khá đông được trình bày với tư cách những nhân vật nổi lên chống lại ách đô hộ trong thời Bắc thuộc:

− “Kể nước ta từ hồi thuộc Tàu về đời Tây Hán cho đến bấy giờ hơn hai trăm năm mà chưa hề có người nào cử binh phục quốc hết, đàn ông còn không ai thay, huống chi đàn bà. Thế mà bà Trưng Vương đem thân bồ liễu gánh vác nước non, tuy thành công không trọn mà lưu danh đến muôn đời, khiến người sau [……] biết cái nền tự chủ là cần [……………………………….] thì cái công đề xướng của bà thật là lớn hơn hết thảy vậy.” [10]

− “Bà Triệu Ẩu tuy cử sự không thành, song lấy một người đàn bà nổi lên dẹp giặc phục thù cho nước, tấm lòng nghĩa liệt cũng chẳng kém gì Hai Bà Trưng. Bởi vậy người nước ta khi nào nói đến các bậc nữ kiệt thì cũng xưng là Trưng Triệu.” [11]

− “Lý Nam Đế làm vua kể được bốn năm mà thôi, song nối dấu Trưng Vương mà mở nền tự chủ cho nước ta tức là ông ấy. Huống chi, người lại bắt đầu xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu, thật đã gây ra cái quy mô lập quốc cho nước ta.

Nam Đế tuy mất rồi mà tướng của người là Triệu Quang Phục nổi lên xưng là Triệu Việt Vương; sau đó con trai của người là Lý Phật Tử còn kế nghiệp cha mà xưng đế lần nữa; kể cả ba triều ấy giành nước Nam lại trong tay người Tàu mà tự chủ được 60 năm, thật là công của Lý Bôn khai sáng ra vậy.” [12]

− “Kể từ Tiền Lý Nam Đế cho đến Ngô Vương Quyền, trong khoảng ấy chừng 400 năm, nước ta vẫn thần phục nước Tàu, duy có Bố Cái Đại Vương còn có tự lập được một lúc mà thôi, như thế cũng đáng gọi là anh hùng vậy.” [13]

− “Sách An Nam sử lược phê bình rằng: “Ngô Vương trong thì giết được nịnh thần, báo thù cho chúa, ngoài thì phá được cường địch giữ vững nước nhà; thậy là một người trung nghĩa danh lưu thiên cổ.” Mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền nước Nam ta mới rửa được cái nhục nô lệ hơn một ngàn năm, mà mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau nầy được tự chủ ở cõi An Nam!” [14]

Đối với một số vị vua sáng nghiệp, mở đầu các triều đại, điều được nhấn mạnh ở công tích thường cũng gắn với thành quả chống xâm lược giành độc lập quốc gia:

− “Đinh Tiên Hoàng có công lớn đối với nước ta, vì người đã dẹp yên cái loạn 12 sứ quân, cứu dân ra khỏi vòng đồ thán, và đã nhứt thống nước Nam, dựng cờ độc lập, mở đường cho Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau nầy.” [15]

− “Người trị vì được 24 năm thì mất, là ông vua thứ nhứt mở cơ nghiệp nhà Tiền Lê. Người đã giỏi về thuật dụng binh lại giỏi về thuật ngoại giao nữa, nhờ đó làm cho nước ta khỏi bị mất về nước Tàu và nhân dân được làm ăn yên ổn trong đời ấy.” [16]

− “Giả sử lúc bấy giờ không có Lê Thái Tổ thì người Minh sẽ chiếm lãnh nước ta làm thuộc địa đời đời mà Việt Nam đã vong quốc từ đó rồi. Càng suy nghĩ đến chỗ ấy thì lại càng thấy cái công nghiệp của người đối với nước ta lớn lao là dường nào.” [17]

− “Đức Gia Long có công rất lớn đối với nước ta. Vì người chẳng những dẹp yên loạn lạc, làm cho dân được làm ăn yên ổn, mà lại mở thêm được sáu tỉnh Nam Kỳ, khiến cho bờ cõi nước Nam mình thêm rộng ra.” [18]



Đối với nhân vật Quang Trung, giọng kể và lời đánh giá tỏ ra hào hứng khác thường:



“Người có tiếng vang như chuông, mắt sáng như chớp, sức mạnh tuyệt vời, lại có trí mưu quyền biến, mẹo mực như thần.

Ban đầu nhơn trong xứ có loạn, cùng anh là Nhạc dấy binh tại Tây Sơn; về sau đánh lan ra đến Thuận Hoá nhẫn bắc, tự xưng là Bắc Bình Vương.

Năm bính ngọ đời Cảnh Hưng (1786), người đem quân ra Bắc Hà, trừ họ Trịnh để giúp nhà Lê, rồi kéo quân trở về đóng đô tại Phú Xuân, và sai Văn Nhậm ra đánh Hữu Chỉnh, bắt được và giết chết, rồi lập Sùng Nhượng công làm giám quốc nhưng quyền bính thì người nắm vào tay mình.

Vua Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân qua đánh. Bắc Bình Vương được tin giận lắm, bèn lên ngôi hoàng đế, hiệu là Quang Trung. Rồi khởi hết thảy binh Đàng Trong kéo ra Bắc. Ngày 20 tháng chạp năm mậu thân kéo đến đèo Tam Điệp, truyền cho ba quân làm lễ nguyên đán, hẹn đến ngày mồng bảy tháng giêng năm sau, lấy lại thành Thăng Long rồi sẽ ăn Tết. Quả nhiên khi quân kéo đến vây đồn Hạ Hồi thì quân Tàu tan chạy. Vua Quang Trung thừa thắng đuổi đánh, giết tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Huy Thăng và Sầm Nghi Đống. Còn Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy qua sông Nhị Hà, quân Tàu đổ theo xô nhau chết đắm dưới sông hàng mấy vạn người. Hôm ấy là mồng 5 tháng giêng, thành Thăng Long được khôi phục.

Người lại sai quân đuổi theo Sĩ Nghị đến Nam Quan mà phao ngôn lên rằng: Quân An Nam sẽ đuổi bắt cho được vua Chiêu Thống. Dân Tàu ở bên kia nghe vậy sợ hãi bồng trống nhau mà chạy, suốt vài trăm dặm không có người ở.

Từ đó vua Tàu tỏ ý muốn chiêu an. Người bèn sai sứ sang hoà với Tàu. Tuy vậy, người muốn thừa cơ lấy lại Lưỡng Quảng là đất nước Nam ngày trước, bèn đóng tàu mộ binh, định trong mấy năm nữa thì khai hấn mà đánh Tàu, song chẳng may lâm bịnh mà chết, mới có bốn chục tuổi.

Xưa nay người An Nam ta đối với Tàu chưa có ai oanh liệt bằng vua Quang Trung.” [19]



Đây là nhận định về một số vị danh tướng khác:



− “Bấy giờ nước Chiêm Thành đến khuấy phá đất Nghệ An, vua sai Thường Kiệt cầm quân đi đánh. Thường Kiệt đánh quân Chàm lui về mãi, lấy được ba châu là Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh. […]

Sau đó, vua Thần Tôn nhà Tống sai Thần Khởi, Lưu Lộng ra coi Quý Châu, có ý dòm ngó nước ta. Vua Nhân Tôn bèn sai Thường Kiệt đánh thẳng sang nước Tàu, lấy được châu Khâm, châu Liêm, và vây châu Ung giết hại binh lính nhà Tống đến 10 vạn người.



Năm sau, vua Tống sai Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, đem 9 viên tướng, chia đường đi sang hội với nước Chiêm Thành, nước Chơn Lạp để khuấy nhiễu nước ta. Vua lại sai Thường Kiệt đi đánh, đánh trận nào thắng trận ấy, quân Tống phải bỏ mà chạy về.



Khi ấy, người xứ Nghệ An là Lý Giác nổi loạn. Giác có yêu thuật, làm cho cỏ cây biến thành binh mã, quan quân đánh mãi không trừ được, Thường Kiệt bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, tình nguyện xin đi đánh, thì dẹp tan được đám giặc ấy.



Nhân có những công to ấy, Thường Kiệt mới được phong là Đại vương và sau khi chết được phong làm phước thần. Mà nghĩ xứng đáng lắm, vì Thường Kiệt trước đã mở rộng đất đai cho nước nhà, sau lại đánh đuổi quân của ba nước một lần, thì thật là xưa nay ít có vậy.” [20]



− “Ba lần chống nhau với quân Mông Cổ, người đã trải lắm nỗi gian nan, song vẫn một lòng không núng, nên cơ nghiệp nhà Trần nhờ đó mà bền vững, nước ta nhờ đó mà khỏi mất về tay giặc Nguyên.

Người lại có làm ra sách “Binh pháp yếu lược” để ban cho các tướng sĩ, và một bài hịch dạy dỗ các tướng sĩ rất hay.

Sau người về trí sĩ ở tại Vạn Kiếp, thọ ngoài 70 tuổi rồi mất, thì trên từ vua quan, dưới đến trăm họ thảy đều thương tiếc.

Vạn Kiếp bây giờ kêu là Kiếp Bạc, ở đó có nhà thờ Hưng Đạo Vương. Đến nay, mỗi năm gặp ngày 20 tháng 8 thì thiên hạ đi lễ bái rất đông, kêu bằng ‘ngày hội Kiếp Bạc’.” [21]



Việc thể hiện sự đánh giá cho công chúng phổ thông hiểu tầm cỡ sự nghiệp các văn thần hoặc mưu sĩ, nhà văn hoá nói chung, thường là việc khó khăn hơn. Ngay việc hình dung ra và kể lại sự nghiệp, công tích loại nhân vật này cũng đã khó hơn hẳn so với hai loại nhân vật kể trên. Ta hãy xem người soạn của Thần chung xử lý ra sao.

Đây là lời kể về Chu Văn An:

“Tiên sanh có tánh điềm đạm không ham danh lợi, và ngay thẳng không sợ kẻ quyền quý; học rộng biết nhiều, bình sanh lấy sự dạy học truyền đạo làm trách nhiệm mình.

Tiên sanh có mở một trường dạy học tại làng mình. Học trò rất đông, có nhiều người về sau hiển đạt, như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đều làm đến Tể tướng. Tiên sanh dạy rất nghiêm, dầu học trò làm nên quan lớn rồi, đối với tiên sanh cũng phải giữ lễ phép như hồi còn đi học. Trò nào có điều không phải, tiên sanh rầy la cho chừa đi mới nghe, không hề khoan thứ.

Vào đời vua Minh Tôn nhà Trần, tiên sanh có làm chức Tư nghiệp dạy trường Quốc Tử Giám.

Đời vua Dụ Tôn, việc chánh trị chốn triều đình bậy bạ, bọn gian nịnh chuyên quyền, tiên sanh dâng sớ xin chém bảy người quyền thần. Vua không nghe, tiên sanh bèn treo ấn từ quan, trở về làng cũ.

Bấy giờ tiên sanh dời ở làng Ái Kiệt thuộc tỉnh Hải Dương bây giờ, tự hiệu là Tiều Ẩn tiên sanh. Vua lại vời ra, song tiên sanh không đến. Bà Hiếu Từ thái hậu có lời khen tiên sanh rằng: Người ấy là bậc cao hiền, thiên tử không có quyền bắt làm tôi!

Thiên hạ bấy giờ ai cũng phục tiên sanh là cao. Còn sĩ phu thì coi tiên sanh như sao Bắc Đẩu, như núi Thái Sơn, danh vọng vô cùng.

Sau tiên sanh mất ở nhà, vua sai quan đến tế, và cho tùng tự ở miếu đức Khổng Tử, ngang với các bậc tiên nho.” [22]



Đây là lời kể về Mạc Đĩnh Chi:



“Đĩnh Chi sinh ra, người xấu xí mà lại nhỏ loắt choắt, giống hình con khỉ con, mới năm tuổi đã có tài thông minh hơn người.

Năm 20 tuổi, khoa giáp thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Đĩnh Chi thi đậu Trạng nguyên. Số là văn của người đáng đỗ đầu song vua thấy hình dạng xấu xa, toan không cho đỗ mà lấy người khác, Đĩnh Chi bèn làm bài phú “Ngọc tỉnh liên” để sánh với mình. Vua thấy vậy mới lại cho đỗ trạng.

Đậu rồi người ra làm quan, và có đi sứ sang Tàu.

Trong khi Đĩnh Chi đi sứ bên Tàu, có tỏ ra nhiều tài nghệ cho người Tàu biết mình là tay học giỏi. Trong sử có chép những sự người đối nhiều câu đối khó, xé bức liễn “trúc tước” ở chốn công đường và đề thơ quạt, làm bài văn tế bà công chúa, v.v… khiến cho người Tàu thảy đều kính phục, thật là một nhà văn học ít ai bì kịp.

Đĩnh Chi còn có tiếng về đức thanh liêm nữa. Vua Minh Tôn nhà Trần biết như vậy, có một lần thử người. Đương ban đêm, sai kẻ đem 10 quan tiền bỏ trong cửa nhà Đĩnh Chi. Đến mai, Đĩnh Chi vào chầu, thuật lại chuyện ấy và xin bỏ số tiền đó vào kho. Vua Minh Tôn nói rằng: “Tiền ấy là của vô chủ, không có ai nhận, thôi ngươi cứ lấy mà tiêu”. Người mới nhận lấy.

Văn chương của người nhiều lắm mà bài nào cũng hay, xứng đáng một nhà văn học đại gia. Tánh lại hiền hậu, có độ hơn người. Bởi vậy để phước cho con cháu về sau, dòng dõi người nhiều người hiển đạt.

Mạc Đăng Dung cũng là con cháu của Đĩnh Chi. Khi nhà Mạc làm vua nước Nam, truy phong cho người làm Huệ Việt Linh Thánh đại vương.” [23]



Đây là lời kể về Nguyễn Trãi:



“Nguyễn Trãi là người thứ nhứt chung cùng với vua Lê Thái Tổ mà mưu việc khởi binh để đuổi người Minh. Thái Tổ cùng quân Minh đánh nhau dư trăm trận, về sau chém được Liễu Thăng, bắt sống được Thôi Tụ, Hoàng Phước, đuổi được Mộc Thạnh, hàng được Vương Thông, dẹp sạch giặc Tàu, dựng lại cơ đồ Đại Việt, đều là nhờ mưu lược của Nguyễn Trãi vậy.

Kể từ khi vua Thái Tổ khởi binh cho tới khi dẹp được giặc rồi, trở lại hoà với nhà Minh, nội những từ lịnh về việc quân và giấy mực về việc giao thiệp đều do Nguyễn Trãi làm ra cả. Văn chương của người hùng dũng lắm; khi đại định rồi, người có vâng mạng vua thảo bài “Bình Ngô đại cáo”, bài ấy có chép vào trong sử, để một cái kỷ niệm đến đời đời, ngày nay đọc đến vẫn lấy làm khoái chá.

Người vì có công lớn nên được phong tước Lê Văn Hầu, là bực nhứt trong hàng khai quốc công thần nhà Lê. Chẳng những vậy thôi, mà lại có tánh điềm đạm, không ham danh lợi, cũng có phẩm cách cao siêu, đáng cho người đời sau sùng bái.” [24]



Đây là lời kể về Nguyễn Bỉnh Khiêm:



“Bấy giờ nhà Lê suy vi, họ Mạc lên tiếm ngôi. Người suy tính biết rằng nhà Lê sẽ trung hưng, nhưng còn lâu lắm, bèn ra đi thi trong đời Đại Chính nhà Mạc, thì đậu Trạng nguyên, năm ấy người đã 44 tuổi. Đậu rồi, ra làm quan được 8 năm thì người cáo về ở ẩn. Từ đó người dứt bỏ việc đời, không thèm đua chen vòng danh lợi, khi thì thả thuyền đi chơi biển, khi thì cùng các nhà sư đi dạo các danh sơn, đi đến đâu thì ngâm vịnh đến đó, về sau thơ dồn thành tập, kể có mấy ngàn bài.

Người tuy ở nhà, nhưng vua Mạc vẫn kính trọng lắm, mỗi khi triều đình có việc lớn thì sai sứ đến hỏi tận nhà, hoặc mời người đến kinh mà hỏi. Nhà Mạc phong cho người làm Trình Quốc công, vì vậy người ta quen gọi là “trạng Trình”.

Đến lúc nhà Lê trung hưng, họ Mạc phải chạy lên Cao Bằng, thì trong nước lại có họ Trịnh và họ Nguyễn đương quyền. Người bấy giờ già rồi, không hề đi đâu, chẳng hề làm tôi ai, mà ai cũng đều tôn người như là vị quốc sư. Ba chúa ấy, chúa Mạc, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, mỗi gặp việc gì hồ nghi cũng đều sai sứ đến cầu vấn nơi người, mà người đáp cho câu nào cũng trúng cả. Người biểu thế nào thì ba chúa làm theo thế ấy mà ai nấy cũng được việc mình.

Người thọ 95 tuổi thì mất. Có học trò rất đông mà thành đạt cũng nhiều. Học trò tôn hiệu người là Tuyết Giang phu tử.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà bác học và phẩm hạnh rất cao siêu.” [25]



Đây là lời kể về Đào Duy Từ:



“Duy Từ hồi nhỏ thông minh dĩnh dị; phàm những kinh sử bách gia, âm dương thuật số, đều học tinh thông cả. Bấy giờ về đời Lê Trịnh, Duy Từ ra đi thi, quan trường cho là con nhà hát xướng, bèn đánh rớt. Duy Từ tức mình trở về. Nghe nói chúa Nguyễn ở Đàng Trong có lòng yêu kẻ sĩ, nhiều người về theo, bèn quyết bỏ ngoài Bắc mà về trong Nam.

Trước hết đi vô Quy Nhơn, ở chăn trâu cho một nhà giàu kia. Một hôm, phú ông mở tiệc rượu, mời các danh sĩ uống rượu làm thơ. Duy Từ thả trâu về, thấy vậy, cũng dự vào bàn luận, trưng dẫn sách vở đều thông suốt cả; cả tiệc đều thất kinh.

Tại Quy Nhơn, có quan khám lý Trần Đức Hoà, là người chúa Nguyễn tin cậy, làm quan ở đó. Phú ông đem việc Đào Duy Từ thưa với Trần, Trần bèn đến nhà nói chuyện. Thấy Duy Từ học rộng tài cao, rước về dạy học, lại gả con gái cho.

Duy Từ thường ngâm bài Ngoạ Long cang mà mình đã diễn ra quốc âm, có ý sánh mình với Gia Cát Lượng.

Năm đinh mão, năm thứ 14 triều đức Hy Tôn, Trần Đức Hoà đem bài Ngoạ Long cang dâng cho chúa, nói là của Đào Duy Từ thầy đồ nhà mình làm ra.

Chúa lấy làm lạ, đòi Duy Từ vào. Khi Duy Từ vừa vào đến cửa, thấy chúa mặc áo trắng mang giày xanh, thì đứng lại ngoài cửa. Chúa biết ý bèn thay áo mũ mà đòi vào. Duy Từ trần thuyết mọi việc, chúa Hy Tôn cả mừng nói rằng: “Sao mà ngươi vô đây muộn dữ vậy?” Liền cho làm Nha uý Nội tán, kiêm cả việc quân cơ trong ngoài, thường triệu và hầu trong bàn việc quốc chánh.

Năm kỷ tỵ, Trịnh Tráng sai sứ vào phong chúa Nguyễn làm Thái phó quốc công, và giục ngài ra Đông Đô để đi đánh giặc, Duy Từ bàn, không cho chúa đi, vì biết họ có ý giả. Sau chúa theo lời Đào Duy Từ, không ra Đông Đô, và sai sứ ra lập thế trả sắc lại, tỏ ý không chịu chức tước của Trịnh phong cho.

Năm ấy Duy Từ tâu xin đem quân ra lấy nam Bố Chánh châu, chiếm đất từ Linh Giang trở vào.

Năm sau, Duy Từ lại đắp một luỹ dài từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, cao 15 thước, dài 3000 trượng để ngăn quân Trịnh. Luỹ ấy tục gọi Luỹ Thầy.

Duy Từ giúp chánh 8 năm, công nghiệp rỡ ràng, có làm ra sách Hổ trướng xu cơ tập và bài Ngọa Long cang ngâm, thật là một bậc danh thần, không kém gì Gia Cát Lượng vậy.”[26]



Trong cách chọn và kể sự tích các danh nhân Việt sử ở đây, ngoài việc nhấn mạnh khía cạnh nhân vật ấy có công lao gì đối với quốc gia dân tộc, ta còn thấy một vài nét khác cũng được đề cập. Chẳng hạn, với hai nhân vật Đoàn Thượng và Phan Đình Phùng, bên cạnh tư cách tướng tài còn có tư cách bạn nghịch; song lời kể về loại nhân vật chống chính thống này hoàn toàn không hề có chút giọng điệu hạ thấp nào cả. Ở lời kể về nhân vật Đoàn Thượng rõ ràng có việc biểu dương phẩm chất “tôi trung không thờ hai chủ”:

“Đoàn Thượng có sức khoẻ hơn người, gân xương như sắt, mỗi khi lâm trận chỉ một giáo một ngựa xông vào trăm ngàn người mà không ai dám đương.

Đến khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Thái Tôn, Đoàn Thượng chiếm một châu, không chịu hàng đầu về với nhà Trần. Nhà Trần sai sứ đến dụ hàng, Thượng nhứt định không nghe, cứ việc chiêu binh mãi mã, tự xưng là Đông Hải đại vương, có ý muốn khôi phục cơ nghiệp cho nhà Lý.

Trần Thủ Độ là quan Thái sư nhà Trần bấy giờ, đem binh đánh luôn mà không phá nổi, bèn lập mưu sai người đến giảng hoà mà kéo quân tập công mé sau.

Đoàn Thượng chắc ý đã giảng hoà rồi thì không phòng bị nữa, thoắt nghe tướng nhà Trần là Nguyễn Nộn đến đánh mé sau thì hoảng hốt đem quân cự địch. Vừa gặp Trần Thủ Độ cùng kéo đại binh đến.

Trong đám đánh nhau đương hăng, quân Đoàn Thượng chạy tan lạc cả. Đoàn Thượng bị một viên tướng Trần chém vào cổ gần đứt. Ông ta quay đầu lại ngó thì viên tướng ấy sợ hãi, quất ngựa mà chạy. Thượng bèn cổi giây nịt lưng mà quàng vào cổ cho đầu khỏi rớt rồi giục ngựa chạy về hướng đông. Khi chạy đến làng An Nhân, thấy một ông già áo mũ chững chàng đứng bên đường mà nói rằng: “Thượng đế thấy tướng quân trung dõng lắm, đã định cho ngài làm thần đất nầy, vậy có cái gò bên cạnh làng kia là đất hương hoả của ngài đó, xin hãy để ý cho!”

Đoàn Thượng vâng một tiếng rồi thẳng đến gò đó, xuống ngựa gối đầu vào ngọn mát mà nằm, một lát thì chết. Rồi người ta chôn ở đó.

Sau dân làng lập miếu thờ và các triều đều có phong tước.

Đoàn Thượng là một vị trung thần chẳng chịu thờ hai chúa mà cũng là một trang mãnh tướng, xưa nay ít ai bì.” [27]



Kể về Phan Đình Phùng dưới thời thực dân và triều Nguyễn thì không thể không nói rằng nhân vật này nổi lên chống ách thực dân và đã bị triều Nguyễn đưa quân đánh dẹp. Phần kể sự tích chủ yếu dựa vào Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, nhưng lời nhận định là của người soạn.

“Phan Đình Phùng, người Hà Tĩnh, thi đậu Đình nguyên triều Tự Đức, làm quan đến Ngự sử, vừa gặp lúc Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền, phế lập luôn mấy ông vua, Đình Phùng kháng cự giữa chốn triều, nên bị bọn ấy đuổi về.

Sau khi kinh thành thất thủ (năm ất dậu 1885), các tỉnh Trung Kỳ đều nổi quân cần vương nhưng trong một vài năm, quân nước Pháp đều dẹp yên được hết. Chỉ có ông Phan Đình Phùng cùng những người đồng chí cứ miền Võ Quang gần huyện Hương Khê thuộc tỉnh Hà Tĩnh, lập đồn mộ quân lính, và cho người sang Tàu sang Xiêm học đúc súng đúc đạn để chờ ngày khôi phục.

Vào khoảng năm 1893-1894, thế lực ông Phan lừng lẫy cả miền ấy. Quân nước Pháp đánh ngót hai năm mà không dẹp yên được, lính Tây lại bị chết rất nhiều. Năm ất tị (1895), Triều đình Huế sai ông Nguyễn Thân đem lính ra đánh. Bấy giờ ông Phan đã già, lại về ở luôn trên miền núi, đau yếu mãi rồi chết. Khi lính Nguyễn Thân ra đến nơi thì ông đã chết rồi. Trong bọn đồng đảng không ai chống chọi được, kẻ thì ra đầu với Nguyễn Thân, kẻ thì trốn mất, rồi cái cơ sở của ông đã gây dựng ra bèn tan vỡ hết.

Ông Phan Đình Phùng chẳng những là một nhà văn học, mà là một nhà quân sự rất giỏi giang. Ông sửa sang quân lính có cơ ngũ, luyện tập tướng sĩ có kỷ luật, lại khéo dùng binh. Ông Gosselin có khen ông trong sách Empire d’Annam rằng: “Ông Phan Đình Phùng có tài trị binh, biết luyện quân theo kiểu Thái Tây, áo quần mặc một lối, súng thì toàn kiểu 1874, những súng ấy là do bộ hạ ông đúc ra thật nhiều mà máy móc cũng giống y như súng Pháp, chỉ vì lòng súng không xẻ rãnh nên bắn không được xa.”

Đương lúc vong quốc mà trong nước có người như ông Phan nổi lên để kháng cự, tuy không thành công, song cũng tỏ ra được cái lòng ái quốc và cái khí hùng cường của một dân tộc. Huống chi những cái quy mô của ông đó, như là mở đồn điền, phái người đi học ngoại quốc, đúc súng lấy mà dùng, thật là viễn đại lắm, nếu chẳng phải có đại tài đại chí mà làm được công việc ấy ư?” [28]

***



Điểm qua sự thể hiện lời kể sự tích một số danh nhân sử Việt do toà soạn nhật báo Thần chung đưa ra cho độc giả trong cuộc thi quốc sử nêu trên, chúng ta thấy có lẽ người soạn đã rất chú ý sử dụng những công trình biên khảo sử học tương đối mới lúc đó, nhất là cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, để biên soạn những lời kể ngắn gọn, dễ hiểu, thích hợp cho mục đích phổ biến vào công chúng rộng, song lại không rơi vào tình trạng đơn giản hoá, sơ lược hoá các hiểu biết về từng nhân vật lịch sử.



Chính nhận xét vừa nêu lại đưa tôi trở lại câu chuyện về việc ai là người biên soạn những bài kể chuyện nhân vật lịch sử này? Trong số những người làm việc xung quanh toà soạn Thần chung lúc ấy, người có nhiều khả năng nhất để làm việc đó chính là Phan Khôi. Tất nhiên, có lẽ mãi mãi đây cũng sẽ chỉ là một sự phỏng đoán, bởi đã không còn khả năng tìm được sự xác minh nào ngoài sự phỏng đoán như trên. Và, ở một phương diện khác, ý nghĩa của sự kiện cuộc thi quốc sử này không tuỳ thuộc vào việc hậu thế chúng ta xác định được những tên tuổi cụ thể đã làm nên sự kiện này.



01/02/2008

Lại Nguyên Ân





Chú thích

[1] Phan Khôi – Tác phẩm đăng báo 1929, / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, / Đà Nẵng, 2005: Nxb Đà Nẵng & Trung tâm Văn hoá &Ngôn ngữ Đông Tây, 780 tr. 14,5x20,5 cm.

[2] Xem: Lại Nguyên Ân, Phan Khôi và cuộc thảo luận sử học năm 1928 trên báo “Đông Pháp thời báo” // Xưa và Nay, Hà Nội, s. 137 (tháng 4/2003), tr. 14-16.

[3] Nguyễn Vỹ, Tuấn, chàng trai nước Việt, Chứng tích thời đại đầu thế kỷ XX, tái bản . Tp. HCM., 2006: Nxb Văn học, tr. 10.

[4] Nguyễn Vỹ, sđd., tr. 641.

[5] Nguyễn Vỹ, sđd., tr. 640-641.

[6] Thần chung, s. 133 (28 Juin 1929), tr. 1.

[7] Thể lệ cuộc thi quốc sử // Thần chung, s. 135 (chúa nhựt 30 và thứ hai 1er Juillet 1929), tr. 1.

[8] Thể lệ cuộc thi quốc sử của Thần chung // Thần chung, s. 158 (thứ ba 30 Juillet 1929), tr.1. (thông báo thể lệ sửa đổi này đăng liên trên báo này đến 10/7/1929).

[9] Như chú thích 8.

[9b] Về sự kiện này, chẳng hạn, xem: Giới thiệu 46 nữ anh hùng, danh nhân trên đường phố (http:// www.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/10); TPHCM “dạy” lịch sử trên đường phố (http://www.dantri.com.vn/giaoduc-khuyenhoc/2006/10); Học sử Việt trên đường phố (http:// www.vtc.vn/vanhoa/2006/10/20); Học sử trên dường phố (http:// www.thanhnien.com.vn/vanhoa/xem-nghe-doc/2006/10/20).

[10] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 5. Trưng Nữ Vương // Thần chung, s. 142 (9 Juillet 1929), tr.1.

[11] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 24. Triệu Ẩu // Thần chung, s. 179 (24 Aout 1929), tr.1.

[12] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 10. Lý Nam Đế // Thần chung, s. 147 (17 Juillet 1929), tr.1.

[13] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 30. Mai Hắc Đế // Thần chung, s. 163 (4&5 Aout 1929), tr.1.

[14] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 11. Ngô Vương Quyền // Thần chung, s. 149 (19 Juillet 1929), tr.1

[15] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 1. Đinh Tiên Hoàng // Thần chung, s. 138 (4 Juillet 1929), tr.1.

[16] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 16. Lê Đại Hành // Thần chung, s. 157 (28&29 Juillet 1929), tr.1.

[17] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 2. Lê Thái Tổ // Thần chung, s. 139 (5 Juillet 1929), tr. 1.

[18] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 8. Gia Long Đế // Thần chung, s. 145 (12 Juillet 1929), tr. 1.

[19] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 4. Quang Trung Đế // Thần chung, s. 141 (7 và 8 Juillet 1929), tr. 1.

[20] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 7. Lý Thường Kiệt // Thần chung, s. 144 (11 Juillet 1929), tr. 1.

[21] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 6. Trần Hưng Đạo // Thần chung, s. 143 (10 Juillet 1929), tr. 1.

[22] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 3. Châu Văn An // Thần chung, s. 140 (6 Juillet 1929), tr. 1.

[23] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 15. Mạc Đĩnh Chi // Thần chung, s. 156 (27 Juillet 1929), tr. 1.

[24] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 17. Nguyễn Trãi // Thần chung, s. 159 (31 Juillet 1929), tr. 1.

[25] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 12. Nguyễn Bỉnh Khiêm // Thần chung, s. 151 (21 & 22 Juillet 1929), tr. 1.

[26] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 21. Đào Duy Từ // Thần chung, s. 168 (8 Aout 1929), tr. 1.

[27] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 22. Đoàn Thượng // Thần chung, s. 170 (13 Aout 1929), tr. 1.

[28] Cuộc thi quốc sử của Thần chung: 27. Phan Đình Phùng // Thần chung, s. 196 (13 Septembre 1929), tr. 1.







© Thời Đại Mới