thơ
Rimbaud, Arthur
Những nguyên âm | Con tầu say
Bản dịch của Lê Huy Oanh
Trần Hữu Dũng sao lục
Trong giai phẩm Văn số chuyên đề “Rimbaud, con phượng hoàng của thi ca thế giới’’ (bìa sau ghi “Giấy phép số 304/74/BDVCH/KSALP/GP. Sàigòn ngày 08-7-1974”), từ trang 7 đến trang 18 có in năm bài thơ của Rimbaud do Lê Huy Oanh dịch, gồm: “Quán Au Cabaret-Vert, năm giờ chiều”, “Những nguyên âm”, “Những hội hè của sự đói”, “Từ biệt” và “Bán xôn”.
Dưới đây là bài “Những nguyên âm”:
Bản dịch của Lê Huy Oanh
Những nguyên âm
A đen, E trắng, I đỏ, O xanh dương: những nguyên âm
Ít lâu sau ta sẽ nói tới sự ra đời ngấm ngầm của bọn ngươi:
A, yếm đen rậm lông của lũ ruồi rực rỡ
Đang bay ào ào quanh những đống hôi thối hung dữ,
Những vịnh bóng tối; E, mầu trắng tinh khiết của những
đám hơi nước và những lều vải.
Những đỉnh núi nhọn đầy tuyết vươn ngạo nghễ, những
ông vua trắng, những cái rùng mình của đám hoa ombelles;
I, mầu tía, máu khạc, tiếng cười thoát ra từ những cặp môi đẹp
Đang trong cơn giận dữ hoặc trong những cơn say đầy vẻ sám hối;
U, những chu trình, những nét rung chuyển huyền diệu của
những biển xanh lá cây,
Sự bình yên của những cánh đồng có đầy mục súc đứng
gặm cỏ rải rác, sự bình yên của những nếp nhăn
Mà thuật luyện đan in vào những vầng trán hiếu học;
O, tiếng kèn thần thánh đầy nốt cao gắt kỳ lạ.
Những niềm im lặng trải suốt các Thế giới và các Thiên thần;
- O, chữ Oméga, tia tím của đôi Mắt Nàng!
Nhận xét của người dịch: – Bài “Voyelles” là một trong những bài thơ danh tiếng nhất Rimbaud. Bài này cũng còn được coi như một thứ thi nghệ (art poétique). Đây là một sự toàn thắng của trí tưởng tượng. Lần đầu tiên một người nhìn thấy mầu sắc và những hình ảnh do các nguyên âm gợi ra. Đây là những ảo giác đầy thực chất. Nếu không biết gây xáo trộn cho các cảm quan, bắt chúng phải tương ứng với nhau thì làm sao có được những ảo giác tuyệt vời, phong phú và thực đến thế. Rimbaud không những nhìn thấy các nguyên âm qua những hình ảnh bất ngờ đó mà còn nghe thấy, ngửi thấy những chữ đó.
Chẳng hạn: lũ ruồi rực rỡ đang bay ào ào (thuộc về thính giác) quanh những đống hôi thối hung dữ (thuộc về khứu giác). Một sự kiện nữa liên quan đến thính giác: O, tiếng kèn thần thánh đầy những nốt cao gắt kỳ lạ.
Khi đọc bài “Voyelles” người ta không khỏi liên tưởng đến bài “Correspondances” của Baudelaire, trong đó có câu “Les parfums les couleurs et les sons se répondent” (Những hương thơm, những mầu sắc và những âm thanh giao hưởng nhau) và câu “Il est des parfums fres comme des chairs d’enfants – Doux comme les hautbois, verts comme les prairies” (Có những hương thơm tươi mái như da thịt những trẻ con – Êm như những tiếng kèn ô boa, xanh như những đồng cỏ).
Về hiện tượng này Baudelaire gọi là “Unité des sens” hoặc “correspondances entre les sensations”; còn Rimbaud gọi là “Dérèglement des sens”.
_________
Và trong bài “Rimbaud, con tầu say” (trang 19 đến trang 39), tác giả Lê Huy Oanh có dịch vài đoạn của bài “Le Bateau ivre” (Con tầu say) như sau:
Bản dịch của Lê Huy Oanh
Con tầu say [trích đoạn]
Khi tôi đi xuôi những con sông điềm tĩnh thản nhiên
Tôi không còn cảm thấy những người kéo tầu lôi tôi đi nữa
Những tên Da đỏ đang hò hét om xòm đã nhắm bắn vào
những người đó
Và đã lột truồng họ ra đóng đanh họ lên những cột cờ.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tôi biết những bầu trời rạn nứt những ánh chớp và những cột nước
Và những đợt sóng vỗ và những dòng thủy lưu; ban đêm, tôi biết
Ánh rạng đông tỏa lên giống như cả một bầy bồ câu,
Và đôi khi tôi thấy cái mà người khác ngỡ là ảo ảnh.
Tôi đã thấy vầng mặt trời thấp có điểm những vết
kinh khủng huyền bí
Phóng tỏa ra những vệt máu đọng dài tím ngắt;
Giống như những diễn viên trong những bi kịch rất cổ xưa
Những làn sóng làm di chuyển từ xa những nét rung rinh
giống như những đợt nắng lọt qua kẽ cửa xếp.
Tôi đã mơ ước cái đêm xanh dương có tuyết rực rỡ chói chang,
Nụ hôn chậm chạp dâng lên từng đợt ở những mắt biển,
Sự lưu thông của những chất nhựa lỏng dị thường,
Và sự thức giấc vàng và xanh lam của những chất
lân tinh đang ca hát!
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Như vậy, tôi, con tầu lạc lõng dưới những mớ tóc
của những vịnh nhỏ
Bị dông bão thổi dạt trong khoảng thinh không bát ngát
không có bóng chim,
Nếu như có bị sóng đánh tan nát thì cái khung đẫm nước của tôi
Chắc hẳn sẽ chẳng được cái chuyến thuyền nhỏ và các tầu
buôn cứu vớt đâu;
Là con tầu tự do, bốc khói, trên boong chỉ có những
đám sương mù mầu tím
Tôi húc thủng nền trời đo đỏ đang dựng như một bức tường;
Là một thứ ngon mắt cho các nhà thơ chân chính,
Tường đó mang trên mình những mảnh rêu mặt trời và
những nhớt mũi thanh niên;
Tôi di chuyển, thân tôi điểm đầy những vết trắng tỏa ra tia điện,
Là lớp gỗ điên rồ, tôi được những con hải mã ngư bơi theo hộ tống,
Khi những tháng Bẩy dùng những cây gậy lớn
Phang đổ sập những bầu trời siêu-hải-tính có những lỗ trũng ác liệt;
Tôi run rẩy khi cảm thấy từ một khoảng cách năm chục dặm
Những tiếng rên rỉ vì nứng tình của những con quái vật Béhémots và
những vực xoáy nước Maelstróm dầy dặc;
Là kẻ quay tơ vĩnh viễn của những cảnh im lìm mầu xnh dương,
Tôi luyến tiếc Âu Châu nơi có những thành cầu cũ kỹ.
Source : Tiền Vệ