Hiển thị các bài đăng có nhãn Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Hiển thị tất cả bài đăng

12/6/11

Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời (3)

Trần Tử
Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời

Phần 4: Biên bản cuộc họp tranh luận của Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô

Hiện diện: 30 vị thư ký trong tổng số 42 vị hiện diện trong cuộc họp.

Đồng chí Malentev, Ủy viên Ủy ban Văn hoá Trung ương Đảng cũng có mặt tham dự phiên họp.

Đệ nhứt Thư ký K. A. Fedine chủ tọa buổi họp.

Chương trình nghị sự: Thảo luận về mấy lá thư của nhà văn Alexandre Soljenitsyne gởi Thư ký đoàn và Đại hội Hội các Nhà văn.

Cuộc họp khai mạc hồi 13g và bế mạc hồi 18g ngày 22 tháng 9 năm 1967.

Sau những thủ tục nghi lễ, chủ tọa mở lời:

FEDINE: Tôi hết sức bất mãn với lá thư thứ hai của Soljenitsyne (về sau tên này xin viết tắt là A.S.) những lý do A.S. nêu ra để chứng minh rằng vấn đề của ông ta đã bị xếp lại rất yếu ớt mà còn bao hàm ý nghĩa nhục mạ chính cả Hội các Nhà văn chúng ta.

Ba tháng rưỡi đâu có phải là một thời gian quá dài để xét toàn bộ thủ bản tác phẩm của A.S.? Vậy mà luận điệu của lá thư kia chất đầy đe dọa và các dữ kiện đưa ra có tính chất uy hiếp rõ rệt.

Trong lá thư thứ hai, A.S. đòi chúng ta phải lo cho tác phẩm của anh ta được xuất bản cấp kỳ. Trong lá thư này, A.S. đã trình bày hoàn cảnh bi đát của anh ta với đầy đủ chi tiết làm cho mọi người phải xúc động thương cảm. Nhưng đồng thời, cũng trong lá thư ấy, tác giả lại mạt sát tất cả chúng ta.

Ấn hành tác phẩm của A.S. là một vấn đề phức tạp như thế nào? Không một ai ở đây là không biết rõ cũng như không một ai ở đây phủ nhận tài năng của A.S.! Nhưng luận điệu của anh ta lại hết sức bất công.

Đọc lá thư, tôi có cảm tưởng là mình bị tát tai vì lá thư đó cho rằng chúng ta ở đây đều bất tài, không đại diện nổi cho giới trí thức và nghệ sĩ. Rốt cuộc, chính A.S. đã làm chậm trễ và ngăn cản việc giải quyết vấn đề, vì tham vọng quá lớn. Đọc lá thư của A.S., tôi thấy nó không có một chút dấu vết nào của tình đồng nghiệp, giữa nhà văn.

Cho nên, dù muốn dù không, ngày hôm nay chúng ta cũng phải đề cập đến lá thư này.

SOLJENITSYNE: (đứng lên xin phép được nói vài lời tuyên cáo viết sẵn): Tôi được biết rằng trong cuộc họp để xét cuốn Trại ung thư, các vị thư ký lại được đề nghị xét cả cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, một kịch bản của tôi nhưng tôi đã vứt xó không đọc lại cách đây chừng 19 năm và hủy mọi bản khác đi, trừ cái bản duy nhất mà người ta đã tước đoạt rồi đem phổ biến. Tôi đã giải thích đi giải thích lại mãi rằng: Tác giả của nó không phải là Alexandre Soljenitsyne mà là tên tù mang thẻ đính bài số S. 232, viết trong những năm xa xưa tại một nơi mà người tù chính trị không có qua một chút hy vọng tranh thủ được sự tự do, không có qua một tổ chức nào – kể cả Hội các Nhà văn – đứng lên chống lại – bằng lời lẽ hay hành động – chủ trương đàn áp các dân tộc. Ngày hôm nay, tôi không thể chịu trách nhiệm về kịch bản này cũng như nhiều lần nhà văn ở đây không muốn ai nhắc đến các bài diễn văn và tác phẩm viết hồi 1949. Bi kịch ấy đã phản ảnh tình trạng tuyệt vọng của tù nhân các nhà lao thời bấy giờ. Lương tâm con người ở đó, lúc bấy giờ, bị sự sống chi phối hoàn toàn và chắc là con người ở đó sẽ không cầu nguyện cho những kẻ đã gây ra tội ác đàn áp được bình yên! Vở kịch ấy không có liên quan gì đến các tác phẩm viết trong giai đoạn này. Những người lôi kịch phẩm ấy ra để xét muốn gạt bỏ sự nghiên cứu khách quan và vô tư truyện Trại ung thư. Mặt khác, tôi xin phép nói rằng là đạo đức nghề nghiệp của nhà văn sẽ bị thương tổn khi đem một tác phẩm tước đoạt trong nhà riêng của người ta ra mổ xẻ. Tác phẩm này không phải là tác phẩm kia. Việc mổ xẻ cuốn Nhóm thứ nhất là một vấn đề riêng, không liên quan đến việc thảo luận cuốn Trại ung thư.

KORNESCHOUK: Tôi cũng có một câu hỏi muốn đặt ra với A.S. Bạn nghĩ sao về sự tuyên truyền ồ ạt của đối phương khi lá thư thứ hai được tung ra? Tại sao Soljenitsyne lại không chọn một lập trường xa cách đối phương hơn nữa? Tại sao A.S. lại im lặng trước những luận điệu của họ? Tại sao Radios của đối phương lại phổ biến lá thư ấy trước cả đại hội.

FEDINE: Mời A. S. trả lời.

SOLJENITSYNE đáp rằng anh không phải là học trò để phải trả lời từng câu một; đến lượt, ông cũng sẽ lên diễn đàn như mọi người.

FEDINE: Đề nghị mọi người đặt câu hỏi để cho A.S. trả lời chung một lượt.

BAROUZINE: Dù Soljenitsyne phản đối việc thảo luận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng, chúng ta cũng phải thảo luận đến. Tôi không hiểu vì sao mà A.S. lại nhắc đến vở kịch ấy?

SALINSKY: Tôi yêu cầu A.S. cho biết rõ: thủ bản tác phẩm và giấy tờ bạn bị tước đoạt lúc nào? Từng trường hợp nào? Ai tước đoạt? Sau đó, bạn đã đòi lại chưa? Đòi với ai, có quen không nào?

FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời những câu hỏi trên.

SOLJENITSYNE nhắc lại ý kiến cũ, được một số người trong phòng họp ủng hộ…

FEDINE: Nhưng Thư ký đoàn cũng chỉ có thể thảo luận khi được nghe giải đáp những câu hỏi trên.

Một số người khác trong phòng họp: A.S. cũng có quyền từ chối, không thảo luận với Thư ký đoàn… có muốn như vậy thì nói lên đi.

SOLJENITSYNE: Vậy tôi xin trả lời. Radios ngoại quốc phổ biến lá thư sau – sau, không phải là trước – ngày Đại hội và cũng không phải là phổ biến liền sau ngày Đại hội (rồi rút ra một tờ giấy đọc tiếp).

Ở đây, người ta dùng tiếng “ngoại quốc” với một ý nghĩa phóng đại, cho ý kiến của ngoại quốc như là ý kiến của thượng cấp, rất quan trọng, cần phổ biến cho sâu rộng trong quần chúng. Điều này quá dễ hiểu đối với những người dùng phần lớn thì giờ ở nước ngoài rồi về trút vào văn chương Nga những ý niệm hời hợt bề ngoài, của nước ngoài. Với tôi, điều này thực kỳ cục. Tôi chưa bao giờ ra nước ngoài và hoàn cảnh đâu có cho phép tôi biết đến ngoại quốc. Tôi không hiểu vì sao người ta lại băn khoăn vì những gì của ngoại quốc mà không xúc động vì những gì liên quan đến nước nhà, đến dư luận của quần chúng xung quanh ta.

Tất cả đời sống của tôi là ở đây: trên mảnh đất quê hương. Tôi chỉ lắng nghe những niềm đau của tổ quốc và viết về những niềm đau ấy.

Tại sao tôi phải nhắc đến cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng? Thiết tưởng nội dung lá thư tôi gởi Hội đã nói lên rõ ràng rồi còn gì nữa: tôi phản đối sự tịch thu bất hợp pháp; sự phổ biến tác phẩm mà không có sự ưng thuận của tác giả. Về các thủ bản tác phẩm và tài liệu giấy tờ, tôi đã viết thư kêu gọi Trung ương Đảng từ 1965 đến nay. (Ngừng một chút để lấy ra một tờ giấy khai, A.S. đọc tiếp.)

Mới đây, một luận điệu mới sáng tác có liên quan đến sự tịch thu các tác phẩm của tôi được tung ra, luận điệu ấy như sau:

Người giữ các tác phẩm và tài liệu của A.S., Tevsh có liên lạc với một người tên tuổi được giữ kín. Người này bị Sở Quan thuế (sở quan thuế nào không ai biết) bắt và sở này giữ những gì cũng là một bí mật! Nhưng không tìm được những gì cần tìm của A.S. nơi Tevsh vì A.S. đề phòng quá kỹ.

Tất cả những chi tiết nói trên đều bịa đặt hoàn toàn. Sự thực như sau:

Cách đây hai năm, Tevsh – bạn tôi – có bị thẩm vấn nhưng không có một người nào hỏi anh về cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng. Tài liệu của tôi bị mất, nghĩa là bị tịch thu: bị chặn đường ngoài phố, sau khi đã rình rập theo dõi tôi từ nhà, có khi bị chặn ngay trước cửa để xét… nghe trộm điện thoại v.v… Nghĩa là bị tịch thu bằng những phương pháp quen thuộc, chẳng ai lạ gì. Có lạ chăng là khi một lập luận bôi nhọ vừa được tung ra là cả nước này biết rồi. Bằng cớ là lập luận trên đã được ông Potemkine phổ biến cho một cử tọa đông đảo và một vị thư ký của Hội ta thì đem ra cho các nhà văn ở Mạc Tư Khoa biết. Vị thư ký này cũng cho các văn hữu ở thủ đô hay rằng chính tôi đã phải thừa nhận sự thực trên, mặc dù Hội không có chất vấn gắt gao. Do đó, nếu tôi được cho biết là luận điệu nói trên đã được phổ biến rộng rãi thì đấy cũng là chuyện thường.

Tiếng một người nào đó trong phòng họp: Tòa soạn Novy Mir nhận đăng hay loại bỏ cuốn Trại ung thư?

ABDOMOMOVNOV: Tòa soạn Novy Mir phải xin phép cơ quan nào mới được đăng cuốn truyện ấy? Ai có cái quyền này?

TVARDOVSKY (Chủ nhiệm Novy Mir, một nhân vật xuất sắc của văn giới Nga, hai giải thưởng Staline và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng): Thông thường, chính tòa soạn tự quyết định lấy việc in hay không in một tác phẩm. Nhưng với A.S., một trường hợp đặc biệt, quyền quyết định thuộc Thư ký đoàn của Hội.

VORONKOV: A.S. chưa bao giờ viết thư thẳng cho Thư ký đoàn. Sau khi nhận được lá thư của A.S. gởi đến, anh em trong Thư ký đoàn đã định gặp Soljenitsyne để thảo luận và cuối cùng sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của ông ta… Nhưng lá thư của A.S. được báo chí bẩn thỉu của Tây phương đăng tải mà Soljenitsyne lại nín thinh không hề có một phản ứng nào…

TVARDOVSKY (ngắt lời diễn giả): … Cũng như vậy, Hội các Nhà văn đã có phản ứng nào đâu!

VORONKOV (nói tiếp khi Tvardovsky nói hết câu): … Thì ý muốn thỏa mãn các đòi hỏi ấy biến mất, khi nhận được lá thư thứ hai của A.S. anh em trong Thư ký đoàn chúng tôi thấy rõ đấy là một tối hậu thư, một sự nhục mạ, không xứng đáng với Hội. A.S. ám chỉ đến một vị thư ký Hội đã phổ biến cái mà anh ta gọi là “luận điệu bôi nhọ” ông ta với các nhà văn ở Mạc Tư Khoa. Vị thư ký ấy là tôi. Anh Soljenitsyne, người ta đã mách cho anh biết nhanh đấy, nhưng lại mách sai. Về việc tịch thu, tôi chỉ nói trong buổi họp ấy rằng những thủ bản tác phẩm bắt được đúng là của anh, dù nhà anh chưa bị xét lần nào. Nghĩa là tôi đã nói những điều chẳng khác gì những điều anh đã nói. Sau lá thư, tự nhiên chúng tôi phải tìm kiếm và đòi phải có mọi tác phẩm của anh. Thế thôi! Tôi tưởng chỉ có vậy mà anh đã dùng cái ngôn ngữ đã dùng để nói với các bạn văn học (chỉ chữ Pháp: camarade de plume) cùng là văn sĩ như anh thì đâu có phải!

Còn Alexandre Troplimovitch (tức TVARDOVSKY) nữa! Nếu anh thấy nên đăng cuốn (Trại ung thư) và tác giả đã bằng lòng cho anh sửa chữa thì anh cứ đăng đi! Thư ký đoàn có can dự gì vào việc ấy đâu.

TVARDOVSKY: Anh quên vụ Beck rồi sao? Lúc bấy giờ Thư ký đoàn đã khuyến cáo và can thiệp mạnh mẽ khiến cho truyện của Beck đâu có được đăng mặc dù Novy Mir đã loan báo nhiều lần.

(Chú thích: Tòa soạn Novy dưới quyền của TVARDOVSKY đã có một quan điểm rộng rãi. Truyện “Công việc mới” của Beck đã được tòa soạn chấp nhận nhưng Thư ký đoàn Hội các Nhà văn chống lại.)

VORONKOV: Nơi đây, chỉ có vấn đề của người công dân Alexandre Soljenitsyne là đáng chú ý. Tại sao A.S. không phản ứng trước luận điệu tuyên truyền hèn nhát của tư bản? Tại sao A.S. chống đối và cư xử với chúng ta như thù nghịch?

MOUSREPOV: Tôi cũng muốn hỏi A.S. một câu: Tại sao A.S. lại dám cả gan viết: “Có những đồng chí ở cấp cao nhất đã đau khổ và tiếc đứt một khi tôi không chết trong nhà tù”. Sao anh táo gan thế?

STARIPOV: Thư của A.S. được đưa ra ngoài bằng ngã nào?

FEDINE: Yêu cầu A.S. trả lời.

SOLJENITSYNE: Phải! Tôi được người ta chú ý rất nhiều và nói đến rất nhiều. Có một vị hiện đang giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng ở Trung ương đã công khai tuyên bố rằng ông rất tiếc không được dự vào bộ ba đã xử tội năm xưa; nếu được đóng vai một ông tòa, ông đã xử bắn tôi rồi… Tôi không tiện nêu tên tuổi vị này ra đây nhưng chắc chắn là tôi không dám đặt ra chuyện…

Tôi muốn nói đến việc Hội nghị này đã giải thích lá thư của tôi như là một tối hậu thư: “Hoặc ta phải xuất bản trước, hoặc Tây phương xuất bản trước”.

Nếu muốn hiểu như vậy thì xin các bạn hiểu cho rằng không phải là tôi hạ tối hậu thư cho các bạn, tôi đâu dám; chính đời sống đã hạ tối hậu thư cho tất cả chúng ta, nghĩa là cho các bạn và cả cho tôi nữa! Bởi lo lắng vì việc này cho nên tôi đã trình rằng sự phổ biến của hàng trăm cuốn sách đánh máy làm tôi lo ngại (con số này chỉ đúng tương đối mà thôi, tôi không đếm kỹ được).

TIẾNG NHIỀU NGƯỜI: Tại sao có chuyện lạ như vậy nhỉ?

ALEXANDRE: Sách của tôi có tính chất đặc biệt. Mỗi khi có người quen đến nằn nì mượn sách và mượn được là họ đem về đánh máy để đọc và giữ lại một bản, các bản còn lại họ đem cho người khác mượn, vậy là cuốn sách đánh máy tăng lên cách đây một năm. Phân bộ Mạc Tư Khoa đã được phần đầu của truyện. Tôi rất ngạc nhiên vì đồng chí Voronkov đã nói là kiếm không đâu ra, phải nhờ Sở An ninh KGB kiếm hộ cho.

Cách đây ba năm, cuốn Mấy truyện nho nhỏ của tôi – thơ viết thành văn xuôi – cũng đã được phổ biến như sấm sét: Vừa cho một người mượn đọc một cuốn, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy cuốn đó có mặt ở khắp nơi trong nước.

Sau đó, chính Novy Mir đã nhận được một lá thư từ Tây phương gởi tới cho hay là cuốn Truyện nho nhỏ của tôi đã xuất bản ở bển rồi.

Chính vì muốn ngăn cho truyện Trại ung thư khỏi bay sang Tây phương xuất bản trước, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Thư ký đoàn giải quyết vấn đề. Tôi rất ngạc nhiên khi Thư ký đoàn đã bỏ lơ, không phản ứng gì hết khi nhận được thư của tôi, trước khi Tây phương đăng tải.

Đồng chí VORONKOV đã nói đến danh từ bạn văn học đẹp đẽ? Vậy mà tất cả các bạn văn học đã điềm nhiên tọa thị khi thấy tôi bị theo dõi, làm khó dễ, bôi nhọ và đàn áp trong gần ba năm vừa qua.

TVARDOVSKY: Không phải là tất cả đều ngồi yên…

SOLJENITSYNE: Các biên tập viên báo chí – và đồng chí của tôi – đã không chịu đăng lời biện minh của tôi. (A.S. dừng lại, lấy một tờ giấy ra đọc.)

Tôi không nói đến chuyện sách của tôi bị cấm trong nhà tù. Ở đó, những loại sách như vậy làm sao lọt vô qua mấy lần khám xét; hơn nữa, sách của tôi lại thuộc về loại bị cấm triệt để.

Nhưng tại sao sách của tôi vẫn bị cấm cả trong thời gian mà các tạp chí đều khen ngợi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch và loan báo rằng “các biện pháp cấm đoán như vậy không thể diễn lại được nữa”! Mới đây, cuốn này lại bị rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách lặng lẽ. Tôi có nhận được một số thư ở nhiều nơi cho hay rằng sách của tôi không được đem ra cho mượn nữa. Nhân viên cho mượn sách đã được chỉ thị trả lời cho những người mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch rằng sách ấy đang được đem đóng lại hoặc đang được xếp lại theo một hệ thống thư mục khác, lấy ra không được v.v… Tóm lại, cấm không cho độc giả mượn cuốn ấy nữa.

Tại thư viện quận, người ta đã bí mật rỉ tai cho tôi – khách quen lâu năm của thư viện – hay rằng sách của ông đã bị rút đi rồi, theo lệnh trên. Một cô thư ký của thư viện muốn tặng cho tôi một cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch để làm kỷ niệm nhưng một bạn đồng nghiệp đã chặn lại kịp thời: “Chết! Cuốn này đã bị cấm rồi, chị không biết sao? Tất cả mọi cuốn sách này đều được đưa vào khu đặc biệt, để riêng! Biếu cuốn này nguy lắm đấy!”. Tôi tưởng cũng nên nhắc lại một chút là cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch đã được tạp chí Roman Gazeta đăng tải!

Cố nhiên là không phải tất cả mọi thư viện đều rút hết sách của tôi; vẫn có thể tìm thấy cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch tại một số thư viện. Nhưng ngay tại tỉnh Rjazan, bà con láng giềng của tôi đã cho hay là lần nào đến mượn cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch họ cũng bị nhân viên thư viện chối quanh và cuối cùng không ai mượn được hết!

Từ bao giờ đến nay, luận điệu dùng để bôi nhọ thiên hạ bao giờ cũng dồi dào; luôn luôn có sẵn luận điệu bôi nhọ thiên hạ mới mẻ! Nhưng khi phải đóng vai trò nạn nhân của một chiến dịch mới mẻ, đặc biệt mới mẻ ở điểm các luận điệu và kế hoạch ấy phát triển từ các giới cao cấp, không ai khỏi bàng hoàng sửng sốt! Như luận điệu bôi nhọ tôi đã có một tiếng vang mạnh mẽ vì nó được truyền đi thẳng băng không gặp một cản lực nào. Đến nỗi người ta đã quả quyết xác định rằng Soljenitsyne đã bị bắt làm tù binh hồi thế chiến và cộng tác với bọn Quốc xã. Chưa hết! Ở Bolchevs, trong mùa hè năm ngoái, cán bộ tuyên truyền đã giảng trong các lớp chính trị rằng Soljenitsyne bây giờ mang quốc tịch mới sau khi trốn sang Ai Cập. Tất nhiên luận điệu này sẽ được các đảng viên dự lớp huấn luyện đưa về phổ biến rộng ra nữa…

Ngay vùng sát nách tại thủ đô, luận điệu này đã được phổ biến xuống đến hạ tầng thôn xóm, khu phố. Trong khi đó, ở Solikamsk, ông thiếu tá Chestakov lại nói rằng tôi đã lợi dụng một chuyến du lịch để trốn sang Anh. “A.S. trốn sang Anh” khi một vị Phó Ủy viên của Ban Chính trị đã khẳng định như vậy, còn ai dám nghi ngờ gì nữa? Chestakov còn nói thêm: “Soljenitsyne đã bị cấm viết một cách chính thức!”. Lời tuyên bố thứ hai này của ông quan tuy thế mà gần đúng sự thực!

Các giới chức cao cấp bấy lâu nay vẫn quả quyết rằng: “Soljenitsyne đã được hưởng biện pháp khoan hồng, tha trước thời hạn, tha không có lý do”.

Có lý do hay không? Văn khố Tòa án Tối cao còn đó. Chỉ việc xem các văn kiện án từ đó: “Ban phụ trách văn án của những công dân được phục vụ nơi kho hồ sơ Công an Quân pháp là biết ngay tôi được thả có lý do hay không có lý do! Vả lại tất cả các tài liệu này đã đệ trình Thư ký đoàn rồi.

TUARDOOSKYS: Tài liệu này còn xác nhận cả lý lịch của sĩ quan pháo binh Soljenitsyne nữa!

ALEXANDRE SOLJENITSYNE: Biểu thức chính trị và tư pháp “trước thời hạn” ở đây nghe thực mỉa mai! Bị xử tám năm tù, ở hết tám năm cộng thêm một tháng nửa tại “Trung tâm Chọn lọc tù”… Đây là một chi tiết vụn vặt không nên nhắc đến nếu như tôi không bị coi là người được tha trước thời hạn! Tôi xin nhắc lại rằng sau thời gian một tháng kia, người ta không thèm xét xử gì hết, chụp luôn cho tôi một bản án “An trí và quản thúc vô thời hạn”. Mang bảng án “An trí vô thời hạn” này, tôi đã phải sống kiếp lưu đày ba năm trời và được tha nhờ Đại hội XX và do đó, được gọi là tha trước thời hạn.

Biểu thức “tha trước thời hạn” này đã diễn tả tuyệt đúng quan niệm chắc nịch của thời 1949-1953. Đã bị tù mà không chết trong bốn bức tường cao nhà ngục, không ra khỏi tù bằng cách bò bằng đầu gối là được trả tự do “trước thời hạn”! Bị xử an trí vĩnh viễn thì những gì xảy ra trước khi chết, với tù nhân đều là “trước thời hạn” cả!

Ngài cựu Tổng trưởng Semichastry vốn sính văn chương, cũng đã hạ mình xét đến trường hợp của tôi. Sau đây là một lời phán của ông ta, một lời phán xét nghiêm trang ít chất khôi hài:

“Alexandre Soljenitsyne có tội ủng hộ bọn tư bản về mặt vật chất tiền bạc vì anh ta đã không lãnh tác quyền những cuốn sách xuất bản ở đâu đó ngoài thế giới Tây phương”!

Theo tôi hiểu, chỉ có cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch mà thôi, không có cuốn nào khác. Nếu các bạn có biết, tiếc gì các bạn lại không chỉ giùm cho tôi? Sống một mình ở Rjazan, tôi chẳng được biết gì hết ở bên ngoài!

Đối với vụ này, cơ quan nào hay Ủy ban Ngoại vụ Hội các Nhà văn phải chịu trách nhiệm mang tác quyền về! Còn tôi chưa bao giờ tôi được nghe nói “Bổn phận của mày là phải lấy tiền ấy về!”. Đây quả là một thứ chuyện hoạt kê, tiếu lâm!

Semichastry không còn giữ chức Tổng trưởng nữa nhưng ý kiến của ông vẫn được nhiều người tán thành tin tưởng. Như các nhân viên tuyên truyền của Hội Truyền bá Kiến thức Khoa học Liên Xô chẳng hạn, vẫn bảo vệ ý kiến nói trên. Một tỷ dụ:

Ngày 16-7-1967, tại Câu lạc bộ Sverdlovsk của Hội nói trên, ông A.A. Freifeld đem lập luận “A.S. ủng hộ vật chất cho tư bản” ra thuyết. Hai ngàn thính giả đều há hốc miệng ra nghe Freifeld và nghĩ bụng: “Quái thiệt! Thằng cha Soljenitsyne này quái quỷ thực! Một đồng Kopeach dính túi cũng không có, cả đời chưa ra khỏi nước Nga mà nó vẫn ủng hộ được tiền bạc cho phe tư bản thì quái thiệt”.

Những luận điệu như vậy đó – diễn “hết chỗ nói” – vẫn được đưa ra kể đi kể lại mãi; những người kể đã không bị chỉ trích sửa sai mà còn được khen thưởng nữa.

Nói gì đâu xa xôi, ngay tại trụ sở này của Hội, đã có một cuộc họp trang nghiêm diễn ra trong ngày 12 tháng 6 vừa qua. Vậy mà ngay tại Mạc Tư Khoa, đã có một luận điệu được tung ra, mô tả diễn biến cuộc họp sai với sự thực hoàn toàn. Cứ theo luận điệu ấy thì Tuardousky đã chỉ trích Soljenitsyne một cách kịch liệt, vừa nói vừa đấm tay xuống mặt bàn thình thình! Tất cả các bạn đi dự họp đều biết rõ đấy: Có gì đâu?

Ngay cuộc họp này, ai dám bảo rằng ngày mai nó sẽ không bị xuyên tạc? Chúng ta đã nghe phát biểu nhưng ai dám đảm bảo rằng ngay sự phát biểu này sẽ được ghi lại đúng đắn?

Vậy thì, cùng là bạn văn, cùng theo nghiệp bút nghiên, cho phép tôi trích đề nghị thứ nhất: “Hãy tả cuộc họp này thực trung thực, không thêm bớt xuyên tạc”.

Tôi chỉ có một mình cô độc, những kẻ bôi nhọ tôi có đến hàng vạn người. Dĩ nhiên tôi không thể tự vệ và cũng không biết trước được những luận điệu bôi nhọ tôi sau này có những gì nữa! Giá mai đây có người nói rằng tôi là phần tử bảo hoàng cũng không có gì là lạ.

SALYNSKY: Tôi muốn nói đến cuốn Trại ung thư. Tôi cho rằng phải xuất bản cho bằng được cuốn này vì nó là một tác phẩm có giá trị đích thực.

Đành rằng tác giả đã mô tả bệnh tật bằng ngôn ngữ y khoa xác thực, nhưng nó vẫn hỏng ở điểm làm cho độc giả bị sự sợ hãi ung thư – vốn là một căn bệnh của thời đại này – đè nặng. Dù sự sợ hãi này xét ra vô ý thức, khía cạnh này phải được cắt đi và thay thế một cách nào đó, cũng như khía cạnh ảm đạm của tác phẩm, khía cạnh ảm đạm thuyết “phơi-ơ-tông” (viết để đăng báo, khúc nọ tiếp theo khúc kia, hằng ngày) cũng phải được sửa lại!

Một điều đáng trách nữa là sự thăng trầm của các nhân vật bằng cách này hay cách khác đều bị buộc chặt với trại tập trung và đời sống bên trong các trại này!

Cuộc đời chìm nổi của Rostoglotov Roujanov coi là được đi! Nhưng tại sao cuộc đời Vadim, Chaloubine và nhất là cuộc đời của người binh sĩ cũng chìm nổi nốt? Tại sao? Cuối cùng,ta mới biết người lính đây không phải là một chiến binh thường mà là lính cảnh vệ gác trại.

Nói chung, nếu tôi hiểu không sai thì chú ý của cuốn truyện là môt tả thời cáo chung của một quá khứ buồn tẻ! Vậy thôi! Còn chủ nghĩa xã hội và luân lý của chủ nghĩa riêng tôi không thấy có gì bậy bạ hết. Soljenitsyne chỉ đáng ghê tởm khi anh cổ võ cho một chủ nghĩa xã hội vô luân. Cuốn truyện chỉ đáng lên án khi nó ca tụng chủ nghĩa Quốc xã hay chủ nghĩa xã hội quốc gia kiểu Tàu Mao Trạch Đông. Tôi nghĩ rằng mọi người đều có quyền suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội và sự diễn biến của nó theo ý riêng mình. Cá nhân tôi, tôi cho rằng chủ nghĩa xã hội bị tác dụng của các quy luật kinh tế chi phối. Nhưng điều này có thể thảo luận được. (Rồi diễn giả yêu cầu Thư ký đoàn chống lại một cách quyết liệt những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne).

SIMONOV: Tôi không thừa nhận cuốn Nhóm thứ nhất và chống lại việc xuất bản cuốn này. Ngược lại, tôi tán thành việc xuất bản cuốn Trại ung thư. Không phải tôi thích tất cả mọi chi tiết trong cuốn này. Nhưng một cuốn sách đâu có cần phải thỏa mãn một người? Tác giả cũng cần phải chấp nhận một vài nhận xét về cuốn ấy nhưng cũng không bị bắt buộc phải nhận hết tất cả. Chúng ta cũng có trách nhiệm phải lên án những luận điệu bôi nhọ Soljenitsyne. Phải xuất bản một hợp tuyển truyện ngắn của Soljenitsyne với một lời tựa có hiệu lực đính chính những sai lầm về tiểu sử tác giả. Với tựa này sẽ thanh toán những sự bôi nhọ Soljenitsyne. Chính chúng ta phải thanh toán những luận điệu ấy, không phải anh ta. Tôi chưa đọc và cũng không muốn đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng vì tác giả không muốn như vậy!

TVARDOVSKY: Hoàn cảnh của Soljenitsyne không cho phép anh ta lên tiếng. Chính chúng ta - Hội các Nhà văn, chúng ta phải đưa ra một thông cáo lên án những lập luận bôi nhọ anh ấy. Ngược lại, ta cũng phải nghiêm khắc cảnh cáo Soljenitsyne về cách thức không thể chấp nhận được mà anh ta đã dùng để nói với Đại hội qua việc lá thư gởi Đại hội cũng được gởi cho một số đông người. Tòa soạn Novy Mir không thấy có gì cản trở trong việc đăng tải truyện Trại ung thư với điều kiện phải sửa chữa một vài đoạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu Thư ký đoàn tán thành hay ít nhất không phản đối việc này (rồi Tvardovsky quay sang yêu cầu Vorondov đưa bản văn dự thảo thông cáo của Thư ký đoàn soạn hồi tháng Sáu ra để Đại hội thông qua).

VORONDOV ngập ngừng: Một số người chúng tôi chưa định gì hết. Còn có người chống nữa mà!

FEDINE: Không! Chuyện như vậy đâu có được! Thư ký đoàn không thể cho ra gì hết, không cải chính gì hết. Có phải chúng ta cảm thấy, có phải chúng ta có mặc cảm phạm lỗi hay không? (nói với Tvardovsky) Có lẽ anh Alexandre Trophmovitch, anh cảm thấy có lỗi, nên mới thấy phải lên tiếng chăng?

TVARDOVSKY (giọng quả quyết và nói rất nhanh): Tôi ấy à? Không!

FEDINE: Không cần phải tìm những lý do nhân tạo để vẽ ra một bản tuyên cáo, tiếng đồn không đâu có đủ! Nhưng trong trường hợp này, nếu chính Soljenitsyne muốn nhân cơ hội mà giải quyết vấn đề thì lại khác. Bây giờ là lúc Soljenitsyne có thể phát biểu ý kiến một cách đàng hoàng, công khai (hướng về phía Soljenitsyne).

Theo ý anh, Alexandre Jsaevitch, một bản tuyên cáo của Thư ký đoàn phản đối lại những luận điệu bôi nhọ kia có lợi gì không? Trước hết anh phải lên tiếng phản đối các địch thủ Tây phương đã sử dụng tên tuổi của anh một cách khốn nạn. Dĩ nhiên cơ hội này, anh cũng có thể nói lên một vài điểm bất mãn mà anh, ngày hôm nay đã đưa ra cho Thư ký đoàn. Nếu văn kiện này có một lập luận và một ngôn ngữ khéo léo, chúng tôi sẽ cho đăng tải và sẽ giúp đỡ anh.

Muốn biện minh, anh phải đi theo đường này. Không có việc in tác phẩm của anh và cũng không có vấn đề mặc cả của anh! Chúng tôi được quyền đọc tác phẩm của anh được bao lâu? Ba tháng hay bốn tháng? Việc này ghê gớm lắm sao? Việc đáng ghê gớm là tên tuổi anh đã xuất hiện và bị sử dụng trong những công việc hạ cấp ở Tây phương.

KORNESCHOUK: Chúng tôi mời anh đến đâu có phải để sỉ vả mà để giúp đỡ anh thoát khỏi khó khăn, phức tạp này. Chúng tôi đã đặt các câu hỏi nhưng anh lại tránh né, thấy rằng tình hình diễn biến này là một trận đại chiến lớn vô cùng, bao trùm cả vũ trụ trong những điều kiện hết sức phức tạp hay sao? Chúng ta đâu có thể đứng ngoài được bằng các tác phẩm. Chúng ta phải bảo vệ Chính phủ, Đảng và nhân dân ta. Anh đã mỉa mai những người xuất ngoại bằng cách gán cho họ đi du hí! Ngược lại những người bị mỉa mai là chúng tôi – lại ra ngoại quốc để chiến đấu và khi trở về mệt đừ nhưng có cảm tưởng là đã làm tròn nhiệm vụ! Anh đừng tưởng rằng đã làm nhục được tôi bằng cách nhắc đến vấn đề viết lách. Tôi không viết được vì tôi đâu có phải đi để viết mà để phục vụ cho Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới.

Chúng tôi biết là anh đã phải chịu đựng nhiều đau đớn! Nhưng không phải chỉ có một mình anh chịu. Có nhiều người, nhiều người khác không phải là anh, đã bị đi tù, kể cả những đảng viên cộng sản thâm niên. Từ nhà họ, họ đã đi thẳng ra mặt trận. Trong quá khứ, không phải chỉ có sự bất đồng mà thôi, còn có chủ nghĩa anh hùng nữa.

Nhưng anh đã không nhận thấy sự nổi loạn của anh phát xuất từ chỗ bị truy tố tư pháp. Cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng xấu xa bẩn thỉu bất chính mà lại được phổ biến để dân chúng đọc. Anh đã bị đem đi lưu đày trong trại tập trung chứ gì? Nhưng không phải bị năm 37, lúc chúng tôi đã đến đó. Nhưng lịch sử không có dừng lại!

Constantin Alexandrovitch (Fedine) đã nói phải lên tiếng tấn công sự tuyên truyền của Tây phương một cách công khai. Chiến đấu chống lại kẻ thù của xứ sở đi. Anh hẳn phải biết rằng trên thế giới có bom khinh khí? Và phải biết mặc dù các cố gắng bảo vệ hòa bình của chúng ta, Hoa Kỳ vẫn có thể đem ra chứ?

SOLJENITSYNE: Tôi xin tuyên bố thêm một lần nữa, rằng đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra bàn là không lương thiện và xin nhấn mạnh đến việc phải đem vấn đề thảo luận về cuốn này ra khỏi cuộc tranh luận.

SOURKOV: Anh lấy quyền gì mà bịt miệng những người khác?

KOJEUNIKOV: Thời gian đủ để nghiên cứu kể từ ngày có lá thư của Soljenitsyne cho đến ngày hôm nay hội nghị họp, chứng tỏ rằng Thư ký đoàn đã cẩn trọng đến mức nào. Nếu đem lá thư ấy ra thảo luận lúc bấy giờ, còn sốt dẻo chúng tôi có lẽ còn cứng rắn hơn, còn quyết liệt hơn nữa với anh.

Nhưng chúng tôi đã quyết định phải tìm hiểu kỹ những tác phẩm bị coi là chống đối. Tôi viết và phải đọc kỹ, đọc lâu.

Bản tướng mạo quân vụ của Soljenitsyne hình như có đủ tài liệu biện minh cho anh ta. Nhưng ở đây chúng ta bàn về nhà văn, không bàn về Soljenitsyne sĩ quan. Hôm nay, lần đầu nghe Soljenitsyne phủ nhận công khai cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng nhưng tôi cũng vẫn không khỏi rùng mình khi đọc tác phẩm có tham vọng phản ảnh thực tế Xôviết ấy. Tôi không dám tin vào sự phủ nhận bi kịch ấy của Soljenitsyne, có lẽ vì tôi đã thấy được nơi cuốn ấy chính tinh thần báo thù đối với tất cả những gì đã cảm thấy, trong cuốn Nhóm thứ nhất và trong cuốn Trại ung thư.

Khi nói đến số phận của các tác phẩm, tác giả phải nhớ đến các bổn phận đối với tổ chức đã khám phá ra nhà văn.

Lúc ấy, tôi là một trong những người đầu tiên đã phát biểu những sự nghi ngờ về những gì đã được kể trong cuốn Ngôi nhà của Matriona. Chúng tôi đã mất thời giờ, chúng tôi đã đọc các tác phẩm lệch lạc mà anh không dám đưa cho một tòa soạn tạp chí nào đăng hết. Cuốn Trại ung thư làm cho ta thấy buồn nôn vì bút pháp tự nhiên chữ nghĩa hung hãn, khuynh hướng muốn lồng vào những mối sợ hãi có thể có và có thể tưởng tượng ra mặc dù nền tảng căn bản của nó không phải là y học mà là xã hội, mặc dù nền tảng này không được chấp nhận cũng vậy.

Trong lá thư thứ hai, anh muốn dẹp đi, về việc ấn hành một tác phẩm mà anh không đọc lại nữa. Cách làm “xăng ta” này có xứng đáng với một nhà văn không?

Ở đây, tất cả mọi nhà văn đều vui lòng nghe lời khuyên của các bộ biên tập và không bao giờ ép buộc họ.

SOLJENITSYNE: Bất chấp sự giải thích và phản đối của tôi, bất chấp tính chất phi lý cùng cực của việc thảo luận về một tác phẩm viết cách đây hai mươi năm trong những điều kiện khác và của một con người cũng khác hẳn với con người Soljenitsyne viết văn, mặc dù tác phẩm mà tôi bị cưỡng đoạt ấy chưa được in, chưa có một người đọc.

Một số diễn giả vẫn tập trung mũi dùi vào vào độc có một tác phẩm ấy mà thôi. Đây là một việc còn vô nghĩa hơn chuyện Maxim Gorki bị hạ trong một Đại hội các Nhà văn dưới đây, vô nghĩa hơn cả vụ Serge Chensky và việc ấn hành lại các thư từ trao đổi của ông cách đây mới mười lăm năm và Kornejchouk đã nói rằng “một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra và cũng không bao giờ xảy ra” và “ta chưa bao giờ được thấy chuyện như vậy trong văn học sử Nga” đúng quá nhỉ?

OZEROV: Lá thư gởi Đại hội ấy của Soljenitsyne đã tạo nên một hành vi chính trị có hậu quả xấu nhất. Nó có thể đi đến chỗ có lợi, cho kẻ thù. Lá thư ấy có những khẳng định của tác giả sai với sự thực giữa những nhà văn bị đàn áp một cách oan uổng người ta nói cả đến Zamzatine nữa.

Về vấn đề ấn hành cuốn Trại ung thư, ta có thể đi đến một sự đồng ý với tòa soạn Novy Mir; có thể sửa chữa và thảo luận với tác giả về những chỗ sửa chữa này. Cuốn truyện có những phần giá trị khác nhau quá xá; có nhiều đoạn rất thành công, có nhiều đoạn dở.

Nhưng tôi không chịu cái bút pháp viết truyền đơn, cái lối phỏng bút của Soljenitsyne. Tôi yêu cầu phải cắt bớt nhiều đoạn mà tôi không thể đi sâu vào chi tiết vì thiếu thì giờ. Triết lý chủ nghĩa xã hội nhân bản vốn là yếu tố chủ thể của nội dung tác phẩm hình như do tác giả đưa ra không chấp nhận được.

SOURKOV: Tôi cũng vậy, tôi đã đọc cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mà lập trường, rốt cuộc lại, có thể tóm tắt như sau. Tất cả đều khốn nạn!”. Trong cuốn Trại ung thư người ta cũng thấy lại một giọng ấy. Trong thành phần nhân vật của nó có ai ở trong thế giới của các anh hùng không? Chỉ có anh Shulubine kỳ cục được A.S. tả giống như người cộng sản, cũng như tôi giống… (diễn giả thiếu một chữ) Shulubine, với các ý tưởng lạc hậu. Tôi không cần che giấu, tôi là một người trí thức, tôi hiểu các học thuyết triết lý, chính trị và xã hội, tôi đã ngửi thấy trong đó có Mikhailovsky và Vladimir Soloviev và đồng thời có cả ý kiến thơ ngây rằng “kinh tế có thể lệ thuộc vào đạo đức”.

Sau bao nhiêu thử thách, anh có quyền cảm thấy bị đè ép, lăng mạ, nhân danh con người, anh Alexandre Soljenitsyne! Nhưng anh lại là nhà văn. Tôi có biết những người cộng sản già đã bị đưa đi “căng” nhưng không phải vì thế mà thế giới quan của họ thay đổi.

Không, sách của anh không có chất sinh lý học mà là chính trị. Sách của anh đã đề cập đến những vấn đề căn bản! Và thần tượng được nêu ra trong vị trí cao nhất cũng không phải là đài kỷ niệm cho Marx.

Trại ung thư, nếu in ra sẽ có hại cho chúng ta; hại hơn Ký ức của Sveslara nữa! Đành là ta phải ngăn cấm Tây phương xuất bản nhưng hết sức khó. Tôi đã là láng giềng của Anna Andreievna Akhmatova trong những năm cuối cùng của bà và biết rằng sau khi bà cho một vài người đọc tập Requiem chừng vài tuần lễ là đã thấy Tây phương xuất bản cuốn ấy rồi. Dĩ nhiên, độc giả của chúng ta đã đủ tiến bộ và giàu kinh nghiệm; họ đâu có để cho mấy cuốn sách nho nhỏ ấy kéo đi xa chủ nghĩa cộng sản! Tuy nhiên, tác phẩm của Soljenitsyne còn tai hại hơn sách của Pasternak nhiều. Pasternak là một người chán đời, trong khi Soljenitsyne là người hoạt bát chiến đấu, tư tưởng đã dứt khoát A.S. là một người có đầu óc.

Chúng ta, những người của cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không bao giờ chúng ta xa rời các khẩu hiệu, xa rời các ngọn cờ cách mạng.

“Chủ nghĩa xã hội đạo đức” là một thứ chủ nghĩa xã hội khá tư sản (quay sang Salynsky), tôi không hiểu tại sao người ta có thể hiểu nó và còn thấy nó có một vài giá trị và muốn bảo vệ!

SALYNSKY: Tôi có bảo vệ gì đâu.

RIOURRIKOV: Soljenitsyne đã chịu thiệt hại vì những kẻ bôi nhọ anh ta và cũng bị luôn vì những kẻ đã ca tụng anh ta quá mức, gán cho anh ta những đức tính anh không hề có. Nếu phải phủ nhận, Soljenitsyne cũng cần phải phủ nhận một cái gọi là người nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực Nga sao anh ta tự gán cho mình. Tác phong của thống chế Rokossovsky, của Đại tướng Gordetov lương thiện hơn tác phong của các nhân vật trong truyện của Soljenitsyne nhiều. Nguồn gốc năng lực của nhà văn này phát xuất từ những cảm nghĩ chua chát, những cảm tưởng bị nhục mạ, đàn áp. Tôi có thể hiểu được Soljenitsyne trên một vài khía cạnh nhân bản.

Soljenitsyne, anh viết là người ta đã cấm các tác phẩm của anh hả? Đâu, kiểm duyệt có đụng đến một cuốn nào đâu? Tôi lấy làm lạ về chuyện Tvardovsky xin phép Thư ký đoàn để đăng truyện của anh. Tôi bất kỳ là chuyện như thế nào tôi cũng không bao giờ xin phép Hội của Nhà văn để đăng tải.

Rồi Riourrikov yêu cầu Soljenitsyne hãy nghe theo khuyến cáo của tòa soạn Novy Mir và hứa “nhân danh những người hiện diện” sẽ có những lời chú giải bên cạnh từng trang một cuộc Trại ung thư.

BAROUDJINE: Tôi là một trong những người đã không hoan nghênh tác phẩm của Soljenitsyne ngay từ đầu. Ngay cuốn Ngôi nhà của Matriona đã kém hơn hẳn tác phẩm đầu của anh ta và cuốn Nhóm thứ nhất đã có nhiều yếu điểm: Staline Abakoumov và Proskreby chưa được mô tả như những con người thời đại bán khai. Trại ung thư kế tiếp là một chuyện phản nhân bản. Kết cục của cuốn chuyện là sự khẳng định rằng “có lẽ phải đi tìm một con đường khác”.

Soljenitsyne đã tưởng rằng hai lá thư “được coi như là tài liệu tranh luận sẽ được Đại hội đọc tức khắc hay sao? Đại hội đã nhận bao nhiêu thư cả thảy?

VOROWKOV: Gần năm trăm lá!

BAROUDJINE: Anh nghe ra chưa, Soljenitsyne? Làm sao có thể đọc tức khắc được? Tôi không đồng ý với Rjoukov: Việc xin phép xuất bản phải đặt ra nói với Thư ký đoàn là đúng. Thư ký đoàn của chúng ta càng ngày càng phải biến thành cơ quan phụ trách việc sáng tác và không nêu tiếc các khuyến cáo với các hội đồng biên tập.

ABDOMUNOV: Việc Soljenitsyne có can đảm phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng có một ý nghĩa tích cực, bây giờ anh ta cũng phải có can đảm thực hiện cái đề nghị của Alexandrovitch Constantin (Fedine)! Bây giờ mà in cuốn Trại ung thư sẽ có những chuyện rắc rối lớn hơn khi có bức thư đầu của Soljenitsyne nữa! Trong truyện có Rousanov, có những người chết vì chủ nghĩa vĩ đại bây giờ là người các trại tập trung nhưng những người khác nữa ở đâu? Xã hội Xôviết ở đâu? Không thể ép buộc phải nhấn mạnh đến điều này. Nhưng cũng không thể viết một cuốn tiểu thuyết trong đó không có một chút ánh sáng vui vẻ nào thoát ra hết. Và có nhiều đoạn kéo dài, nhiều chỗ lặp lại, nhiều cảnh của bút pháp tự nhiên. Tất cả những thứ đó phải cắt bỏ!

ABASHIDZE: Tôi chỉ mới đọc được chừng có 150 trang của cuốn Trại ung thư và do đó không thể phê phán về nội dung. Tôi không thấy có gì là tôi không thể có ý kiến về nội dung cuộn truyện. Có thể là những chuyện thiết yếu nhắc ở đoạn sau cũng nên.

Tất cả chúng ta, nhà văn lương thiện và có ý thức, chúng ta luôn luôn chống lại những thứ trang sức hoa hoè hoa sói, kể cả trường hợp việc làm ấy rất khó coi. Nhưng Soljenitsyne đang bị nguy vì rớt vào chỗ đối lập “đoảng”: một vài đoạn chỉ là miêu tả thuần túy.

Nghệ sĩ như đứa bé, nó tháo chiếc xe hơi ra để xem có gì ở trong đó. Nhưng nghệ thuật lại nằm trong sự lấp lại, dựng nên chiếc xe hơi. Tôi thấy Soljenitsyne hỏi người ngồi bên cạnh tên của một vài diễn giả, tại sao nhìn không biết mặt một người nào trong những người chúng ta ở đây? Chỉ vì chúng ta đã không mời anh ta… Đề nghị của Constantin Alexandrovitch rất đúng. Chính Soljenitsyne phải tự trả lời lấy những sự bôi nhọ!

BROVKA: Ở Bélorussie, có nhiều người bị đưa đi trại tập trung. Tỷ dụ như Sezge Grakhovsky chẳng hạn đã phải giam đến hai mươi năm. Nhưng họ đều hiểu rằng: dân tộc, Đảng và quyền uy chính trị không chịu trách nhiệm về những sự bất công ấy.

Trong hồi ký của Staline, chỉ có sự ngồi lê đôi mách của đàn bà. Nhân dân hiểu điều này và chỉ cười thôi. Nhưng ở đây chúng ta có một người được thế giới thừa nhận tài năng, đang đặt vấn đề xuất bản sách cho đương sự.

Đúng là Soljenitsyne đã cảm thấy những nỗi đau khổ của tổ quốc, một cách thực tình quá lố, nhưng anh ấy lại không có những cảm tưởng vui sướng hân hoan. Trại ung thư quá ảm đạm, không thể ấn hành được (rồi cũng như diễn giả trước và những diễn giả lên diễn đàn sau ông ta, BROVKA ủng hộ đề nghị của Fedine: Soljenitsyne phải lên tiếng chống lại những luận điệu bôi nhọ của Tây phương lợi dụng lá thư).

JASHEN: (Chỉ trích cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng): Tác giả không phải bị băn khoăn vì sự bất công mà bị đầu độc vì hận thù. Mọi người đều bất bình vì có một nhà văn như vậy trong Hội. Tôi đề nghị khai trừ y ra khỏi Hội. Soljenitsyne không phải là người duy nhất bị hành hạ, còn những người khác nữa, nhưng họ hiểu sai bi kịch của thời đại này, như chàng thanh niên Ikramoe chẳng hạn. Trong Trại ung thư hiển nhiên là ta có một ngòi bút bậc thầy. Nhưng tại sao trong trận Léningrad những kẻ bị lên án còn có – ngoài Hitler “cả những người khác nữa”? Tôi không hiểu “những người khác nữa” là ai? Là Béria? Hay là các nhà lãnh đạo sáng suốt hiện tại của chúng ta? Phải nói rõ ra. (Tuy thế diễn giả lại ủng hộ cái giải pháp can đảm của Tvardovsky sửa lại tác phẩm cùng với Soljenitsyne và sau đó có thể cho một độc giả hạn chế đọc.)

KERBALEV: Tôi đã đọc xong Trại ung thư cùng với tất cả sự ghê tởm? Mọi nhân vật đều là những tù nhân cũ, tất cả đều ảm đạm, không có lấy một chút ấm áp trong suốt cả tác phẩm.

Véra dâng cho người hùng cả ngôi nhà và sự tiếp đón của nàng nhưng chàng, chàng lại từ chối đời sống. Và câu “chín mươi chín người khóc, một người cười” nghĩa là gì? Tôi đồng ý với Korneijchouk. Tại sao tác giả lại nhìn tất cả dưới một màu đen tối.

Tác giả chối bỏ cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng chưa đủ, tôi sẽ công nhận Soljenitsyne là người can đảm ngày nào anh ta chối bỏ luôn Trại ung thư. Lúc ấy, tôi sẽ hoan hỉ đón tiếp anh ta y như một người anh em thân thích.

TCHRIDOV: Tôi không cần nói đến tương lai và sẽ khai trừ Soljenitsyne ra khỏi Hội. Trong vở bi kịch của Soljenitsyne, tất cả những gì là Xôviết đều bị trình bày một cách tiêu cực, kể cả Savourov. Tôi đồng ý là Soljenitsyne phải chối bỏ cuốn Trại ung thư. Quốc gia này đã làm cho đất đai hoang phế trở nên màu mỡ và đi từ thành công này đến thành công khác.

NOVICHENKO: Bức thư gửi Đại hội là một vi phạm mọi luật lệ và nó đã ngáng ngang đò của Hội Nhà văn. Tôi tán thành đề nghị nghiêm khắc của TVARDOVSKY phải cương quyết lên án việc làm ấy của tác giả.

Tôi cũng không đồng ý với những yêu sách của lá thư; ta không có thể cho phép tất cả đều được ấn hành. Ta có thể in cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng không?

Bây giờ bàn về Trại ung thư. Phản ứng của tôi rất phức tạp. Tôi không phải là trẻ con, tôi biết tôi phải chết và có thể chết trong sự đau đớn của những nhân vật Soljenitsyne. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là lương tâm ở đâu? Ta còn có những di sản luân lý nào? Nếu cuốn truyện dừng lại ở đây, tôi thấy rất cần in. Nhưng cái ảnh phóng bút tả người con gái của Rousanov là một sự can thiệp hạ cấp đối với những tục lệ văn hoá của chúng ta. Ý nghĩa chính trị - ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội đạo đức là sự từ chối chủ nghĩa Mác – Lê, câu cuối mượn lời của Pouchkine: “Con người bao giờ cũng là một nhà độc tài, một tên phản bội hoặc một kẻ nô lệ” là sản phẩm của một học thuyết nhục mạ… Dứt khoát không thể chấp nhận được những điều ấy.

Trong cuốn truyện, chỉ có những kẻ bị đọa đày đứng lên chỉ trích phê phán xã hội… cũng là một sự nhục mạ nữa… Cá nhân của Rousanov bị méo mó ngh trình bày như là một người nguyên vẹn đẹp đẽ. Không thể chấp nhận việc bưng Rousanov lên làm phát yếu nhân của xã hội chính thức của chúng ta. Tôi cũng rất bực bội khi tên của Gorki lại bị cái miệng bẩn thỉu của Rousanov nhắc tới. Dù có được sửa chữa thực cẩn thận, cuốn sách này cũng không bao giờ là một tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực xã hội.

Tuy nhiên nó vẫn tạo nên một biến cố về văn học; nó là tác phẩm của cây bút có tài. Tôi cũng đã đọc được cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng và phải nói rằng mối tương quan giữa tôi và tác giả, đã có một cái gì thay đổi. Phải xóa bỏ hết những dấu vết của bi kịch ấy…

MARKOV (Vừa ở Sibérie về tới và đã diễn thuyết 5 lần trước những đám người rất đông): Phải hiểu rằng Soljenitsyne chẳng gây được ảnh hưởng ở đâu hết khắp mọi nơi, chẳng mấy ai nói gì về Soljenitsyne hết. Chỉ có một người đưa cho tôi một tờ giấy và hỏi tôi – tôi xin lỗi phải nói thực rằng: “Đến bao giờ thằng cha Soljenitsyne ấy mới thôi phá hoại văn học Nga”.

Chúng ta chờ đợi nơi Soljenitsyne một phản ứng thực chính xác, đập đúng vào đầu bọn tư sản bôi nhọ chúng ta, bằng một tuyên ngôn gởi cho báo chí. Y phải bảo vệ danh dự nhà văn Xôviết của y. Sự phủ nhận cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng của Soljenitsyne làm cho ngực tôi như nhẹ hẳn đi. Về cuốn Trại ung thư, tôi đồng ý: Tác phẩm dựa trên một nền tảng cá biệt, ý thức tổng quát về xã hội của nó không chấp nhận được. Khi quả quyết rằng “đã có người sống trên nền tảng ấy” tác giả muốn phác ra những đường hướng mịt mù, không ai biết được. Dựa vào sự hợp tác thân thiện giữa tác giả và tòa soạn Novy Mir, tôi nghĩ rằng cả hai bên phải họp lại bổ khuyết thêm cho tác giả; dù mất công đến mấy cũng phải chịu vì không thể để như vậy rồi đem ra in.

Cách thức tiến hành như thế nào? Cụ thể Alexandre Isaevitch (Soljenitsyne) phải chuẩn bị cái tuyên dương được nói đến từ nãy đến giờ đúng vào lúc sắp kỷ niệm năm năm cuộc cách mạng Xôviết; sau đó, ít lâu nữa, thư ký đoàn sẽ có thể đưa ra một thông cáo về việc này.

Mặc dù vậy, tôi vẫn tiếp tục coi Soljenitsyne là bạn. Nhưng Alexandre Isaevitch ạ, anh đang tự đặt mình vào cái thế cô độc ấy, những người khác không phải là những người phạm lỗi. Về cái đề nghị khai trừ Soljenitsyne, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên hấp tấp vì giữa chúng ta tình thân hữu vẫn còn có giá trị…

SOLJENITSYNE: Thêm một lần nữa trong ngày hôm nay, tác phẩm đối lại việc đem cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng ra tranh luận và có lẽ còn phải phản đối nữa… Cuối cùng người ta có thể buộc tội các ngài lẫn kẻ chống lại học thuyết tiến hoá nếu các ngài thực tình nghĩ rằng một con người không thay đổi gì hết cả trong hai mươi năm khi hoàn cảnh đã thay đổi.

Nhưng tôi lại được nghe ở đây những lời buộc tội khác quan trọng hơn nhiều. Kornejchouk Baroudjne và nhiều vị đã nói cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng đã được lưu hành và dân chúng đã đọc nó. Tôi sẽ nói rất thong thả để cho từng chữ một của tôi được ghi lại đúng đắn.

Rằng nếu cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng được in ra hoặc được lưu hành rộng rãi thì tôi xin tuyên bố là trách nhiệm hoàn toàn do cơ quan đã cưỡng đoạt bản viết duy nhất chưa có ai được đọc, của thiên bi kịch ấy – đem ra ấn hành ngay khi tôi còn sống và ngược với ý muốn của tôi. Chính tổ chức ấy đã phổ biến thiên bị kịch ấy.

Hơn một năm rưỡi nay, tôi luôn nhắc nhở quý vị rằng chuyện này rất nguy hiểm. Ở đây, chúng ta không có một phòng đọc những bản viết tay tác phẩm được chuyền từ người nọ sang người kia, quý vị mang nó về nhà, nơi con trai con gái của quý vị ở. Nhưng tất cả các ngăn bàn ngăn tủ đâu có phải là có chứa tất cả? Tôi đã báo trước với quý vị việc này và bây giờ cũng xin báo trước quý vị thêm một lần nữa.

Xin bàn đến cuốn Trại ung thư. Người ta đã chỉ trích tôi về cả cái tiêu đề của tác phẩm vì nó không phải là một đề tài y học mà là một cái gì có ý thức tiêu biểu, tượng trưng.

Tôi xin trả lời: Đấy thực không phải là một biểu trưng vô hại nếu phải trải qua tất cả các giai đoạn của bệnh ung thư và thời kỳ hấp hối để khám phá nó. Chỉ vì một biểu trưng mà thôi, các ngài không thấy cái tính chất của nó quá nhiều, quá dày hay sao? Chỉ vì một biểu trưng các ngài không thấy rằng nó có quá nhiều chi tiết y khoa hay sao? Nhiều nhà chuyên môn nổi tiếng về ung thư – xem cuốn sách do tôi gởi cho họ đọc và hỏi ý kiến - đã cho biết rằng, trên quan điểm y khoa, nó không có gì sai lầm có thể bài xích được cả, ngay trong hiện tại. Đấy là bệnh ung thư, đúng như bệnh trạng mà văn chương tiêu khiển không hề nói đến nhưng các bệnh nhân bị ung thư hằng ngày đã cảm thấy, kể cả các người thân thích và biết đâu có lẽ mai đây sẽ có một trong những quý vị đây sẽ phải vào điều trị nơi một bệnh viện ung thư để hiểu rằng đấy không phải là một biểu trưng.

Tôi thực tình không hiểu tại sao lại có lập luận buộc tội cuốn Trại ung thư phản nhân bản? Đúng ra nó là một cái gì trái ngược với lập luận buộc tội ấy, đấy là sự vượt qua cái chết của sự sống, vượt qua quá khứ của tương lai. Vì bẩm tính trời sinh của tôi, tôi không bao giờ tự ép mình phải viết một truyện như vậy. Nhưng tôi quan niệm rằng văn chương đối với xã hội cũng như đối với từng con người một, có bổn phận nói ra một cách thành thực, chứ không che giấu hay làm nhẹ đi, sự thực như thế nào và người ta chờ đợi nơi nó những gì? Phương ngôn Nga nói về việc này, rất giàu có:

“Đừng yêu những kẻ cam chịu, hãy mến những kẻ dám chống đối.”

“Những đứa ngọt ngào thổ lộ không phải là những người tốt.”

Trên đại cương, sứ mạng nhà văn không hạn chế ở chỗ bảo vệ hay chỉ trích hệ thống phân phối lợi tức xã hội này hoặc hệ thống kia, không hạn chế ở chỗ chỉ bảo vệ hoặc chống đối hình thức tổ chức quốc gia này hoặc hình thức tổ chức kia. Sứ mạng đó là nói về những đề tài phổ biến hơn, vĩnh cửu hơn. Những bí mật của con tim và của lương tâm con người, sự hội ngộ của cái chết và sự sống, sự vượt qua những đau đớn về tinh thần. Sự tìm kiếm những dự luật phát ra từ những tầng sâu của vạn đại không thể thăm dò, giờ này vẫn còn bám lấy lịch sử của nhân loại cho đến ngày tận thế.

Việc quý đồng nghiệp đọc một vài đoạn nhưng không chú ý đến để bây giờ đưa ra những sự giải thích và phê bình méo mó đã làm cho tôi buồn thấm thía. Lẽ ra chuyện này không nên xảy ra mới phải. Thí dụ như “chín mươi chín người khóc, một người cười” là một câu phương ngôn quen thuộc ở đồng quê ta. Trong truyện Kostoglotov nói tạt vào mặt cái con người định tách ra khỏi hàng ngũ để ra oai với mình cho hắn ta biết gã là người như thế nào; chỉ có thế thôi! Ở đây trái lại, người ta đã kết luận rằng như vậy là đến toàn thể Liên bang Xôviết.

Souskov đã làm tôi ngạc nhiên, trước hết, tôi không tài nào hiểu nổi tại sao anh ấy lại đem Marx ra nói gì trong truyện của tôi có gì dính đến Marx đâu? Alexandrovitch ạ, anh là thi sĩ, một con người có năng khiếu nghệ thuật rất tinh tế; nhưng ở đây, cái năng khiếu ấy đã chơi anh một vố đau đấy. Anh không hiểu màn ấy hay sao Chouloubine đem Bacon ra lòe và dẫn đến thuật “thần tượng của hàng chợ” và Kostoglotov ráng tưởng tượng ra một cái chợ ở giữa có một thần tượng nhờn nhợt màu da. Chouloubine thuyết về thần tượng của kịch trường và Kostoglotov tượng trưng ra một thần tượng giữa kịch viên nhưng vì thần tượng không có ở đó, y bèn đặt nó vào công việc kế cận. Làm sao anh có thể nghĩ rằng tôi nói đến Mạc Tư Khoa và đài kỷ niệm Marx chưa được dựng?

Đồng chí Soukov có nói là chỉ cần có vài tuần lễ là cuốn Requiem dù chỉ được có một số rất ít người được đọc – đã sang Tây phương. Thế mà phần đầu cuốn Trại ung thư đã được chuyền tay nhau đọc hơn một năm rồi. Vì thế tôi mới lo và nói phải cấp báo với Thư ký đoàn.

Dẫu chỉ Soukov khuyên tôi đừng tiếp tục đi theo chủ nghĩa hiện thực Nga. Tôi xin hứa sẽ nghe theo lời khuyên ấy.

RIOURIKOV: Tôi không khuyên anh từ bỏ con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa Nga mà khuyên anh hãy từ bỏ cái vai trò của anh đang được trình bày ở Tây phương.

SOLJENITSYNE: Bây giờ xin bàn đến đề nghị của Constantin Alexandrovitch, một đề nghị mà tôi phải hoan nghênh. Việc ấn hành, đấy là điều mà tôi đã tranh đấu suốt trong bao lâu nay. Khỏi phải trốn tránh, khỏi phải bao phủ những bài diễn từ, khỏi phải niêm phong những bản đánh máy tác phẩm. Sau cuộc thảo luận về cuốn Trại ung thư, tại phân bộ các nhà văn (Section de la prose) ở Mạc Tư Khoa đã định giữ bản đánh máy nội dung cuộc thảo luận cho những người tham dự và có liên hệ và làm vậy là phải quá rồi. Vậy mà người ta đã không cho tôi lấy, người ta vẫn giấu tôi – tác giả cuốn ấy. Cuộc tranh luận ngày hôm nay đây sẽ có bản đánh máy ghi chép nội dung cuộc tranh luận và tôi có hy vọng sẽ được nhận một bản thủ, anh Constantin Alexandrovitch?

Constantin Alexandrovitch có hỏi: ấn hành những lời phản đối của anh để làm gì? Câu trả lời của tôi hết sức rõ ràng lắm: Để phục vụ văn hoá xứ sở nhưng quan niệm của Alexandrovitch cho rằng tôi phải tự giải quyết lấy vấn đề hết sức phi lý. Người ta đã trói chân tay tôi, bịt miệng tôi thì tôi làm thế nào được?

Hình như việc làm này, với Hội các Nhà văn đầy uy thế, hết sức dễ:

Tôi bị chặn hết mọi cửa trong khi Hội có toàn thể và tờ báo để sử dụng. Chỉ cần tôi ký tên vào một lời kêu gọi dân chúng bảo vệ miền Baikal là tờ Komsomolskai Pravda dẹp ngay tên tôi rồi.

Dù vậy, tôi vẫn không hiểu tại sao thư tôi không được đọc trước Đại hội. Bây giờ Constantin Alexandrovitch lại đề nghị chống lại các hậu quả chứ không phải chống lại nguyên nhân, nghĩa là chống lại dư luận ở Tây phương chung quanh bức thư của tôi. Nhưng bức thư này có một phần tổng quát, một phần riêng biệt. Tôi có phải chống lại cả phần tổng quát không? Không, vì tôi vẫn giữ cái ý kiến ấy không có lơ một chữ nào hết. Lá thư ấy đề cập đến cái gì?

NHIỀU NGƯỜI TRẢ LỜI: Kiểm duyệt.

SOLJENITSYNE: Nếu như vậy các bạn chẳng hiểu gì hết. Lá thư ấy nói đến giá trị của nền văn nghệ vĩ đại của chúng ta một thời đã chinh phục được nhân loại, làm cho nhân loại ngây ngất. Ngày nay đã đánh mất chỗ ngồi của nó rồi. Ở Tây phương người ta bảo rằng “tiểu thuyết Nga chết rồi” và chúng ta nhào ra đem hết sức mạnh ra tổ chức những buổi nói chuyện, diễn thuyết để chứng minh rằng điều này sai với sự thực. Tổ chức các buổi nói chuyện thuyết trình mà làm gì? Chưa phải viết những cuốn truyện ánh sáng rực rỡ; thế là “Tiểu thuyết mới” của ta sẽ rơi vào quên lãng để cho các cuốn truyện của thế hệ “Các nhà văn tiền phong” mới ra đời. Tôi có cần phải tuyên bố là tám điểm trong phần thứ hai của lá thư đều sai lầm và bất công hay không? Nhưng các điểm ấy đúng với sự thực hoàn toàn. Tôi có cần phải tuyên bố là đã được thỏa mãn một phần hay không? Cho đến nay, chưa có gì được sửa chữa, chưa có gì được dẹp đi trong sự đối xử đối với tôi. Vậy thì chính các bạn phải hành động trước đi để cho tôi có thể đưa ra bản tuyên ngôn ấy: hãy cho in các lá thư của tôi và cho biết những biện pháp các bạn đã chọn lựa đối với những điểm đặc biệt hoặc ít nhất cũng nói đến các biện pháp sẽ áp dụng đối với một vài điểm trong đó; lúc ấy tôi xin viết ngay bản tuyên ngôn mà các bạn đã yêu cầu. Trong trường hợp này, tôi cũng xin ấn hành luôn lời tuyên bố của tôi đối với cuốn Bữa tiệc của những người chiến thắng mặc dù tôi không hiểu các lý do đưa đến cuộc tranh luận về một cuốn sách mà tác giả bị cướp giựt và về sự tiết lộ một bức thư chưa được ấn hành? Ngày 12 tháng 6, Thư ký đoàn đã hứa sẽ đưa ra bản thông cáo mà không có điều kiện nào; bây giờ các bạn lại đặt điều kiện. Có gì đã thay đổi?

Người ta đem cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch. Chiến dịch bôi nhọ tôi vẫn được tiếp tục và còn được đẩy mạnh thêm. Chỉ có các bạn mới có thể phản công lại được, tôi thì không! Điều duy nhất mà tôi lấy làm an ủi là không một luận điệu trong các luận điệu bôi nhọ làm cho tôi xây xẩm mặt mày: tôi đã được tôi luyện trong các trại tập trung của Staline rồi.

FEDINE: Không! Trật tự như vậy đã bị đảo ngược! Tuyên ngôn thứ nhất phải là của anh. Sau những nhận xét khích lệ về tài năng và về biện pháp của anh, anh phải tìm ra hình thức thích hợp cho tuyên ngôn ấy. Không có những lý do chính đáng để chúng tôi lên tiếng trước rồi anh mới nói sau.

TVARDOUSKY: Trong trường hợp này, lá thư có được công bố không?

FEDINE: Không. Nếu phải in thì in lúc ấy, còn bây giờ, ngoại quốc đã làm ồn ào rồi, ta không có lý do để công bố nữa.

SOLJENITSYNE: Chậm còn hơn không. Còn tám điểm của tôi thì sao?

FEDINE: Sau đó, chúng tôi sẽ tính.

SOLJENITSYNE: Tôi đã trả lời. Và hy vọng tất cả đều được đánh máy thật đúng.

SOURKOV: Anh cũng phải nói rằng anh chẳng có gì liên quan với vai trò lãnh tụ đối lập mà Tây phương đã gán cho anh nữa.

SOLJENITSYNE: Alexei Alexandrovitch (Sourkov), tôi thực sửng sốt khi nghe anh nói như vậy? Nghệ sĩ của ngôn ngữ và lãnh tụ đối lập chính trị? Làm thế nào dung hòa hai công việc này được?

Một vài người nữa lên diễn đàn nhấn mạnh là yêu cầu Soljenitsyne chấp nhận đề nghị của Fedine.

Tiếng nói của mấy người một lúc: Hãy nghĩ đến đề nghị ấy đi.

Soljenitsyne tuyên bố thêm một lần nữa rằng không thể nào đưa ra một tuyên ngôn như vậy vì độc giả người Nga sẽ không hiểu đương sự muốn gì trong bản tuyên ngôn ấy.

*

Hai tháng sau, Thư văn của Thư ký đoàn Hội các Nhà văn Liên Xô số 3141 ngày 25 tháng 11 năm 1967 gửi nhà văn Alexandre viết như sau:

Ngày 22 tháng 9, Thư ký đoàn của Ủy ban Nhân dân Lãnh đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết đã xét bức thư của bạn. Cuộc thảo luận đã cho chúng tôi hiểu rõ thái độ của các giới văn nghệ Xôviết đối với bạn và các hoạt động văn nghệ của bạn. Cuộc họp đã chấm dứt nhưng chưa có kết luận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ suy nghĩ về những nhận xét đưa ra trong cuộc thảo luận để hành động thích ứng.

Thư ký đoàn mong được biết quyết định của bạn về vấn đề này.

Ký tên,

Ủy viên Thư ký

K. Voronkov




Phần 5: Thư gởi thư ký đoàn sau hội nghị

Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn

Thư văn của Hội số 3.142 ngày 25 tháng 11 năm 1967 không làm tôi hiểu rõ:

1. Rằng Hội có bảo vệ tôi chống lại chiến dịch bôi nhọ phát động từ ba năm nay, hay không?

Mới đây lại có một vài sự kiện mới nữa:

Ngày 5 tháng 10 năm 1967, tại Hội quán báo chí Léningrad, ông chủ nhiệm tờ Pravda Zinzarine lại đưa ra cái luận điệu bôi nhọ cũ kỹ “Soljenitsyne, bị tù vì lý do tư pháp”. Biện pháp này như quý vị đã rõ, vốn là biện pháp thông thường và quen thuộc nhất được đem ra áp dụng với những người bị chế độ ác cảm. Ngoài ra ông Zizarine còn quả quyết rằng quá khứ bị tù tội trong trại tập trung đã làm cho tôi có định kiến với chế độ không thể sửa đổi. Đặc biệt hơn nữa các nhân vật thuộc cơ quan tuyên huấn của Sở An ninh K.B.G. còn phóng ra những nguồn tin rất động trời, đại để như nguồn tin: “Có thể là Soljenitsyne đã dựng ra trong quân đội, một tổ chức chưa biết nên coi là tổ chức chủ bại hay khủng bố! Nếu có như vậy mà Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao không khám phá ra chuyện này thì thực là vô lý!

2. Thư ký đoàn có biện pháp nào để ngăn cản việc áp dụng các biện pháp phi lý và độc đoán sau đây:

Rút sách của tôi ra khỏi các thư viện
Sở kiểm duyệt còn cấm nhắc đến tên tôi trong các bài phê bình văn nghệ (biện pháp này còn được dịch ra Nhật ngữ trên Voprosy literatury).

Ở Viện Đại học Perm, một thảo luận về tác phẩm của tôi do một nhóm sinh viên viết để đưa vào Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học của họ, đã bị cấm.

3. Thư ký đoàn có định ngăn cản ngoại quốc xuất bản cuốn Trại ung thư một cách tự do không ai kiểm soát, hay không? Hay mối hiểm nguy này không có gì đáng chú ý, theo ý kiến của Thư ký đoàn? Thư ký đoàn có can thiệp để cho tạp chí Literaturnaia Gazeta ấn hành những đoạn trích trong cuốn truyện mà Novy Mir đăng tải toàn bộ?

4. Thư ký đoàn có dự định làm áp lực với Chính phủ để Liên Xô gia nhập “Tổ chức quốc tế bảo vệ tác quyền” hay không? Thiết tưởng việc gia nhập tổ chức này giúp cho các tác giả của chúng ta có biện pháp hiện hữu chống lại việc ấn hành bất hợp pháp tác phẩm của họ, chống lại việc cạnh tranh bất chính của những nhà xuất bản ngoại quốc đã đem tác phẩm của chúng ta ra in ở ngoài nước Nga trước cả chúng ta nữa.

5. Sáu tháng sau lá thư giải hội, Thư ký đoàn đã có biện pháp thanh toán dứt khoát một lần chót những cơ sở ấn loát “bất hợp pháp” đã trình đem ra in và lưu hành những đoạn nhỏ rút từ bản thảo viết tay của tôi hay chưa? Loại ấn phẩm bất hợp pháp này đã được hủy chưa?

6. Thư ký đoàn có biện pháp thu hồi thủ bản các tác phẩm kể cả thủ bản cuốn Nhóm thứ nhất khi hội đã tuyên bố rằng tôi đã được trả lại đầy đủ rồi (Lời tuyên bố của Ủy viên Thư ký Ozerov).

7. Thư ký đoàn đã có quyết định nào đối với đề nghị của K.M. Simonov cho in một tuyển tập các truyện của tôi?

Xin cho biết Thư ký đoàn chấp thuận hay bác bỏ đề nghị?

8. Xin cho biết vì sao tôi lại không được phát biên bản của Hội (bản sao đánh máy) về nội dung cuộc tranh luận ngày 22 tháng 9 năm 1967 đặng có tài liệu nghiên cứu?

Trong khi chờ đợi một sự giải thích rõ ràng những thắc mắc nói trên, tôi xin trân trọng cảm tạ quý vị.

A. Soljenitsyne

1-12-1967



Thư gởi các Hội viên sau Hội nghị
Kính gởi quý vị Hội viên Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô

Từ ngày lá thư của tôi gởi Đại hội của Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô đến nay, một thời gian khá dài một năm đã trôi qua, vậy mà tôi vẫn không được phúc đáp dù đã gởi tiếp cho Thư ký đoàn hai lá thư và ba lần đến trụ sở Hội để trực tiếp yêu cầu các nhà lãnh đạo Hội giải quyết vấn đề.

Chẳng có một thay đổi nào đáng kể từ đấy đến nay. Thủ bản tác phẩm vẫn chưa được trả lại, sách không được in và tên tuổi vẫn bị bôi nhọ.

Tôi cũng đã báo trước Thư ký đoàn về việc sách của tôi sẽ được ấn hành ở ngoại quốc căn cứ vào sự phổ biến rộng rãi của các “bản chép tay” cuốn Trại ung thư ở Nga từ lâu đến nay. Nhưng Thư ký đoàn đã không khuyến khích tạp chí Novy Mir đăng tải nó mà còn ngăn cản. Chi hội các nhà văn xuôi của Hiệp hội các Nhà văn ở Mạc Tư Khoa phần II cuốn truyện.

Cho nên, sau một năm trời lãng phí, chuyện phải đến đã đến.

Và hôm trước đây; phụ trang văn chương báo Times đã đăng vài chương cuốn Trại ung thư. Rất có thể có những tác phẩm khác nữa sẽ bị ấn hành ở ngoại quốc và cũng có thể là những ấn phẩm ấy dựa vào những bản văn tác phẩm không chính xác, chưa được sửa lại.

Những chuyện đã xảy ra trên đây buộc tôi phải trình bày với các giới văn nghệ nội dung những lá thư, những lập luận của tôi trước đại hội ngõ hầu nêu lên rõ ràng lập trường và trách nhiệm của Thư ký đoàn Hiệp hội các Nhà văn ngày 22 tháng 9 năm 1967. Bản văn này do chính tay tôi ghi chép. Tuy không hoàn toàn chính xác từng câu từng chữ, bản văn này đã phản ảnh trung thực sự thực và có thể được coi là một tài liệu đầy đủ trước khi bản văn chính thức được ấn hành.

Ngày 16-4-1968

Tài liệu đính kèm:

Thư gửi các vị Thư ký đoàn của Hiệp hội các Nhà văn
Biên bản cuộc họp Thư ký đoàn ngày 22 tháng 9 năm 1967
Thư gởi Thư ký đoàn ngày 1 tháng 12 năm 1967.


Thư gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn, hội viên và các tạp chí văn nghệ

Kính gởi Thư ký đoàn Hội các Nhà văn
Tòa soạn Tạp chí Novy Mir
Tòa soạn Literaturnaia Gazeta
Các Hội viên Hội các Nhà văn

Tôi được xem tại Tòa soạn Novy Mir bức điện văn sau đây gởi ông chủ nhiệm:

IMO. 177 Francfort sur le M. – 16h20 M.A.I gởi Tvardovsk, tạp chí Novy Mir.

Cho bạn hay là Ủy ban An ninh Quốc gia đã gởi sang Tây phương qua trung gian của Viktor Louis một bản sao cuốn Trại ung thư để ngăn cản Novy Mir ấn hành cuốn này.

“Chúng tôi đã quyết định ấn hành nó tức khắc”.

Tòa soạn tạp chí Grami

Là tác giả, tôi đã nhất quyết phản đối việc ấn hành cuốn Trại ung thư dù nhà xuất bản là tạp chí Grami hoặc bất kỳ một nhà xuất bản nào đã được Viktor Louis đến điều đình.

Tuy nhiên, tính chất khiêu khích và phá hoại của bức điện văn đòi hỏi chúng ta phải làm sáng tỏ mấy điểm sau đây:

1. Có phải do chính tòa soạn Grami gởi bức điện nào cho tòa soạn Novy Mir hay do một người hoặc một cơ quan nào đó mượn tên tòa soạn tạp chí này. Việc này giải quyết không khó. Bưu điện Mạc Tư Khoa có thể nhờ cơ quan điện tín quốc tế hỏi lại bưu điện Francfort là biết.

2. Người có tên Viktor Louis là ai? Làm gì? Có phải y đã mang bản thảo cuốn Trại ung thư ra khỏi Liên Xô hay không? Y còn trao cho ai nữa? Có ai khác nữa, ở vùng khác, đe dọa sẽ in nó nữa không?

Nếu Thư ký đoàn Hội các Nhà văn coi việc này có một tầm quan trọng đáng lưu ý, nếu quan niệm rằng Hội có trách nhiệm tìm hiểu sự thực và ngăn cản việc ấn hành cuốn Trại ung thư cũng như mọi tác phẩm của người Nga ở ngoại quốc.

Thì kính xin quý vị giúp tôi tìm hiểu sự thực nhanh chừng nào hay chừng nấy.

Chuyện kỳ cục này khiến cho chúng ta phải liên tưởng và suy nghĩ đến những con đường quanh co và tăm tối của những tác phẩm – do các nhà văn Nga viết – lại đem ra ngoại quốc. Theo tôi sự kiện vừa qua là một sự cảnh cáo cấp thiết:

Văn nghệ không thể bị đẩy đến chỗ chỉ là những món hàng có lợi cho những tay buôn lậu có thông hành. Tác phẩm của nhà văn Nga phải được ấn hành trong nước Nga và không thể là một thứ hàng đem giao cho các nhà xuất bản ngoại quốc.

A. Soljenitsyne
18-4-1968



Giải Nobel và văn nghệ giới Việt Nam

Giá trị văn học thế giới tự do hầu như định đoạt bằng cái giải thưởng Nobel đối với các nhà văn ngày nay vậy; tuy nhiên có những tác phẩm bên kia bức màn sắt được trao tặng giải thưởng này.

Và những nhà văn chiếm giải như thế hầu như là luôn luôn bị các hội đồng văn hoá của chính quyền Xôviết lên án gắt gao, các tác giả đều bị khép vào các tội chính trị, phá hoại chế độ, phạm vi tổ quốc, hay có lợi cho tư bản ngoại trừ một vài người, như Mikhail Cholokhov, nhà văn chiếm giải Nobel mà chế độ đề cao hơn các nhà văn khác.

Sự thật thì có những tư tưởng gia lỗi lạc, những nhà văn hoá, triết gia lớn thỉnh thoảng từ chối giải Nobel, như Jean Paul Sartre chẳng hạn, giải thưởng Nobel thường được giao cho các nhà văn Anh, Mỹ, Pháp hơn là cho Đông phương. Một vài người như Tagore của Ấn Độ, Kawabata của xứ mặt trời mọc chỉ là một vài vì sao le lói bên cạnh những tiếng tăm bay dậy mịt mù André Gide, Albert Camus v.v… Trong các năm gần đây dường như muốn cho văn học có tiếng nói, dù là tiếng nói đơn thuần, nhỏ nhoi của kẻ vừa thoát xiềng xích nô lệ, bại vong, được lên tiếng bày giải thân phận mình. Khía cạnh đó có lẽ được nêu lên trong các buổi hội nghị về văn hoá của các cụ Hàn lâm Thụy Điển, đó cũng là một lý do rất giản dị, của thứ tinh thần bình đẳng tương trợ. Hay là các cụ Hàn nọ, đã chán cái thứ văn nghệ Âu Mỹ đầy dẫy dục tính, cả thứ dục tính sâu thẳm nhất trong lĩnh vực siêu hình, các cụ Hàn này quay về tìm các chất liệu tươi mát của văn hoá Á đông.

Nói như vậy không có nghĩa là văn nghệ hay văn học Việt Nam, trên lĩnh vực tư tưởng thấp kém hơn văn học nghệ thuật của thế giới. Cả về văn, thơ và các tác phẩm triết học xưa nay. Nói như thế cũng không có nghĩa là dựa theo lịch sử chiến đấu bốn ngàn năm của dân tộc đâu.

Thứ nhất là đằng sau những vần thơ lục bát, vòm tư tưởng của nghệ thuật ẩn hiện, không cách gì người ngoại quốc có thể cảm thông đến được.

Năm nay các cụ Hàn Thụy Điển vừa gây ra xôn xao dư luận trong giới văn nghệ miền Nam với một văn thư gởi cho Hội Văn bút đề nghị hội này chọn giùm tác phẩm gởi đi dự giải Nobel.

Hội Văn bút từ lâu đã tham gia nhiều cuộc viễn du mang chuông đi đánh xứ người, nhất là các cụ Vũ Hoàng Chương, Thanh Lãng, sau này thêm một số nhân tài mới dự Hội Văn hoá ở Đại Hàn với các anh Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nguyễn Thị Hoàng v.v… Riêng nhà thơ Nguyên Sa về đã có bài tường thuật lai rai đăng ở báo Trình bày với các câu chuyện… Đông du ký.

Sự thật thì chẳng ai rõ lắm về các hoạt động của các nhà văn ra ngoại quốc, những thành quả thiếu phổ biến, không được chính quyền lẫn báo chí tư nhân quan tâm.

Vì vậy mà các giới văn nghệ trẻ, tương lai mù mịt ở xứ ta vẫn mù tịt với các buổi hội nghị, và không được theo dõi các diễn biến tốt xấu của các nhân vật đi dự hội nghị về văn hoá, có thể nói đối với quốc tế họ là đại diện cho các nhà văn nhà thơ Việt. Còn ở Việt Nam thì khác.

Mãi chờ một vài sự bàn tán, ít ra cũng bàn tán về văn học nghệ thuật ở các xứ dầu sôi lửa bỏng này, của văn nghệ giới, chính quyền cũng không hề do đó để gây nên một vài phong trào yêu nghệ thuật, phổ biến và nâng đỡ nghệ thuật. Nghĩa là công tác đi về ăn ở của các nhà văn, của Hội Văn bút, những kết quả tốt xấu, những tương lai hậu quả về văn hoá của những người làm văn hoá không được mấy chú trọng, mặc dù văn học nghệ thuật là sinh khí của dân tộc.

Cho đến nay sự hoạt động văn hoá của Hội Văn bút đã gây được một sự chú ý của các cụ Hàn Thụy Điển. Giải Nobel rất quan trọng, rất tăm tiếng với địch với bạn nêu cao danh nghĩa Việt Nam với quốc tế cũng không nghe có một tiếng nói, một góp sức nào tạo nên hoàn cảnh thuận tiện cho những nhà văn chân chính.

Lịch sử Việt Nam không phải chỉ tiến triển ở chiến tranh, chiến tranh càng khốc liệt, thì dân tộc càng gian lao nguy hiểm và chết chóc hận thù, lịch sử dân tộc càng nhờ văn hoá đi lên, những kẻ yêu quê hương phải là những nhà văn hoá chân chính.

Không phải dân tộc Việt có bao nhiêu ngàn năm lịch sử, phải cần ở một cái giải Nobel mới sáng tỏ giá trị văn học nghệ thuật của mình. Nhưng dù sao giải Nobel hay các tác phẩm dự giải Nobel của một thế giới cần sự phô trương, dù là phô trương tài đức cũng nên xem nó như là một cuộc triển lãm cần phải có sự chăm sóc.

Văn nghệ giới chín mươi chín phần trăm là chịu thiệt thòi trước bạo lực, trước thế giới khuynh đảo của kim tiền, chỉ có những kẻ buôn bán văn nghệ phẩm, những kẻ áp-phe giỏi trong khi làm văn nghệ mới đủ sức vươn lên, để có tiếng vang tạo nên thế lực để được dự giải Nobel, ngoài ra những văn nghệ sĩ lớn lao không bao giờ được nhìn thấy và không bao giờ được sự nâng đỡ xứng đáng, chỉ được những sự chế giễu thiệt thòi.

Nguồn: Trần Tử. Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.

Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời (2)

Trần Tử

Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời

Phần 2:
Thư gửi Đại hội Liên hiệp các nhà văn Xôviết

“Lịch sử nước Nga chúng ta chưa bao giờ đẹp hơn nhờ chủ trương chặn ngòi bút của nhà văn.”
A. Soljenitsyne

Kính gởi Chủ tịch đoàn và các đại biểu Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô

Kính gởi quý vị biên tập viên các tạp chí và nhựt báo

Không được sử dụng diễn đàn hội nghị, tôi yêu cầu đại hội nghiên cứu các vấn đề sau: “Chúng nó chỉ biết yêu thương người chết rồi”.

Hội Liên hiệp Các nhà văn Liên Xô, trong tương lai, phải quyết liệt chống đối lại chủ trương kiểm duyệt, hàng chục năm vẫn nô lệ hoá nền văn nghệ của chúng ta một cách không thể tha thứ được. Vốn không được hiến pháp ưng thuận, chủ trương kiểm duyệt rõ ràng có tính chất bất hợp pháp. Tuy vậy, kiểm duyệt – nấp sau danh hiệu mập mờ là cơ quan văn hoá Glavit và không được đưa ra công khai – vẫn đè nặng lên nền văn nghệ của xứ sở. Nhân viên kiểm duyệt – vô học về văn chương – vẫn chi phối được tư tưởng của các nhà văn.

Là sản phẩm thời Trung cổ dai dẳng đến ngày nay, chủ trương kiểm duyệt đã đem tàn tích của tổ tiên xa xưa chụp lên đầu nhân loại bên bờ thế kỷ (XX). Mang bản chất phá hoại và chí chóe nhưng kiểm duyệt lại giành lấy khả năng phân biệt những tác phẩm có và không có giá trị một trong thời gian vô cùng. Nó không thừa nhận cho nhà văn có quyền phát biểu và trình bày những nhận xét lớn cả về đời sống tinh thần và đời sống luân lý của con người và của xã hội; không cho nhà văn giải thích một cách độc lập những vấn đề xã hội, những kinh nghiệm lịch sử được đánh dấu một cách sâu đậm trong đời sống của xứ sở chúng ta.

Tác phẩm nào phản ảnh được những âu lo và những ý nghĩ chín chắn của quần chúng, tác phẩm nào có tác dụng đối với những dân trên địa hạt tinh thần hoặc trên sự tiến hoá của lương tâm nhân loại nhất thiết phải kiểm duyệt cấm chỉ hoặc đàn áp vì những lý do ích kỷ, ngắn hạn, bất chấp đến những đòi hỏi nội tại của đời sống quần chúng.

Đã có nhiều tác phẩm giá trị của nhiều nhà văn trẻ, không tên tuổi bị các tòa soạn từ chối vì “sách không qua kiểm duyệt”. Nhiều hội viên của Hội, kể cả một số đại biểu hiện diện tại Đại hội này hiểu rõ mức tai hại của sự đầu hàng kiểm duyệt như thế nào.

Phải nghe theo kiểm duyệt về nội dung và hình thức; phải thay đổi các chương của các tác phẩm, phải đổi và chọn một tiêu đề vô thưởng vô phạt v.v…

Nghĩa là tác giả phải phá hỏng tác phẩm hoàn toàn hết mong sửa chữa… chỉ để được ấn hành. Quy luật của văn chương sẽ làm cho tác phẩm mất hết giá trị chỉ vì sự sửa chữa này… khi tác giả của nó là một cây bút có tài. Ngược lại, tác phẩm của những cây bút hạng bét sẽ không bị hư hỏng gì hết vì sự sửa chữa này. Kết quả: phần tinh hoa của văn chương Nga chỉ được chào đời sau khi đã chịu một sự sửa chữa cắt xén như vậy của kiểm duyệt! Có gì thê thảm hơn?

Phải! Thực là thê thảm, cái lý do thông thường của kiểm duyệt viện ra “có hại về ý thức hệ” bệnh hoạn chỉ là những lý do chỉ có một giá trị ngắn hạn, cục bộ và đổi thay cũng vì quan điểm chính trị của con người.

Đã có thời người ta cấm cả Dostoievski, nhà văn đã làm cho văn chương của nhân loại bừng sáng rực rỡ! Ngay cả trong tác phẩm của “Đốt”, đâu đã được in đủ. Dostoievski vẫn bị loại ra khỏi công trình giáo dục của học đường, khỏi các thư viện quần chúng.

Không những thế mà thôi, văn hào còn bị bôi nhọ đủ thứ tội! Ngoài “Đốt”, còn khối nhà văn khác cũng bị áp dụng một chế độ khốc liệt.

Esenin trong bao năm qua, chẳng đã bị coi là một tên “phản cách mạng” là gì? Những người đọc và giữ sách của Esenin nào thoát khỏi lỗi thời?

Rồi Maiakovsky trước đây là gì ngoài nhãn hiệu “tên vô chính phủ khốn kiếp”?

Còn nhiều nữa: Thơ của nữ sĩ Akhmatova và bị coi là “chống chế độ Xôviết” trong mấy chục năm liền… Mười lăm năm trước, các cố gắng rụt rè nhằm vận động cho thơ của nữ sĩ thiên tài Tsvetaeva bị coi là một sai lầm chính trị lớn lao!

Bây giờ thì những nhà văn nhà thơ bị bôi nhọ đã được phục hồi danh dự một phần. Bounine Boulgakov và Platonow đã được trả lại chỗ ngồi… chậm vài chục năm! Mandelstam, Volochine và Kljonew ngày nay đã được phục hồi giá trị dễ dàng, không bị ngăn cản nữa. Và cuối cùng, ngày Zanjatire và Kumizev trở lại văn đàn cũng không còn xa nữa!

Những người nói trên được phục hồi trong những điều kiện vào ngày nhắm mắt của nhà văn bị bôi nhọ là một thời gian quan trọng: Chỉ có khi lìa đời rồi, nhà văn chống chế độ mới được phục hồi danh dự, sớm hay muộn tùy theo lúc có thể đưa ra một luận vụ về sự sai lầm của người quá vãng! Cách đây chưa lâu, ai dám nhắc đến Pasternak, sách của ông được in và có khi còn được bình trong các cuộc hội họp văn nghệ! Đúng như Louchkine đã tiên đoán: “Chúng nó chỉ yêu được người chết rồi”.

Giấy phép “phục hồi danh dự” sách được xuất bản của nhà văn đã chết có tên kể trên đâu có gì bù đắp nổi những thiệt hại về xã hội và văn nghệ mà dân tộc này phải chịu chỉ vì chủ trương để chậm quái gở kia, vì chủ trương nô lệ hoá lương tâm nghệ thuật (những nhà văn đàn anh trong chu kỳ thập niên thứ hai của thế kỷ này như Pilnjak Platonov và Mandelstam đã tố cáo chủ trương nô lệ hoá văn nghệ ngay khi những mầm mống của chủ trương thần thánh hoá cá nhân, tính chất bất thường, nơi cá tính Staline mới bắt đầu lộ liễu. Nhưng họ bị thanh toán ngay hoặc bị bịt chặt miệng tức khắc, có ai nghe được họ?).

Văn chương không thể phát triển được khi bị phân loại “loại chấp nhận được’, “loại phải loại bỏ” khi “phải viết về cái này”, “không được viết về cái kia”! Một nền văn chương không phải là khí trời của thời đại, không dám truyền đến cho xã hội những đau khổ và khát vọng của nhân loại, không tiếp nhận kịp thời những nguy cơ về xã hội và luân lý đang đe dọa con người, sẽ không xứng đáng là văn chương. Nó sẽ không được quang cảnh tin cậy. Sách vở của văn chương này đâu có phải viết để đọc; nó chỉ đáng đem hủy đi mà thôi.

Văn chương Nga ngày nay đã đánh mất vai trò dẫn đạo cho văn chương của nhân loại như nó đã giữ được trong thế kỷ vừa qua và đầu thế kỷ này. Nó cũng mất luôn tính chất thực nghiệm phong phú – yếu tính văn chương đã khiến cho nó sáng chói trong thời gian từ 1920 trở về trước. Sinh hoạt văn chương của chúng ta xuất hiện trước thế giới quá nghèo nàn với loại tác phẩm sản xuất hàng loạt đồng đều, một màu sắc hình thức, trông còn tồi tàn hơn sinh hoạt thực tế của nó. Đây là một sự thực để chứng minh vô cùng: văn chương Nga sẽ khởi sắc ngay khi nó không bị đàn áp, hạn chế.

Văn chương Nga nghèo nàn làm cho văn chương nhân loại nghèo nàn thêm và mặt khác nó càng làm cho dư luận thế giới có một định kiến nặng nề về xứ sở chúng ta. Tôi dám quyết rằng nếu khai thác được thành quả của văn chương Nga, giải thoát nó khỏi những móng vuốt kìm hãm, văn chương của nhân loại sẽ thu thập được những kinh nghiệm tinh thần và trí thức của chúng ta sâu xa hơn. Bước tiến nghệ thuật của nhân loại sẽ rẽ theo một bước ngoặt, được tất cả sinh lực để đạt tới một bình diện mới của sự phát triển.

Bởi vậy tôi tha thiết đề nghị Đại hội – bằng lối đầu phiếu - đi đến chỗ dẹp bỏ mọi hình thức kiểm duyệt – công khai và mật – đối với mọi sáng tạo nghệ thuật và cho các nhà xuất bản cái quyền được in mà khỏi phải trình báo và xin phép bất kỳ cơ quan nào.


1. Bao nhiêu tài năng đã tiêu ma trong tù ngục?

Nội quy của Hội Liên hiệp các Nhà văn Xôviết không nêu lên rõ ràng và chính xác bổn phận của Hội đối với các hội viên như: “Bảo vệ tác quyền của nhà văn”, “bảo vệ quyền lợi khác của nhà văn” v.v… nên chúng ta đã có một kinh nghiệm đau xót trong ba mươi năm vừa qua.

Chúng ta đã có một Hội Liên hiệp của các Nhà văn Xôviết không bảo vệ quyền lợi của các nhà văn: Hội đã không chú ý đến tác quyền và cũng không thèm bảo vệ các quyền lợi khác của các nhà văn bị đàn áp.

Rất nhiều nhà văn như Boulgakov, Akhmatova, Platonov, Alexandre, Grine, Zoshchenko, Tsvetaeva, Pasternak và Vassili Grossman, hồi sinh thời, đã bị bôi nhọ trong các trang báo, các diễn đàn công cộng mà không được cấp một phương tiện để tự vệ nào. Hội Liên hiệp các Nhà văn đã không cho họ sử dụng các cơ quan ngôn luận của Hội để biện minh chống đỡ mà còn phụ họa với kiểm duyệt chính các nhân vật lãnh đạo Hội đã là những người đi đầu trong hàng ngũ những người đã đàn áp họ. Những nhà văn nhà thơ đã làm cho văn học và nghệ thuật Nga thế kỷ XX có quyền kiêu hãnh đã bị khai trừ, bị ngăn cản nhưng không được gia nhập Hội. Các nhà lãnh đạo Hội vì hèn nhát đã bỏ rơi hội viên, để cho họ bị lưu đày tù tội và chết chóc: Pavel Vassitiev, Mendestam, Artem Vassely Lilnjak, Babel Tabidze Fabolotsky… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhiều, rất nhiều từ Đại hội XX đến nay đã có hơn sáu trăm nhà văn và nhà thơ hoàn toàn vô tội vẫn bị Hội Liên hiệp các Nhà văn – quá ngoan ngoãn với chính phủ – bỏ rơi trong tù và trên đất lưu đày!

Danh sách những người bất hạnh này chắc phải dài hơn nữa. Chắc chắn là đoạn chót còn dài hơn nữa, ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Tôi chỉ nắm được nơi đây tên tuổi của các nhà văn và nhà thơ trẻ mà tôi được quen biết một cách tình cờ, tài năng bị tiêu ma trong ngục tối, tác phẩm nằm chết trong căn phòng của cảnh sát chính thời Yagoda-Ezhov-Beria Abalaounov.

Các nhà lãnh đạo hội mới được bầu lên đâu có bị bắt buộc phải che giấu tội trạng của những nhà lãnh đạo Hôi tiền nhiệm, đâu có phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trước nhiệm kỳ này.

Tôi xin đề nghị Đại hội hãy vạch ra một cách rõ ràng và cụ thể những sự bảo đảm về quyền tự vệ mà Hội sẽ dành cho các hội viên nạn nhân của những hành động bôi nhọ, những đàn áp phi lý và bất công ngõ hầu tiêu diệt những tệ đoan này trong tương lai, nơi chương XXII của nội quy.

*

Nếu Đại hội không muốn làm ngơ trước những gì trình bày trong xã hội này, tôi xin yêu cầu Đại hội nghiên cứu về những biện pháp cấm đoán và đàn áp mà bản thân tôi bị nếm trải.

Cuốn Nhóm thứ nhất (Le premier Cercle) của tôi đã bị cảnh sát chính trị cưỡng đoạt cách đây hai năm và ngăn cản không cho nó được ấn hành theo thủ tục thông thường… Rồi nó được ấn hành trong một lần “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” ngoài ý muốn của tác giả, không được thông báo gì hết.

Như vậy qua kỳ xuất bản đặc biệt này, sách in cho một số người đặc biệt, các phần tử cạo giấy của văn chương đọc mà thôi, và đã bị cấm đoán không được ra mắt đa số các nhà văn chân chính, nói gì đến quần chúng.

Tôi không có phương tiện đưa cuốn tiểu thuyết này ra thảo luận tự do trước Hội Liên hiệp các Nhà văn và cũng bị bó tay không ngăn cản được những hành vi lợi dụng đạo văn.

Một số bằng hữu viết từ mười lăm đến hai mươi năm nay, nhiều tác phẩm viết không để xuất bản cũng bị cưỡng đoạt nốt! Rồi người ta đã đem ra trích với một dụng ý rõ rệt, rồi đem in thành một ấn phẩm “xuất bản đặc biệt, không thương mãi” cho những người đặc biệt nói trên đọc.

Trong tập này, có một bản bi kịch thơ tên là Bữa tiệc của những người chiến thắng. Bi kịch này do tôi viết lúc đầy uất hận tại tập trung, bắt tù nhân mang số hiệu trước ngực, sau lưng, trên mũ, cánh tay, nghĩa là nơi chúng tôi bị xử tử cho chết dần bằng cách bỏ đói, bị xã hội bên ngoài bỏ quên, không một ai lên tiếng tố cáo sự đàn áp chúng tôi trong tù. Tác phẩm này đã bị tôi bỏ sau Đại hội XX của Đảng nhưng bây giờ lại được gắn cho nhãn hiệu “sáng tác mới nhất của Soljenitsyne”.

Đối với tôi, người đã tham gia chiến đấu trên cương vị một pháo đội trưởng của quân chủng pháo, được gắn huân chương quân công ngay tại chiến trường, người ta đã đối phó bằng một chiến dịch bôi nhọ kéo dài từ ba năm nay với những lập luận vô nghĩa nào là “Soljenitsyne bị bắt vì tội tư pháp”, nào “Soljenitsyne đã nhảy sang hàng ngũ Đức, hoạt động bên cạnh người Đức, phản bội tổ quốc” v.v…

Người ta phải đưa những lập luận nói trên mới giải thích được việc giam giữ và lưu đày tôi trong mười một năm liền vì tội chỉ trích Staline. Tôi được biết rõ ràng rằng trong các lớp huấn luyện hoạt động đảng viên của Đảng, trong các cuộc họp, nhiều nhân vật có thẩm quyền của Đảng đã thừa nhận các lập luận bôi nhọ này.

Để biện minh và tự vệ, tôi đã khẩn thiết yêu cầu Hội Nhà văn và báo chí giúp tôi minh oan. Báo chí không đăng bài trả lời của tôi, các nhà lãnh đạo Hội cũng làm thinh không trả lời cho tôi. Ngược lại, dựa vào bản thảo cưỡng đoạt được, đem về sửa lại với chủ ý xuyên tạc, năm nay người ta lại tổ chức một chiến dịch bôi nhọ mạnh mẽ gấp đôi trước kia từ những diễn đàn cao đẳng hơn mà không cho tôi một phương tiện trả lời nào hết, và nhắc nhở!
Phần thứ nhất cuốn tiểu thuyết Trại ung thư – được phân bộ tiểu thuyết của Phân hội các Nhà văn Mạc Tư Khoa chấp nhận – chỉ được trích in rời rạc. Năm tạp chí đã từ chối (như Juesda và Prostor chẳng hạn) hoặc không in đúng với nguyên tác như Novy Mir…

Bi kịch Con hươu và nàng kỹ nữ của nhà tù, được kịch viên Sovremenik chọn lựa trình diễn từ năm 1952, đến nay vẫn không được phép đưa lên sân khấu.

Chuyện phim Chiến xa xung kích biết sự thực, bi kịch Ánh sáng ở trong người… và những truyện ngắn “nho nhỏ” của tôi không tìm ra đạo diễn và nhà xuất bản mặc dầu nhiều người muốn.

Truyện của tôi đăng trên tạp chí Novir bị cắt nát ra, không thể tập trung thành một cuốn truyện. Ngoài ra, các cơ quan văn nghệ, tỉ dụ như: Sovietsky, Pisatel, Goslitzzdat, Bibliotheka Ovonyka… đều không được phép phổ biến tác phẩm của tôi. Do đó, mọi tác phẩm của tôi không đến tận quảng đại quần chúng.

Mặt khác, tôi bị tước đoạt hết mọi biện pháp tiếp xúc với độc giả. Như những buổi đọc truyện của tôi trên đài phát thanh chẳng hạn, trước đây đã được ấn định là 10 buổi trong tháng 11 năm 1966 đã bị cúp đến 9 lần vào giờ chót.

Ngoài ra, việc cho người khác đọc và chép lại một thủ bản tác phẩm – vốn là một việc làm tự do cách đây 5 thế kỷ dưới thời Nga hoàng dành cho giới chép sách – bây giờ lại là một việc làm phạm pháp, tại xứ sở này, riêng với tôi. Do đó, việc sáng tác của tôi bị bóp chết cứng, cá nhân bị giam hãm và bôi lọ đủ điều.

Tôi không hiểu rằng trước sự vi phạm thô bạo tác quyền và các quyền khác nữa của nhà văn, Đại hội lần thứ tư của Hiệp hội các Nhà văn liên bang Nga có lên tiếng bênh vực và bảo vệ nạn nhân – là tôi – hay không?


2. Tôi đã sẵn sàng chết cho sự thực sống và tiến lên

Một quyết định như vậy hết sức quan trọng. Nó sẽ có một tác dụng quyết định đối với sự nghiệp văn chương của một số đại biểu tại đại hội này trong tương lai.

Về phần đông tôi hoàn toàn yên tâm vì tôi biết chắc rằng tôi sẽ làm tròn thiên chức của nhà văn trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết riêng sứ mạng của nhà văn và như tôi sẽ được hoàn tất một cách rõ ràng đầy vinh quang khi tôi không còn có mặt ở cõi đời nữa.

Nhưng không có một ai ngăn cản được sự thực xuất hiện; riêng cá nhân tôi, tôi rất sẵn lòng chết cho sự thực sống và tiến lên…

Hy vọng rằng những bài học đã nhận được sẽ làm cho chúng ta biết rõ rằng không nên chặn ngòi bút của nhà văn lúc sinh tồn…

Vì chưa bao giờ lịch sử của ta đẹp hơn lên vì chủ trương ấy.

Alexandre Soljenitsyne

16-5-1967

*


Phần 3: Thư gởi thư ký đoàn Hội các Nhà văn

Kính gởi Thư ký đoàn Hội Liên hiệp các Nhà văn

Kính gởi quý vị thư ký

Lá thư của tôi gởi Đại hội Liên bang Nga lần thứ IX của Hiệp hội các Nhà văn đã không có một tiếng vang, một lời phúc đáp nào dù nó được hơn một trăm nhà văn tán thành. Chỉ có một lập luận, một giọng “đồng ca” cùng cất lên để trấn an quần chúng, phù hợp với một khẩu lệnh duy nhất do “trên” đưa xuống.

Bản thảo viết tay mấy tác phẩm bị cưỡng đoạt sẽ trả lại cho tôi.
Cuốn Trại ung thư và một tập truyện ngắn nữa sẽ được ấn hành.

Nhưng, như quý vị đã biết, đấy chỉ là tưởng tượng, dựng đứng hoàn toàn.

Các vị thư ký của Ủy ban Lãnh đạo Hội C. Markov, K.V. Voronkov, Sartakov và L. Solobev, trong buổi họp ngày 12 tháng 6 năm 1967, còn tuyên bố với tôi rằng Ủy ban Lãnh đạo quan niệm rằng Ủy ban có bổn phận phải lên án những lập luận bôi nhọ hạ cấp và sự xuyên tạc bẩn thỉu nhắm vào cá nhân và quá khứ quân sự của tôi. Vậy mà sự thanh minh của Ủy ban chưa ai thấy đâu hết mà sự bội nhọ lại gia tăng mạnh mẽ hơn nhiều.

Ngay trong các cuộc hội thảo của lớp đầu tạo đảng viên hoạt động, người ta còn đẻ ra một luận điệu ngu ngốc mới để đem ra phổ biến: “Alexandre Soljenitsyne sắp chuồn sang Ai Cập hoặc sang Anh”.

Tôi xin quý vị tác giả của luận điệu trên yên tâm vì cơ hội để chuồn ra ngoại quốc, tôi đâu có sẵn như quý vị!

Hơn nữa, các nhân vật tai to mặt lớn còn biểu lộ một cách hăng hái và ồn ào sự thất vọng nặng nề của họ khi tôi không chết trong nhà ngục mà lại được trả tự do.

Các luận điệu bôi nhọ lại càng được phổ biến một cách nặng nề và hăng hái sau khi cuốn Một ngày trong đời Ivan Denissovitch xuất bản. Bây giờ thì cuốn sách ấy đã được rút ra khỏi các thư viện công cộng một cách kín đáo.

Cũng chính các vị thư ký trên đã hứa sẽ chú trọng đến vấn đề, ít nhất cũng làm cho cuốn Trại ung thư được ấn hành. Nhưng ba tháng đã trải qua trong im lặng, chẳng thấy có gì hết. Trong ba tháng ấy, cả bốn mươi hai vị thư ký của Hội cũng mặc kệ, không ủng hộ tác giả để cuốn truyện được xuất bản. Vì thế, người ta thấy được một hiện tượng kỳ cục: thái độ thiếu nhiệt tình cấm in nó quân bình với nhau suốt cả một năm dài và đưa đến kết quả: sách không thể ra đời! Ngay trong hiện tại, tạp chí Novy Mir muốn đăng truyện Trại ung thư nhưng không được phép.

Phải chăng Thư ký đoàn muốn dùng biện pháp lần khân kéo dài tình trạng dùng dằng này để cho tác phẩm chưa biết bao giờ mới được ra đời rồi cuối cùng sẽ xé lẻ ra và bẻ gãy đi khiến cho nó không thành được chỗ đứng trong văn học sử!

Trong thời gian này, tác phẩm Trại ung thư đã gặt hái được nhiều thành quả hiển nhiên, đặc biệt hơn cả là thành quả nó thu hoạch được với giới văn nghệ. Có hơn một trăm bản đánh máy được độc giả tự phổ biến cho nhau ra ngoài. Do đó, trong cuộc họp ngày 12 tháng 6, tôi đã khuyến cáo Thư ký đoàn về tính chất cấp thiết của việc ấn hành cuốn Trại ung thư, ấn hành thực gấp rút. Nếu không chúng tôi sẽ phải chứng kiến cuốn Trại ung thư xuất bản lần thứ nhất sẽ không phải là sách viết bằng tiếng Nga vì chúng ta bất lực không có đủ quyền hạn để ngăn cản Tây phương xuất bản nó – nếu tình trạng này kéo dài. Vì sự lo lắng nói trên cho phép tôi chấm dứt thái độ im lặng nhẫn nhịn mà tôi đã cố giữ trong mấy tháng vừa qua. Tôi thấy đã đến lúc phải tuyên bố rằng:

“Nếu để cho cuốn tiểu thuyết Trại ung thư được xuất bản lần thứ nhất không phải là sáng tác viết bằng tiếng Nga, xuất bản ở Nga thì đấy là lỗi lầm (hay ý muốn thầm kín?) của Thư ký đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hội Liên hiệp các Nhà văn Liên Xô.”

Bởi vậy, tôi xin nhấn mạnh lần chót rằng cuốn truyện này phải được ấn hành gấp rút, tức khắc.

Ngày 12 tháng 9 năm 1967
Nguồn: Trần Tử. Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời. Tủ sách Nhân Loại Mới, 1971.