Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Kiêm Đoàn : Cải đạo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Kiêm Đoàn : Cải đạo. Hiển thị tất cả bài đăng

15/7/10

Trần Kiêm Đoàn : Cải đạo

Trần Kiêm Đoàn
Cải đạo

Tôn giáo có mặt cùng thời với lịch sử con người. Có vật chất, tất phải có tinh thần. Có sống chết, có hiện tượng còn mất trong đời sống vật lý, tất phải có các mô thức tâm lý và tâm linh để chống lại sự mất còn bèo bọt đó. Từ đấy, tham vọng bất tử của con người là phải xây dựng một hệ thống thần linh để nuôi lớn hy vọng (có thật) thành đức tin (ước mơ) rằng, con người sẽ sống đời vĩnh hằng sau khi chết trong một thế giới thiêng liêng của thần linh. Phản ứng tâm linh thời sơ khai nhất của con người trước một cuộc sống biến động vô thường là sự sợ hãi và kính ngưỡng đối tượng thiên nhiên chung quanh như đất, đá, núi sông... cũng như những hiện tượng thiên nhiên như mây mưa, sấm sét, gió bão...

Khi nếp sống bầy đàn từng bước vào tổ chức xã hội – có người cầm đầu, có kẻ thừa hành – thì sinh hoạt tôn giáo cũng dần dà phát triển tương ứng. Con người đi từ hình thức tâm linh nguyên sơ như bái vật giáo, phiếm thần giáo thành hình thức tôn giáo có quy củ và quy mô như ngày nay.

Thế quyền và giáo quyền theo nhau như bóng với hình. Thế quyền có hệ thống lý thuyết, chủ nghĩa; có lãnh tụ, quan chức, binh sĩ thì giáo quyền cũng phải có giáo lý, giáo chủ, giáo hội và tu sĩ.

Khi có từ hai đến nhiều tôn giáo trong cùng một xã hội thì sự xung đột nội tại và ngoại cảnh xảy ra như một điều tất yếu. Hiện tượng thay đổi xảy ra thường xuyên khi âm thầm, riêng tư và thuận chiều; khi ồn ào, xung đột và vọng động giữa những người theo các tôn giáo khác nhau là sự cải đạo. Cải đạo là một tiến trình chuyển đổi đức tin và phương tiện gìn giữ, thể hiện đức tin tâm linh riêng của cá nhân hay tập thể. Biểu hiện thông thường nhất là sự thay đổi từ tôn giáo nầy sang tôn giáo khác do động cơ và hoàn cành riêng. Trong vòng từ 5 nghìn năm qua – thời điểm mà Ấn Độ giáo (Hinduism) được xem là tôn giáo xưa nhất của con người ra đời theo tinh thần kinh Vệ Đà (Vedas) – nhân loại đã tốn quá nhiều tâm não, thời gian và máu lệ cho sự thay đổi tôn giáo nầy.

Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống nên có thể nói rằng, tín lý cổ sơ nhất của dân tộc là nếp sinh hoạt tâm linh do sự kết hợp đồng bộ giữa lòng kính ngưỡng sức mạnh thiên nhiên Trời Đất; sự tưởng nhớ biết ơn, thờ phụng Tổ Tiên và nếp sống lương thiện làm người cho Phải Đạo. Có thể nói một cách nôm na rằng, Sống-Cho-Phải-Đạo là hình thức "tôn giáo" đầu tiên của dân tộc Việt từ thời mở nước trải hơn 4 nghìn năm qua. Cho đến khi đạo Phật truyền sang Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 2 và đạo Thiên chúa truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ 16 thì vấn đề cải đạo mới được xem như một hiện tượng xã hội và tâm linh.

Cải đạo là chuyển đổi cả một hệ thống tín lý đã biến thành đức tin nơi mỗi con người, nên còn có người liên tưởng một cách nghiêm trọng rằng, "cải đạo là thay đổi linh hồn"! Trong những cộng đồng và xã hội càng bảo thủ, khép kín thì sự cải đạo diễn ra càng tạo nên áp lực và phản ứng gay gắt.

Luật pháp thế quyền phần lớn tôn trọng sự chọn lựa cải đạo như một quyền tự do tín ngưỡng. Thế nhưng phản ứng giáo quyền thường khống chế gay gắt sự cải đạo và răn đe như là "theo ngoại đạo tà giáo" hay "bán linh hồn cho quỷ sứ"!

Gần đây, khi sự giao lưu thế giới trở nên cởi mở, nhanh chóng và rộng rãi hơn người ta thường xuyên nghe đến những sinh hoạt của nhiều cá nhân, phe nhóm, giáo phái... nhiều nơi trên thế giới rất lạ lùng. Có khi thú vị, hài hòa; có khi xót xa, thô bạo.

Để minh họa cho hiện tượng cải đạo một cách cụ thể và tương đối quảng bá rộng rãi trên mạng lưới truyền thông (người viết tránh dùng chữ "ồn ào"), xin đơn cử trường hợp cải đạo của ông Nguyễn Huệ Nhật, do chính ông thuật lại bằng giấy trắng mực đen.

*

Hội Thơ Tài tử Việt Nam được thành lập năm 1994 tại Sacramento, tiểu bang California, nuớc Mỹ. Đây cũng là địa phương mà người viết bài nầy đang sinh sống.

Một hôm, nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, người chủ trương Hội Thơ Tài tử Việt Nam nói trên, gọi điện thoại cho tôi, nói về tác phẩm mới của một hội viên trong Hội Thơ Tài tử vừa mới xuất bản. Anh Như Hoa cẩn thận giới thiệu trước tác giả của tập sách nầy là một người từ Việt Nam mới qua Đức theo diện "xuất khẩu lao động". Đó là cuốn Từ áo cà sa đến thập tự giá của Nguyễn Huệ Nhật [1] . Tập sách nầy đã được anh Như Hoa và các cộng tác viên của anh trong Hội Thơ bảo trợ trang trí, trình bày, lên khuôn, in ấn và phát hành. Anh ngỏ lời muốn tôi đọc và có ý kiến về cuốn sách này. Vốn rất kính mến anh và các vị khác trong Hội Thơ cộng với tinh cảm yêu chuộng văn học nghệ thuật sẵn có, tôi nhận lời. Tôi vốn quý sách như quý tình bằng hữu nên sáng hôm sau, vội vã ra báo Làng, Sacramento, để nhận tập sách.

Lòng tự dặn lòng là sẽ giữ lời hứa với anh Lê Quang Sinh; cũng như từ trong thâm sâu của ý thức, tôi tự hứa là sẽ đọc và phân tích tác phẩm một cách khách quan bằng cảm quan nghệ thuật và sự hiểu biết khiêm tốn của mình.

Về hình thức, tập sách dày 300 trang và in ấn rõ ràng. Hình bìa chụp chân dung tác giả Nguyễn Huệ Nhật mặc áo cà sa vàng, đứng bên tường hoa giấy màu hồng leo quanh lưới trông lờ mờ như dây kẽm gai. Và phía góc chân trời nổi lên cây thánh giá màu xám gắn trên một điểm tựa không có hình thù rõ rệt. Hình bìa sau là ảnh chụp chung của tác giả Nguyễn Huệ Nhật và thi sĩ Bùi Giáng.

Tôi đọc đi, rồi đọc lại để cố gắng nắm bắt một cách tương đối chuẩn xác nội dung của tập sách hầu tránh những nhận xét có tính cách chủ quan và thiên vị khi nhận định.

Nội dung chủ yếu là tự truyện về cuộc đời của tác giả Huệ Nhật. Tất cả cuốn sách có thể tóm gọn trong ý chính là: "Thuở nhỏ tu hành theo đạo Phật, rồi hoàn tục. Lấy vợ lần thứ nhất. Rồi lấy vợ lần thứ nhì, có con, làm ăn, mánh mum đòn phép, chịu đựng nhiều vinh nhục. Cuối cùng cải đạo, theo Tin lành. Phương tiện sử dụng tạm thời là quay lại phê phán, phủ nhận đạo Phật để giải thích tại sao bỏ Phật theo Chúa. Ngôn ngữ và văn phong trong toàn tập sách thuộc trường phái "thích chi nói đó". Bằng chứng và luận chứng được chọn làm xương sống cho tác phẩm là sự suy diễn tùy tiện căn cứ trên những "sự cố" cá nhân và xã hội không có cơ sở để kiểm chứng hay đối chứng được".

Một dòng đời như thế của Nguyễn Huệ Nhật, thật ra, không có gì mới lạ trong một xã hội còn khó khăn, nghèo đói của buổi giao thời.

Điều diễn ra đầy vẻ bi hài ở đây là tuy Huệ Nhật đã cởi áo cà sa từ ba mươi năm trước nhưng vẫn còn nhân danh "đại đức" để lôi kéo sự chú ý mà ông đang cần. Theo tiểu sử của tác giả tự ghi là ông đã ra đời, lấy hai vợ, sống một cuộc đời đủ mùi vị chua cay của trần tục. Ông theo đạo Tin lành là một chọn lựa cá nhân sau mấy chục năm rời xa đạo Phật. Nay bỗng dưng ông quàng áo cà sa vào chụp hình dưới chân thập tự giá và cho in lên bìa sách là một cách tái tạo hình ảnh hí lộng tôn giáo khó hiểu so với trình độ và năng lực ở tuổi Huệ Nhật.

Để diễn tuồng? Để nhấn mạnh và minh họa cho sự "ưu việt" của hành động từ bỏ Phật giáo qua Tin lành chăng? Để minh chứng cho đức tin của anh đi từ si mê đến giác ngộ chăng? Hay chỉ để bôi lem những biểu tượng thiêng liêng của giới tu sĩ Phật giáo? Dù xuất phát từ bất cứ động cơ nào đi nữa, thì việc một người đi tu (bất cứ đạo nào) đã cởi áo hoàn tục; nay lại dùng hình ảnh chiếc áo nhà tu truyền thống của giới tu sĩ tôn giáo mà mình không theo nổi nên trả áo xuống đời để làm trò quảng diễn hay để phục vụ cho ý đồ cá nhân của mình đều là một lối hành xử thiếu ngay thẳng.

Về nội dung, tập sách Từ áo cà sa đến thập tự giá, Huệ Nhật đã sử dụng nhiều chi tiết "thâm cung bí sử" nhất của đời mình để làm tài liệu viết lách, minh họa và suy diễn. Lối văn trong sách ông không phải là văn chương sáng tạo mà cũng chẳng phải là ngôn ngữ nghị luận. Đấy là một lối hỏi đáp thắc mắc giữa Huệ Nhật với chú em tên Thúc ở Mỹ. "Dữ kiện" làm nền tảng cho lý luận và chứng minh chính là cuộc đời và sự suy nghĩ của ông. Bởi vậy, chính "thân thế và sự nghiệp" của Huệ Nhật là toàn bộ linh hồn và nội dung của tạp sách 300 trang này.

Khi đọc một câu chuyện nói về đời tư của một người thì người đọc để tìm hiểu và phân tích cần phải cẩn trọng gấp đôi, nhất là khi những điều đề cập có liên quan đến tôn giáo. Bởi vậy, tôi cảm thấy cần thiết nói rõ quan điểm về tôn giáo của mình trước khi có đôi lời nhận định.

Tôi là một người theo đạo Phật và học Phật, nhưng đồng thời cũng là một học sinh xuất thân "trường Đạo" từ hệ thống giáo dục của Thiên chúa giáo Dương Sơn. Từ năm 1972 đến tháng 2-1975 tôi tình nguyện tham gia đoàn Giáo chức Công tác Xã hội Quảng Trị. Trong nhiều năm công tác, tôi có dịp điều hợp và thực hiện những chương trình xã hội và cứu trợ của các cơ quan Xã hội Tin lành Á châu (ACS), cơ quan Xã hội Tin lành Việt Nam (VNCS), chương trình Cứu tế Xã hội Công giáo (CARITAS). Từ 2 năm nay, tôi là giáo sư thỉnh giảng của Phân khoa Tâm lý thuộc hệ thống đại học Tin lành Presbytarian. Chính những họat động không có biên giới tôn giáo nầy đã mở mắt cho tôi có được một cách nhìn rất cởi mở và thoáng đạt về đức tin tôn giáo. Khi được học triết học Tây phương, tinh thần và thái độ thông thoáng về tôn giáo của tôi càng được khẳng định về khái niệm "Oneness" (Uyên nguyên) khi suy tư về Tánh không, Duyên nghiệp của đạo Phật; về Thượng đế, về thánh linh của các tôn giáo khác. Tôi đồng tình với quan điểm: "Đạo là con đường (dẫn đến chân, thiện, mỹ), chứ không phải đạo là pháo đài để cho con người tấn kích nhau từ trong lỗ châu mai của đức tin khép kín và tư tưởng hẹp hòi" (Gabriel Marcel). [2]

Với một tinh thần tôn trọng đức tin và cung kính với tất cả các tôn giáo, tôi xin được đi vào nội dung của tập Từ áo cà sa đến thập tự giá (TACSĐTTG).

Tác giả Huệ Nhật, theo tiểu sử ghi trên bìa sau của sách, sinh năm 1946, cùng tuổi với tôi; nghĩa là cùng một thế hệ "chiến tranh Việt Nam" – một thế hệ mà niềm tin, tư tưởng, và ước vọng thường xuyên bị thử thách từ chân đến giả; chao đảo từ tả đến hữu; lung lay từ gốc đến ngọn theo đà ác liệt của cuộc chiến trên quê hương – Phải chăng vì thế mà tôi rất chia sẻ sự trăn trở, thao thức, xót xa của Huệ Nhật về sự khổ nhục của chính mình, của suy tư thầm lặng, của hoàn cảnh gia đình và xã hội chung quanh. Tất cả đều được thể hiện rõ nét hay bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm.

Tập sách TACSĐTTG là một sự tập hợp tùy nghi, không có chương mục hay hệ thống rõ ràng. Đó là tập hợp những bức thư trả lời từng đoạn một của Huệ Nhật cho một bức thư dài của người em tên Thúc ở Mỹ với ngôn ngữ châm biếm, ca tụng Huệ Nhật lên tận mây xanh ở chỗ nầy; rồi mỉa mai đá ông lăn lóc ở chỗ khác. Người đọc không cần phải bận tâm đặt câu hỏi là có thật một bức thư như thế hay không? Vì dù có hay không thì đây cũng chỉ là một cách riêng để gợi ý và đặt vấn đề của tác giả.

Nguyễn Huệ Nhật đã tự kể lại cuộc đời của mình trong tập sách như sau:

Trước hết, theo sự mô tả trong thư của người em tên Thúc thì bản chất "chông chênh" của Nguyễn Huệ Nhật được ghi nhận rằng:

"Từ một chú bé sáng trường làng, chiều chăn trâu, đã húi đầu hôm sớm kinh kệ, học hành đạo pháp, qua một thập niên lên đến chức đại đức. Thạo Phật pháp, biết rõ ngọn ngành rồi ‘xù’ Phật. Đến cuối thập niên 70 bắt đầu biết đến kinh thánh, tin Chúa... Một ngày nào đó chắc anh xù Chúa của giáo phái Tin lành nhảy qua rao giảng đức tin với Mohamét." (Trang 16)

Tuy đã đi tu, đã thọ cụ túc giới và trở thành một đại đức trong hệ thống tu sĩ Phật giáo nhưng Huệ Nhật chưa tự mình thực chứng bất cứ một kiến giải nhỏ nào về lý thuyết hay thực hành. Với một tu sĩ Phật giáo, chỉ sau khi được thọ cụ túc giới mới bắt đầu tình tuổi đạo, bất luận tuổi đời già trẻ bao nhiêu. Nếu căn cứ theo sự trích dẫn và luận giải trong sách thì tác giả Huệ Nhật chỉ mới "sơ sinh" trong hàng ngũ tu sĩ Phật giáo thời bấy giờ. Do đó, ông chỉ mới biết về đạo Phật qua lễ nghi hình tướng. Tác giả tự nhận là thiếu tri thức sâu rộng về Phật học nên ông đâm ra hoài nghi, bối rối trước một tàng thư kinh điển mà ông cho (hay thú nhận) là khó hiểu, mênh mông; thậm chí có nhiều chỗ mâu thuẫn của triết lý Phật giáo. Ông bị danh từ lôi kéo, hành hạ nhưng lại không có căn tính và không đủ bản lĩnh để tự mình tìm hiểu rốt ráo "chân thiệt nghĩa" của các khái niệm cơ bản sau những danh từ ấy. Thật ra, trong đời sống khép kín của chùa chiền tự viện, hoàn cảnh tri thức nhập nhằng "thấp chẳng thèm vào, cao không với tới" về mặt đức tin và nhận thức như một thời tu hành bế tắc của trường hợp Huệ Nhật không phải là ít. Rốt cuộc, kiến thức Phật học của ông có vẻ là một mớ kinh, luật, luận hỗn mang chưa tới bờ mà cũng chẳng tới bến như Huệ Nhật tự nói lên khi trả lời cho người em tên Thúc vừa nêu ở trên: "Ngày xưa đi tu trong Phật giáo, anh (Huệ Nhật) học những giáo lý sâu xa và phức tạp khiến cho sự tu hành có cái vẻ cao siêu, nhưng với anh thì rất mệt mỏi và gặp nhiều mâu thuẫn khó nói lắm." (Trang 22)

Nếu dày công tu tập và quán niệm rốt ráo hơn thì Huệ Nhật đã không đến nổi mệt mỏi và gặp nhiều mâu thuẫn quá sớm như thế. Triết lý Phật giáo ở một mức độ nào đó quả thật là phong phú và cao siêu thật sự chứ không phải là "sâu xa, phức tạp" hay "có vẻ" cao siêu như trong giới hạn hiểu biết của Huệ Nhật đâu. Phật pháp ví như một trận mưa mà sự thẩm thấu tùy theo đối tượng. Con lạc đà mang căn tính và chỉ biết vùi đầu vào gió cát sa mạc nên bị chết đuối giữa ao hồ sông nước thì cũng chẳng có gì lạ. Huệ Nhật tự khai ra trong sách là đã đi tu mà cá nhân vẫn còn bị cột trói, dính mắc với quá nhiều hệ lụy phàm tục nên càng tu lâu càng không hiểu nổi đạo Phật thì cũng là chuyện thường tình, dễ hiểu mà thôi.

Thế nhưng ông Huệ Nhật có tính "can đảm liều mạng" hơn đời. Trong hai đêm thứ Bảy và Chủ nhật (12-3-2006) Huệ Nhật thuyết giải những lý thuyết cơ bản của Phật giáo cho các tín hữu của Tin lành của ông nghe tại Westminster, California và "Vấn đề khai tâm giác ngộ và đức tin" qua sự hiểu biết sai lạc gần như chẳng hiểu gì "chơn thiệt nghĩa" triết lý Phật giáo; nếu không nói là hiểu ngược lại. Huệ Nhật đã hiểu khái niệm Giác ngộ trong đạo Phật một cách ngây ngô khi ông tự đặt câu hỏi như một cách trả lời để tự giải quyết vấn nạn của chính ông, rằng là: "Đức Phật đã giác ngộ nhưng đã 3000 năm qua, có ai giác ngộ được chưa." Tiếc thay, con ngựa Kiền Trắc gần ba nghìn năm trước không còn để Huệ Nhật lên ngựa ra roi, đi tìm một hình tướng "giác ngộ" xứng hợp với tư duy đồng dao của ông! Nhất quán với một kiến thức Phật học đáng xót xa như thế, Huệ Nhật, trong một bài viết nhan đề: "Ai sinh ra Đức Chúa Trời?" đã hiểu khái niệm Vô ngã trong giáo lý đức Phật Thích Ca như là khái niệm Hư vô trong triết học phương Tây. Hiểu lạc thì sẽ nói lạc. Nói lạc thì sẽ dẫn người nghe đi lạc là một hậu luận tất nhiên mà thôi.

Cũng trong nội dung tập sách TACSĐTTG, phần viết thiếu hồn, thiếu phách và thiếu hẳn sự thuyết phục cần thiết của tác giả là khi ông thuyết giảng về niềm tin Thiên chúa. Trong đạo Chúa, sự hiện hữu của Thượng đế và đức tin thánh linh là một sự mặc khải – một chứng ngộ thiêng liêng và thầm lặng giữa con người nhỏ bé và suối nguồn vũ trụ vô biên – chứ không phải là hình thức tồ tồ quảng bá bất tịnh đầy vẻ thô phàm trần lụy như thế. Tuyệt nhiên địa vị xã hội, tuổi tác, bằng cấp, hình tướng chẳng đóng một vai trò quan trọng nào trong phẩm chất tâm linh thuần khiết cả. Huệ Nhật đã "thuyết thánh linh" bằng đại ngôn và suy diễn chủ quan nên cảm thức chân thành và nghiêm kính về một Thượng đế toàn năng chưa thấy xuất hiện trong sách và trong hết thảy những bài viết của ông sau nầy (nếu tính đến tháng 6 năm 2008 là khi những dòng nầy đang viết lên).

Phong cách truyền thống của người Ki-tô hữu cũng như người Phật tử là sự khiêm cung. Đức chúa Giêsu khuyên người mến Chúa hãy mang theo và nâng cao thánh giá mà đi. Thập tự giá là biểu tượng cho sự quên mình; cũng như đức Phật nêu cao tinh thần vô Ngã để đi vào cuộc đời. Thế nhưng đã có biết bao người nhân danh theo Phật, theo Chúa đi lạc đường vì đã đem cái Tôi trần gian đầy nghiệp chướng của mình đặt ngay trên đường tìm đạo nên nói đạo thật nhiều mà không tìm ra đạo.

Tại sao một tín đồ tân tòng đạo Chúa xông xáo như Huệ Nhật lại thiếu tính thuyết phục trong những bài viết về kinh Thánh và Thượng đế đến như thế? Có lẽ tại vì trong văn phong và nội giới của ông thiếu mất sự khiêm tốn cần thiết để quên bớt cái Tôi của một linh hồn bơ vơ đang ở trên trần thế. Một trong nhiều ví dụ cụ thể là tuy Huệ Nhật đã lặp đi lặp lại nhiều lần về đức tin của mình đối với Thiên chúa, quyết theo Chúa để tìm sự sống đời đời. Nhưng đức tin của ông còn quá mỏng hay quá sơ cơ. Xin mời đọc lời viết của ông trong sách, đoạn gửi cho người em tên Thức: "Trong tình anh em, anh có thể nói rằng tôn giáo nào cũng có tiền và cũng có kinh doanh cả. Tôn giáo là một môi trường 'kinh doanh' béo bở. Riêng tiền dâng hiến của hàng tỷ tín đồ cũng đã nhiều lắm rồi... Đối với anh, nghèo cũng là một sự phước hạnh, mặc dầu anh vẫn muốn mình giàu."

Trong phần tiểu sử và thư giãi bày tâm sự, hình như suốt một đời ông chưa bao giờ được yên nghỉ. Như một đứa trẻ bơ vơ bị ném ra quá sớm giữa dòng đời xuôi ngược, Huệ Nhật đã vật vờ đi từ cực đoan nầy đến cực đoan khác. Tuổi trẻ anh vào chùa đi tu theo Phật giáo. Sau đó anh bỏ tu lấy vợ, theo phong trào phản chiến "chống Mỹ cứu nước". Sau năm 1975, ông lãnh đạo chương trình lo cho 1500 người hồi hương bị chính quyền mới "bỏ quên nên bị tình nghi là CIA" và đã bị bỏ tù trong một thời gian ngắn (?). Tiếp theo bị vợ bỏ. Ông liền lấy vợ lần thứ hai. Vợ mới bỏ. Gia đình ruồng rẫy. Anh em hắt hủi, cháu chắt đánh đập. Ông "xù Phật theo Chúa" (Chữ của chính Huệ Nhật),... vân vân và vân vân.

Đời tư của Huệ Nhật dù có vinh quang hay khốn đốn đến mức độ nào thì đó cũng là chuyện riêng của ông, nếu đìều đó không liên quan đến ai cả. Thế nhưng, ông đã đem chuyện đời tư của mình để làm bằng chứng và phương tiện để làm cặp kính màu xám xịt mà ngoái đầu lại nhìn Phật giáo một cách tự phát tùy tiện và đơn giản đến độ kinh ngạc. Sự lương thiện tri thức của Huệ Nhật đã vượt qua giới hạn... đèn đỏ khi ông "thừa thắng xông lên" chụp cho Phật giáo và các nhà sư Phật giáo có danh tiếng những chiếc nón tả hữu, xanh đỏ lập lòe đầy chất sáng tạo ngô nghê.


1. Trường hợp bi hài: Khi thánh sống... muốn chết

Huệ Nhật đã lặp đi lặp lại nhiều lần từ đầu đến cuối tập sách về điều gọi là "Hai lần tự thiêu hụt" của ông.

Lần thứ nhất, Huệ Nhật kể lại rằng, năm 1963, khi mới 18 tuổi, vừa mới đi tu theo Phật giáo được 4 năm, ông đã tình nguyện tự thiêu 2 lần: Một lần tại Nha Trang, tháng 8/1963 và cả hai lần đều bị từ chối. Thế nhưng sau đó Huệ Nhật đã được giới tu sĩ Phật giáo và Phật tử coi như một vị "thánh sống". Sau đó Huệ Nhật laị bay về Quảng Trị và tình nguyện tự thiêu tại Huế, tháng 10/1963 và cũng bị từ chối (Sđd, trang 246-254). Đâu là sự thật về "lịch sử tự thiêu" của Huệ Nhật?

Về mặt nguyên tắc: Trong năm 1963, đã có 7 tu sĩ Phật giáo tự thiêu, gồm 2 Hoà thượng và 5 Đại đức (tuyệt nhiên không có một vì nào thấp hơn hàng đại đức hay ở lứa tuổi mới qua khỏi vị thành niên hoặc còn ở hàng sa-di như Huệ Nhật cả). Tự thiêu đối với Phật giáo là một sự tự nguyện hiến dâng nhục thể để cúng dường tam bảo, vì vậy hình thức cung hiến nầy mang một ý nghĩa rất thiêng liêng và cao cả. Huệ Nhật thuở đó còn là vị thành niên, vào ở chùa 4 năm, nếu chịu tu hành nghiêm túc cũng chỉ mới lên được hàng sa-di, nghĩa là một chú tiểu ở chùa, chưa được đứng vào hàng ngũ tham gia những sinh hoạt bên ngoài của giáo hội. Thế mà ông lại tự "phong thánh" cho mình với những sự việc trọng đại có vẻ như đã được giáo hội chấp thuận trên nguyên tắc để đứng vào hàng "tu sĩ chuẩn bị tự thiêu".

Về mặt sự kiện: Tại Huế, có hai cuộc tự thiêu. Vụ đầu tiên là Hòa Thượng Thích Tiêu Diêu ngày 26-6-1963 và vụ thứ hai là Đại đức Thích Thanh Tuệ ngày 15-8-1963. Thời đó danh sách các tu sĩ tình nguyện lên tới 36 vị, nhưng giáo hội đã chấm dứt việc tự thiêu vào tháng 8-1963. Trong lúc đó Huệ Nhật lại xin tự thiêu vào tháng 10-1963. Oái oăm hơn nữa là địa điểm dự trù là khách sạn Thuận Hóa, trong lúc khách sạn này lại nằm ẩn kín sau Morin, ít khi có bóng người lai vãng. Trường hợp nầy không biết có nên mượn nhận xét của nhà văn hài hước Bernard Shaw không: "Nói dối mà thiếu thông minh cũng như mặc quần thủng đáy, càng kéo càng lòi... ra!"

Sự hư cấu đầy tính chất hoang tưởng của Huệ Nhật nhằm mục đích gì?

Chính Huệ Nhật đã trả lời ngay trong tập sách của ông: "Khi còn nhỏ, anh mơ ước đi tìm chân lý như thái tử Tất Đạt Đa. Cạo đầu cầu đạo đi tu. Đang học đạo anh tình nguyện tự thiêu chống bất công tôn giáo ở miền Nam, vì lúc ấy anh tin rằng đó là cách tìm gặp chân lý mau nhất, nhưng suýt nữa mà anh bị ‘VC’ lợi dụng tổ chức cho cái chết của anh dưới danh nghĩa hy sinh cho Đạo Pháp" (Trang 73&74).

Lần thứ ba vào cuối năm 1964, tại Nha Trang Huệ Nhật lại mon men xin tự thiêu, đã không được ai coi ra gì lại bị mang một tên mới là "Thánh Chuối" vì bị người dân thường và giới tu sĩ coi như một gã bất lương (theo lời của Hoà thượng Thích Thiện Trì, viện chủ chùa Kim Quang ở Sacramento là giáo thụ thường trú tại hoc Viện Phật học Nha Trang vào những năm 60). Vì vậy, hậu quả khinh ghét ấy đã làm ông tuyệt vọng, như Huệ Nhật đã tự ghi lại trong sách: "Khi nhìn biết một sự ganh ghét xấu xa, những hành vi gỉa hình của người tu sĩ thuộc bậc anh, bậc thầy của mình, anh có cảm giác gớm ghiếc, khinh bạc và nghĩ đến cái chết để được giải thoát. Anh cảm thấy cần một cái chết để giải quyết những hậu quả phiền toái về sự sống sót của anh." (Trang 258)

Những trang tiếp theo, Huệ Nhật đã dùng hết lời lẽ nặng nề mà hàng thức giả bình tâm nên tránh và lối suy diễn chủ quan đầy cảm tính một chiều để mạo phạm đến hàng hòa thượng, thượng tọa lãnh đạo cao cấp của Phật giáo còn tại thế hay đã viên tịch (Trang 246 đến 273. Sđd). Người đọc lấy làm tiếc cho một quá trình cải đạo đáng lẽ phải giàu tính văn hóa và nặng chiều sâu tâm linh; chứ không phải theo một dòng xuôi "tội tình" như thế. Dẫu ra đi hay quay về thì một kẻ có lòng vẫn không thể đánh mất mình. Loại cá hồi đi năm sông bảy suối còn nhớ nguồn; cáo chết vẫn quay đầu về núi cũ lẽ nào con người có lương tri và trí tuệ lại nỡ quên!


2. Trường hợp bi đát : Cải đạo mà chưa... cải tà

Trong đức tin tôn giáo, ra đi cũng là quay về... quay về với lòng thành (chân tâm) và nẻo chánh (chánh đạo). Đạo Phật gọi sự quay về đó là quy y và đạo Chúa gọi đó là sự trở về. Tất cả chỉ là phương tiện. Chỉ sợ lạc đường mất lối đi về chứ tìm cho mình một phương tiện thích hợp để tiến tới sự thành thật với chính mình và khai phá một hướng đi nhằm đạt mục đích cao đẹp cuối cùng của Đạo là đìều đáng trân trọng. Tâm là con đường đạo. Tâm trong sáng, đường thong dong. Tâm mê mờ, đường khúc khuỷu. Cải đạo, bất cứ là đạo chính đáng nào, đều đáng quý. Nhưng điều quan trọng hàng đầu là phải cải tà (tà tâm, tà kiến, tà đạo) trước khi cải đạo.

Trường hợp Huệ Nhật cải đạo thật đáng chúc mừng. Nhưng ông đã để lộ ra phản ứng quá đà. Thật ra, Huệ Nhật đâu cần phải nhuộm chàm áo cà sa để qua truông. Sự lương thiện trí thức không cho phép người ta phát biểu theo kiểu "Xã Xệ chê con đường cái tối tăm, không có thật chỉ vì gã tìm đường không ra". Có thể sau khi cải sang đạo Chúa, Huệ Nhật sẽ được kính trọng hơn nếu ông chỉ cần bình tâm để vinh danh và ngợi ca Thiên chúa mà không cần phải xông xáo lên giọng chê bai, bài bác một đạo Phật đã cưu mang ông thuở đầu đời. Ước chi Huệ Nhật gia công tìm hiểu và học hỏi nghiêm túc hơn về đạo Phật và đạo Chúa để tránh tình huống mà ông tự mệnh danh là "xù Phật, theo Chúa" thì sẽ hay cho ông hơn khi nhìn ra và hay cho kẻ bàng quan hơn khi nhìn vào. Động cơ lẫn ý hướng "xù" hay "theo" một đức tin tôn giáo (Phật hay Chúa) của Huệ Nhật đều nông nổi và tiêu cực một cách đáng tíếc như ông đã viết ra trong tập sách. Ông cải được đạo nhưng chưa cải được tà nên vẫn canh cánh bên lòng cái mặc cảm đầy u ám "phản sư, diệt tổ" hay "lừa thầy, phản bạn" mà luân lý xã hội và văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam nghiêm khắc lên án. Để giải thích và giải tỏa phần nào mặc cảm tâm lý cho hành động bỏ đạo Phật theo đạo Chúa của mình, Huệ Nhật tự so sánh, ví von hành động lựa chọn của mình cũng giống như đức Phật Thích Ca và đức chúa Kitô: "Khi em nói tới chữ lừa thầy phản đạo là đã bày tỏ một tinh thần hẹp hòi, nông cạn, không hiểu gì về ý nghĩa của đạo. Anh phải nhắc lại một lần nữa là chính Đức Thích Ca cũng đã mang tiếng lừa thầy phản đạo sau khi rời bỏ con đường tu khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác Đà... Một trong những lý do mà nhóm thầy tu Biệt Phái (Pha-ri-si) kết án chúa Jesus để đónh đinh Ngài cũng là vì họ cho rằng Chúa Jesus đã hủy bỏ truyền thống có sẵn trong đạ Do Thái (phản đạo)!" (Trang 289) Rõ ràng là Huệ Nhật muốn xây dựng luận điểm rằng, ông bỏ đạo Phật qua đạo Chúa vì đạo Phật không phải là chánh đạo: "Đối với những bậc thầy của Ngài như năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác Đà... Ngài cũng lìa bỏ khi nhận ra rằng những người nầy không dạy cho mình chánh đạo." (Trang 288) Nhưng không rõ vì vô tình hay cố ý, người cải đạo tân tòng Huệ Nhật đã "phang" luôn cả đạo Chúa: "Anh tin Chúa trong hoàn cảnh bị đối phương khủng bố, chứ không phải tin Chúa để kiếm mùng mền cơm gạo như nhiều người Việt Nam trong chiến tranh. Những người Việt Nam đã theo Chúa vì muốn có hàng viện trợ của Mỹ ngày xưa chẳng có phước hạnh gì hơn." (Trang 289)

Huệ Nhật đã lửng lơ mô tả hàng ngũ tu sĩ Phật giáo là những người cũng tương tự như Huệ Nhật, rằng: "Cũng có những người ăn cơm chùa từ khi còn rất nhỏ, nhưng trí óc thuộc loại độn căn; học thêm một chữ là đã quên đi hai chữ, vì thế khi lớn lên chỉ ở trong chùa, dù rất muốn ra đời cũng không dám ra. Ngày nay những người ấy trở thành những bậc sa môn. Chễm chệ làm ông thầy. Chỉ ngồi niệm hai chữ Nam Mô là cả vạn người nghe theo dâng đầy tiền của. Tu lâu phải thành sư cụ. Anh bước ra khỏi chùa để sống thật với con người mình hơn." (Trang 288)

Huệ Nhật đã làm nhiều pha so sánh khập khiễng và lạm bàn những đề tài tôn giáo quá lớn so với năng lực cá nhân quá nhỏ bé và giới hạn của ông. Bởi vậy, ông đã để lộ năng lực giới hạn đó qua những dòng chữ nói về đạo Phật và đạo Chúa môt cách khiên cưỡng, đơn giản đến độ đáng kinh ngạc, như là: "Phật giáo rất rộng nên đúng và sai không có biên giới. Có khi bỏ Phật mà lại đúng hơn là cứ đường đường theo đạo Phật một cách hữu sắc vô hương. Phật giáo là một tôn giáo có nhiều giáo lý mênh mông bát ngát đến nỗi người đi theo có khi đã đi lạc đường gần hết một đời mà vẫn không biết. Nhưng đức tin đi trong Chúa là đi trong Đường Hẹp, bước ra khỏi Kinh Thánh là thấy lạc đường ngay. Ngày nay có một số giáo hội vẫn thờ Chúa, nhưng không làm theo kinh Thánh. Nhiều tín đồ của họ không hiểu gì về Đấng mà họ thờ cả." (Trang 171)

Nếu có một tấm lòng ngay thẳng thì đạo Phật và đạo Chúa đều là những con đường tư tưởng, hành xử và uốn nắn để vươn lên đỉnh núi an lạc và hạnh phúc của sự giác ngộ hay cứu rỗi. Nếu hành giả hay tín đồ lên đường mang một cái tâm vọng động thì rốt cuộc cũng chỉ đi loanh quanh dưới chân núi vì bị vướng mắc vào hình tướng sai lạc từ cái nhìn chủ quan của chính mình mà thôi.

Với tinh thần tự do và phóng khoáng của đạo Phật xưa nay, bất cứ một người Phật tử bình thường nào cũng đều hoan hỷ khi có người đem chuyện cửa thiền nói cho những người thuộc các tôn giáo bạn được nghe. Tất nhiên là người nói chuyện đó cần thiết có 3 đìều: (1) Có hiểu biết căn bản và nghiêm túc về Phật giáo; (2) có tấm lòng lương thiện và ý hướng ngay thẳng; (3) có ý thức tôn trọng đức tin tôn giáo của người khác. Trên mạng lưới truyền thông đại chúng trong những năm qua, phản ứng gay gắt từ nhiều phía đối với ông Nguyễn Huệ Nhật có thể chưa hẳn đã hoàn toàn khách quan và công bằng. Nhưng ít nhất đấy cũng là những dấu chỉ đậm nét của phản ứng quần chúng từ nhiều phía về một trường hợp cải đạo khá đạc biệt.

*


Vài ba năm sau đó, khi được tin ông Nguyễn Huệ Nhật thành mục sư Joshua Nguyễn Huệ Nhật, tôi đã gởi lời chúc mừng qua Hội Thơ Tài tử. Không ai ngạc nhiên về tinh thần cải đạo năng nổ cùng với sự "đạt đạo" nhanh chóng và hanh thông của một nhân vật có tài năng biến hóa linh hoạt như ông Huệ Nhật cả. Sự tin đạo, bỏ đạo, theo đạo hay cải đạo... có vẻ như là một hiện tượng phổ biến trong thời đại mới. Phải chăng đấy là một phản ứng tâm lý có điều kiện do tác động của nhu cầu thế tục hơn là do sức mạnh thánh hóa thiêng liêng. Thế kỷ 21 được mệnh danh là thế kỷ của kinh tế thị trường nên khuynh hướng "mặc cả" mạnh hơn là "mặc khải". Có lẽ thấy rõ được điều đó nên mục sư Luke Mather của giáo phái Lutheran tại Hoa Kỳ đã lên tiếng với tín hữu rằng: "Một thế kỷ mới vừa sang trang. Các tín hữu hãy quan tâm đến phẩm chất của đức tin về Thượng đế hơn là chỉ biết tụ họp đông người để ngợi ca bằng những lời cũ nhạt, vô hồn quanh Ngài. Hãy luôn luôn dè chừng về một giai đoạn mà nhu cầu bành trướng con số trong tôn giáo đi bằng tốc độ siêu thanh; trong khi nhu cầu tâm linh vẫn âm thầm và cẩn trọng di chuyển với vận tốc đi bộ truyền thống." [3]

Mùa Hè năm 2006, lần đầu kẻ viết những dòng nầy được gặp mặt mục sư Joshua Nguyễn Huệ Nhật tại Sacramento trong Đại hội của Hội Thơ Tài tử. Được biết mục sư Huệ Nhật rất bận rộn với chương trình giảng đạo cho nhiều tụ điểm của tín đồ Tin lành tại nhiều nơi trên thế giới. Một Huệ Nhật bằng xương bằng thịt ngoài đời mà tôi đã gặp là một người hoạt bát, dễ mến. Qua hai lần gặp gỡ, thăm hỏi và chuyện trò, tôi bỗng đâm ra âm thầm ước chi ông mục sư bớt nói về Thượng đế trong các câu chuyện trao đổi thường tình thì ông không những chỉ là dễ mến mà còn có vẻ "thật" hơn và dễ tin hơn. Thánh Augustin đã phân biệt giữa "nói đạo" và "sống đạo". Một tâm hồn ngoan đạo thì sống đạo trong im lặng tỉnh thức; một tâm hồn còn vọng đạo thì chỉ biết bi bô nói đạo giữa chợ đời phồn tạp.

Một thời gian ngắn sau lần gặp mặt đầu tiên với Huệ Nhật tại Sacramento, tôi nhận được tấm bích chương quảng cáo do anh Nguyên Tâm, một huynh trưởng Gia đình Phật tử từ chùa Quang Nghiêm tại Stockton, gửi qua bưu điện để thông báo về buổi thuyết giảng của "đại đức Thích Huệ Nhật" với đề tài "Bỏ Phật, Theo Chúa". Đồng thời, sẽ có hàng loạt ấn bản sách TACSĐTTG đã được in ra và phát không tại nhiều nơi cũng như tại địa bàn nói trên. Lần nầy, cuộc thuyết giảng và sinh hoạt do một giáo phái Tin lành tại thành phố Stockton bảo trợ và tổ chức. Quần chúng tham gia sẽ được thân thiện mời đón, hoan nghênh và hoàn toàn miễn phí.

Sống ở xã hội Mỹ lâu ngày, tôi không ngạc nhiên về những hình thức quảng cáo mang tính giật gân và kích động; thậm chí, có khi sự quảng cáo bất chấp những giá trị đạo lý và những nguyên tắc lương thiện của tri thức. Bởi vậy, tôi thản nhiên xếp tờ quảng cáo vào ngăn kéo và quên nó đi khi nhớ mấy câu thơ của thiền sư Nhật, Takida Hanji: "Quên nó đi vì không có gì đặc biệt. Thản nhiên đi như chẳng có gì. Thôi không tiếc vì chẳng có gì đáng tíếc. Mây bay qua không dấu vết tà huy".

Anh Nguyên Tâm đã bày tỏ sự quan ngại về hiện tượng cải đạo và tệ trạng "nói xấu đạo cũ khi cải sang đạo mới". Vì tôn trọng thái độ lựa chọn của mỗi cá nhân, tôi không có lý do đơn cử hay luận bàn khen chê về một trường hợp nào cả, kể cả trường hợp của ông Nguyễn Huệ Nhật, tác giả tập sách TACSĐTTG mà tôi được mời điểm sách như đã trình bày ở phần trên. Sau đó, tôi đã gởi đến anh Nguyên Tâm kết quả mới nhất của PEW – một cơ quan nghiên cứu và thăm dò của Mỹ, có uy tín và được tin cẩn trên troàn thế giới – về tình hình cải đạo tổng quát tại Hoa Kỳ tính đến thời điểm tháng 8 năm 2007. Đây là một cuộc thăm dò và nghiên cứu về tôn giáo sâu rộng nhất từ trước tới nay tại Mỹ. Kết quả tổng thể cho thấy rằng, Phật giáo là tôn giáo có tỷ số người cải từ các đạo khác để theo đạo Phật cao nhất (+0.3) trong số 10 tôn giáo chính tại Mỹ. (Xin xem phần tóm tắt của cơ quan PEW, nguyên văn bằng tiếng Anh, về tình trạng cải đạo tại Mỹ, đính kèm [4] ).





Theo tinh thần Phật giáo, cải đạo là một hiện tượng tự nhiên và lành mạnh giúp con người tìm cho chính mình một "pháp môn" thích hợp nhất với căn cơ nghiệp quả của bản thân mình. Yếu tính thịnh pháp của đạo Phật hoàn toàn không căn cứ trên số lượng người theo giống như những tôn giáo khác. Ngược lại, lý tưởng cao nhất của đạo Phật là ngày nào chúng sanh không còn ai đau khổ, nghĩa là chẳng còn sinh linh nào cần phải theo Phật để được cứu khổ nữa, thì đấy là ngày "thắng lợi sau cùng" của đạo Phật. Và đấy cũng là đại nguyện của chư vị Bồ Tát như ngài Quán Thế Âm, Địa Tạng... chỉ thành Phật khi chúng sanh không còn ai đau khổ.

Thế kỷ 21 là thế kỷ mà con người toàn cầu đang bước ra khỏi thời kỳ của huyền thoại (mythologization) để vào kỷ nguyên khai sáng của minh thoại (demythologization). Sự chuyển mình từ sức mạnh thần quyền sang sức mạnh nhân quyền trong nhiều khía cạnh vi tế và phức tạp của đời sống đã làm cho đạo Phật mỗi ngày một hiển lộ trước cái nhìn tỉnh thức của nhân loại. Con người cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã tiếp cận với Phật giáo như là một hệ thống triết lý, một tri thức khoa học và một suối nguồn tâm linh tôn giáo. Nhân loại "mới" khác với nhân loại "cũ" là cái nhìn tỉnh thức và can đảm của riêng mình mà không sợ hãi những tha lực khống chế từ nhiều phía... "quan trên trông xuống người ta trông vào" nữa. Tại trường Đại học Trung Sơn đệ tứ (nay là Đại học Sư phạm Nam Kinh), năm 1923, một học giả Phật giáo nổi tiếng là ông Âu Dương Cánh Vô (Jing Wu Ou-Yang) đã làm chấn động dư luận Trung Hoa đương thời với đề tài giảng thuyết: "Phật pháp không phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học, mà là nhu cầu tất yếu của thời đại". [5] Nhu cầu thời cận đại và hiện đại là khả năng sống chung hòa bình trên căn bản hiểu biết, hòa ái để hóa giải những xung đột bằng tâm lành và trí sáng.

Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ nên người Âu Mỹ đang "thức giấc huyền thoại" để tìm đến là một tiến trình tự giác hiển nhiên. Hướng giải thoát trong Phật giáo đến từ chỗ thấy được tánh thật của mọi sự hay vạn pháp quanh ta. Tìm được tánh thật là tìm được an lạc. Mong sự an lạc đến với mọi người.

Sacramento, tháng 9, 2008


[1]Từ áo cà sa đến thập tự giá. Nguyễn Huệ Nhật. Hội Thơ Tài tử Việt Nam xuất bản. Sacramento 1999.

[2]Tragic Wisdom and Beyond. Gabriel Marcel. Northwestern University Press. IL 1973.
[3]Christianism on the Rise. Luke Mather. Holiness Press. MA 2006
[4]The PEW Forum on Religion & Public Life. U.S Religious Landscape Survey. May 5 – August 13, 2007
[5]Nhận Thức Phật Giáo. Tịnh Không Pháp Sư. Thích Nhuận Châu dịch. Phương Đông xuất bản. VN 2007