6/5/10

TRUNG QUỐC- CƯỜNG QUỐC BẤT ỔN

TRUNG QUỐC- CƯỜNG QUỐC BẤT ỔN
Tin 6-5-2010

TRUNG QUỐC- CƯỜNG QUỐC BẤT ỔN
Tài liệu tham khảo đặc biệt

Thứ Sáu, ngày 16-4-2010

Ramesh Thakur, Hiệu trưởng trường quan hệ quốc tế Balsillie, Giáo sư khoa học chính trị Đại học Waterloo (Canađa), vừa có bài viết trên báo “Công dân Ốttaoa” đánh giá về vị thế của Trung Quốc hiện nay như sau:


Quan hệ Mỹ -Trung sẽ trở thành trục then chốt của trật tự thế giới hậu đơn cực. Quan điểm của Phương Tây về Trung Quốc có xu hướng dao động giữa đối đầu và thân thiện dẫu ngày càng thổi phồng lên hoặc làm giảm đi tầm quan trọng của Trung Quốc. Đánh giá ôn hòa cho rằng Trung Quốc đang nắm giữ vị trí quan trọng, đầy trách nhiệm trong việc quản lý trật tự thế giới và khu vực. Trong khi đó, các đánh giá bi quan thì lo ngại sự cứng đầu cứng cổ của Trung Quốc trong một loạt các vẫn đề trên thế giới.


Các cuộc chiến tranh trị giá 3.000 tỷ USD tại Irắc và Ápganixtan đã làm Mỹ vỡ nợ. Và việc Mỹ chấp nhận nhập hàng hóa sản xuất từ Trung Quốc cũng như dịch vụ của Ấn Độ cũng làm suy giảm khả năng của Mỹ trong việc cung cấp đủ hàng hóa và dịch vụ để thanh toán các chi phí Mỹ đã trang trải.


Nền kinh tế Mỹ vốn là nền kinh tế lớn nhất, cân bằng nhất, hiệu quả nhất và sáng tạo nhất. Nhưng hiện nay, kinh tế Mỹ chất đầy gánh nặng nợ nần, thâm hụt và bất ổn. Thâm hụt của Mỹ, dự kiến chiếm khoảng 11% sản lượng kinh tế trong năm 2011, sẽ vẫn chiếm khoảng 5% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong năm 2020. Hệ thống chính trị dường như hoạt động bất bình thường của Mỹ làm thất bại tất cả các nỗ lực giải quyết các vấn đề về cấu trúc. Nếu vào cuối thập kỷ này, Mỹ vẫn còn là con nợ lớn nhất thế giới (như dự báo kinh tế Mỹ thiếu độ tin cậy trong 10 năm tới), liệu Mỹ sẽ vẫn còn là cường quốc lớn nhất thế giới?


Trung Quốc là thị trường ôtô lớn nhất thế giới tính theo số lượng, nước xuất khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới và sẽ có tốc độ tăng trưởng lớn nhất trong thương mại thế giới trong một thời gian. Mỹ vẫn là trung tâm tài chính và tiêu thụ của thế giới nhưng trung tâm sản xuất mới của thế giới lại là Trung Quốc. Trung Quốc không còn phụ thuộc vào thị trường, bí quyết quản lý và công nghệ của Mỹ và cũng không phụ thuộc vào sức mạnh của Mỹ làm đối trọng trước mối đe dọa Liên Xô cũ. Là một quốc gia có ảnh hưởng lớn tới việc định giá năng lượng, khoáng sản và các loại hàng hóa khác, Trung Quốc cũng là quốc gia thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính lớn của thế giới (không tính trên đầu người), một thủ phạm chính gây biến đổi khí hậu toàn cầu.


Các nhà phân tích tại Mỹ lập luận rằng sự mất lòng tin về quan điểm của phương Tây đang dẫn đến sự mất uy tín đối với Oasinhtơn về các chính sách thị trường tự do, ủng hộ thương mại và toàn cầu hóa và được thay thế bằng sự nhất trí đối với Bắc Kinh về một quốc gia có thị trường vốn được kiểm soát chặt chẽ theo chỉ đạo của nhà nước và có quá trình đưa ra quyết định độc đoán có thể gây khó khăn cho việc lựa chọn chiến lược và việc đầu tư dài hạn nhưng không bị bối rối bởi các cuộc thăm dò hàng ngày.


Mỹ càng thể hiện thiện chí bao nhiêu thì Trung Quốc càng cứng rắn bấy nhiêu. Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Barack Obama hồi tháng 11/2009 thể hiện điều đó. Việc ông Obama từ chối gặp lãnh tụ tôn giáo Đạtlai Lạtma trước chuyến thăn Trung Quốc đã củng cố thái độ tượng trưng của Mỹ. Cuộc gặp giữa Tổng thống Obama và Đạt lai Lạt ma sau đó tại Nhà Trắng đã nhận được sự cảnh báo mạnh mẽ từ Bắc Kinh.


Tuy nhiên, khi Mỹ cần Trung Quốc cung cấp tài chính cho các khoản nợ khổng lồ, thì sự suy thoái của kinh tế Mỹ đã làm giảm mạnh việc bán các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc tại thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới và cũng có thể giảm dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc.


Việc Trung Quốc vốn tin rằng trật tự thế giới với một siêu cường và nhiều cường quốc khác sẽ vẫn tiếp tục. Các cuộc chiến tranh Irắc và Ápganixtan đẩy nhanh sự suy thoái về quân sự, tài chính và đạo đức đối với Mỹ. Để bảo vệ lợi ích của mình, một số người Trung Quốc đã cân nhắc làm thế nào họ có thể bắt kịp tốc độ phát triển của Mỹ. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính vốn đã cho thấy sự vượt trội của Trung Quốc về khả năng phục hồi, các nhà phân tích Trung Quốc đã có hàng loạt các bình luận về sự suy thoái của Mỹ.


Lần đầu tiên trong 200 năm qua, thế giới phải can dự với một cường quốc Trung Quốc thống nhất đã trở nên mạnh mẽ hơn trong nhiều vấn đề, bao gồm vấn đề biến đổi khí hậu, tự do Internet và tranh chấp biên giới với Ấn Độ. Nhưng như vậy có phải Trung Quốc đã vượt quá các điều kiện so với vị thế mới của Trung Quốc. Đế chế Trung Hoa không có thời kỳ quá độ lịch sử, triết học hay văn học về quan hệ ngoại giao như là một cường quốc trong một hệ thống các cường quốc của thế giới. Điều này sẽ trở thành vấn đề đặc biệt liên quan khi ảnh hưởng của Trung Quốc đối với toàn cầu ngày càng tăng và các lợi ích, sự hiện diện, hoạt động của Trung Quốc phát triển khắp thế giới.


Việc đối xử với Trung Quốc như một kẻ thù có thể biến thực thể này thành một quốc gia đoàn kết. Nhưng liệu Mỹ có đảm bảo cho sự trỗi dậy của một quốc gia độc đảng- đối thủ địa chính trị xứng đáng duy nhất của Mỹ hay không?


Chính sách Trung Quốc của các chính quyền cựu Tổng thống Clinton và cựu Tổng thống Bush đã cho thấy giả định rằng việc hướng tới thương mại tự do và thời đại thông tin sẽ tạo ra và tăng cường sức mạnh các lực lượng tự do và thay đổi chính trị. Nếu như giả định này sai? Các bằng chứng cho đến nay chủ yếu cho thấy theo chiều hướng ngược lại.


Việc Oasinhtơn đã thông qua việc bán vũ khí cho Đài Loan trị giá 6 tỉ USD với tính toán rằng với hơn 1.300 tên lửa của Trung Quốc hướng tới

Đài Loan, việc thúc đẩy chuẩn bị quân sự cho sau này có thể là một tuyến phòng hộ khôn ngoan hơn là phải bảo vệ Đài Loan khỏi bị tấn công. Nó đồng thời làm tăng nguy cơ thất bại và chi phí để thành công đối với Bắc Kinh khi tiến hành cuộc chiến. Bắc Kinh đã trả đũa ngay lập tức, đình chỉ trao đổi quân sự song phương và áp đặt lệnh trừng phạt các công ty bán vũ khi cho Đài Loan.


Tuy nhiên, các tính toán về sự suy giảm tương đối của Mỹ nhiều khả năng thúc đẩy Bắc Kinh hướng tới việc thực hiện biện pháp đòn bẩy đối với chính sách quốc tế của Mỹ hơn là đối đầu trực tiếp. Trung Quốc sẽ muốn xác định lại trật tự đa phương theo các điều kiện của Trung Quốc, gạt sang một bên các vấn đề về nhân quyền, các giá trị chính trị thay vào đó tập trung vào giải quyết các vấn đề thường gặp. Trung Quốc sẽ có thiện chí hơn, có khả năng hơn trước kia trong việc định hình môi trường quốc tế và trật tự thế giới theo hướng chủ động hơn là phản ứng thụ động.


Sự phát triển của Trung Quốc được người ta chào đón như là một đối trọng với sức mạnh quân sự và sự kiêu ngạo chính trị của Mỹ. Trung Quốc cũng có thể là động lực tăng trưởng của thế giới. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không thận trọng, họ có thể phải đối phó với sự chống đối mạnh mẽ vì nhiều quốc gia, các tổ chức đa quốc gia và các tổ chức phi chính phủ bắt đầu chống lại sự độc đoán gay gắt của Trung Quốc.


Việc Google đe dọa rời khỏi Trung Quốc có thể là một điềm báo trước về tình trạng quốc tế đang thay đổi. Cuộc chiến của Google với Trung Quốc nhiều khả năng được thúc đẩy bởi tính toán thương mại hơn là sự lo ngại về tự do thông tin.


Vì hầu hết các công ty nước ngoài đã phát hiện ra không phải dễ dàng để chuyển từ tiềm năng to lớn của Trung Quốc thành lợi nhuận to lớn. 1/3 cổ phần của Google tại thị trường của Trung Quốc chỉ mang lại 5% doanh thu toàn cầu của Google. Nếu có một sân chơi bình đẳng, Google có khả năng giành thị phần tại thị trường lớn hơn từ Baidu – đối thủ cạnh tranh chính tại Trung Quốc. Việc đánh giá rủi ro về chiến lược phát triển của Bắc Kinh có thể phản ánh phân tích đắt giá này.


Trong khế ước xã hội ngầm tại Trung Quốc, các công dân ngầm bằng lòng với sự kiểm soát chính trị để đổi lại chính phủ tiếp tục đem lại sự thịnh vượng, đen lại cho họ hàng hóa và dịch vụ giống như phương Tây. Do chủ nghĩa cộng sản mất uy tín, chính phủ thiếu một hệ tư tưởng hợp pháp để tăng trưởng kinh tế. Nếu điều này đang bị đe dọa bởi sự rút khỏi Trung Quốc của Google và các công ty đa quốc gia lớn khác, sự thất bại chiến lược đối với Chính quyền Trung Quốc có thể lớn hơn khoản thất thu từ các nguồn lợi kiếm được của các công ty.


Trung Quốc đang đắm mình trong sự thừa nhận ngày càng tăng về vị thế của họ. Trung Quốc hạnh phúc với những lợi ích thu được từ vị thế của họ hiện nay, chấp nhận gánh nặng của việc trở thành một cường quốc.


Suy nghĩ đó giúp giải thích về sự kiểm soát tiền tệ nhằm bảo vệ xuất khẩu của Trung Quốc trong khi các quốc gia khác lại chịu thiệt, cũng như việc Bắc Kinh không có thiện chí cam kết việc cắt giảm có sự kiểm chứng của quốc tế về khí thải gây hiệu ứng nhà kính và tranh thủ các chế độ độc tài bị quốc tế cô lập để tiếp cận nguồn nguyên vật liệu và các nguồn tài nguyên./.

Phạm Công Thiện- Mặt trời không bao giờ có thực

Mặt trời không bao giờ có thực
Phạm Công Thiện

I.

Gần năm tháng nay, hắn đã sống hững hờ như một thây ma; mỗi ngày bắt đầu lại một mặt trời cũ, dâng lên trên những mái nhà một xác thối của mặt trời, ánh sáng của đèn cầy còn dễ thở hơn ánh sáng của mỗi ngày dư máu. Máu ứ đọng lại trong lòng mặt trăng của tư tưởng. Hắn thù ghét sanh từ, động từ “ý thức” và thù ghét cả tính từ “ý thức”. Chỉ có hận thù mới có thể rửa sạch những vết đen mà mặt trời và mặt trăng đã để lại trái đất này. Hắn không còn ở mặt đất này nữa. Hắn bay xa đến một triệu năm ánh sáng: Hắn bay bằng hai cánh tay. Hãy thu lại lộ trình thời gian, vì hắn đã bay không cần cánh chim. Tay hắn run run, muời năm trời tập bay; bay lên rồi té xuống muốn vỡ sọ. Hôm nay, hắn đã bay xa và không trở về mặt đất nữa. Tiếng chim non hôm nay là tiếng chim non của một triệu năm không bao giờ mất mặt. Những con kiến đen hôm nay trở thành những ngôi sao đổi màu giữ không gian xanh, trắng và màu vàng cam. Hắn quỳ lạy những con kiến lửa. Kiến lửa của thoát ly, kiến máu của mực đen chảy từ ngòi bút, “con kiến này kiện củ khoai”, ngôi sao trong lòng tôi đông như kiến cỏ: Những con kiến cánh bay trên thung lũng của sợ hãi, dè dặt, tiết kiệm tinh khí, chứa chấp cơm chiều. Kiến càng vẫn chịu thua kiến gió: “con ong cái kiến” là vấn đề trọng đại của triết lý hiện nay. Tiếng phản lực cơ muốn đe dọa những con kiến dưới kia. Triết lý của con kiến là chờ phản lực cơ bay ngang để bò ẩn dưới những ngọn cỏ đọng sương, lớn lên như loài kiến riện, làm hôi đời, đất mùa thu, hôi trăng, non như thơm nách đêm rằm. Chỉ cần mặt trời mọc lên cao là mặt trăng ứ sữa, loãng ra như loài côn trùng bị xới đất. Những con kiến cánh lại thèm nhớ lửa và đã chết đi một cách thê thảm như ngững ngày quá khứ của đời tôi. Nguyệt Thu, Nguyệt Thu. Một dòng sông chảy dài qua thành phố cũ. Thành phố mang tên là Nguyệt Thu và con sông ấy được người đặt tên là Quế Hương Giang. Tiếng động cơ nổ giữa trời. Hắn bỏ viết.

Tôi muốn giết hết tất cả con kiến trong ý thức con người.


II.

Viết điên lên. Viết bất cứ cái gì; viết về gió, nước mắt, mây đen, tàn thuốc, bình minh, tiếng xe cộ, vệt mây đỏ, tiếng va chạm của kim khí, chậu hoa héo, chim, áo phơi, hang xóm, máu, bàn tay. Viết cho mệt nhoài thân thể, rã rời trí óc, tê chết ngòi bút, lạnh buốt hơi thở. Viết như chưa từng viết bao giờ. Viết cho hoang phí hết sức khoẻ, tiêu tán hết những con đường, mòn nát hết những trang giấy trắng trên đời. Viết cho chết lẵng hồn tất cả những hi vọng của trái đất. Viết như giã biệt đời sống, tuyệt bút gửi lại miền Bắc Cực và Nam Cực. Tôi ôm cả địa cầu trong đại dương chưa khám phá của Mực và Máu.


III.

Biết chờ đợi, không kết quả, không hoa mọc, không mùa xuân. Không hỏi, không hỏi gì hết. Không hỏi buổi sáng, không hỏi lòng người, không hỏi sức nóng tàn bạo của buổi trưa, không hỏi hơi ngạt u ám của buổi chiều, không hỏi quá khứ. Chịu cực hình một cách phũ phàng im lặng, đôi mắt thuộc về bong tối của mưa rừng hoang khê. Đến và đi, mặc cho đại dương, mặc cho mày trắng sơn trời, mặc cho thời gian, mặc cho thời gian, tìm đâu cho ra sữa tươi giữa khu phố vắng? Đến và đi như vệt khói điên trên đống lửa cháy. Tôi muốn giết hết tất cả những con chim trên đời: mỗi một con chim là bản án tử hình treo lên đầu nhân loại; tôi muốn giết hết tất cả thiên thần trong lòng người. Tôi vừa chuyền lửa cho điếu thuốc cuối cùng của đời sống thiên mệnh.

Nói chỉ khi cần nói, khi nói có ý nghĩa như đá va chạm vào nhau; rất ít nói và đem im lặng trả về cho sự bí mật khôn cùng của thung lũng. Rất ít nói. Và khi nói thì lời nói là lửa đánh lên giữa diêm quẹt và đá khô. Hát khẽ trong lòng những ngày lửa cháy trên từng hơi thở. Nuôi bầu trời Mễ Tây Cơ trong lòng, giữa mùa hè khô khan, tôi vụt nghe tiếng nổ của mùa xuân. Tạo Phi châu trong mỗi cái nhìn thường ngày. Mỗi một giây phút, mỗi một hơi thở của mình chứa đựng những cánh rừng hoa nở khắp hoàn cầu, những con bướm giao nhau trên những hải ngạn mùa đông, những nàng con gái mơ mộng thẹn thò, tiếng cười của trẻ thơ trong một đường hẻm bỏ hoang.

Ồ, chưa bao giờ tôi thương những con chim như chiều nay. Tôi muốn xây lên một nghĩa địa chim giữa thành phố.


IV.

Kiên nhẫn, biết chờ đợi với sự ồn ào dễ sợ của trí óc. Chưa có người nào có được kiên nhẫn lạ thường như ngày hôm nay. Thời gian là một con sân có bong trổ mầu.Tôi có dư thời giờ để làm đủ mọi sự. Tôi chưa bao giờ hấp tấp vội vã trong bất cứ lần nào trong đời sống. Thỉnh thoảng tôi tưởng rằng tôi gấp gáp vội vã nôn nóng để làm một việc gì đó; thực ra thì đó chỉ là một sự trá hình cần thiết để sống với người đời, để cho họ thấy rằng tôi không khác họ: lòng nhân đạo cuối cùng còn rớt lại trong linh thức.

Trầm lặng, tàn nhẫn, khiêm nhượng, lạnh lùng, chỉ khi nào đứt mặt nạ thì những nét lộ liễu ấy mới vụt hiện ra như trò chơi của ánh sáng và bong tối trên đám lá non.


V.

Thanh bình đã chết trong tôi như một con muỗi để máu trên chiếc mền mùa đông. Từ đây cuộc đời trở thành mực đắng.Tôi không còn phân biệt giữa mực và máu. Tôi trở thành kẻ thù của tất cả loài hoa dại.Tôi tru lên như người bị cơn điên mặt trời giữa mùa Đông vô tận của Bắc Cực. Tôi không hét; tôi nhổ vào mặt Thanh Bình. Tất cả mùa xuân đều lường gạt; vệt máu đỏ của con muỗi cũng là vệt máu từ thân thể tôi: muỗi là con chim bị đọa. Tôi xin gióng lên một hồi chuông siêu độ cho tất cả những con muỗi đã chết trên khắp hoàn cầu, Requiem pour un moustique, an bình cho muỗi, cầu nguyện cho muỗi an giấc ngàn thu…


VI.

Không bao giờ và bao giờ. Tôi cứ sống mãi với thế giới của không bao giờ và bao giờ. Triển hạn là nỗi đau đứt thần kinh của con người. Đập quá khứ nát bấy ra như bụi tro. Chỉ một lần, không bao giờ trở lại vì bao giờ trở lại. Đẩy mọi kinh nghiệm đến chỗ đường cùng, tát cạn tất cả mọi dòng sông, tát cạn tất cả mọi đại dương, đây là đường của tôi đi. Chỉ hối tiếc là đã sống không trọn nó, nuốt nó, ăn nó, liếm nó, nốc cạn nó cho điếng hồn, khô họng, tê lưỡi, đây là đường của tôi đến. Đi và đến vì không bao giờ đến đi và bao giờ đi đến, đây là tiếng hót buốt lạnh của những con chim chưa có tên. Viết như nhảy vào lửa, viết thư xối nước nguồn, bơi, chìm, ngộp, ngất, chết đi trong mực và máu. Cắt đứt mạch máu trong cơ thể để hoà với mực; ồ, mùa thu đã về trên hải ngạn. Mây trắng vẫn bay ngỗ ngược như không bao giờ hối tiếc trăng thu mọc trên cây quế thơm cách đây mười năm. Vật đổi sao dời, nhưng mùi thơm của quá khứ vẫn tràn lạnh không gian, nhờ một bong mây xa triệng vào phương trời cũ. A, ta đang làm văn chương?


VII.

Gió nồm, hoa gạo và cỏ may. Ba đề tài cho tiềm thức hôm nay. Một đám cỏ khâu là dấu vết rêu phong của một trăm năm ý thức, “Trăm năm còn có gì đâu…”. Một vùng cỏ mọc lan trong những ngày tháng trôi đi. Hai mươi sáu vùng cỏ mọc trong hơi thở liên tục và chấm dứt lại một đám cỏ khâu.


VIII.

Một đám cỏ rậm rạp mọc lan trên hình hài của tôi. Thời gian, mặc thời gian. Thời gian đi qua những đám cỏ khâu. Thời gian đọng lại, đứng lại và không đi; thời gian bắt rễ trong đất, mọc dài lên và đợi gió nồm và hoa gạo.


IX.

Không có gì thơ mộng cho bằng mất giờ. Tôi mất giờ trong những việc nhảm nhí; tôi mất giờ trong những ý tưởng rời rạc, mất giờ vì làm những việc không xứng đáng, mất giờ bằng bao hoa lải nhải, bằng tâm sự bang quơ. Mất giờ để lặp đi lặp lại những cử chỉ, những cái nhìn, những dáng đi, những hơi thở. Mất giờ quá nhiều vì không làm gì hết, mất giờ vì mơ mộng vớ vẩn suốt ngày, suốt đêm.

Mất giờ, sung sướng biết rằng mình đã hoang phí thì giờ vào những việc không đâu. Thực còn gì mơ mộng, còn gì tuyệt vời cho bằng mất giờ và chỉ mất giờ!

Biết mất giờ mà không hối tiếc mới là sống và chết với tiếng ca của thời gian, tiếng hót của Thiên Thu, tiếng cười của Chết. Tiếng kêu rì rào của suối ngọt, tiếng chuông của ban mai, âm thanh xoắn óc xoay tròn, một đám mây, một vệt nắng, một người bước qua đường, ồ, tôi đang yêu đời, yêu đời vô hạn.


X.

Tôi đang yêu đời; tôi bỗng nhiên cảm thấy lo sợ vì nếu người đời biết được rằng tôi yêu đời dữ dội như vậy thì chắc họ sẽ giết tôi chết! Cả cuộc đời tôi là một giấc mộng đẹp vô song, vô hồn, vô tác. Tôi vĩ đại hơn hầu hết mọi người ở chỗ tôi có thể tạo ra giấc mộng cho tôi và điều khiển giấc mộng theo ý muốn trong mộng của tôi. Khổ, đau, bệnh, chiến tranh, tai nạn đã sợ tôi như sợ quỉ ma. Tất cả quỉ ma và thánh thần cũng sợ tôi; tôi cười âm lên, tiếng cười của tôi nổ tung trên ba tỷ ngôi sao vừa sinh.

Tôi không thể tin được rằng trên cuộc đời này lại có thể có người dám nhận rằng mình là bi quan. Tất cả những người tự nhận là bi quan yếm thế đều là những kẻ nói dối và lường gạt. Cuộc đời là một bài thơ vĩ đại nhất mà tôi đã tự sáng tác riêng cho tôi và cái chết chỉ là đôi mắt của Quế Hương. Điếu thuốc bastos sao mà thơm tho kỳ lạ, thơm như mùi khét của lá Đà Lạt.


XI.

Tại sao tôi có thể yêu đời dữ dội như ngày hôm nay? Tôi tự nhốt tôi trong phòng kín; tôi hút liên miên từ điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, có lẽ khoảng vài ba chục điếu. Tôi tắm gần mười lần. Tôi thích nước; tôi yêu sức nóng quá độ của thời tiết; tôi sung sướng vì được đổ mồ hôi; tôi nhìn đám mây; tôi nghe từng tiếng trẻ con khóc dưới xóm; tôi thở nhẹ nhàng, tôi thở mạnh bạo, tôi yêu nét chữ in; tôi mơ mộng những lộ trình sắp đi trong tương lai, tôi hồi nhớ dĩ vãng, tôi mân mê tỏ tình với cái chết; tôi nhảy múa bước lại trong phòng, cười, nghĩ, nằm ngồi; tôi nghĩ rằng hiện đang sống ở Thiên đàng, quả quyết rằng Thiên đàng cũng không hơn được những gì tôi đang sống hôm nay.


XII.

Đêm qua mưa ào ào tuôn chảy hơn thác nước; trời xuất tinh sau những ngày nóng dữ dội. Mưa đổ ào ào suốt buổi chiều, suốt buổi tối và suốt đêm. Tôi ngủ sớm, vì lâu lắm tôi mới được ngủ trong tiếng ru thơ mộng của cơn mưa lũ; tôi đắp mền kín cả người, thức giấc thì thấy thành phố đẹp lạ thường vào lúc bình minh; những mái nhà đen xanh, màu huyền lam, ửng lên một chút đỏ phượng trên chân trời mây xám. Tôi tưởng đang sống trong thế giới của nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn mà tôi đã sống lúc còn bé nhỏ. Tách cà phê sữa và vài điếu thuốc bastos đưa tôi trở lại thế giới người đời. Mặt trời hừng sáng, tràn ngập vào phòng tôi; tôi nghe một trăm con chim đang nhảy trong tim.

Lâu lắm rồi, tôi mới được nghe tiếng chổi quét bên hàng xóm. Tim tôi nhói lên vì bao nhiêu hình bóng thơ mộng bay về lào rào theo tiếng chổi sau cơn mưa. À ơi, mẹ ru con ngủ…


XIII.

Tôi hạnh phúc quá sức, còn đòi hỏi gì hơn? Chỉ nằm trên giường, mở rộng ba cánh cửa sổ, nằm kê gối đầu giường ngước nhìn ra chân trời cây mọc đàng xa, dở vài ba trang sách, mắt ve vuốt mực in màu đen, ngửi mùi giấy thơm của trang sách in ở Paris, của một tác giả xa lạ; mộng và thực xoắn vào nhau như lá bí và bông bụt, lòng tôi tràn trề như sữa chảy bất tận từ lòng trời. Cơ thể tôi run run như khi giao hợp; ồ ồ, tôi sung sướng ngất ngư tắm trong mật ngọt của những đài hoa, của hương phấn bông rừng. Hơi thở tôi nhẹ quá, tôi không còn nghe được hơi thở tôi nữa. Tôi cũng không còn là tôi nữa. Cái tôi quá nhỏ bé và cạn cợt; tôi bay lên trên nóc nhà ướt mưa đêm qua. Tôi bay lên tiếng kêu của trẻ con bên xóm. Tôi không còn mang tên, mang tuổi; một tiếng chim con vừa kêu, tôi sụp lạy.


XIV.

Đêm trở về, tâm hồn tôi bình lặng theo con nước chảy chậm của dòng sông đen đen. Cuộc đời trôi qua nhẹ nhàng, từng ngày lũ lượt kéo đi và sẽ trở lại trong trí nhớ, trong một vết sẹo bỏ quên dưới cơ thể kín đáo của một người xa lạ nào đó ở cuối chân trời. Nét mặt bình thản thanh bình, vướng nhẹ một nỗi buồn kín đáo xa xôi, dấu trong đôi mắt của một người chết vừa sống lại. Đêm trở về, mặt trời đã đi vắng, những ngôi sao thấp thoáng mờ mờ, tất cả tiếng động xa dần, những ngày tháng yêu đời nhộn nhịp cũng đi xa tận cuối địa cầu. Tôi bắt đầu đi xa tôi; từng cử chỉ lê lết trong căn phòng đóng kín, tiếng chìa khóa của người giúp việc khua lên đôi tiếng ngoài hành lang, những con kiến cánh đã bay đâu mất, bước chân của một người ướt mưa dưới kia kéo lệch nhệch trên sân đất. Không vui không buồn, không yêu không ghét, phong vũ biểu của tâm hồn tôi xuống độ quân bình, tôi ngồi trong phòng kín, đèn mờ đỏ đủ thấy bóng mình in xuống sàn gạch xanh. Có lẽ người gác cổng của bất cứ nghĩa địa nào cũng cùng mức độ phong vũ biểu tâm hồn như tôi. Tôi hình dung mình đang rảo bước đi thơ thẩn trong nghĩa địa, tiếng chìa khoá khua nhẹ nhàng như thùng thiếc bị mưa lớn rớt vào nửa đêm, tiếng chó sủa hoang vắng kỳ lạ, mấy mảnh vải rách tả tơi bay rời rạc trên đám cỏ khâu.

Tôi muốn đốt lên một điếu thuốc để thay hương khói cầu linh, nhưng diêm quẹt không còn nữa. Tôi chờ đêm đến và đêm đã đến; tôi chờ một cơn mưa lũ và sau cơn mưa sẽ có mặt trời đỏ lửa và bình minh sẽ là bức rèm thoáng mở nghê thường của mây và gió. Một con kiến nhỏ sợ hãi bò nhanh trên cổ tay tôi. Bình minh không đến vào lúc mười một giờ khuya và mưa cũng đã dứt từ chiều, nghĩa là không biết bao giờ trở lại.

Tất cả đều xa và gần, mới và cũ; vài tiếng động dưới phố làm thành tĩnh mịch vắng vẻ. Tôi đi ngủ và tự chúc an giấc.


XV.

Tham lam, muốn vồ chụp, ngốn ngấu, nuốt trọn tất cả những gì con người đã làm, nghĩ, viết, sống, yêu, chết, thở, bệnh, đau, khóc, cười, đi, chạy, trong một triệu năm, mười triệu năm của lịch sử con người.

Giới hạn, giới hạn lại, đứng tại một chỗ, xới, đào, bơi, bới, banh, móc, cào một chỗ thôi; bao nhiêu lần tôi tự nhủ rằng phải đứng một chỗ, đứng yên lại một chỗ để đục khoét cho sâu, cho thực sâu vào lỗ trống của trái tim con người và trái tim địa cầu, tôi tự nhủ rằng phải giới hạn lại, thu nhỏ lại phạm vi, nhưng chẳng bao giở tôi làm được. Nhìn một chữ trong bất cứ một quyển sách nào, tôi lại thấy một ngàn chữ khac hiện ra; nhìn một chiếc lá xanh, tôi thấy một ngàn chiếc lá xanh khác trong đời, mỗi một chiếc lá gợi lại muôn ngàn hình ảnh khác đã qua trong đời; nhìn nét mặt một người, tôi đọc được Tân ước, và Cựu ước, đọc ngay nguyên tác Hy Lạp và Do Thái, đọc được những dấu tay, những gấp trên trang giấy, đọc được đôi mắt của người đã in vào những dòng chữ, như những vật hoá thạch trên đá khô bảo tang viện.

Đừng đọc, đừng nghe, đừng nhìn, đừng thấy, đừng nói, mà vẫn thở nhẹ nhàng như hơi thở của con chó nằm phơi nắng, đó là mục đích tối thượng mà trọn đời sống tôi đang huớng đến.

Bây giờ đúng 12 giờ trưa, mặc dù đồng hò chỉ 12 giờ 15 phút, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng bây giờ là đúng 12 giờ trưa. Chỉ có thời giờ do tôi đặt ra cho tôi là mới quan trọng; dù tất cả đồng hồ Thụy Sĩ ở thế giới nói rằng bây giờ là 6 giờ sáng, tôi vẫn cho rằng bây giờ đúng 12 giờ trưa.

Giờ ngọ, tôi tự viết chữ ngọ ở dưới cửa phòng và không tiếp khách, tôi muốn làm con trâu không ló đầu ra cửa sổ. Tôi ngồi trong phòng kín và cố gắng hồi nhớ lại tất cả con trâu mà tôi đã gặp trong đời, con trâu đầu tiên gặp lúc còn bé nhỏ và con trâu cuối cùng gặp lúc gần đây.

Tất cả con trâu, hay bất cứ con trâu nào cũng là thầy của tôi; nó dạy tôi lội bùn phơi nắng, nó dạy tôi lầm lì im lặng, nó dạy tôi kéo cầy cho dân nghèo có lúa, nó dậy tôi nhai cỏ. Ừ, tôi đang nhai cỏ khâu, một đám cỏ khâu, “trăm năm còn có già đâu…”


XVI.

Tôi gặp nó lúc nó mới vừa ba tuổi, nó tên là Mi. Bây giờ gặp lại nó lần cuối thì nó đã hai mưới sáu tuổi, nghĩa là hai mươi ba năm trôi qua và gieo giống cho một đám cỏ khâu trong tương lai; tương lai có thể là hôm nay, ngày mai, mười năm, năm chục năm, sáu chục năm vô định bất ngờ, bí ẩn, phong phú.

Mi ơi, Mi, mi là ai? Ta đã đi bên cạnh Mi gần hai mươi sáu năm trên con đường hữu hình này, có lúc ta bỏ rơi Mi, có lúc ta trốn Mi, có lúc ta chạy tìm Mi, nhưng không lúc nào ta quên Mi: ta đi theo Mi như hơi thở đi theo máu, như cỏ xanh đi theo đất ướt, như con gái mới lớn đi theo kính soi mặt.

Người ta gọi nó là Mi, chữ gọi tắt của Dominico. Tên Dominico gồm 4 vần: Do – Mi – Ni – Co. Tại sao không gọi nó là Do, không gọi là Ni, không gọi là Co, mà chỉ gọi là Mi, chỉ gọi vần thứ hai trong 4 vần quan trọng như nhau?

Dominico là tên Tây Ban Nha, nó là người Việt Nam mà vì sao lại mang tên Tây Ban Nha? Đây là điều khó hiểu thứ hai. Tại sao không gọi là Dominique, như thường lệ của những gia đình trưởng giả dưới thời Pháp thuộc thường đặt tên Tây cho con mình?

Bỗng nhiên nó được mang tên ngộ nghĩnh là Dominico và những người trong gia đình thường gọi nó là Mi, tiếng gọi gọn lại của tên Dominico.

Nó tên là Mi, tôi gặp nó lần đầu còn nhớ được là dường như lúc nó mới chừng 3 tuổi tôi gặp Mi tại một đường mang tên Pháp là Avenue Desvaux, số 47, ở một thành phố tại miền Nam nước Việt dưới thời Pháp thuộc. Lúc đó khoảng vào năm 1944. Tôi còn nhớ ngày sinh tháng đẻ của Mi, ngày 1 tháng 6 năm 1941 dương lịch tại làng Điều Hoà. Tôi nhớ rõ như vậy là vì ngày 1 tháng 6 năm 1941 là ngày mà không người nào học sử mà không nhớ, đó là ngày quan trọng như ngày 24 tháng 12 năm thứ nhất của dương lịch hay ngày 8 tháng 4 âm lịch, năm 566 trước dương lịch.

Mi ra đời vào giữa năm, đầu tháng sáu và đầu hai chu kỳ, nghĩa là năm đầu của sáu chục năm cuối cùng của thế XX. Thôi, hãy quên những niên hiệu dài dòng trên. Chỉ nên nhớ hắn tên là Mi, chỉ thế đủ rồi.

Mi ơi, Mi, tôi có cần phải nói về Mi cho mọi người nghe không? Tôi không thể nói được, vì ngay đối với tôi, Mi cũng là bí mật, xa lạ, lầm lì, kỳ dị, khó hiểu, huyền ảo. Mi giữ lại tất cả những gì tôi đánh mất. Mi không đóng kịch, không mang mặt nạ, không lễ phép, không đọc sách, không viết sách, không đi tìm chân lý, không là văn sĩ, thi sĩ, học giả, sinh viên, giáo sư trung học, giáo sư đại học, nghệ sĩ, lãng tử, tu sĩ, ký giả, v.v… Mi không là gì hết, Mi chỉ là Mi, Mi của Mi, Mi của Mi, Mi viết hoa và mi viết thường, Mi viết chữ nghiêng, italique, và Mi chữ đứng, nói gọn lại là Mi, đánh vần là mờ i mi.

Tôi thấy Mi đánh vần tên Mi lần đầu tiên lúc Mi học lớp năm tiểu học; phải chi lúc ấy tôi có máy ghi âm và ghi lại lần đánh vần đầu tiên ấy thì có thể nghe lại được âm thanh thiêng liêng đầu tiên của nhân loại, lúc mà con người đánh vần chữ đầu tiên cho thần thánh nghe để khai sinh văn minh cho hậu thế. Lúc Mi tập đánh vần lần đầu tiên thì lúc ấy cũng là lúc tôi bước vào ý thức của con người. Bây giờ tôi mới hiểu rằng ý thức và công thức là đồng nghĩa như nhau; tôi ý thức rằng (hay tôi công thức rằng) không có sự khác nhau giữa ý thức và công thức, nghĩa là ý thức chính là ước thức; ước thức là ý thức về ước lệ, hay ước lệ, công ước, hiệp ước của ý thức.

Tôi bước vào ý thức con người; nói khác đi, tôi bước vào công thức con người, vào sự trói buộc của con người đối với con người. Chỉ có tiếng đánh vần đầu tiên của Mi ở lớp năm tiểu học mới có thể giải phóng sự trói buộc trên của tôi đối với tôi, của người đối với tôi.

Xin từ giã Mi trong một thời gian ngắn; bây giờ tôi cần uống sữa để lấy sinh lực mà sống cho hết hai chu kỳ tâm thức. Sữa bắt đầu lạnh rồi.


XVII.

Người con gái đẹp nhất vẫn là người con gái im lặng nhất, im lặng một cách hiền lành; tiếng nói của con gái là hương thơm của một đoá hoa; nhưng sự im lặng thường xuyên của người con gái là một đoá mai vào đêm giao thừa; hoa mai mà có hương thơm ngào ngạt thì hoa mai không còn quyến rũ một cách trầm lặng rạo rực. Tôi cầu nguyện cho tất cả những người con gái đều im lặng.


XVIII.

Tại sao mỗi ngày tôi phải sống khổ sở như vầy? Vừa mở cửa sổ ra để thấy mặt trời và thở không khí phải gặp một bộ mặt nào đó chìa ra. Tôi tránh tất cả khách; tôi tránh gặp tất cả bạn bè; tôi tránh tất cả người quen; tôi tránh gặp tất cả những người trong gia đình. Không muốn gặp ai hết và không muốn nói chuyện với hết ai hết. Tôi muốn được im lặng và sống một mình suốt ngày và suốt đêm. Thế mà mọi người đều đến tìm tôi; họ đeo vào tôi như đeo vào chiếc phao; họ là những con đỉa đói, họ hút máu tôi bằng những câu chuyện bàn tán nhảm nhí của họ, bằng kiến thức thối tha của họ, bằng những ý kiến, tin tức, khuyên răn, thăm dò, miệng lưỡi, tóc, tay, tim, bao tử, gan, mật, thận, phổi v.v… Tôi hoàn toàn lạnh lùng. Dù mười trái bom H nổ tại thành phố này, tôi vẫn thản nhiên lạnh lùng. Dù động đất, hoả diệm sơn nổ, đại hồng thủy, dịch hạch, một tỷ người chết, dù gì đi nữa, tôi vẫn lạnh lùng. Dù là ngày tận thế, dù nhân loại, văn minh, văn hóa bị tiêu diệt trước mắt tôi, tôi vẫn lạnh lùng, hoàn toàn lạnh lùng.

Tôi không muốn ai đến thăm tôi cả, tôi không muốn nghe ai nói chuyện nữa cả. Tôi muốn đi qua đi lại một mình trong gian phòng, mà không phải mỉm cười với bất cứ người nào, dù là cười thực hay cười gượng.

Tôi có chết đi thì mấy mươi tỷ người đã chết trước tôi rồi và mấy muôn tỷ người sẽ chết sau tôi; tôi không có gì để hãnh diện rằng mình khác thiên hạ cả. Tôi cũng bần tiện, lì lợm, tục tĩu, ngu si, tham lam, bẩn thỉu, tầm thường, hạ cấp, rẻ tiền, khờ khệch, nông cạn, lưu manh, hẹp hòi, xấu xa, tàn ác, hung bạo như họ. Tôi chỉ ra đời, sẽ ra đời mãi mãi để lặp lại tất cả những điên rồ, hận thù và ngu xuẩn như họ.

Muôn tỷ người ra đời trước tôi và cũng đã từng viết giống tôi vừa viết, giống từ dấu phết và dấu chấm, giống từ nét chữ viết cho đến chỗ ngồi, tâm tư, thời tiết.

Vừa viết xong câu trên, tôi sực thấy mình bay như chim. Tôi bay trên tất cả những gì thuộc con người. Tôi bay trên mái nhà xanh và giác quan tôi bắt được luồng điện thứ tám xuất từ hành tinh thứ bảy: hành tinh ấy vừa nổ thành bột, một thứ bột quánh lại như sữa đặc trong tách nước nguội. Tôi vừa lấy lại tinh thần và yêu đời lại như thường lệ.


XIX.

Tôi bỗng nhớ mấy con cá lia thia của Mi.


XX.

Một ngày chìm tận xuống đáy biển dơ, một ngày nổi lên trên trời như cá rồng. Yêu đời rồi lại chán đời, điệp khúc kỳ lạ và ngu xuẩn khôn cùng. Đời là hơi thở, yêu hay chán gì thì cũng vẫn thở. Như thế là đủ rồi. Yêu là thở, biết thở, nhớ thở, nuôi thở, dưỡng thở. Thở là sống trong mộng mị vô hình; hơi thở là một đám mây nhỏ, không màu, không hình. Không có tôi thì cả bầu trời này, cả vũ trụ này cũng sụp đổ như tất cả sự sụp đổ của những gì đã sụp đổ trên mặt đất này. Đất, rừng, núi, đá biển, cây, cỏ, chim, trâu, voi, ngựa, chó, thành phố, lăng tẩm, đền đài, mặt trời, tất cả hành tinh chuyển hoá nhau thành cát, bụi, nguyên tử, tinh lực, gió, hơi thở, để rồi kết tinh lại thành tôi, một người có thân thể, có đều óc, tay, chân, tim, phổi, bộ phận sinh dục, người rất người, rất người và rất thú, rất thiêng và rất lạ, lạ đối với mình và đối với người, khi chìm, khi nổi, khi yêu, khi ghét, khi bay vút lên tận đỉnh núi chót vót rồi lại rớt xuống vũng bùn thối tha nhất của ý thức và vô thức.

Triết lý là biến hơi thở thành khói thuốc, tất cả triết gia đều là những kẻ bị ung thư tinh thần.


XXI.

Hai tội lớn nhất của tôi là tội triển hạn và tội nuốt thời gian. Triển hạn là muốn đi thực chậm, mà nuốt thời gian là muốn đi thực mau: mâu thuẫn tượng trưng cho tất cả khủng hoảng con người. Chỉ có Mi là không bận tâm gì với những thứ ấy.


XXII.

Tất cả đều vô cùng cần thiết: nếu một hạt bụi trong phòng tôi mà mất đi thì cả vũ trụ đều mất theo lập tức. Chỉ có một ngọn gió đi qua thì hai thế giới đổi ngược lại hoặc sụp đổ tan tành như bọt sữa.


XXIII.

Tất cả sợ hãi đã chết trong tôi, như những bóng đèn xa của thuyền chài giữa đại dương vào lúc bình minh. Tôi trở nên giàu sang, phương phi, cao thượng, quí phái, trầm lặng, vĩ đại, vô danh, tĩnh mịch, uy nghi, hào hoa, phi thường, cao chót vót như đỉnh núi ở Kalimpong. Tôi bước đi giữa đám đông như một con sư tử ở xa mạc đi lạc vào thành phố Bắc Phi. Tôi gầm gừ chậm chạp bước đi hiên ngang và thỉnh thoảng đứng lại đái xuống những nơi hành hương của dân chúng. Trời hôm nay, sương mai phớt nhẹ lên mái nhà.


XXIV.

Càng ngày tôi càng đi xa giới hạn của con người; càng ngày tôi lại càng thấy mình không còn nói ngôn ngữ của loài người; tôi bắt đầu tập nói lại tiếng loài người, nhưng khó quá. Tôi nói không đúng giọng, đúng vần và sai văn phạm. Có lẽ chỉ Mi mới hiểu được tiếng nói xa lạ của tôi. Đêm nay, tôi muốn thức suốt đêm để nói chuyện với muỗi; tôi sẽ đập cánh và kêu vo vo thâu đêm. Tôi bỗng nhiên nhớ đến những trái vú sữa, trong khu vườn thơ ấu; dạo ấy, Mi ngơ ngác như con nai lạ.


XXV.

Khủng hoảng, tôi đặt tất cả tin tưởng vào tất cả sự khủng hoảng trong tất cả mọi phạm vi. Sáng tạo chỉ được giữ chín trong sự khủng hoảng của thể xác và tâm thần. Tôi muốn rước vào tim tất cả những khủng hoảng nào có được trên đời này. Đêm qua tôi muốn tự tử vì một lý do giản dị là cuộc đời không có gì để đáng tự tử cả: ý nghĩa tự tử là ước muốn đục khoét ý nghĩa vào bóng tối sâu kín của đời người; tất cả những người tự tử đều là những kẻ có tham vọng muốn tìm hiểu ý nghĩa của đời sống, bị thúc đẩy một cách vô thức hay có ý thức bằng trung gian của khủng hoảng lải nhải của cơ thể và trí óc.


XXVI.

Đứng nhìn, đừng bao giờ nghĩ về ý nghĩa cuộc đời lúc mình mệt. Tôi chỉ chán đời lúc tôi mệt. Bây giờ càng mệt thì lại càng nên không chán đời, khi mệt thì sự kiêu ngạo thụt lùi lại đằng sau và biến mất. Tập thở, và tập mất giờ; quan trọng nhất là chịu đựng Thiên đàng trong mỗi ngày mỗi đêm.


XXVII.

Đêm qua lại muốn chết, không thích sống dai nữa. Không còn gì để giữ lại tôi trong đời sống này; tôi không còn liên hệ nào đối với bất cứ ai và bất cứ cái gì. Hôm nay tôi sẽ cố gắng hết sức để yêu đời, yêu đời như điên. Tôi sẽ cố gắng tưởng tượng tất cả những cánh đồng, tất cả những tiếng ca sướt mướt lí nhí của Connie Francis, tất cả những chiếc cầu trên sông, tất cả những con gà con và tất cả những điếu thuốc mà tôi sẽ hút trong tương lai.


XXVIII.

Trời mưa, một điếu thuốc đang cháy, một ý tưởng trong đầu; tôi không đòi hỏi gì nữa; thiên đàng cũng không hơn thế. Một tiếng sét vừa nổ giữa trời. Nơi nào có sấm có sét nơi đó có tôi. Tôi ca tụng mưa, tôi ca tụng điếu thuốc, tôi ca tụng lửa, tôi ca tụng một ý tưởng đơn độc trong đầu.


XXIX.

Một chiếc lá tròn, một tiếng còi xe, ôi cuộc đời, tôi yêu tất cả con người; không yêu tất cả con người thì cũng thơ mộng như thế.

Nguồn: Phạm Công Thiện. Mặt trời không bao giờ có thực. Tranh minh hoạ của họa sĩ Đức, Paul Klee. An Tiêm ấn hành lần thứ nhất 4000 quyển. In xong ngày 10 tháng 10 năm 1967 tại ấn quan Đăng Quang, 734A Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Kiểm duyệt số 3111 ngày 16-10-67.

5/5/10

Nguyễn V. Phú : Thiếu người san định

Monday, May 3, 2010

Thiếu người san định

Saigon Tiếp thị số ra ngày 23-4 có bài “Sáng sủa hơn, nhưng lo khoản thâm hụt”, trong đó có câu phát biểu của một chuyên gia kinh tế: “Cán cân thương mại và cán cân vãng lai của Việt Nam đã thâm hụt ở mức báo động trong các năm 2007-2008”. Nhân đó, xin lạm bàn về chuyện thuật ngữ kinh tế ở Việt Nam hiện đang được sử dụng không thống nhất, bị dùng sai, nhiều từ khó hiểu, gây khó khăn cho việc truyền đạt thông tin.

Trước hết, có lẽ phải tóm tắt chuyện lý thuyết. Mọi giao dịch tiền vào, tiền ra giữa trong nước và nước ngoài đều được ghi nhận vào các tài khoản, có món ghi bên nợ, có món ghi bên có, cân đối các tài khoản này lại, chúng ta có “cán cân thanh toán”. Cán cân thanh toán chủ yếu có hai tài khoản gồm “tài khoản vãng lai” và “tài khoản vốn”. Tài khoản vãng lai lại bao gồm chủ yếu là “cán cân thương mại” (số dương là xuất siêu, âm là nhập siêu) và một số khoản khác như lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước hay kiều hối gởi về trong nước. Tài khoản vốn thì gồm dòng vốn giải ngân từ đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài, tiền đi vay nước ngoài…

Đơn giản như thế nhưng nhiều người vẫn dùng sai. Ví dụ, cán cân thanh toán luôn luôn phải bằng 0 nhưng nhiều lúc do nói ngắn gọn, người ta vẫn viết “thâm hụt” hay “thặng dư” cán cân thanh toán trong khi lẽ ra phải nói thâm hụt hay thặng dư các thành phần của cán cân thanh toán. Những khoản thâm hụt hay thặng dư mà hai tài khoản nói trên chưa cân đối được sẽ được tính làm giảm hay tăng dự trữ ngoại tệ. Từ đó mới thấy chữ “cán cân” là chưa ổn do dịch từ tiếng Anh (balance) vừa có nghĩa là cái cân, vừa có nghĩa cân đối. Nên thống nhất dùng thuật ngữ “bảng cân đối thanh toán” là dễ hiểu và chính xác hơn cả.

Nhìn lại câu trích ở đầu bài, chúng ta thấy lẽ ra phải viết là “cân đối tài khoản vãng lai” thay cho “cán cân vãng lai” mới chính xác và phải làm rõ rằng cán cân thương mại đang được đề cập là một phần của tài khoản vãng lai, chứ không phải là hai thành phần tách biệt. Đồng ý là thâm hụt tài khoản vãng lai có thể là 7 tỷ USD và thâm hụt thương mại lại cao hơn, đến 10,4 tỷ USD nhưng đó là vì những khoản dương khác trong tài khoản này như kiều hối gởi về nước đã làm giảm bớt con số thâm hụt.

Những từ như “vãng lai” cũng gây khó khăn cho người dùng vì từ tiếng Anh tương đương (current) lại dễ hiểu hơn cho chính người nói tiếng Anh. Tại sao chúng ta không dùng từ “hiện hành” thành thuật ngữ “tài khoản hiện hành” cho thống nhất và dễ hiểu hơn.

Một chuyện cũng khá thú vị khác là dự trữ ngoại tệ. Như chúng ta đã thấy, những thiếu hụt hay dư thừa của các tài khoản trong bảng cân đối thanh toán được phản ánh thành tăng hay giảm dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Nhưng chủ sở hữu các khoản như xuất khẩu, kiều hối, đầu tư nước ngoài đâu phải là nhà nước. Cho nên cần làm rõ một điều thường hay bị hiểu sai rằng khi cần (ví dụ như cần tiền để kích cầu) thì cứ lấy dự trữ ngoại tệ ra xài! Dự trữ ngoại tệ là do ngân hàng trung ương nắm giữ nhưng nó lại được cân đối ở các khoản nợ mà ngân hàng trung ương tiếp nhận để chuyển thành dự trữ ngoại tệ. Hay nói cách khác, dự trữ ngoại tệ chẳng liên quan gì đến tiền của chính phủ cả.

Nhìn chung, chúng ta may mắn có các bậc học giả ngày xưa đã từng bỏ công san định rất nhiều thuật ngữ khoa học, kỹ thuật mà chúng ta vẫn sử dụng thống nhất cho đến ngày nay. Riêng ngành kinh tế học mới phổ biến trong thời gian gần đây, chưa có những nhà nghiên cứu có thẩm quyền và uy tín để làm công việc san định này. Có lẽ đây là đề tài mà Viện Kinh tế trung ương nên đứng ra đảm trách.


Source :NVP blog

Đinh Kim Phúc:THƯ GỬI LÃNH ĐẠO BBC

Đinh Kim Phúc:THƯ GỬI LÃNH ĐẠO BBC

THƯ GỬI LÃNH ĐẠO BBC
Ngày 5 tháng 5 năm 2010

Thưa ông, Neil Curry

Trưởng phòng Phát triển Kinh doanh, Châu Á và Thái Bình Dương,

BBC World Service

Cám ơn lãnh đạo BBC đã trả lời thư của tôi gửi cho quý vị. Cũng xin nói thêm rằng thư của tôi gửi cho BBC dù được gửi trực tiếp nhưng cũng là dạng thư ngỏ nên tôi muốn tất cả bạn đọc phải biết được thư trả lời của BBC. Sau đây tôi có đôi lời với ban lãnh đạo BBC.

Trước hết, BBC đã thanh minh:

“Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng quan điểm của tác giả không phải là quan điểm của BBC. Tương tự áp dụng cho ba bài “phản hồi quan điểm” mà sau đó được đăng trong mục. Đây là một nguyên tắc cơ bản của các Diễn đàn bình thường”.

Cho tôi được hỏi: BBC trả lời như thế nào về ý kiến của bà Đỗ Ngọc Bích(1)

Trong thông tin chúng tôi có, bà Bích viết:“Tôi rất ‘choáng’ vì thấy BBC không những đưa sai thông tin về cá nhân tôi, mà còn chẳng biên tập, chỉnh sửa gì hết, ngoại trừ việc đặt nhiều câu chữ trong dấu nháy kép làm tăng độ kịch tính, trích dẫn lại câu ra ngoài, sửa mấy lỗi đánh máy và trưng cái tít (mà tôi không hề viết) lên ngay đầu tiên: ‘Một nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế và Việt học tại Hải ngoại cảnh báo về tinh thần dân tộc ‘mù quáng’ ở người Việt’, khiến bài viết trở nên ngông nghênh, kiêu ngạo hơn cái mà nó có”.

Thứ hai, tôi nghĩ rằng BBC chối bỏ trách nhiệm của mình khi cho đăng bài “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” của bà Đỗ Ngọc Bích bằng cách viện dẫn nguyên tắc biên tập của BBC:

“Tất cả những điều chúng tôi làm đã được hướng dẫn bởi tính công bằng và độc lập trong biên tập. Chúng tôi không thể, và không làm, đó là đứng về phía bên nào trong bất kỳ cuộc tranh luận, cho dù chủ đề tranh cãi có như thế nào đi nữa. Trên trang web của chúng tôi, Diễn đàn là một nền tảng cho các quan điểm trong phạm rộng nhất có thể được, cho dù là chính trị, văn hóa, lịch sử và sự tồn tại của nó là để khuyến khích tranh luận trong một môi trường tự do và cởi mở. Vì lý do này, chắc chắn “User Generated Content”(nội dung phát sinh từ phía người sử dụng) trên trang web của BBC có thể gây ra sự bất mãn nhưng chúng tôi luôn luôn đón nhận những lời chỉ trích, phản hồi và quan điểm khác”.

Tôi viết như thế là vì bài “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” của bà Đỗ Ngọc Bích không phải là quan điểm học thuật hay một phát hiện khoa học cần tranh cãi mà đó là sự mạ lị và phỉ báng lịch sử dân tộc Việt Nam và điều dó cho thấy quí Ông đã tự mâu thuẩn với chính mình cố tình vi phạm những nguyên tắc của của quí đài đặt ra.

Ông viết: “Chúng tôi không bao giờ có ý định làm tổn thương tình cảm của bất kỳ ai. Đồng thời, người sử dụng phải hiểu rằng chúng tôi đề cao tính đa dạng của các ý kiến, cũng như cạnh tranh hoặc thậm chí phản đối những bài tường thuật cho một câu chuyện hay sự kiện”. Phải chăng quí ông cho rằng sự đa dạng nầy bao gồm cả nội dung phỉ báng một dân tộc?

Như vậy, nếu tôi mạo nhận là Giáo sư của Đại học Harvard gửi bài cho BBC, trong đó có đoạn viết về lịch sử nước Anh như sau: “ Lịch sử nước Anh là lịch sử của một sự thù hận muôn đời bởi vì Anh đã từng là phần đất của Pháp…và Nữ hoàng Anh vốn xuất thân không phải từ đẳng cấp quý tộc của nước Anh mà xuất thân từ tầng lớp maya ở Tây Ban Nha từ thế kỷ 13…” thì liệu BBC có dám đăng không để mở đường dư luận tranh cãi theo chủ trương nêu trên? Thử hỏi đông đảo độc giả người Anh sẽ có thái độ như thế nào trước sự xúc phạm tương tự?

Chúng tôi chính thức yêu cầu quí đài BBC phải có lời xin lỗi độc giả người Việt vì sự xúc phạm nầy.

Trân trọng

Đinh Kim Phúc

(Ba Sàm chú thích: Bản tiếng Việt đăng trước được ông Đinh Kim Phúc gửi tới không chính xác với bản tiếng Anh. Ông Phúc đã gửi lại bản này)

Chú thích:


(1) – Nguồn: http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=855&page=16

- Nguồn: Bài trên Facebook của bà Đỗ Ngọc Bích

——

Dear Mr. Curry,

Thank you for your response to my letter. I would like to mention that even though I send my letters to BBC Service, I want to publish all the letters so that audiences know what’s going on.

There are some points in your letter which I disagree with.

First, BBC explained, “I would also like to stress that the views expressed by the author are not the views of the BBC. The same applied to the three “counter-view” pieces which were subsequently published in the index. This is a basic principle of our regular Forums.”

How does BBC respond to this:

While Ms. Do Ngoc Bich wrote (1),“I’m shocked because BBC not only didn’t correct my title and affiliation, but also edited my article, including putting some of my ideas into quotations that make some of the contexts sound exaggerated, bringing some of the words inside quotations out, making up the title (which I’ve never written) such as: ‘an international relation research and Vietnamese study professor who is living overseas that gives warnings about the blinding of nationalism in Vietnamese people’, which made the article sound more arrogant than it should be.”

While in your letter, you wrote that, the article is true to the original? What can you say to the audiences?

Second, I don’t think BBC Service take full responsibility in this matter by using an excuse such as Editorial Guidelines. You wrote, “Everything we do is guided by the values of impartiality and editorial independence. We cannot, and do not, take sides in any dispute, no matter how controversial it might be, cultural or historical and it exists to encourage debate in a free and open environment. For this reason, certain User Generated Content on BBC websites may cause displeasure but we always welcome criticism, feedback and an alternative view.”

I said BBC doesn’t take responsibility because Ms. Do’s article is not a controversial article relating to historical or cultural debate. It is surely a insult to Vietnamese history. To publish that article, it shows that BBC in conflict with itself based on your own guidelines.

You said, “It is never our intention to hurt anyone’s feelings. At the same time, users have to understand that we feature a diversity of opinions, as well as competing or even opposing narratives to a story or event.” The diversity of opinion you mention here, does it mean to insult others?

What if I misrepresented myself as “a Dr. Dinh from Harvard University ” and wrote an article such as, “A history of England is a history of land stolen from France . And the Queens’ ancestry didn’t come from English nobility but Mayas from Spain since the 13th century…” Would BBC publish such information?

I think BBC owes Vietnamese people a sincere apology for publishing such an article. It is not only the apology for the error over Ms. Do’s title and affiliation that is needed.

Sincerely Yours,

Phuc Kim Dinh

———–

Notes:

(1) http://www.x-cafevn.org/forum/ showthread.php?t=855&page=16

Ms. Do’s entry on Facebook.

Tin 5-5-2010
Đăng bởi anhbasam on 05/05/2010

Tin tối (thứ Tư, ngày 5-5-2010)
CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT


----

573. THƯ CỦA BBC VÀ TRẦN TÌNH CỦA ĐỖ NGỌC BÍCH
Đăng bởi anhbasam on 04/05/2010

BỨC THƯ CỦA BBC VÀ HAI LỜI TRẦN TÌNH
ĐƯỢC CHO LÀ CỦA BÀ ĐỖ NGỌC BÍCH
Đôi lời: Để bạn đọc có thêm thông tin đánh giá chính xác về vụ việc đình đám quanh bài viết của bà Đỗ Ngọc Bích trên trang Việt ngữ BBC, BS xin đăng toàn bộ 3 văn bản liên quan mới được gửi tới: Thư của BBC gửi cho ông Đinh Kim Phúc, tác giả bức THƯ NGỎ GỬI TỔNG GIÁM ĐỐC BBC; Thư (được cho là) của bà Đỗ Ngọc Bích gửi ông Đinh Kim Phúc; và lời trần tình (được cho là) của bà Đỗ Ngọc Bích trên trang Facebook:


1- Thư của Bộ phận châu Á – Thái Bình Dương-BBC
www.bbc.co.uk/worldservice

Ngày 29 tháng 04 năm 2010

Thưa ông,

Cảm ơn ông đã email về diễn đàn trực tuyến Ban Việt Ngữ BBC, đặc biệt bài về ý kiến của bà Đỗ Ngọc Bích, lần đầu tiên được đăng trên trang web ngày 17 tháng 4, và sau đó là bài trả lời của ngày 20 tháng 4 năm nay của bà Bích, cả hai đều đúng với bản chính.

Trước hết, tôi thành thật xin lỗi về việc của chúng tôi đưa tin sai về chức danh và xác định tư cách của tác giả, tuy nhiên tôi xin chỉ ra rằng, điều này đã được sửa ngay sau khi nhóm đã được thông báo. Chúng tôi vô cùng hối tiếc vì sự thiếu chính xác này và nhóm phụ trách chương trình tiếng Việt đã nghiêm túc thảo luận bài học này trong hai cuộc họp ban biên tập đặc biệt để nâng cao quá trình ủy nhiệm của họ trong phạm vi Diễn đàn chịu ảnh hưởng.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng quan điểm của tác giả không phải là quan điểm của BBC. Tương tự áp dụng cho ba bài “phản biện” mà sau đó được đăng trong mục. Đây là một nguyên tắc cơ bản của các Diễn đàn bình thường.

Tất cả những điều chúng tôi làm đã được hướng dẫn bởi tính công bằng và độc lập trong biên tập. Chúng tôi không thể, và không làm, đó là đứng về phía bên nào trong bất kỳ cuộc tranh luận, cho dù chủ đề tranh cãi có như thế nào đi nữa. Trên trang web của chúng tôi, Diễn đàn là một nền tảng cho các quan điểm trong phạm rộng nhất có thể được, cho dù là chính trị, văn hóa, lịch sử và sự tồn tại của nó là để khuyến khích tranh luận trong một môi trường tự do và cởi mở. Vì lý do này, chắc chắn “User Generated Content”(nội dung phát sinh từ phía người sử dụng) trên trang web của BBC có thể gây ra sự bất mãn nhưng chúng tôi luôn luôn đón nhận những lời chỉ trích, phản hồi và quan điểm khác.

Chúng tôi cân nhắc các vấn đề về sự cân bằng trong biên tập rất nghiêm túc. Đây là lý do tại sao, sau khi tham vấn với các biên tập viên cao cấp ở BBC World Service, ông Giang Nguyễn, Trưởng ban Việt ngữ BBC, đã đưa vào blog trên bbcvietnamese.com, giải thích quá trình biên tập của chúng tôi liên quan đến trường hợp này. Đối với đài BBC, Blog của Biên tập là một nơi thích hợp để chia sẻ những suy nghĩ đằng sau quyết định biên tập một cách nghiêm túc nhưng thân thiện, và phương thức cho phép độc giả gửi các ý kiến trực tuyến, cho dù họ đồng ý hay không đồng ý với chúng tôi.

Chúng tôi không bao giờ có ý định làm tổn thương tình cảm của bất kỳ ai. Đồng thời, người sử dụng phải hiểu rằng chúng tôi đề cao tính đa dạng của các ý kiến, cũng như cách diễn tả nhằm tranh cãi hoặc phản đối nội dung hay sự kiện trong bài.

Tất cả các Ban BBC, kể cả Ban Việt ngữ BBC phải tuân theo Nguyên tắc Biên tập của BBC – một cuốn sổ tay toàn diện về đạo đức phát thanh mà chúng tôi nhằm mục đích phát huy mọi lúc. Tài liệu này được đưa ra cho công chúng giám sát để các độc giả của chúng tôi biết một cách chính xác những tiêu chuẩn cao mà chúng tôi mong muốn. Tôi đính kèm đường link cho ông, nếu quan tâm:

(http://www.bbc.co.uk/guidelines/editorialguidelines)

Nếu ông không hài lòng với phản hồi của tôi, ông có thể yêu cầu một phản hồi thứ hai, gửi vào Bộ phận Khiếu nại Biên tập của BBC tại:

http://www.bbc.co.uk/complaints/homepage/

Chân thành

(đã ký)

Neil Curry

Executive Editor

Head of Business Development,

Asia and Pacific, BBC World Service

(Mời bấm vô dòng dưới để tải về bản ảnh PDF nguyên văn tiếng Anh của bức thư)

Reply from the BBC


—–

2- THƯ CỦA BÀ ĐỖ NGỌC BÍCH GỬI NHÀ NGHIÊN CỨU ĐINH KIM PHÚC
[...]

- BS bổ sung (hồi 17h30-HN, ngày 4/5/2010): Sau khi bài lên trang, có một bức thư điện tử gởi tới, tự nhận là của bà Đỗ Ngọc Bích, nội dung như sau:

Thưa Anh ba sam,
Thư tôi viết cho GS Đinh Kim Phúc hoàn toàn là thư cá nhân gửi cho ông ta, không phải là thư ngỏ, nếu nó đến nhầm địa chỉ, người khác đọc và đưa lên thì người đó sai, không phải lỗi tại tôi mà do người cung cấp đia chỉ email. Tôi hoàn toàn không có ý định đưa công khai bức thư gửi ĐKP lên public forum, mà chỉ gửi đích danh người đã viết phản hồi cho tôi trên BBC thôi. Đề nghị ông gỡ bỏ bức thư đó xuống.
Xin cảm ơn.
Bích.


Vậy BS xin được nói rõ: bức thư được cho là của bà Đỗ Ngọc Bích do ông Đinh Kim Phúc gửi tới BS và yêu cầu đăng. BS xét thấy nội dung có thể góp phần làm rõ vấn đề, song không có gì đảm bảo là của bà ĐNB, nên đã nói rõ ở trên là nó chỉ “được cho là” của bà ĐNB mà thôi, cho nên quyền quyết định giữ nó hay gỡ xuống là thuộc về ông Đinh Kim Phúc. Kể cả bức thư ngay trên đây cũng vậy, không có gì đảm bảo là của bà ĐNB.
- BS bổ sung tiếp (hồi 20 giờ 45-HN, ngày 4/5/2010): Bà Đỗ Ngọc Bích đã dùng chính hộp thư điện tử riêng của mình để xác nhận hai bức thư trên, 1 gửi ông ĐKP, 1 gửi BS, chính là của bà và đề nghị gỡ bỏ bức thư gửi ông ĐKP. Vậy là đã rõ, BS quyết định chấp nhận đề nghị của bà ĐNB và cám ơn bà đã thông báo kịp thời, tránh khỏi một nghi vấn không cần thiết.


—–

3- Bài trên Facebook của bà Đỗ Ngọc Bích
NÓI THÊM VỀ BÀI VIẾT TRÊN BBC
Đã hơn 2 tuần kể từ ngày một bài viết của tôi được đăng trên website của Ban Việt ngữ đài BBC, gây nên một cơn bão trong giới học thuật Việt Nam và lòng yêu nước của hàng triệu người dân Việt. Giờ đây, tôi mới có đôi phút ngồi tĩnh tâm để chia sẻ vài lời chân thành với chính mình, và với các độc giả.

Mọi việc bắt đầu từ một lần tôi được hân hạnh mời ăn tối cùng các giáo sư và sinh viên chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á ở Đại học Yale. Câu chuyện hôm ấy có lúc đề cập đến học giả Trần Trọng Kim. Ông được họ nhắc tới với thái độ rất khâm phục và trân trọng khiến tôi thấy mình có vẻ hết sức dốt nát, lạc lõng.

Ngày hôm sau, tôi tra cứu và tìm cái tên Trần Trọng Kim trong danh mục sách thư viện, và thấy hiện ra 16 đầu sách do ông viết. Trước đó, lần cuối cùng tôi cầm một cuốn sách lịch sử Việt Nam là vào năm 1991, khi học môn “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, và tôi nhớ là mình chỉ biết đến nhân vật này qua cụm từ “chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim” chứ đâu có biết ông là một học giả lỗi lạc như vậy? Tôi cảm thấy tức giận như đã bị lừa, hổ thẹn vì mình kém hiểu biết lịch sử Việt Nam hơn nhiều người nước ngoài khác, và tinh thần dân tộc của tôi bị xúc phạm.

Nhân một dịp rảnh rang trong kỳ nghỉ xuân, tôi ngồi xem bài của mấy blogger Việt Nam nổi tiếng trên Facebook, VOA tiếng Việt, và một số bài lấy từ BBC Việt ngữ, cùng hàng trăm nhận xét. Lời lẽ phê phán chính phủ và giới lãnh đạo Việt Nam có vẻ rất nặng nề, nghiệt ngã, nhiều người tỏ ra rất cảm tính, khiến tôi nghĩ họ có định kiến rõ rệt với nhà nước cộng sản và dường như thù hận Trung Quốc thái quá. Tôi cảm thấy có gì đó không ổn và bắt đầu suy nghĩ.

Hoàn toàn theo phản xạ tự nhiên, tôi viết một bức điện thư cho một người bạn làm bên BBC tiếng Việt, bộc bạch tâm sự của mình về thái độ thù hận Trung Quốc cực đoan, tình hình các blogger bị mắc vì vấn đề chính trị trong nước, đồng thời đưa ra một loạt câu hỏi về những thông tin lịch sử mà phần đông học sinh, sinh viên Việt Nam (trong đó có tôi) được tiếp nhận ở trường trong những năm giáo dục bậc phổ thông và đại học.

Rất nhanh, anh bạn tôi trả lời, bảo rằng ý kiến của tôi có nhiều điểm đáng chú ý, có thể đem ra suy nghĩ và bàn luận, và yêu cầu tôi biên tập lại đôi chút để biến thành một bài viết cho BBC Việt ngữ.

Tôi chưa từng viết báo trong đời, nên ý nghĩ đầu tiên của tôi là từ chối vì tôi đang quá bận với luận án của mình và cuộc sống ở đây. Thêm nữa, bài viết liên quan tới nhiều vấn đề không thuộc chuyên môn của tôi. Tôi trả lời anh rằng, để viết một bài tử tế mất nhiều thời gian đọc thêm để trích dẫn cho chính xác và khoa học, thôi bỏ qua nó đi.

Anh bạn tôi lại khuyến khích rằng không cần viết bài mang tính học thuật quá, chỉ là đưa ra một luận điểm “trái chiều,” mang tính phản biện, để rộng đường thảo luận mà thôi.

Vài tuần sau, tôi gửi anh bài viết, chỉ chỉnh sửa rất ít từ nội dung bức điện thư, với lời dặn: “Em không muốn tên tuổi bị chú ý. Bài này chỉ để các anh tham khảo cũng được, và phải biên tập chỉnh sửa lại nếu đăng lên. Em cũng không có thời gian tham gia diễn đàn hay trả lời đâu.” Nhưng trong thực tế, rõ ràng sự việc đã khác hẳn. Chẳng lẽ anh nghĩ tôi nói đùa?

Trưa thứ bảy ngày 17/4, tôi nhận được e-mail ngắn gọn: “Bài của em lên rồi nhé” cùng với đường dẫn đến bài viết. Ngó qua một giây, tôi phì cười, ông anh “bốc” mình kinh quá: “Học giả nghiên cứu về Việt học? Tiến sĩ từ Đại học Yale?” Phải góp ý để đính chính lại thôi, nhưng đang cuối tuần, lại ở mục Diễn đàn chứ không ở trang chính, chắc mọi người ít để ý. Cứ để đấy, qua hai ngày cuối tuần đã.

Cả ngày thứ bảy tôi cho con đi chơi và ăn BBQ ở nhà thầy giáo dạy tiếng Việt của Yale đến tối mới về. Ngày chủ nhật thì đi chợ, đi công viên, ung dung làm việc nhà đến buổi tối mới vào mạng.

Đọc đến đây, chắc nhiều người giơ tay kêu trời: trong lúc bao nhiêu người sôi sục lên vì “nó” mà “nó” dám ung dung đủng đỉnh coi như không phải việc của mình thế à? Đồ vô trách nhiệm! Vâng, tôi xin nhận.

Đúng là tôi vô trách nhiệm vì không hề ngờ rằng thời đại thông tin khiến mọi người tìm ra và để tâm đến một bài viết nhỏ – thể hiện suy nghĩ cảm tính, cá nhân – nhanh và nhiều đến vậy. Rõ là ngây thơ!

Tối chủ nhật, đọc lại bài của mình, tôi rất “choáng” vì thấy BBC không những đưa sai thông tin về cá nhân tôi, mà còn chẳng biên tập, chỉnh sửa gì hết, ngoại trừ việc đặt nhiều câu chữ trong dấu nháy kép làm tăng độ kịch tính, trích dẫn lại câu ra ngoài, sửa mấy lỗi đánh máy và trưng cái tít (mà tôi không hề viết) lên ngay đầu tiên: “Một nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế và Việt học tại Hải ngoại cảnh báo về tinh thần dân tộc ‘mù quáng’ ở người Việt”, khiến bài viết trở nên ngông nghênh, kiêu ngạo hơn cái mà nó có.

Câu nói của danh hài Mỹ Groucho Marx: “I don’t want to belong to any club that accepts people like me as a member” rất đúng với tâm trạng của tôi lúc đó. Tạm dịch là: “Tôi không muốn tham gia câu lạc bộ nào mà lại chấp nhận một người như tôi là thành viên,” hay có thể hiểu là nếu BBC nhận đăng cái bài như thế của tôi lên (ở dạng nguyên thủy mà tôi gửi đi), thì BBC cũng có… vấn đề!

Bài trả lời của tôi có lẽ còn khiến nhiều người càng tức hơn. Tôi đã viết nó trong sự thúc giục gấp gáp của bên BBC, trong trạng thái thiếu bình tĩnh, cảm thấy bị tổn thương, hiểu lầm, với phản xạ của một kẻ đang bị tấn công, nên nó đã không thể hiện được ý tôi muốn diễn đạt và do đó, không đạt được kết quả cần thiết đối với tôi và độc giả.

Nhưng, một lần nữa, BBC cũng không có ý kiến gì, chỉ đăng nguyên xi nó lên!

Trong câu chuyện này, chắc chắn BBC Việt ngữ có nguyên tắc và cách suy nghĩ riêng của họ mà tôi không được biết trước. Họ có vẻ rất dân chủ và tự do. Nếu như tôi biết là họ sẽ không biên tập gì về nội dung bài viết của mình, thì hoặc là tôi đã không gửi bài, hoặc là đã bỏ rất nhiều thời gian đọc, trau chuốt, và tự hoàn thiện bài viết (nhiều khả năng là lựa chọn thứ nhất, vì tôi vốn đã rất ít thời gian).

Suy nghĩ lại, một số ý kiến của tôi, có lẽ chỉ thích hợp trong trao đổi cá nhân, chứ đưa lên diễn đàn BBC thì hết sức trớ trêu và vô ý.

Những câu như “Việt Nam suốt hơn 2.000 năm từ thời Triệu Đà đến thời Nguyễn, cho dù thỉnh thoảng có tuyên bố ‘Sông núi nước Nam, Vua Nam ở,’ thì Việt Nam vẫn luôn là một phần của Trung Quốc” hay “Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ người Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha… từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, hay Lý Công Uẩn, rồi các gia tộc họ Trần, Lê, Nguyễn” hay đưa ra câu hỏi các blogger đã đọc nguyên bản Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu chưa (trong khi cuốn này đã thất truyền, chỉ còn 19 đoạn trích mà tôi biết được đưa lại trong cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên), hay cách dùng từ da thịt… là hết sức liều lĩnh và sai lầm, hoặc ít ra là cần có những dẫn chứng rất rõ ràng (điều mà tôi đã bỏ qua).

Vì đã từng đọc nhiều bài viết mang tính học thuật của người bạn biên tập viên BBC, tôi không ngờ là anh lại “để yên” cho những câu như vậy.

Lại nhớ đến một việc xảy ra cách đây gần chục năm, khi tôi nói chuyện với một giáo sư người Mỹ gốc Nhật Bản dạy môn “Asian American Experience” (tạm dịch là “Trải nghiệm lịch sử của người Mỹ gốc Á”). Tôi ngạc nhiên khi thấy cô đưa cuốn “Monkey Bridge” của Lan Cao, một nhà văn Mỹ gốc Việt, vào danh sách giáo trình đọc cho môn này.

Cuốn sách đó có khá nhiều sai lầm cả về dữ kiện và quan điểm (chẳng hạn như chi tiết Việt Nam nằm ở phía Nam xích đạo, hay Việt Nam chưa bao giờ có ý đồ thống trị các nước láng giềng – và một số chi tiết nữa mà các nhà phê bình Mỹ đã chỉ ra, thiết nghĩ không cần nhắc lại). Ngạc nhiên hơn là giáo sư đó không hề nao núng khi nghe ý kiến của tôi, và nói ngay: “Sách hay hay dở, đúng hay sai, chỉ quan trọng một phần. Cái quan trọng hơn là nó tạo ra một ngữ cảnh để sinh viên suy nghĩ, thảo luận, phê phán.” Có lẽ đó cũng là quan điểm của BBC (mà tôi không biết) chăng?

Có ai đó hỏi tôi có ý đồ biện hộ, hay tố cáo, hay cảnh báo về tính chất quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay. Xin thưa, tôi chỉ muốn nói lên hai quan điểm: 1) Trong thời đại kinh tế toàn cầu, tất cả mọi quốc gia đều ít nhiều phải phụ thuộc vào nhau để tồn tại và phát triển, vậy có lẽ chúng ta nên kìm hãm sự thù hận, dùng biện pháp ngoại giao ôn hòa, thay vì quá chú trọng đến cái “tôi” và chủ nghĩa dân tộc cực đoan; 2) Mọi người dân, đặc biệt là giới trẻ (vì họ sẽ là thế hệ lãnh đạo sau này), đều có quyền được tiếp cận thông tin trung thực về lịch sử để có thể tham gia vào chính trị, thời cuộc, và có những quyết định, nhận thức đúng đắn.

Rất tiếc, hai quan điểm ấy của tôi, vì nhiều lý do mà cái chính là do cách diễn đạt không được rõ ràng, đã không tới được bạn đọc như tôi mong muốn.

Mắng tôi là ngu, dốt, liều, vô trách nhiệm, đều đúng cả, nhưng bảo tôi gian dối thì tôi dứt khoát không nhận.

CV tôi gửi BBC ghi rõ phần học vấn “ABD, American Studies, University of Hawaii at Manoa”, nơi cư trú là New Haven, Connecticut, công việc đang làm là giáo viên tiếng Việt và biên dịch. Từ 4 tháng nay, tôi có tên trong bảng lương của Đại học Yale cho những công việc này.

Có người nói “dăm ba cái job lẻ tẻ dạy kèm tiếng Việt với dịch thuật mà cũng gắn mác trường Yale vào.” Xin được nói thêm cho rõ: một phần, đây là do cách làm việc của BBC Việt ngữ (tôi không hề yêu cầu họ đưa thông tin về tôi, trên cương vị người viết bài), và một phần là bởi tôi tự thấy tôi đã làm công việc dạy tiếng Việt của mình theo đúng nghĩa “giáo viên”(8 giờ/tuần) chứ không đơn giản chỉ là dạy kèm giao tiếp qua loa như Tây ba lô ở Việt Nam.

Tôi rất mất công chuẩn bị, tìm tư liệu đọc, nghe, nhìn bằng tiếng Việt chuyên ngành Tâm lý học và Kinh tế môi trường cho hai sinh viên của mình, và áp dụng các phương pháp sư phạm dạy ngoại ngữ mà tôi có được từ kinh nghiệm dạy tiếng Anh từ xưa, có giáo án và báo cáo nộp hàng tuần, có ra bài tập, bài luận, và sửa chữa góp ý, với trách nhiệm như một giáo viên thực sự.

Những ai vội vàng kết tội tôi “mạo danh” hay “lừa” đều thiếu công bằng, nhưng tôi hiểu rằng trong hoàn cảnh thông tin không được rõ ràng từ phía BBC Việt ngữ, khi nghĩ như vậy, rất có thể họ đã bị ảnh hưởng bởi thành kiến đối với nội dung bài viết và quan điểm rất khó chấp nhận của tôi.

Dầu sao đi nữa, câu chuyện đã xảy ra cũng là một bài học, khiến tôi ý thức hơn được rằng, trong những vấn đề nhạy cảm, đụng chạm đến tâm thức và lòng tự hào dân tộc, phải có cách diễn đạt, thể hiện chín chắn hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn đọc đã để tâm và nhắc nhở sau khi xem bài viết nhỏ của tôi.

4/5/10

THƠ- HUYỀN CA

Huyền ca



Em gieo sầu chi lên cung đàn

Cho ta ngồi đây đau tình xa

Em ngân nga chi lời tơ vàng

Cho ta nghe xa như huyền ca



Lá thu còn rơi cho vai gầy ?

Gió thu còn trôi cho tóc bay ?

Lệ xưa còn rơi trên vai người ?

Tình xưa còn in trong nắng phai ?


*

Em như chim bay về chân trời

Tình ta nổi trôi theo ngàn mây

Nhớ em về trong ly rượu đầy

ta nghe sầu lên men ngất ngây


* *

Tình đâu trăm năm mà ngậm ngùi !

Đời không thiên thu sao mãi đau !

Ai thương nhớ ai trông mây ngàn ?

Ai ngồi khóc ai dòng sông trăng ?



* * *

Ừ ! ta giờ đây thôi yêu nàng !

Ừ ! em giờ đây thôi yêu trăng !

Lòng ta hồ như bia mộ vàng !

Lòng em hồ như rêu đá xanh !


Trần Hồ Dũng

3/5/10

Vẽ hộ em nét mày

Vẽ hộ em nét mày

Trần Mộng Tú


Em mở lòng kinh thánh
Chàng đến xông hương trầm
Em tặng đóa sen hồng
Chàng ép vào kinh phật

Ngày rằm chàng nằm đất
Gối đầu kinh liên hoa
Chủ nhật em đi lễ
Môi thơm lời thánh ca

Chúa nghiêng mình thánh giá
Ôm em gần vết thương
Phật vẩy nước cành dương
Cho chàng đời an lạc

Trên gác chuông vời vợi
Em giấu trái tim ngoan
Chàng qua cửa tam quan
Viết tặng em bài kệ

Thôi hãy ngồi xuống đây
Ngắm đường ngôi em rẽ
Vẽ hộ em nét mày
Ta chia đời dâu bể

Chúa Phật đều từ tâm
Tình yêu như tín ngưỡng
Hãy rót vào đời nhau
Nước sông hằng vô lượng.

Trần Mộng Tú