Nguyễn Đức Sơn
Cái chuồng khỉ
(tập truyện ngắn)
1 2
Mục lục
* Ngồi chung một chuyến xe
* Thức giấc
* Xin dừng lại nơi đây
* Hai thiếu niên
* Chiếc cù lao
* Cái chuồng khỉ
Ngồi chung một chuyến xe
Chiếc xe rồ máy mãi ở Ngã ba chú Ía nhưng không nhúc nhích được một tấc nào. Khói xăng nhớt bay mù cả lên. Viên tài xế cứ nhìn qua nhìn lại, dòm trước dòm sau rồi thở dài. Chẳng có một bóng ma nào có vẻ muốn đi xe. "Chạy đi thôi ông", tôi muốn hối hả như vậy, vì tôi nóng lòng quá. Nhưng trên xe chỉ mới có vỏn vẹn hai người. Hai thanh niên: tôi và một anh chàng trạc hai mươi bốn hai mươi lăm. Chúng tôi ngồi đối diện nhau không phải để giữ cân bằng cho chiếc xe Lam vốn sơ sài và mong manh. Hai thể xác chúng tôi đem cộng lại chắc chắn không quá tám mươi ký lô. Trọng lượng này không thể làm lệch chiếc xe nổi. Tôi nóng lòng muốn xe chạy mau. Từ lâu tôi chưa giải quyết một lần sự dồn nén thân xác. Bởi tôi không đủ can đảm đến những nơi nhớp nhúa, bình dân. "Nó sẽ ăn sâu vào tận linh hồn các anh. Các anh hãy ráng dành một khoảng chi phí lớn nhất của các anh để giải quyết vấn đề tối trọng đại của đời người đó. Không thể hà tiện để đi vào những hẻm lao động, những xóm lê dương tối tăm mà ở đó tâm hồn các anh sẽ chết đi vì sẽ gặp phải bao nhiêu thực tại không thể giải quyết nổi". Tôi không thể nào quên được ý nghĩa câu nói của một vị giáo sư dạy tôi ở lớp đệ nhất, cách đây năm năm. Thế nhưng bây giờ tôi lại vác mặt đến cái xóm này. Cũng như tôi đã nhiều lần đến đây vì thất thế. Lần cuối cùng tôi đến đây đã được gần một tháng. Trong khoảng gần một tháng đó, tôi kiệt quệ, phương tiện để đến những cái xóm tương tự như vậy. Thanh niên ngồi đối diện với tôi cũng có ý không muốn nói chuyện với tôi. Mà chính tôi cũng tỏ thái độ này trước đối với hắn. Có một cái gì ngăn cách hoàn toàn những thanh niên không cùng một hoàn cảnh trí thức nào đó với nhau. Nhưng thật ra đó không phải là lý do phân biệt chúng tôi. Bởi tôi có biết hắn trước kia. Và tôi tin hắn cũng biết tôi trong dịp nào đó khi chúng tôi tình cờ cùng đến thăm một người bạn mà cả hai chúng tôi đều quen biết. Ít ra chắc chắn chúng tôi đã có dịp bắt tay nhau rồi. Thế nhưng bây giờ chúng tôi phải làm lạ nhau. Hoàn cảnh tạo ra sự xa lạ đó. Tôi học Khoa học. Hắn học Sư phạm. Tôi biết chắc chắn hắn học Sư phạm nhưng không biết hắn học ban gì và năm thứ mấy. Ít ra cũng phải năm thứ hai. Nhưng ban gì thì khó mà đoán. Hắn có thể học Sử Địa, hắn có thể sinh viên đại học Sư phạm ban Sử Địa. Cứ dòm mặt hắn thì biết. Tôi cũng chắc chắn hắn có thể học Việt Hán, cứ nhìn mặt hắn thì biết. Tôi cũng biết chắc chắn hắn có vẻ học Anh hay Pháp văn hay cũng có thể học Triết, cứ dòm cái mặt hắn thì thấy rõ ngay. Đó, hắn thuộc cái mẫu thanh niên như vậy. Như thậm tối cực đại đa số nhân loại. Họ kiếm cho mình một cái nghề bảo đảm đến vừa tầm tay một cách trước nhất. Hắn vào đại học Sư phạm để dạy dỗ là phải. Có điều chắc chắn hắn cũng không có năng khiếu giáo dục gì. Hắn học Sư phạm để bảo đảm mấy chục năm còn lại của đời hắn, mấy chục năm mà hắn hy vọng sẽ bình yên, sống đời an cư lạc nghiệp ở một trường trung học công lập tại một tỉnh lớn nhỏ nào đó, vậy thôi. Tôi muốn khóc cho cuộc đời của hắn, dù là khóc một cách thật giả dối. Đôi khi hắn có giương mắt nhìn tôi rồi làm bộ như tình cờ nhìn phía khác. Tôi cũng có thái độ như thế đối với hắn. Tôi muốn nhìn thẳng vào ý thức hắn, để tin chắc rằng mình không nhận xét thiếu sót hay sai lầm.
Xe vẫn chưa chuyển bánh. Trời âm u, dầu dầu. Sắp mưa, nhưng không mưa nổi. Tôi đuối sức muốn giục viên tài xế nhưng nghĩ tội nghiệp nên thôi. Hơn nữa tôi cũng muốn thách thức với hắn. Tôi cũng biết hắn cũng thách thức đối với tôi để xem kẻ nào chiến bại: cả hai chúng tôi đều hối hả đi và đều muốn thúc bác tài.
Bác tài nhìn lại đàng sau một lần cuối cùng, nhấn ga, rồi lại nhìn lại đàng sau một lần… cuối cùng nữa, rồi một lần… cuối cùng nữa. Bây giờ xe mới chạy. Đi được một chặng đường, bốn hành khách lại kêu xe. Một cô nữ y tá, một chuẩn úy, một trung sĩ và một người lính thượng cô đơn đứng một mình. Cô y tá được mọi người nhường chỗ cho leo lên trước. Hai chúng tôi đều ngồi yên giữa băng. Không ai thụt vô hay thụt ra. Cô y tá lưỡng lự một phút rồi đến ngồi sát bên hắn. Hắn nhìn tôi với một vẻ đắc thắng, thách đố mơ hồ. Tôi biết tôi thua hắn về phương diện này. Thế là tôi được dịp đối diện với cô. Đoạn đường buồn tẻ nên tôi giết thời giờ bằng cách quan sát cô ta. Khuôn mặt trái xoan, đẹp trung bình. Hai bàn tay hơi thô xấu. Song chắc chắn là chúng đã cứu chữa và thoa dịu không biết bao nhiêu vết thương trên thịt và trong những tâm hồn trung bình chiếm tối cực đại dân số trên trái đất này. Tên chuẩn úy và tên trung sĩ không ngớt nói chuyện với cô ta. Người lính thượng cô đơn buồn bã ngồi bên tôi. Tôi biết anh chàng thèm được nói chuyện lắm. Tôi cũng muốn nói vài câu cho vui nhưng không biết nói gì nên thôi.
Tên chuẩn úy xuống ngay Trung tâm Tiếp huyết. Tên trung sĩ và cô y tá đến Bệnh viện Cộng Hòa. Bây giờ tôi mới chú ý thấy cô y tá đi cẳng chữ bát, một điều thật bất hạnh đối với đàn bà. Viên trung sĩ có vẻ ốm, cao, hơi khòm. Tôi đoán chắc cũng là một y tá và y tá đã hành nghề kinh niên.
"Hai vợ chồng đó!" Bất thần người lính thượng nói với tôi như vậy.
"À", tôi chỉ biết trả lời như vậy kèm theo một cái cười thiện cảm.
"Tôi biết họ lâu lắm, hồi ở Kontum".
"À, ông quen với họ, ông có ở Kontum?"
"Tôi ở Kontum mà".
Một chiếc máy bay trực thăng đột nhiên hiện ra giữa bầu trời. Nắng lên khá cao chiếu sáng cả một khối nhôm sáng quắc. Rồi tiếp theo hai, ba khối nhôm khác từ xa cũng hiện về đáp xuống bãi đất dành riêng trong khu bệnh viện với những dãy nhà sơn những dấu thập trắng to trên nguyên cả hai mái, ngừa bên kia có thể tấn công lầm bằng phi cơ.
"Đánh ở đâu lớn lắm", người lính thượng nói với tôi và với thanh niên ngồi đối diện với tôi như vậy.
"Sao ông biết?" Tôi hỏi.
"Tôi mới về mà, tôi có đánh mà!"
"À…"
Xe ngừng để kiếm thêm khách. Viên tài xế lại nhìn trước, nhìn sau, nhìn qua, nhìn lại trong thiểu não.
"Thông Tây Hội đi! Ai đi Thông Tây Hội đi!"
Vẫn không có thêm một mống hành khách nào.
"Các ông đi Xóm Mới chứ?" Viên tài xế vừa nói vừa mỉm cười, mắt nhìn về những tên ma cô, đàn ông, đàn bà và cả con nít đang lăng xăng vẫy tay mời khách.
"Ở đây đông lắm không tốt. Lên Xóm Mới tốt hơn".
Tôi đồng ý với viên tài xế mà không biết trả lời ra sao.
Đi được một chặng đường, qua khỏi khu vực Bệnh viện Cộng Hòa thì người lính thượng xuống. Ông ta vào Đại đội Sửa chữa X. Trên xe lại vỏn vẹn còn lại hai mống: tôi và hắn, một sinh viên Đại học Sư phạm ban Việt, Anh, Pháp, Toán Lý Hóa hay Sử Địa gì đó mà tôi không biết rõ mà cũng chẳng cần biết rõ để làm gì.
Không khí cô đơn ghẻ lạnh và nhạt nhẽo bao trùm lấy hai người. Chúng tôi thỉnh thoảng nhìn nhau để rồi nhìn đi chỗ khác. Tôi ngồi bên trái nên mắt hướng về những thành lũy có bọc dây kẽm gai rối chằng chịt như tóc một me Tây hay me Mỹ già mà tôi gặp nhan nhản từ hơn hai mươi năm nay trong những xóm làng và đô thị đang ngất ngư, thoi thóp. Trên những bức vách cách khoảng đều nhau người ta thấy những hình sọ người vẽ bằng sơn trắng ở dưới có bắt tréo hình hai cái xương dài. Tôi chưa bao giờ biết hai cái xương bắt tréo trong cái biểu tượng chết chóc này là xương quai hàm, xương quai sanh hay xương cánh tay. Thế nhưng tôi rúng động khi thấy những hình ảnh này tại những thành lũy quân sự. Cần phải nói thêm là gần những hình vẽ sọ người đó luôn luôn có kèm theo bên phải hay bên trái một chữ MÌN. Chữ viết có vẻ cẩn thận, bình tĩnh, đều tay và rất lạnh. Tôi cũng được biết những hình vẻ này có ngày tháng khá lâu. Hình như ba bốn năm trước đây tôi cũng đã trông thấy chúng. Không biết trong khoảng thời gian tôi không có dịp đi qua đây (khi có tiền thì tôi phải đến những nơi thật sang trọng để ở đó, lạy trời, tôi còn thấy đàn bà với một vài tính chất còn sót lại cuối cùng của nó), gió, mưa, nắng, bão có xóa mờ những hình sọ người với hai que xương bắt tréo cùng chữ MÌN đó không, để người ta phải cho sơn phết lên một lớp mới nữa không. Nhưng không biết vì sao tôi tin là không và cũng không biết vì sao tôi tin người lính thợ vẽ tác giả của chúng đã chết, chết một cách bình tĩnh và rất lạnh.
Một chiếc xe nhà binh phóng mình chạy ngang qua. Chiếc xe lam hơi nép mình bên đường. Người lính tài xế chiếc cam nhông chỉ cần lái lệch một chút là chúng tôi tan nát xương thịt. Tôi nghĩ đến những khuôn mặt hết sức trẻ trung như chúng tôi mang chức sĩ quan trừ bị đang ngồi lên chiếc xe nhà binh rộng lớn đó. Không hiểu vì sao tôi đoán đó phải là một xe chở những sĩ quan trừ bị Thủ Đức và phải là các sĩ quan thuộc khóa sau cùng. Mà đúng vậy, một lúc sau, chiếc xe cam nhông khác cũng ồ ạt phóng qua, trên xe cũng chở đầy nhóc những sinh viên trừ bị Thủ Đức với loại đồng phục làm cho tôi phát tởm. Một sinh viên sĩ quan ngồi ở sau cùng trông thấy thanh niên ngồi ở trên băng đối diện với tôi kêu lớn:
"Tánh, Tánh ơi!"
Thanh niên ngồi đối diện với tôi giật nẩy mình – đúng hắn tên là Tánh – vội vã chồm ra phía trước nhìn đằng sau chiếc xe cam nhông, nhận xét rất nhanh và réo lớn:
"Lân, Lân, Lân ơi!"
Tôi không còn nghe thấy tiếng gì nữa. Tôi không còn trông thấy chi nữa ngoài những tàng bụi mù bay tạt vào xe chúng tôi. Tên sinh viên Sư phạm nói chỏng, buông lơi:
"Khóa 15".
Một chiếc xe quân cảnh ở đâu về từ từ đi ngược chiều chúng tôi.
"Đã bố ráp xong rồi đó, các anh đừng lo". Viên tài xế nói vọng với chúng tôi một cách tự nhiên như vậy. Thì ra hắn biết chắc chắn một trăm phần trăm mục đích của chúng tôi về chuyến đi từ Saigon ra ngoại ô này.
Tự nhiên và đồng thời với nhau chúng tôi đều móc bóp ra kiểm điểm lại những giấy tờ cần thiết và khẩn yếu. Tôi thấy hắn cũng có những giấy tờ rất giống tôi: một giấy căn cước, một thẻ trưng binh, một giấy hợp lệ tình trạng quân dịch, không biết giả hay thật, một thẻ sinh viên. Tự nhiên hắn nhìn đi nơi khác. Tôi cũng nhìn đi nơi khác. Một tình cảm hèn hạ ở đâu về xâm chiếm tâm hồn chúng tôi. Những thứ giấy tờ đó đủ bảo đảm về mặt pháp lý khi chúng tôi bị bắt quả tang đang giải quyết sinh lý chăng? Chắc chắn là không. Vậy chúng tôi kiểm điểm để làm gì? Một bản năng tự vệ xui khiến, thúc đẩy chúng tôi ư?
Viên tài xế thỉnh thoảng cứ nhìn về phía chúng tôi khi xe qua những nơi có những tấm bản nhỏ đề những chữ in khá sắc sảo: Khu cấm quân nhân. Một vài người lính mệt mỏi lừ đừ từ những khu đó bước ra.
Mấy tên ma cô ma cạo vẫn đứng vẫy vẫy chúng tôi. Chợt xe dừng.
Tên tài xế đã ra mặt nói:
"Tôi biết một nơi hay lắm. Người ta mới mà!" "Mới" cái khỉ mẹ gì! Chúng tôi đâu có dễ bị lừa vì những lời đối gạt hết sức trẻ con của mấy tay ma cô ma cạo đó. Té ra viên tài xế chiếc xe Lam của chúng tôi cũng là một tên ma cô hay rước mối chia tiền với những tên ma cô kia.
Tôi hỏi:
"Thế ông có biết Sáu Nhỏ ở đây không?"
"Nó vừa bị bắt hai ngày nay", tên tài xế đáp.
Tôi biết hắn chẳng biết mẹ gì Sáu Nhỏ cả. Có lẽ hắn không thuộc vào cái ổ nuôi các tay em có chứa Sáu Nhỏ ở đây. Tôi hỏi vặn:
"Ông biết Sáu Nhỏ nào?"
"Sáu Nhỏ mười bảy tuổi người Vĩnh Long có đứa em mười lăm tuổi ở nhà mụ Hạng bán xôi".
Đến đây tôi biết hắn đã biết rõ Sáu Nhỏ thật sự.
Tôi hối hả:
"Hãy tìm cho tôi đứa em đi".
"Cũng bị bắt mới vừa thả về đó. Để xem…"
Tôi thích nhất Sáu Nhỏ dù cái tên hết sức quê. Sáu Nhỏ đúng mười bảy tuổi thật sự chứ không phải mười bảy tuổi trong lời nói của những chị em ta lúc nào cũng "em mới mười bảy tuổi". Sáu Nhỏ có vẻ buồn và ngây thơ. Đã nhiều lần gặp Sáu Nhỏ, "đi" với Sáu Nhỏ, tôi thường tưởng tượng đến một đứa con gái tinh sạch mặc dù cái mùi hôi, khai của giường chiếu và không khí xung quanh. Nếu Sáu Nhỏ mặc áo đàng hoàng đi ngoài phố, không ai có thể ngờ Sáu Nhỏ đang sống bằng một nghề bi thương nhất trong xã hội ngàn năm thiếu hụt và bất toàn của loài người. Tôi có những cử chỉ âu yếm tưởng như Sáu Nhỏ là người yêu chính thức của tôi khi nó nằm buông xuống mỉm cười. Cái cười không nhuốm vẻ bi thiết, mỉa mai, thỏa mãn, chịu đựng. Cái cười lạ lùng. Cái cười làm cho tôi se thắt cả tâm hồn và thấy mình thật khốn nạn. Tôi không nhớ tôi đã nói gì với Sáu Nhỏ (hay những Sáu Nhỏ khác) trong lúc đó. Chỉ biết chắc chắn tôi có hỏi một câu này:
"Em bị với ai lần đầu tiên?"
Tôi dùng chữ "bị" chỉ một trạng thái thụ động, cưỡng bức để thế với danh từ chuyên môn dùng ở đây là chữ "đi". Và mỗi lần hỏi như vậy đầu óc tôi quay cuồng, cảm thấy một thực tại đau đớn không thể cứu chữa nỗi trong xã hội loài người. Tôi muốn la hét lên. Tôi muốn truy tầm cho ra tên thủ phạm đầu tiên. Tôi muốn giết tên đàn ông có lẽ là thương gia giàu sụ nào đó đã bỏ ra mấy chục ngàn để giết cả xác lẫn hồn một đứa con gái mười bảy tuổi đó. Thế nhưng nếu tôi là người đàn ông đầu tiên gặp Sáu Nhỏ, thú thật, tôi cũng đã là tên phạm tội trọng đại nhất trần gian đó mà thôi.
Tôi nghĩ ngợi nhiều về Sáu Nhỏ. Tôi nghĩ ngợi về đứa em, đứa em mười lăm tuổi cũng làm cái nghề bi thống như chị. Tôi ít khi dám "đi" với đứa em. Nó còn quá non. Như thịt một con gà con hay một con bê quá nhỏ. Nó cũng chưa có đủ những cử chỉ yêu đương, dù là yêu với khách. Tôi không biết trong cái lần đầu tiên, lần thứ nhì và lần thứ ba bị một con quỷ đàn ông như tôi hãm hiếp nó phản ứng ra sao. Và nếu nó chấp nhận, nó có cái cảm giác đúng như cảm giác những đứa con gái khác lần đầu tiên ngủ với đàn ông không. Mười lăm tuổi, điều kiện sinh lý đã phát triển đầy đủ chưa? Tôi chỉ thấy nó quá mỏng, quá mềm, quá non, chắc chắn sẽ khô héo, xanh xao, vàng vọt, yếu rũ như một tàu lá chuối non chặt vứt ra giữa nắng hạ. Đôi lúc tôi cảm thấy khi nằm với nó như nằm với một con sâu con tuy đôi lúc tôi vẫn thấy một khía cạnh thỏa mãn ma quỷ ngây ngất hơn khi nằm với Sáu Nhỏ.
Những chiếc trực thăng bay đảo nhiều hướng trên vòm trời cao. Những khối nhôm hiện ra sáng quắc khi gần hạ thấp xuống. Tôi nghĩ đến những thương binh đã ngu ngơ bắn phá hết sức mình trên chiến địa. Tôi nghĩ đến những thanh niên cùng lứa với tôi đã lần lượt vào Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức trong những khóa gần đây.
Hơn nửa giờ sau tôi lại gặp Tánh – người thanh niên độc nhất đã ngồi cùng chuyến xe lam đi với tôi hồi nãy – đang hối hả đi đến xe buýt của Công quản đang đậu ở bến Thông Tây Hội. Chắn hắn cũng đổ xuống đây từ một chiếc xe lam nào đó ở khoảng Xóm Mới về như tôi. Xe đã đông hành khách mặc dù chưa đến giờ chạy. Hắn bước lên ngồi ở chiếc ghế đệm cuối cùng còn bỏ trống. Tôi ném một cái nhìn rất nhanh nhưng kỹ càng từ đầu xe đến cuối xe. Không thấy còn chỗ nào trống nữa, đã mệt mỏi sẵn tôi đành ngồi xuống sát bên hắn. Chiếc xe buýt của Nha Công quản Chuyên chở ít khi được rộng và thoải mái như hôm nay. Tôi thử xét đến nghề nghiệp của những người ngồi trên xe. Ba nữ y tá. Một lính thủy. Độ năm bảy tên lính nhảy dù. Tất cả mồ hôi nhễ nhại hình như mới dự trận về. Còn tất cả đều là kẻ buôn thúng bán bưng, nét mặt đăm chiêu lo nghĩ.
Tôi nhìn hắn. Hắn nhìn tôi. Không ai nói gì với ai. Tôi châm thuốc hút để tránh suy nghĩ. Tôi mời hắn. Hắn cũng móc thuốc ra hút, chậm rãi và từ tốn hơn tôi. Tôi chú ý thấy đó là thuốc Cotab. Tôi thì Ruby. Hắn loay hoay mãi nhưng không tìm thấy diêm. Có lẽ hắn đánh rơi trên chiếc giường hôi hám hay chỗ rửa ráy tạm bợ nào rồi.
Hắn làm vẻ tự nhiên xin mồi thuốc của tôi. Tôi giữ lịch sự tối thiểu và vui vẻ.
Khi xe trở lại con đường dẫn về thủ đô Saigon, tôi thấy mắt hắn lơ đãng nhìn về phía vách tường dài có những hình sọ người với hai xương bắt tréo cùng chữ MÌN một bên. Hắn nhép mép, thở một hơi thuốc dài rồi nhìn sang hướng khác. Chắc hắn cũng thấy những hình ảnh đó nhiều lần rồi. Và không ai bảo ai chúng tôi đều mồi thêm thuốc khi xe ngừng trước một nghĩa địa Trung Hoa cũ kỹ khá rộng. Xe mắc kẹt vì một đám tang đang diễn hành vào đó. Tôi nhìn đến những dãy mộ vuông, cao, thẳng tắp. Hình như đó chỉ là những mộ chôn hài cốt thôi. Nghĩa địa thì có bao giờ vui. Chúng tôi và những người trên xe đều hướng mắt về phía đó. Một chiếc trực thăng quay cánh tè tè hiện ra trên bầu trời nắng chói và tiến về phía bệnh viện. Tôi hút dồn dập và thở ra từng cơn gấp. Hắn cũng hút giống tôi. Và lần đầu tiên, khi thấy tôi vò bao thuốc Ruby quăng ra cửa xe, hắn ân cần rút cao một điếu Cotab trong bao ra đưa cho tôi.
"Mời anh".
Rồi chúng tôi cứ ngồi yên như thế cho đến khi xe chạy về thành phố, nơi tôi vạn bất đắc dĩ phải trốn tuổi thanh niên từ bao năm nay bằng cách quyết định mua giấy tờ hoãn dịch giả mạo để an táng cái khoảng thời gian chứa chan sinh lực đó trong một nghĩa địa không có mộ phần.
Thức giấc
Bác sĩ còn nghe thấy tiếng sóng gầm ngoài khơi xa. Âm vọng đều đều, buồn nản. Với cái áo ấm choàng sơ trên vai, ông theo lối đi rải san hô ra đến bờ nước. Giờ này ắt hẳn mọi người đều an giấc, kể cả người vợ và mấy đứa con thân yêu còn ít tuổi của bác sĩ. Cô nữ y tá có phiên trực đêm nay có lẽ lười biếng nằm đọc tiểu thuyết hay thơ tình không hay biết gì về việc riêng của bác sĩ. Đôi giày của bác sĩ chạm trên đá cuội và san hô nghe lạo xạo, tiếng động gãy và thanh. Bất giác bác sĩ như nghe lại một điệu trong một tấu khúc diễn tả bước chân vang trên sỏi của một đôi tình nhân trong đêm khuya. Ông tưởng tượng đến mái tóc người con gái đang ngã vào vai anh con trai dìu nhau đi, dìu nhau đi. Chỉ có những đêm như đêm nay bác sĩ mới cảm thấu được cái ma lực của âm nhạc. Ông cũng nhận biết con gái mình say mê nhạc bởi nó đã bắt được cái giây phút thiêng liêng vi diệu kia. "Thật đáng quý hóa!", bác sĩ nói một mình. Người chồng của Mai – con gái bác sĩ cũng say mê nhạc như Mai. Anh ta chỉ trạc bằng tuổi Đức – con trai lớn của bác sĩ – nhưng cao lớn hơn nhiều. Anh chỉ biết có âm nhạc và bất kể mọi thứ trên đời. Vậy mà từ lâu bác sĩ đã khinh thường anh ta. Khinh thường đến ra mặt. Cho nên không đời nào Ngạc – tên anh chàng – muốn về cái miền thành phố này, mặc dù ở đây anh có nhiều chỗ quen thuộc và nhất là nhiều kỷ niệm, mà kỷ niệm sâu xa nhất là những ngày đầu tiên đến với Mai và nói chuyện âm nhạc với Đức. Bác sĩ đã viết cho Mai đại ý không nhìn nhận con gái nữa. Mai vẫn liều sống chung với Ngạc, không phải vì nàng đã hiến thân cho Ngạc mà bởi Mai không thể sống xa Ngạc, thế thôi. Mai bán lần hồi tất cả nhẫn, xuyến, đồng hồ để hai người có phương tiện sống chung với nhau. Mai thuộc loại con gái bất cần đời và khinh thường tất cả. Mai không cần biết mình đã hành động theo tình cảm hay lý trí. Nàng chỉ hành động theo lý tưởng. Chỉ hơi phiền Ngạc. Anh chàng có thái độ lạ lùng với xã hội trước đời sống: anh không thèm thi cử gì hết và bất cần làm việc gì hết. Bước chân vào đại học chỉ có mấy ngày, anh tự ý rút lui, không tỏ vẻ khinh khi hay hờn giận chi hết. Việc đó xảy ra cách đây đã hơn ba năm. Cuối cùng, túng thế, Ngạc vào làm tạm ở Usom. Hai người tặn tiện ăn tiêu và sau ba năm họ đã tậu được một cây piano. Họ thuê một căn nhà khá sang ở một building. Tất cả thì giờ rỗi họ đều dành cho việc nghiên cứu âm nhạc và chơi đàn. Để vấn đề tài chính khỏi đe dọa, Mai còn bỏ một ít thì giờ dịch bất cứ thứ gì mà các báo – nhất là các báo phụ nữ – cần đăng. Từ cuộc đời bán mạng của một Brigitte Bardot đến cuộc đời xả thân của một Albert Schweitzer, từ nghệ thuật làm dáng của đàn bà cho đến cách nấu ăn Đông Tây kim cổ – những tài liệu đầy dẫy trong các báo Anh, Pháp – Mai không từ bỏ thứ nào. Dĩ nhiên là Mai đã ký tên người dịch hay sưu tầm hàng chục thứ tên. Nhiều khi Mai mỉm cười một mình với cuộc sống ngoại hạng đó. Nhiều lúc đầu tháng có nhiều tiền họ dẫn nhau đến những hiệu cơm sang trọng. Nhưng cũng có lúc cạn túi, họ phải ăn toàn bánh mì với chuối hay cả đến bánh mì khô. Cuộc sống đó cả hai người đều không muốn ai biết đến. Họ ngại nhất là những con mắt tò mò tọc mạch của người quen biết – trừ bạn bè – có thể làm thương tổn đến hạnh phúc kia. Song Mai vẫn còn nuôi một ước vọng. Nhiều lúc Mai gửi thư về mẹ để gián tiếp khuất phục người cha để đạt ước vọng đó. Đó là một ngôi nhà, nhỏ thôi, nhưng bằng đá cất theo kiểu nàng thích. Nhà hầu như chỉ có một căn phòng nhưng khá cao khỏi mặt nước, trên một ghềnh đá dòm ra biển. Mai gián tiếp hứa với cha là sẽ không làm phiền cha bất cứ điều gì nữa. Lâu lâu Mai sẽ về đó một mình hay cùng chồng hay một người bạn gái hay trai – trong bất cứ khoảng thời gian nào. Sáng, chiều, đêm hoặc giữa khuya. Nàng sẽ đi vòng theo lối mòn sau lưng bệnh viện mà vào đó. Nàng sẽ không đi qua phòng làm việc của mẹ nàng hay của các em. Nghĩa là Mai không muốn quấy rầy ai hết. Nàng tưởng tượng trong đêm khuya, lúc biển lặng hoàn toàn hay sóng gầm xô cao lên, nàng sẽ một mình hay cùng một người bạn đi ra đó ngồi bên đàn lắng nghe niềm bí mật ngàn đời của vũ trụ. Tưởng tượng thôi Mai cũng thấy lạnh người vì cảm khoái. Nàng hết sức bày tỏ với mẹ. Mẹ thì thương con nhưng làm sao hiểu nổi. Còn người cha – vị bác sĩ kia – thì tức tối khi đọc xong những cái thư kia. "Hỏng, hỏng! Lãng mạn! Hay là nó điên, nó điên thực mà!".
Đêm nay một mình giữa trời biển bao la, bác sĩ nhớ hết lại những lời mắng mỏ kia. Bác sĩ tự hỏi: "Ta điên hay con Mai ta điên?". Để rồi tự trả lời: "Chẳng lẽ cả hai cùng điên". Bác sĩ phân vân lắm. Ông đi từng bước ngắn, cúi đầu suy nghĩ. Bác sĩ như luyến tiếc, như ân hận một thời nào xa xăm. Bác sĩ lẩm bẩm: "Phải chi còn trẻ, khi còn trẻ… đã muộn rồi chăng?". Ông nhìn ra đại dương đen thẳm. Sóng vẫn vỗ đều đều buồn nản. Từ đáy biển vang lên những âm vọng xa xôi. Nhìn lại khoảng đường đã đi qua, ông bùi ngùi muốn khóc. Ông nhìn lên trời cao. Những vì sao nhấp nháy lưa thưa tự bao giờ. Một vài cái thỉnh thoảng đổi ngôi bay xẹt qua bằng một nửa vòng cung rộng thật huyền ảo. Bao nhiêu thế đại đã đi qua và hằng hằng thế đại cũng sẽ đi qua, tất cả đều tắt biến nhanh như những vì sao kia. Bác sĩ cảm thấy cái bé bỏng, cái mong manh và tự nhiên bác sĩ cảm thấy một nguồn ân hận mênh mông trùm xuống tâm hồn. Ông đã bỏ qua tuổi trẻ một cách oan uổng.
Khi mà những người bạn cùng lớp đã sống hết cho tuổi trẻ của mình thì bác sĩ lại giam nó trong căn phòng kín vây quanh bởi những chồng sách dày cộm. Hồi đó, những lần ở trường về hoặc những lần đang nằm trong căn phòng dĩ vãng kia bắt gặp tấm thiệp mời của bạn bè nhân một ngày vui có mở bal, chàng sinh viên trường thuộc kia thản nhiên cầm lấy, thảng hoặc mới liếc nhanh qua một cái rồi nghiêm nghị xé bỏ đi. Bạn bè lần hồi chán bỏ đi mất hết. Tuổi trẻ bác sĩ khô như đá vì ông chỉ nhìn con đường trước mặt. Nhưng con đường đó sẽ dẫn bác sĩ đến đâu? Người khách bộ hành kia chừng đã mỏi mệt rồi. Nhìn ngút về quá khứ, bác sĩ chỉ thấy bóng mình mù lấp. "Ôi thanh xuân! Ôi thanh xuân!", bác sĩ nói một mình và nằm dài trên cát. Ông bỗng nhiên nghĩ đến đứa con trai lớn: Đức. Người cha già đó đã có ý nghĩ lạ lùng. Ông ân hận. Ông nhận thấy tội lỗi đã bắt buộc đứa con trai và cả đứa con gái đi đúng con đường mà nhiều lúc nản lòng ông tin nó không dẫn đến đâu cả trước đau khổ xác thân thật ra chưa giảm thiểu được chút nào qua bao nhiêu thế kỷ trước nỗ lực phi thường của y khoa. Người ta đã từng gần như tiêu diệt được một vài căn bệnh này thì một vài căn bệnh khác lại xuất hiện trầm trọng hơn. Hình như có một cái luật bù trừ rất bất nhân muôn đời trong trời đất. Cũng có lẽ một phần vì mơ màng cảm thấy điều này mà một Lỗ Tấn và một Somerset Maugham đã bỏ nghề mổ xẻ đi làm kỹ sư tâm hồn chăng? Nhiều lúc vì tự ái – và chính cũng vì tự lừa mình – ông không muốn nhận lấy điều đó. Một khi đã lựa chọn một con đường đã đi rồi thì tốt hơn hết là không nên lưỡng lự: cứ cắm đầu đi dù đã mơ hồ cảm thấy ở ngút đầu đường kia chỉ có toàn ảo ảnh. Vả lại, trên con đường đang đi, cứ cố gắng đi cho hết sức, luôn luôn lục lạo tìm kiếm hết mình thì ít ra cũng hưởng được những nỗi vui nhỏ dọc đường. Có điều bây giờ bác sĩ cảm thấy cần giải phóng mình tức khắc, giải phóng cho mình và cho cả đứa con thân yêu: Đức. Mỗi người sinh ra không ai giống ai. Ngay đến cha mẹ và con cái cũng vậy. Có thể giống nhau về hình xác, đức hạnh, nhưng còn một phần cao hơn là tâm hồn và khí chất thì không. Bắt buộc người khác đi theo con đường riêng của mình thì thật là ích kỷ. Bao năm qua bác sĩ đã cố ý bóp nắn đứa con trai và cả đứa con gái cho đúng mẫu người ông đã nghĩ, nghĩa là phải tiếp tục con đường của ông, sẽ hình thành một lý tưởng ông đã thấy hiện lên trong trí tưởng. Bây giờ nhất định ông phải giải phóng nó. Còn cái bệnh viện do ông làm giám đốc và sở hữu chủ, trước khi chết ông sẽ bán đứt lại cho bất cứ một bác sĩ nào khác. Tiền đó một phần ông sẽ phân phát cho một cơ quan từ thiện nào đó, một phần sẽ dành cho các con còn nhỏ tuổi và một phần sẽ dành cho Mai và Đức.
Còn công việc bác sĩ đã tìm kiếm từ khi mới ra trường – dạo mới hai mươi sáu tuổi – cho đến bây giờ, ông sẽ ghi lại rõ ràng những công thức cho bất cứ kẻ nào đến sau có thể khám phá và tìm kiếm kỹ càng hơn để đi đến thành công.
Bác sĩ đã đặc biệt chú ý, lưu tâm đến bệnh cùi.
Mấy mươi năm không đi đến đâu, bây giờ bác sĩ nản chí lắm. Bao nhiêu cuốn sổ tay ghi những phương thức, những tên các thứ dược liệu hiếm hoi, bao nhiêu chai lọ, nhiều lúc nổi khùng bác sĩ muốn vứt ra biển hết. Bác sĩ cảm thấy nguồn sinh lực trong người đã bắt đầu giảm hẳn cường độ và cạn đi. Những nếp da tay đã nhăn rúm. Còn những móng thì cứng và dầy lên. Có những lúc ngồi trong phòng thí nghiệm một mình, cởi phăng áo quần đi, bác sĩ đến trước một tấm gương lớn quan sát. Cử chỉ dị tặc đó gợi ông nhớ lại hồi niên thiếu, lúc nhà vắng, anh con trai đó cũng đã làm như vậy. Nhắm mắt một cái, mấy chục năm đã kéo nhau đi qua. Bác sĩ đã hiểu gì về ông, về con người? Bác sĩ nghĩ nếu bây giờ ông thình lình chết đi vì một nguyên nhân nào đó, chắc khoảng thời gian sống trên mặt đất này của bác sĩ thật phí phạm. Trong những đêm ân ái cùng vợ bác sĩ vẫn thấy một sự ngăn cách bao trùm. Ông luôn luôn cô đơn. Điều đó do ảnh hưởng một phần bởi cái nếp quen của chức nghiệp. Phần này người vợ chắc cũng cảm được. Nhưng còn một phần nữa tham dự vào cái xa lạ kia thì chính bác sĩ cũng không thể nào hiểu nổi. Và nếu bây giờ bác sĩ chết đi, người vợ cũng không đời nào hiểu gì ở ông. Cả Mai và Đức cũng thế. Mỗi người chết đi mang hết theo cả sự xa lạ, niềm đơn độc riêng tư của mình. Và những người còn sống, những người thân yêu kia thì không cần ai tìm biết làm gì. Họ đã nói chuyện với nhau về những lần chung sống, về những kỷ niệm vui buồn, về những mộng ước xa xôi, nhưng họ làm gì bắt gặp được nguyên vẹn bản thể của nhau.
Bác sĩ đứng lên, đi đi lại lại trên bờ cát. Những vảy cá trôi dạtt vào bờ sáng nhấp nháy vì dát đầy lân tinh. Bác sĩ lẩm bẩm: "Ta điên mất rồi chăng?". Rồi bác sĩ giơ hai bàn tay lên trong đêm đen. "Ôi hai bàn tay này, hai bàn tay đã từng mổ xẻ, khám nghiệm không biết bao nhiêu cơ thể, đã giết chết không biết bao nhiêu vi trùng công phá những cơ quan hiểm hóc trong bao nhiêu con bệnh, bàn tay đã múc ra không biết bao nhiêu viên đạn mắc trong xương thịt của những người thương binh, bàn tay đã rút ra và nâng lên không biết bao nhiêu đứa trẻ ngo ngoe khóc chào một thế giới mới lạ mà không ai biết chúng đã từ đâu đến… Bàn tay này... Bàn tay này… mọi người đều nghĩ nó hữu dụng lắm… nhưng riêng ta… giờ phút này… ôi ta không hiểu gì ta cả".
Bác sĩ nhìn ngắm từng ngón. Bác sĩ vẫn quen thuộc với bàn tay của mình lắm. Vẫn những ngón hơi mập, nhưng móng hơi dài, tầm thường. Bác sĩ ngắm mãi để thấy chúng lạ lùng. Như khi đọc mãi liên tiếp một danh từ nào đó để thấy nó lại mất nghĩa, trở thành lạc lõng, bơ vơ. Té ra suốt đời tận tụy làm việc, trừ những giây phút sảng khoái mà con người đã mệnh danh là tình nhân loại, một thứ đạo đức rộng mở có sức thu hút rất mạnh, vô hình và từ đàng xa, từ trên cao. Bác sĩ vẫn không hiểu gì hết. Nhiều lần bác sĩ nhắm nghiền mắt lại. Bác sĩ vẫn sợ những giây phút đố lắm. Bác sĩ bỗng có một cử chỉ vô thức: bức một sợi tóc trắng cầm chơi.
Bây giờ gió ngoài khơi thổi vào từng luồng mạnh. Đêm nay sắp có bão chăng? Thời tiết mấy hôm rồi vẫn thay đổi thất thường. Bác sĩ bỗng cảm thấy ớn lạnh khi nghĩ đến vùng quê hương biển mặn nơi đây, nơi mà cả một dòng họ đã sống và đã phụng sự một nghề nhân đạo: nghề thuốc. Bác sĩ bỗng băn khoăn: hình như trong hơi gió có tiếng nói thì thầm… thì thầm… nhỏ to… như trong một tấu khúc diễn tả niềm yên lặng đời đời của biển cả. Bác sĩ tự nhiên nhớ đến Mai và Đức và cái say mê lạ lùng của hai đứa con. Ông trở vào bệnh viện với ý nghĩ giải phóng lâng lâng trong đầu khi nghe cô ý tá trực đêm nay ấm ứ trong miệng một đoạn nhạc nổi tiếng mà ông biết là của Ngạc, thằng con rể ông chưa một lần thấy mặt. Như hơi lạnh thiên thu ở vùng biển già cỗi từ muôn đời này.
Xin dừng lại nơi đây
"Có nên lấy cái vé cao nhất không? Sao lại không? Nhưng ô kìa xao mình keo bẩn thế?" Trương chần chừ, do dự, chỉ mong muốn một sự tình cờ nào đến giải quyết. Trương thấy khó chịu với chính mình khi biết mình không dứt khoát nổi những việc cỏn con trong đời sống. Nhưng đây có phải là một việc cỏn con không? Trương liếc nhanh về phía đứa con gái bây giờ đang dồn với chàng vào khoảng giữa lòng chuyến xe buýt Gia Định – Chợ Lớn. "Sao mình keo bẩn thế? Có thể nào mình bần tiện đến mức đó không?". Trương nghĩ như vậy nhưng không trả lời. Thì cho cao tay lắm giá cái vé lớn nhất cũng chỉ có năm hay sáu đồng thôi. Mà cái vé Trương vẫn lấy thường nhật mỗi trưa dạy học ở Bình Dương về Bà Chiểu để đi đoạn đường chuyến buýt đặc biệt này giá đã hai đồng (có mang mấy chữ Bà Chiểu – Chợ Trương Minh Giảng) rồi. Trương không thể keo bẩn một cách kỳ cục như vậy.
"Đi đâu?" Người bán vé đã đến chỗ chàng đứng.
Chàng tính nói: "Vé tối đa" như bao nhiêu lần phiêu lưu khác khi bắt gặp một dáng dấp hay hay nào đó trên cùng chuyến bút. Nhưng rồi chàng lại do dự.
"Đi đâu?" Người bán vé giục giã.
"Thì cứ mua mẹ nó cái vé tối đa đi rồi mình muốn xuống đâu thì xuống, sao lại tiếc mấy đồng bạc". Trong phút chốc chàng đã tự trách như vậy. Nhưng cơn đau đầu gần như kinh niên lại tấn công Trương. Chung quanh đầu Trương như có một khối vật nào thoạt đè nặng, thoạt giở lên. Cơn nóng lạnh, hâm hấp mồ hôi đã phát ra lúc 9 giờ 30 sáng khi chàng vừa phụ trách xong hai giờ Anh văn lớp đệ tứ để tiếp đến lớp đệ nhị. Khoảng gần ba mươi cây số trên chiếc xe đò có chỗ dựa khá êm cùng với gió mát làm Trương quên hẳn cơn nhức đầu. Bây giờ nó lại tái phát. Hay đúng hơn nó tái phát từ lúc chàng đứng đợi buýt ở trạm xe Bà Chiểu, leo lên một chiếc xe cũ rích máy nổ rầm rầm đứng yên một chỗ. Và chính nó có khi cũng bay đi một cách lạ lùng khi Trương chú ý đến đứa con gái. "Có thể nào làm đẹp một đứa con gái không?". Trương vẫn thường nghĩ vậy khi trông thấy những đứa con gái có một sắc đẹp, một dáng dấp hay hay nào đó nhưng chàng biết chắc chắn sẽ thất vọng nếu hoàn cảnh may mắn cho chàng đi thêm một đoạn đường ngắn nữa thôi. Chàng không tin ở ý chí, tài năng, ở tâm hồn chàng. Chàng không tin ở khả năng của chúng để biến tạo một đứa con gái nếu đứa con gái đó đã không có mầm mống thích nghi. Rồi tất cả – trừ những hình bóng hư ảo xa xôi – sẽ trở về cái tầm thường, lì, lợm, ngu, ngốc, u mê của đời sống một người đàn bà. Tưởng tượng đến những đứa bạn gái cùng lớp cùng trường hồi trung học, mấy năm ở Văn Khoa hay những đứa con gái lạ lùng khác rải rác trong bao nhiêu cảnh sắc ngược nhau, chống nhau của cuộc đời, tưởng tượng đến những dáng dấp chàng đã từng mê đắm, chàng đã thất vọng khi tình cờ gặp lại họ. Thôi nhé em, một hột cát nhỏ trong bãi biển hồn anh. Thôi nhé em, anh chỉ lấy đúng cái vé hai đồng như thường nhật mỗi ngày anh có đi dạy học ở Bình Dương về Bà Chiểu để đón buýt về hiệu cơm Trung Hoa trước trạm Chợ Trương Minh Giảng, ăn tạm một cái gì đó trước khi lại đón một chuyến khác từ Saigon chạy về đưa anh lên một khoảng đường xa hơn một chút nữa, nơi có gian phòng cô quạnh của anh. Thôi nhé. Nhưng Trương không thể không liếc mắt nhìn xem đứa con gái đã mua vé nào. Ông bán vé đã xé rất nhanh và dúi vào tay đứa con gái mà không thối lại gì hết khiến chàng không đoán được đứa con gái đưa cho ông ta mấy đồng bạc chì.
Nắng gắt rất tỏa ra khắp nơi và hắt vào xe. Thôi nhé em, anh rất mệt rồi. Đến trạm chợ Trương Minh Giảng là trạm cuối cùng anh có thể đi chung với em, nhìn em. Và sau đó nếu em không xuống, anh bỏ cuộc. Anh phải bỏ cuộc càng sớm càng tốt vì trước sau gì anh cũng biết anh bỏ cuộc như mai kia anh sẽ bỏ cuộc đời này vậy. Nhưng còn cái tên thanh niên kia. Vâng, còn một thanh niên tự nhiên đứng vào cái thế địch thủ của Trương. Bây giờ Trương mới chú ý nhiều đến hắn. Hồi ở trạm Bà Chiểu, hắn cũng ngồi cùng chuyến xe với đứa con gái nếu Trương nhớ không lầm. Và có lẽ họ là hai trong số hành khách đến sớm nhất nên mới có cái may mắn ngồi cùng dãy ghế trên, gần cửa xe. Rồi được một chốc, một chốc thôi, khi Trương cũng bước lên chuyến ấy thì có một nhân viên công quản trong trạm cho biết chiếc xe bị hư, không thể chạy được. Chính lúc ấy Trương mới nghe đứa con gái cười và nói một chút với thiếu phụ bên cạnh: "Lại phải dời xe nữa". Như vậy là thiếu nữ đã đợi xe khá lâu trước chàng nhưng hai chiếc đều hư và chiếc trước đã bị kéo đi đâu đó. Giọng miền Nam làm Trương thất vọng phần nào. Rồi đứa con gái xuống xe. Dáng hơi thấp hơn Trương một chút và rất vừa tầm. Toàn thể thân hình tỏa ra một mùi băng tuyết kỳ ảo với dáng dấp đang quyến rũ nhất thời của một thiếu nữ. Tên thanh niên thì không thể địch nỗi Trương tuy hắn cũng có vẻ nhanh nhẹn và lịch sự. Hắn cầm một đĩa nhạc nhỏ 33 tours, có lẽ thuộc nhạc kích động Mỹ. Trương đoán điều ấy qua cách trình bày bản nhạc dù không bao giờ chàng nhìn rõ mấy chữ Mỹ khá to trên đó. Tên thanh niên đó bám sát vào đứa con gái mà chắc chắn hắn cũng nhận ra một dáng dấp đặc biệt vô cùng.
Lúc có chuyến buýt đến thay, cả ba đều cố giữ thế. Cả ba đều để cho tất cả hành khách lên xe rồi mới từ tốn lên sau. Nhưng Trương còn làm cao hơn. Chàng bước lên cửa sau trong khi hắn đi theo đứa con gái bước lên cửa trước. Tuy nhiên lúc lên xe rồi thì Trương và đứa con gái như cùng hẹn nhau lọt vào giữa lòng xe. Mãi lúc sau tên thanh niên mới từ từ làm như vô tình tiến lại gần, với một tay cầm đĩa nhạc đụng đến nóc mui xe. Trương thấy mình hách hơn, với chiếc cravate bằng nylon đen nhỏ thắt trên chiếc áo nylfrance rất trắng. Trương nghĩ đến khuôn mặt cô hồn và trời đánh của mình thật ra có ẩn chứa một cái gì rất cha chú. Trương biết mình có thế hơn nhưng chàng cũng không thể khinh địch.
"Hắn có thể… với ý định như mình không?". Trương tự hỏi khi xe băng qua đường Cách Mạng, nghĩa là đi được gần một nửa đường Trương Tấn Bửu. Lúc này, qua một vài trạm nhỏ, hành khách xuống khá nhiều mà số hành khách mới lên không có bao nhiêu. Xe bắt đầu thưa thớt. Không thể đứng gần nhau sợ dị, cả ba đều không hẹn mà cùng một lúc từ từ nới rộng ra nhưng vẫn canh chừng nhau. Lúc này Trương mới tức tối. Sao lúc đầu không mua cái vé cao nhất. Bây giờ chẳng lẽ mua thêm vé. Như thế thì chắc chắn tên thanh niên kia đoán biết ý định của Trương. Không. Thôi nhé em. Anh chỉ có thể đuổi theo em đến trạm chợ Trương Minh Giảng là trạm cuối cùng. Nếu em xuống trên khoảng đường đó, rất có thể anh xuống theo em, đi ngang qua nhà em, dù phải đi qua bao nhiêu con hẻm nhầy nhụa đầy xú khí dưới trời nắng lửa. Còn nếu em đi xa hơn, anh bỏ cuộc. Anh không đủ sức theo em khi mà phía trước chỉ toàn ảo giác.
Xe bắt đầu thưa. Một trong băng ghế bắt đầu trống. Cả ba không ai ngồi xuống, cả tên thanh niên, đứa con gái và Trương. Chỗ trống ở gần Trương nhất. Và người còn lại – một ni cô – có vẻ muốn ngồi khép lại dành chỗ cho Trương. Cử chỉ vừa làm cho Trương vừa vui vừa buồn. Chàng nhìn ni cô. Khoảng gần hai mươi lăm. Đẹp nghiêm nghị nhưng chắc chắn còn tha thiết một cái gì khác trên đời này ngoài đời sống là lý tưởng tu đạo. Một chút gì đó có thể trong nắng, trên mây, trên dáng dấp rất yêu đời của những đứa con gái nhỏ, trên mái tóc hớt gần trọc của một thanh niên xông xáo, lăn lộn và vật vã như Trương. Một chút gì đó, một chút thôi, nhưng chắc không bao giờ tắt được. Trương muốn ngồi xuống ngay bên cạnh ni cô, ngồi bên cạnh một chút gì đó. Nhưng không hiểu sao thấy bất ổn. Rồi Trương thấy mình lại có lỗi khi không chịu ngồi xuống. Sau cùng chàng nghĩ kỹ nếu ngồi xuống sẽ gặp khó khăn nếu chàng muốn đuổi theo đứa con gái xuống một trạm nào đó thình lình.
"Ngồi vô đi, ngồi vô đi, còn một lô trống kìa!"
Người bán vé đi trở qua chỗ ba người đứng để ra phía sau thu tiền mấy cái vé mới. Ông ta nói như vậy khi đi ngang qua ba người, nói một cách vu vơ, không chỉ định một người nào rõ ràng cả.
"Trạm cuối Trương Tấn Bửu đây. Ai xuống xuống đi!"
Ông kiểm soát vé nói thay lời nhân viên bán vé.
Trương bắt đầu hồi hộp nhẹ nhàng. Thình lình tên thanh niên đưa mắt nhìn thẳng vào người đứa con gái, nhìn khắp nơi, đậu lại rất lâu ở thân người, nơi kết tụ cái dáng dấp uyển chuyển, băng tuyết kỳ ảo. Rồi hắn xoay đi thật nhanh nhảy xuống cửa trước khi xe đã chuyển bánh được vài thước.
"Hắn đã đầu hàng. Không ngờ hắn bỏ cuộc sớm thế". Trương nói một mình, không còn thích thú. "Nhưng biết đâu hắn khôn ngoan". Trương lại trầm tư.
Đây là trạm chót trước khi đến trạm Trương Minh Giảng. Nghĩ vậy tức khắc Trương đau khổ. Sau hồi nãy không lấy mẹ nó cái vé tối đa? Có thể nào đứa con gái sắp xuống? Và nếu vậy thì có lẽ định mệnh đã sắp đặt rồi.
Xe bắt đầu quẹo khúc quanh qua Trương Minh Giảng. Vậy là hết. Trạm kia rồi. Chợ kia rồi. Hết. Hết. Nhưng tại sao chịu hết?
Giây phút nhìn chừng đứa con gái, Trương thấy hy vọng của chàng đã chấm dứt vì đứa con gái không chịu nhúc nhích hay có cử chỉ muốn xê dịch nhỏ nào trên xe chứng tỏ mình sắp xuống.
Hết rồi phải không em? Chặn đường này là hết rồi phải không em? Cám ơn rất nhiều đã có ý đứng lại rất gần anh. Cám ơn rất nhiều đã thỉnh thoảng nhìn anh bằng đôi mắt anh không đời nào quên được.
Trương vội vã nhìn thật kỹ đứa con gái một sách sỗ sàng cho thật đã nư. Chàng hoảng hốt trước dáng dấp quyến rũ chưa từng thấy. Có một chút gì hơi quê mùa. Chiếc áo lót cũng vậy. May cái đăng-ten hơi thô. Qua làn áo lụa mỏng chàng đã thấy hết. Không có mùi dầu thơm nào mà chỉ có mùi mồ hôi kỳ ảo. Có một cái gì dơ dơ trong toàn thể thân hình như bắp chuối, như con rắn. Có một nét gì tầm thường trong cách ăn mặc. Nhưng đó chính là tuyệt đỉnh cái đẹp của đứa con gái này. Và có lẽ bất cứ cái đẹp tuyệt đỉnh nào cũng có lẩn khuất đâu đó một cái gì thiếu hụt, bất toàn không thể luận giải nổi. Như những bức họa và bài thơ siêu đẳng. Và cũng như trái đất này nữa chăng?
Một luồng gió thổi vào. Đứa con gái vội khoác hờ tà áo che sát chiếc mông no tròn mà chắc chắn thần thánh cũng sẽ chết giấc nếu chịu nhe răng cắn vào đó một chút thôi (rồi nhả ra ngay). Đường viền chiếc quần cánh cộm lên. Trương đoán chiếc quần cánh đó may bằng tay, hơi rộng một chút, bằng một thứ vải gì phải dày hơn khá nhiều thứ vải mỏng thường được may quần áo lót cho đàn bà con gái nên mới thấy có một sắc độ như vậy. Bây giờ mấy cuốn sách và vở cũng được thay tay cầm. Trương để ý thấy cái gáy của quyển sách Anh văn. Trong nghề, chàng đoán ngay đó phải là cuốn Let’s learn English cuốn một. Và nếu không có trường hợp bất thường đứa con gái chỉ học khoảng đệ thất, đệ lục thôi. Có lẽ sợ biết mình học hơi thấp và muộn, đứa con gái dấu quyển Anh văn kia vào trong. "Nếu hắn đang học đệ nhất hay đang là sinh viên chắc chắn yếu tố này sẽ giết mất cái đẹp kỳ ảo trong toàn thể thân hình hắn trưa nay". Trương nghĩ vậy và chàng chỉ muốn xuống ngay với đứa con gái, đi bất cứ nơi nào trưa nay trong y nguyên áo quần và dáng dấp và mùi hôi và đăng-ten hơi nhà quê dù chàng mệt nhừ vì đường xa. Đừng thay đổi gì hết, dù chiếc áo trắng mà chàng thường ao ước để thế cho chiếc áo dài lụa hơi cũ kia. Không thay đổi, không thể thay đổi một chút nào cả. Chàng ao ước được nắm tay đứa con gái kia đi suốt đời này. Không nghĩ ngợi gì hơn, không thay đổi gì hơn.
"Có nên mua thêm vé không?"
Trương suýt bật thành tiếng nói. Bỗng chàng chú ý đến mấy ngón tay của đứa con gái vuốt hờ mái tóc. Mấy ngón tay có vẻ hơi thô chứ không thon như chàng tưởng. Nhưng biết đâu đó là một trong những yếu tố làm cho tăng thêm cái dáng đẹp tuyệt vời của đứa con gái. Chàng muốn giữ cả những ngón tay đó.
Trương nói thật nhỏ với nhân viên bán vé:
"Ông cho thêm một cái vé".
"Đi đến đâu? Sao hồi nãy không mua luôn?"
Ông bán vé cười ranh mãnh nói lại một lần nữa.
"Đi đến đâu?"
"À, tôi đi… chỗ nào cũng được".
Trương ấp úng. Trương rất tức bực vì không ngờ mình thiếu tự chủ như thế. Đứa con gái làm một dáng điệu rất đẹp: nàng ngẩng đầu một chút ra phía sau làm tóc lung linh và lòa xòa. Trời ơi, giống… vô cùng. Và một hình bóng thất vọng trong quá khứ hay trong trời đất tượng hình rõ ràng trong ký ức Trương. Chàng nhắm mắt lại cho hình bóng kia tan đi nhưng nó lại càng hiện rõ hơn. Thôi em nhé, anh xuống ngay nơi trạm sắp đến. Anh xuống ngay nơi đây. Anh phải dừng lại khoảng đường này. Không phải anh bị con ma quá khứ hay con ma trời đất ám ảnh làm anh có những hành động mê cuồng tai hại. Ôi, những hình bóng dĩ vãng – những đứa con gái tuyệt vọng cho đời anh – đang bủa vây anh. Nhưng em hiểu vì sao anh tuyệt vọng? Không phải vì lý do anh thất bại đâu. Nhưng chính những đứa con gái đó mới là hiện thân của buổi tối, của tuyệt vọng cho anh và anh vùng vẫy tấn công để biết rõ niềm tuyệt vọng tất hữu của đời anh, con gái. Và anh nghĩ không thế nào làm đẹp một đứa con gái cả, thật vậy em ạ. Nhưng anh vẫn xao xuyến vô cùng khi đứng trước dáng dấp đẹp lạ lùng của em mà anh đã chết điếng khi còn đợi ở trạm Bà Chiểu. Anh tưởng không thể sống nổi và không nên sống nữa khi gặp những dáng dấp như em. Anh nhìn rõ khuôn mặt em: mũi hơi cao nhưng tất cả thì không có gì đặc biệt. Anh lên nhìn kỹ chân em: đôi guốc hơi quê mùa, những ngón chân thì thấp và hơi ngắn, mấy cái móng chênh lệch, và một ngón cái đã bị hư móng. Nếu chỉ nhìn riêng chân em chẳng hạn, anh sẽ chán nản, nhất định. Nhưng tại sao phải phân tích khốn cùng như vậy. Tại sao lại cứ phải nghe em nói tiếng gì để biết người Nam hay người Bắc, Mán hay Mường? Tại sao phải dò đến nhà em, tại sao phải tìm biết một cách cẩn thận và ngu xuẩn ngọn ngành của em. Anh chợt nhìn thấy nắng bên ngoài đẹp vô biên. Nắng rực sáng tưng bừng. Anh quên đi đây là Saigon với đời sống thúc đẩy, xô bồ chỉ làm anh phát điên. Anh quên đi đây là Saigon, nơi anh phải mỏi mắt mới tìm được một chút thiên nhiên, một chút màu xanh của cây cối, một chút hoa, một chút nước trong của dòng suối nhân tạo, một chút hoa một chút cỏ mà anh thèm khát. Từ đó anh bỗng hiểu rằng nơi nào trên mặt đất này cũng có thể đẹp. Đó là hy vọng lớn nhất và cũng là tuyệt vọng lớn nhất của anh khi gặp em, khi gặp các em, con gái. Anh cũng hiểu rằng đứa con gái sẽ theo anh suốt đời đó có thể đẹp và thông minh hơn em nhưng cũng có thể thua em nhiều lắm. Anh tin điều anh nghi ngờ lắm. Nhiều lúc Trương nghĩ chỉ cần có một bức thư nào đó, chàng sẽ hiến dâng với cái nghĩa linh thiêng nhất của một đứa con trai từ lâu độc thân và cho rằng chỉ có lối sống như vậy mới lý tưởng, mới mong hưởng thụ bao nhiêu biến ảo dù không đi đến đâu hết.
"Mà cần gì phải đi đến đâu!"
Trương nói nhỏ một mình như vậy. Những vì sao xa vắng kia có đi đến đâu không mà vẫn đẹp. Trái đất này có quay đến đâu không mà vẫn quyến rũ Trương. Thôi để anh cứ đi hết khoảng đường em đi. Thế nào cũng qua đại lộ Trần Quốc Toản phải không? Và anh sẽ nhìn em thật kỹ tấm thân băng tuyết lạ lùng của em mà thỉnh thoảng anh vẫn bắt gặp trên đời hiện thân nơi bao nhiêu đứa con gái khác, để khi ngoảnh mặt lại thì em đã xuống một trạm nào rồi. Vâng, để anh đi tiếp cho hết khoảng đường em đi. Nhưng như thế cũng có nghĩa là anh dừng lại nơi đây, xin dừng lại nơi đây, trạm chợ Trương Minh Giảng. Rồi anh cũng bỏ cuộc như tên thanh niên kia tôi, nhưng anh bỏ cuộc một cách đau đớn hơn, hạnh phúc hơn, quằn quại hơn, tuyệt diệu hơn vì anh đã đọ mặt với hư vô lạnh lẽo đời đời ngay giữa trưa nắng lửa hừng hực này rồi.
Hai thiếu niên
Đến lượt tôi, đáng lẽ nếu tôi có hai mươi đồng thì tôi sẽ móc ra cùng với thẻ căn cước đưa cho nhân viên cảnh sát làm việc ở bàn giấy, lấy cái biên nhận đỏ đỏ xanh xanh gì đó, rồi đi ra phía ngoài đưa cho một nhân viên khác để lấy cái xe đạp, làm bộ dẫn đi chừng hơn trăm thước và rồi nhảy phóc lên yên đạp về nhà sau khi ném cái nhìn nhỏ nhỏ nhưng ý tứ lại đàng sau. Vâng, đáng lẽ tôi chỉ nên im lặng làm thế trước những tình cảnh vụn vặt trong đời sống xã hội nó làm phiền nhiễu mình không ít, vì biết lỗi dù sao cũng ở mình hoặc ý thức sự phí phạm vô ích trong bất cứ hành động cử chỉ chống trả nào. Chứ nếu thế xe đạp lại mà ra về không thì hoặc có thể mất xe hoặc sẽ bị tốn kém phiền phức sau đó lắm. Tôi nhìn đám đông cục cựa, quo que xung quanh tôi, lẫn lộn với tôi, ở trong tôi. Tôi có cảm tưởng khó chịu như vậy dù tôi là tên thợ sửa xe đạp hầu như luôn luôn sống gần đám đông và nhờ đám đông. Đám đông nổi lên xẹp xuống, phình lên, lép lại tùy theo con số bù trừ của những người mới được vào và những người đã nộp phạt trở ra. Đám đông rù rì rủ rỉ làm tôi thấy nóng ran ngực. Đám đông toát ra một mùi hôi hâm hẩm, tanh tanh, nhiều lúc inh ỉnh. Mùi hôi loãng ra, đặc lại tùy theo trương độ của gió từ bến tàu Saigon thổi vòng qua đây. Tôi liếc đồng hồ tay của ông cảnh sát trưởng – tôi đoán thế – đang đi lên xuống từ phòng trong ra phòng ngoài và thỉnh thoảng bước xuống đường nhìn những nhân viên cấp dưới làm phận sự mà kết quả của sự thi hành đã tạo ra đám đông và mang tôi vào đây. Khoảng 11 giờ đêm. Tôi nhìn quanh, nhìn thẳng, hy vọng sẽ thấy một tà áo dài thướt tha, một chiếc áo len hay một chiếc áo choàng quý phái rủi ro cũng bị mời vào đây. Tôi nhìn quanh, chờ đợi. Tôi biết, dù hoàn cảnh riêng đã mất đi mấy lúc gần đây, Saigon vẫn sống thực ở một khía cạnh nào đó và đêm khuya khoảng giờ này. Và một tà áo nào đó có thể thoát ra từ một rạp xi-nê lớn nào gần đây, như rạp Rex chẳng hạn, cỡi lên trên một chiếc gắn máy bị cháy bóng, băng ngang con đường Tự Do ở góc phòng thông tin, chạy thêm mười thước nữa, là chắc chắn phải trở vào đây với tôi. Tôi chờ mãi. Bây giờ đã gần 11 giờ 30. Đám đông vẫn động đậy, quo que mà thể khối không thêm không bớt ở một con số rõ ràng trông thấy. Nó giống nước sình ở một khoảng ao bùn: nó cũng hảy đi được một ít nhưng đồng thời cũng nhận được nước ở chỗ cao hơn chảy xuống nên nó chưa khô được. Vâng, đám đông lềnh lềnh, lỏng lỏng, lệt xệt. Nó giống như một thứ cháo khoai nhà nghèo đã bắt đầu có mùi thiu. Nếu cùng đường thì cũng phải ăn chứ sao. Cho nên tôi chờ một thứ gì thướt tha, dịu mát để át được phần nào mùi hôi đám đông xuất ra. Tôi chờ đợi.
Tôi ra phía ngoài, nhìn xa về phía đường Nguyễn Huệ. Người và xe cộ ở trong đó tương đối rộn hơn. Tôi nhìn gần. Tòa nhà Quốc Hội hơi tối vì thắp ít đèn. Hai cái nhà hàng thuộc loại nhất nhì ở Saigon nằm hai bên cũng không tỏa ra bao nhiêu ánh sáng. Ông cảnh sát trưởng vẫn đi đi lại lại, tình cảm hài lòng hiện lên mặt. Nhân viên cảnh sát có phận sự chận bắt cũng lộ vẻ sung sướng. Ông giống một người câu cá đang giựt một hơi liên tiếp mấy chục con cá đủ loại và không muốn làm sẩy con nào. Ông không đứng sát đường. Ông đứng tụt vào lề để những con mồi dễ lọt bẫy hơn. Tôi nhớ lời ông nói với tôi một cách dịu dàng vì thỏa mãn khi chận xe tôi: "Dừng lại đi, dừng lại đi, sao lại đi xe không đèn". Tôi đã không nói lời nào bởi biết lỗi ở tôi và tôi cũng biết thực sự tôi đã gây cho ông một nỗi hài lòng không thể chối cái.
"Cậu kia, đứng làm gì lâu vậy?"
Tôi nghĩ người ta đang gọi tôi và tôi đang đứng lơ ngơ trong vòng rào nhìn ra ngoài. Tôi thản nhiên quay lại về phía tiếng nói, không phản ứng gì hết về lời nói không được lịch sự của một nhân viên cảnh sát nào đó. Nhưng không phải họ gọi tôi. Tôi thấy ông trưởng bót ngánh này đang đăm đăm mắt nhìn về phía một anh chàng đáng tuổi em tôi đã bị bắt và đang đứng gần trụ sở bót, nơi một toán cảnh sát đang chận bắt xe đi không đèn. Tôi biết hắn đi học một lớp khuya nào đó. Nhìn hắn, tôi có cảm tình và tin ở tính hạnh hắn. Hắn quay lại trả lời:
"Tôi đi xe không đèn là lỗi ở tôi. Hiện giờ tôi chưa có tiền phạt đó cũng là lỗi ở tôi. Nhưng ông cấm tôi đứng chờ một người bạn đi ngang đây để mượn tiền nộp phạt lấy chiếc xe về hay sao?"
Bây giờ đám đông xao động. Ông trưởng bót ngánh cũng chạy đến can thiệp và nói với thiếu niên:
"Xin mời ông về ngay".
"Tôi về nhà bằng gì khi các ông giữ xe tôi?"
"Vậy thì xin ông cảm phiền ngủ lại đây mai tính, tôi nói lời cuối".
Tôi nhìn thấy rõ cái cử chỉ bực bội của tên thiếu niên và hành động sắp bung ra. Tôi lo ngại cho hắn. Hắn có thể dại dột. Ở vào khoảng tuổi hắn tôi cũng có những cử chỉ anh hùng rơm như hắn. Tôi muốn gọi hắn lại một chỗ nào trống, nói nhỏ vào tai hắn:
"Cậu đừng nóng nảy".
Tôi định thực hiện. Nhưng sực nhớ đến hoàn cảnh không tốt đẹp của mình tôi lại thôi.
Tôi đi đi lại lại không biết gì cả. Nhiều lúc tôi sống vô tri như vậy và lấy làm khổ sở lắm. Đám đông vẫn lao nhao như khi tôi mới bắt đầu bước chân vào bót ngánh này.
Một lúc sau, chán quá, tôi bỏ ra phía trước. Ý nghĩ dại dột xuất hiện qua óc tôi: thừa lúc mọi người không chú ý, giả vờ như đã đóng tiền phạt rồi, cứ bình tĩnh ra ngoài, thong thả dẫn xe đi. Rồi đến một ngã tư nào gần nhất, cắm đầu chạy. Vâng, cắm đầu chạy như tôi đã từng cắm đầu chạy trong những trường hợp và những hoàn cảnh khác sau khi giở một trò lưu manh nào và biết chắc chắn không sớm thì muộn người ta cũng khám phá ra. Tôi muốn nói thẳng vào tai thiếu niên:
"Cậu ạ. Cậu dại dột lắm. Cậu hãy nghe tôi. Cậu dừng nhiều lời trong trường hợp này. Vô ích lắm".
Tôi bước xuống thềm. Ngó trước ngó sau. Bình tĩnh. Khôn ngoan. Trân tráo. Bởi tôi đã định cắm đầu mà chạy.
Vào lúc đó, tôi thấy thiếu niên gặp một người bạn cũng đi xe đạp đi học về qua đó và cũng bị mời về bót:
"Ê Lộc? Sao mầy ngu vậy?"
"E Ngạn? Sao mày… khôn vậy?"
Hai thiếu niên đối đáp nhau làm mọi người không nín cười được. Đứa này cho đứa kia ngu, đứa kia cho đứa nọ khôn một cách mỉa mai.
Rốt cuộc hai đứa đều ngu.
Đứa thứ nhất, tên là Lộc. Đứa mới vào tên là Ngạn.
Ngạn hỏi Lộc:
"Mày ơi, tao chỉ còn có mười lăm đồng".
"Ấy, được rồi, tao còn đúng năm đồng". Lộc đáp.
"Thì ra chỉ đủ tiền phạt cho một đứa được lấy xe về".
"Tao hay mày?"
"Mày hay tao?"
"Thôi đánh tù tì đi!"
Căn nhà bị bắt còn lại trong bót có dịp cười òa lên. Không đứa nào chịu nhường cho đứa nào hết.
Hỡi Lộc, hỡi Ngạn thân yêu, sao các cậu dại vậy? Các cậu nên đốt hết sách vở đi. Tôi không hân hạnh được biết thật ra các cậu có chơi thân với nhau không. Nhưng tôi đoán chắc dù sao các cậu cũng là bạn với nhau. Mà đã là bạn với nhau sao các cậu còn dại dột làm trò cười giữa thiên hạ như vậy? Sao các cậu không tính một nước khác? Vâng, sao không tính với nhau một nước khác?
Lúc đó, tôi sực nhớ ra một trong hai thiếu niên: Lộc. Phải, tôi nhớ thiếu niên này vẫn thường đi ngang nhà tôi, hay đúng ra cái quán sửa xe đạp của tôi. Hắn đi học rất đúng giờ giấc.
Mỗi sáng khi thấy hắn vừa đạp xe đi qua là chỉ một chốc nữa thôi, đã nghe đồng hồ quả lắc bên cạnh gõ bảy tiếng. Tôi nhớ có lần hắn đã đem xe đạp nhờ tôi vá hộ. Bữa đó tôi túng tiền quá nên tôi thừa lúc nó ngó lơ, đâm thêm hai lỗ nữa. Vá xong, đáng lẽ lấy đúng chín đồng là giá tối đa cho ba lỗ, tôi làm bộ ơn nghĩa anh em nghèo với nhau tính có tám đồng. Không hiểu hắn đọc được gì trong mắt tôi mà khi đưa tiền sòng phẳng xong cho tôi, hắn nói một câu cuối cùng khi đạp xe ra khỏi quán:
"Tao tin mày sẽ cùn mạt về cái hành động bất lương của mày. Sao mày không đem gai hay đinh nhỏ rắc ở ngoài đường gần quán mày để dễ bề làm ăn hơn? Ồ, tao biết hết. Có điều tao không thèm nói đó thôi".
Tôi nhìn rõ mặt hắn. Và bây giờ tôi nhớ mặt hắn lại rõ ràng. Tôi biết tôi nhớ không lầm lộn ai được. Nhưng tôi tin chắc hắn đã quên tôi vì tôi biết khuôn mặt tôi không có gì đặc biệt để người ta nhớ lâu. Nhưng tôi cũng thừa biết nếu tôi tạo hoàn cảnh gần gũi quá thì người ta cũng dễ dàng nhớ lại như thường.
Cho nên, thú thật, tôi cảm thấy run, run khi đứng trước mặt hắn. Vậy mà tôi còn có ý nghĩ mượn cả hai đứa cho đủ số tiền hai chục đồng kia nộp phạt cho phần tôi lấy xe ra về trước khi xin thề danh dự sau khi thoát khỏi cái bót này sẽ tìm cách chạy đâu cho ra bốn chục đồng để đem đến cứu hai chúng nó ngay đêm nay.
Tôi xê lại gần Lộc và Ngạn và ngỏ lời. Ngạn nói:
"Được lắm, nhưng bồ phải để một cái gì lại làm tin. Chứ khi ra khỏi bót, bồ phóng mạng về nhà nằm luôn thì tụi em út này đâu có chịu. Mà tôi xem tướng bồ ẩu lắm, tuy cái bề ngoài làm bộ nghiêm trang".
Tôi nói:
"Tôi miễn thề danh dự với hai cậu. Tôi đưa cho hai cậu cái kiểm tra trưng binh và thẻ căn cước của tôi để làm tin. Giữ kỹ chứ không tôi bỏ đời đó".
Tôi tưởng dự tính thành tựu. Nhưng vừa lúc đó ông trưởng bót chạy đến can thiệp ngay:
"Đã vào đây, không ai được giữ giấy tờ của ai hết".
Tôi biết Lộc và Ngạn còn "đánh tù tì ra cái gì ra cái này" nhiều lần nữa nhưng rốt cuộc không ngã ngũ ra sao hết.
Tôi thì vì biết cách cắm đầu mà chạy không xuôi nên đành ở lại.
12 giờ khuya. Tất cả mọi người đã ra về bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi ba đứa bị tạm giữ ở một phòng trống. Bây giờ đã muộn dù một đứa bằng lòng hy sinh tiền cho đứa kia thoát ra. Bởi phòng giấy đã ngưng làm việc.
Lộc nói với Ngạn:
"Tao nghĩ nếu được ra thì ra hết, nếu ở lại thì ở lại hết, hợp lý chứ?"
"Hợp lý cái khỉ khô gì!" Ngạn đáp.
"Thế sao mày không chịu đưa mười lăm đồng cho tao để tao đủ hai chục đồng, lấy xe tao ra về, rồi tao sẽ liệu cho mày sau?"
"Tin mày sao được?"
"Mày không tin tao sao?"
"Tin cái khỉ mốc gì!"
"Phải. Để bây giờ ngồi đây chịu trận cả hai".
Tôi ngáp dài, hậm hực và ngao ngán:
"Thôi ngủ đi, mai hãy hay. Đụ mẹ anh cũng buồn ngủ quá mạng rồi các em ạ!"
Tôi gục đầu trong xó tường hôi hám mơ mơ màng màng với ý nghĩ tự trách chua chát rằng, thật ra chỉ có những kẻ cùng chung số phận và hoàn cảnh mới thường làm hại nhau dễ dàng mà thôi.
Nguồn: Cái chuồng khỉ của Nguyễn Đức Sơn do An Tiêm xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, tháng 7-1969, tác giả giữ bản quyền. In 3.000 quyển và 40 bản đặc biệt dành riêng cho tác giả và nhà xuất bản. K.D. số 2.110 BTT/NHK/PNGT cấp ngày 21-5-1969.
11/7/10
Đỗ Kh. – Trận 58 bóng đá ở dưới chân tháp Khalifa
Đỗ Kh. – Trận 58 bóng đá ở dưới chân tháp Khalifa
12/07/2010
Tác giả: Đỗ Kh.
Tôi giật mình bừng một con mắt luống cuống, gật gà suýt ngã khỏi cái ghế bàn ăn khi S. kịp thời nắm vai tôi lại. Đó là một cái ghế loại để ngoài vườn, tuy có hai tay tựa nhưng bằng gỗ trơn tuột, lót một cái đệm bọc vải cũng trơn không kém. Chẳng phải là tôi say xỉn, vào lúc hai tiếng đồng hồ hơn sau bữa tối tại nhà hàng The Noodle Factory này. Cả ngày hôm nay tôi không có một giọt rượu trong người. Chẳng qua là tôi mệt, và giờ là gì đó đã quá nửa đêm một ngày thứ Sáu cuối tuần.
Ở đây, cuối tuần là ngày thứ Sáu, không phải là ngày Chủ nhật và thế giới lại đang bóng đá tứ kết.
Giờ Dubai cách giờ Nam Phi hai tiếng. Khi 6 giờ chiều điểm, cha con tôi xuống quán rượu của khách sạn thì anh quản lý ra xin lỗi không cho hai thằng bé vào. Lúc thường thì không sao, tụi nó vẫn có thể uống bia ném phi tiêu nhưng bóng đá là chương trình đặc biệt có quảng cáo trước, công an bia rượu đến xét thì phiền, giá chót là khách nào cũng phải trên 21 tuổi, xin quý vị thông cảm. Tôi hiểu chứ, như vậy đã là rộng rãi quá rồi, Saudi phía bên kia biên giới còn cấm tiệt chất cồn, hay Iran phía bên kia Vịnh thì cũng thế, các nơi này mà ngửi thấy mùi men là ở tù cộng với mấy chục hèo chứ chẳng chơi. Trong môi trường địa lý này, United Arab Emirates như vậy là thiên đàng túy lúy rồi, nhưng bóng đá ở đây phát theo kiểu trả tiền từng trận, TV trên phòng riêng không bắt được, mà công cộng trong khách sạn thì chỉ có ở bar. Cha con tôi nhìn nhau, trận Brazil-Hà Lan đã bắt đầu.
Thương xá gần nhất đây là Al Difaya, nhưng tại đó khách phần lớn là người Philippines, Pakistan hay là Ấn, ba quốc gia không mặn mà gì lắm với túc cầu, chẳng hiểu có phát màn hình lớn hay không ở bên trong. Mall of the Emirates xa hơn nhưng phải có, R chợt nhớ ra chắc chắn, tại sân trượt băng Ice Rink của Dubai Mall có phát World Cup trên màn hình vĩ đại do Hyundai (“Hiện Đại”), Samsung (“Tam Tinh”) tài trợ, cha con tôi ra ngoài ới một cuốc xe vội. Thì thứ Sáu, tứ kết chứ chẳng chơi, Ice Rink ở Dubai Mall không chỗ ngồi, ba tầng hành lang mua sắm ở chung quanh nghẹt cả chỗ đứng, các hàng quán vây quanh không cho khách vào nữa. Tầng một MB Co, Café Costa, tầng hai nhìn xuống là Le Dôme (giả hiệu, đây là Le Dôme Australia, không phải là Le Dôme Paris, Montparnasse). Assia Wok, Au bon pain ở tầng ba cũng thế, lên tầng bốn thì tầm nhìn vướng các phướn quảng cáo, lúc chúng tôi đến nơi và cầu thang cuốn đi lên đi xuống thì Brazil đang dẫn Hà Lan 1-0.
Thương xá Dubai rất lớn, nghe đâu là một trong những thương xá lớn nhất thế giới, “Vô thượng Mall” kiểu Thanh Hải Bồ tát, hay là tranh giành quán quân với SM Mall of Asia ở Pasay City (Philippines) kẻ phô tám lạng người lòe nửa cân chưa rõ kết quả. Nhộn nhịp bóng đá cũng chỉ trong một góc nhỏ này, còn chung quanh vẫn là lượt là kẻ mua người sắm vô tư. Kể cả bốn tầng chen lấn theo dõi trận tứ kết đầu tiên của World Cup 2010, tôi ước là ngàn người hay ngàn rưỡi, đa số tất nhiên là (nhiều) mày (lắm) râu trong khi phụ nữ (rặm lông nhưng cạo nhẵn) đang còn tất tưởi các cửa hàng từ Zara, H&M đến Chanel, Versace. Dubai Mall mới khai trương hơn một năm nay trở lại nên còn tương đối vắng, nhiều cửa hàng chưa khánh thành tuy về mặt thành tích thì đã lâm bệnh nan y, đến Hoa Đà hay Việt Nam cũng phải lắc đầu bó tay. Nào là bể cá nhân tạo lớn nhất, cửa kính lớn nhất, vòi nước phun cao nhất những gì gì đó, và được toàn cầu biết đến là nhờ ở dưới chân của Burj (tháp) Khalifa là toà nhà cao, thì nhất thế giới, chứ sao.
Chúng tôi đổi chỗ đứng năm ba bận mới được một góc nhìn tàm tạm, cạnh một bà Ấn Độ trung niên cổ động của đội Brazil tuy bà không mang áo cộc (nịt ngực) màu vàng ở bên dưới sari. Thỉnh thoảng bà lại chồm người tại chỗ, lúc lắc mạng mỡ, nhưng tại đây chung quanh cũng có khán giả trầm trồ đội Hà Lan. Hà Lan thắng hay Brazil thua thì cũng chẳng chết thằng Ả-rập nào hết, tuy tại chỗ này, cũng như tại Dubai hay tại UAE, người địa phương là thiểu số, chỉ chiếm 20% áo thobe trắng hay là abbaya đen lướt thướt, phần dân số còn lại là tứ xứ đến đây lao động, trắng vàng đen đủ cả, từ Âu từ Á hay là từ Phi Châu. Khán giả trước màn hình này, cũng như chúng tôi, chẳng qua là dạng lỡ đò, dứng đây xem bằng một góc mắt. Có người không về nhà kịp, có người đợi vợ đang shopping, một số là nhân viên vào lúc nghỉ ăn tối, mang đồng phục của cơ quan hay nhà hàng (“Fauchon, Paris”) ở trên người. Hai đứa con tôi biến mất một khắc, và trở về bảo, phía khu vực của thương xá gọi là The Grove, có hai nhà hàng bật TV bên trong, loại bình thường 50 phân Anh, nhưng chỗ ngồi cũng đã chật hết. 10 giờ 30 đêm là trận Ghana-Uruguay, tôi nghĩ nếu lát nữa đến nhà hàng ăn tối chừng một tiếng trước để giữ chỗ thì an toàn xa lộ, khỏi phải kiễng chân mà ngóng cổ cao.
Dubai Mall bằng một nửa Hà Nội, tức là chỉ có đâu 18 phố phường. Phố hàng vàng (Boucheron, Cartier), phố hàng mã (Ralph Lauren, Armani), phố hàng quà… và The Grove nằm ở vòng ngoài của thương xá, hàng hiên mở ra một con đường như phố cổ châu Âu hay là Cấm Chỉ. Đây chỉ mới có vài ba cửa hàng mới mở, và con ngõ này dạng nửa kín nửa hở ngoài trời, không có điều hòa tập thể của bên trong thương xá mà cứ vài mươi thước lại có một dàn máy phun hơi mát gồm chục cái quạt, mới nhìn thì tưởng nhầm là một dàn loa phát thanh. Chuyện nói đùa của những ngày đầu “giải phóng” (xin lỗi, những ngày đầu “mất nước”) trở thành hiện thực.
Bộ đội vào Sài Gòn lần đầu thấy “máy làm mùa đông” ở trong nhà mát rượi. Được hỏi thế ngoài Bắc có không, bèn trả lời, ôi dào, thứ máy này công viên nào mà chả có ở Hà Nội! Máy làm mùa đông đặt ngoài đường thì tôi chỉ mới thấy lần đầu ở đây (tuy ở Pháp chẳng hạn, ôi dào, công viên nào mà chả có, kể cả vườn Lục Xâm Bảo). Phải nói, mùa hè vùng Vịnh nhiệt độ trên 40 C, đêm xuống vẫn còn trên 30, khiến đây cũng là nơi đầu tiên tôi biết, bến đợi xe buýt đóng kín cửa kính và bên trong chạy máy lạnh mát chẳng kém gì nhà riêng của (thí dụ) bạn Cường Đô la.
Quả là, 9 giờ 30 tối, The Noddle Factory lỏng chỏng chỉ có mấy bàn thực khách, dạng lăm le giữ chỗ trước cho trận Ghana-Uruguay. Khách thưa thớt, thứ nhất là trận này đấu trễ, và thứ nhì tôi nghĩ là không được theo dõi tận tình như các đội Brazil-Hà Lan. Tôi có quan tâm, cũng chẳng phải vì tôi mê bóng đá mà vì đây là đội châu Phi duy nhất còn lại, đại diện cho lục địa và mang niềm tự hào cho cả châu.
Bàn bên cạnh chúng tôi ở trong quán, là một gia đình Emirates, các cô con gái dáng chà là thướt tha và trùm abbaya ngồi quay lưng lại màn hình với bà mẹ, kiểu chịu đựng thú xem bóng đá của thằng em và của bố trong khi lơ đãng ngậm ống hút mocktail (tức là cocktail pha nhưng không có chất cồn của rượu). Cũng may, và cũng lạ, là nhà hàng này ăn ngon, từ mì Nhật đến mì Thái hay là mì Indonesia, ngay cả ở thức ăn Đông Á ở đây giờ cũng là world class. Nên khi trận đấu bắt đầu sau bữa dùng cơm là tôi đã căng bụng gật gà.
Không khí ở đây lại rất tĩnh, chỉ có bằng nấy người xem, thỉnh thoảng một ông bảo vệ Pakistan rảo qua liếc màn hình bằng góc mắt, hay nhân viên nhà bếp Malaysia mở cửa sau ra và nấn ná nửa phút đứng chống nạnh. Màn hình lại câm, không phát tiếng, hẳn để khỏi làm hỏng cái không khí thơ mộng đèn cầy lung linh. The Grove là chỗ kín để các tình nhân cầm tay nhau ngồi nhìn vào mắt tuy hôn nhau, thơm nhau hay mi nhau, nút lưỡi chùn chụt thì tôi không biết có được phép ở chốn công cộng này. Mới đây ở Saudi láng giềng, có anh đi tù về tội danh phạm thuần phong mỹ tục này và bị cấm không được dạo thương xá trong vòng hai năm. UAE cũng nhánh Sunni, trường Hanbali và phái Wahabite như là Saudi vậy nhưng không có gì gay gắt cả. Bằng chứng là ai áo trùm thì trùm, ai quần cộc Abecrombie & Ficht thì cứ việc, có cô voan che mặt cẩn thận nhưng mà áo đen chỉ khoác hờ ở vai kiểu hiệp sĩ, quần bò Lucky Seven lòi cả rốn dưới áo thun cũn cỡn. Bằng chứng là trăm cửa hàng áo quần phụ nữ thì chỉ có một hai cửa hàng áo dài truyền thống, nếu mà ai cũng mặc abbaya hết thì Tây chỉ có mở được ở đây cửa hàng đồ lót Victoria’s Secret hay là Etam Lingerie (đó là nếu dưới abbaya, phụ nữ Ả-rập truyền thống có mặc nội y, tôi không biết). Thương xá ở khu vực này, theo tôi nghĩ, đối với giới trẻ nam nữ giống như là lớp học thêm Anh ngữ tại Việt Nam (“Thưa bố, con đi học Anh văn lớp tối”). Đây là nơi hẹn hò gặp gỡ, làm quen kín đáo bằng Bluetooth di động, cho nhau địa chỉ Skype để mà tìm hiểu qua màn hình vi tính hay là Smart phone cao tốc 3G+. Trước khi có những phương tiện chuyển hình này, có chuyện một anh ở Kuwait bị bắt trong khi đang ở trên một nóc nhà chụp ảnh bằng đầu kính viễn vọng. Cuộc điều tra sau cho biết, không phải là anh chụp lén thiếu nữ nào hàng xóm đang gỡ khăn che mặt mà là chính bạn gái của anh nhắn trước bằng điện thoại (vào thuở đó còn cố định) “6 giờ chiều, em mở cửa sổ và kéo màn che ra múa rốn, anh mang máy đến, nhớ đúng hẹn”. Giờ thì có địa chỉ điện tử, cô chỉ cần bật webcam hidef lên và tự tốc váy ở bên trong phòng ngủ. Nhà nhiếp ảnh không may của thời “bao cấp” vùng Vịnh ấy, lúc đó lãnh 6 tháng tù! Giờ thì những chuyện như vậy may thay không còn nữa, chí ít là ở tại UAE, Qatar, Kuweit, Bahrain hay Oman, nhờ kinh tế thị trường dưới định hướng của Hồi giáo Wahabi. Kinh tế thị trường và tiêu thụ chủ nghĩa thì bất khả xâm phạm, không thày chùa nào cấm được việc đi thương xá mua sắm, cho nên ở đây tuy đền Hồi có lớn nhưng cũng không thể lớn bằng các thương xá.
Lời bình bóng đá tôi nghe ồm ồm là từ bên trong thương xá, phiá Ice Rink vọng lại qua các kính chắn, nhưng giờ không còn thấy âm thanh háo hức của quần chúng tại chỗ theo dõi trận tứ kết trước. Batman không bằng Combat, Ghana sao bằng Brazil, Uruguay sao bằng đội Hà Lan, đẹp từng centimét như người mẫu Tăng Thanh Hà. Không khí này hơi chán, các con tôi lại bỏ đi một vòng trinh sát, mãi mới thấy về báo cáo là giờ thì Ice Rink bớt đông hẳn, đã có chỗ đứng tuy là vẫn chưa có chỗ ngồi.
Tôi duỗi chân uể oải mà không buồn nhấc đít, Ghana dẫn 1-0 trên màn hình đặt ở lề một con ngõ vắng lặng, một con ngõ giả cổ châu Âu kiểu Las Vegas hay là Disneyland hóa, có máy làm mùa đông đặt dưới bên ngoài dưới trời sa mạc lung linh những ánh điện.
Hay ho gì mà kể, coi bóng đá qua truyền hình, lại không phải ở tại Nam Phi. Nhưng đúng ra thì bóng đá 2010, cha con tôi phải xem tại chỗ, nếu không lâm vào hoàn cảnh lỡ tàu.
Mười ngày trước, tôi hì hục tìm ra trên mạng ba cái vé cho hai trận, trận 56 (ngày 29.6, sau này rõ ra là Tây Ban Nha-Bồ Đào Nha) và trận 59 (ngày 3.7, sau này rõ ra là Argentina-Đức quốc) tại sân vận động Green Point ở Cape Town. Các vé hạng 3A này còn nhiều và chỉ đắt hơn giá chính thức FIFA có chút xíu. Kỳ World Cup này, vé xem không phải là vấn đề, ai theo dõi cũng thấy các trận đều thừa chỗ. Vấn đề là Nam Phi xa vời, đường đi không tới. Dự tính của tôi, nói đơn giản, muốn đến tận nơi từ Los Angeles, phải chia làm ba chặng.
Cali-Âu châu là chặng đầu, cho được chọn giữa London, Paris, Amsterdam, Frankfurt am Main. Đây đều có chuyến bay Nam Phi đi một lèo mươi tiếng, tuy một lèo này là Johannesburg chứ Cape Town thì giá nào cũng phải đổi tàu. Một khả năng khác, là vé South African Airways hay Cathay đi thẳng từ Hong Kong, cũng chỉ mười tiếng đâu đó. Nơi tôi đang ở, đi hướng Đông (Âu châu) hay đi hướng Tây (Á châu) thì cũng thế. Nhưng từ Los Angeles đi Hong Kong dưới dạng lục lọi và cần kiệm thì làm gì có vé bay thẳng, phải qua Đài Bắc hay Đông Kinh khúc mắc, thành thử ra tiện lợi vẫn là giải pháp châu Âu.
Được mấy bữa, trong khi tôi chần chừ, nào có phải muốn đi là đi được, trong khi đó thì các vé bay thẳng châu Âu-Nam Phi đều hết tiệt. Từ có hai chặng trở thành ba.
Nói ba chặng là thế này, Miền Tây Hoa Kỳ-Âu châu là chặng 1, Âu châu-vùng Vịnh (được chọn giữa Dubai-Abu Dhabi-Doha) là chặng 2. Chặng cuối là vùng Vịnh-Nam Phi. Nếu đây chỉ có việc đổi tàu, tất cả bằng ấy đoạn đường cũng chỉ chừng 30-35 tiếng, một sáng tinh sương 4:55 sáng bạn đạt Johannesburg, đến 9 giờ đạt Cape Town về khách sạn duỗi người, tối có mặt phất cờ (Việt Nam) tại sân vận động.
Những dịp thế này, tiện lợi nhất là mua tour bóng đá qua một công ty du lịch, có sẵn vé tàu lẫn cả vé xem, xe buýt đưa rước từ khách sạn đến sân rồi đưa về. Nhưng thế thì phải có thì giờ, và phải dự định sắp xếp trước, không phải là một tuần hay mươi ngày trước sự việc mới nổi hứng thân cư lang thang mà hấp tấp lên đường.
Nhưng như trong câu mở đầu của Anna Karenina, mỗi gia đình lại một hoàn cảnh. Gia đình tôi không tính trước được. Các con tôi và tôi có đi cùng một nơi cũng khó đến cùng ngày và về cùng một chốn. Sau Nam Phi các con tôi phải về Mỹ, tôi lại phải về Pháp, đi thì đại khái đi chung nhưng về lại về riêng, chưa nói đến mỗi người một tạng vé khác nhau, vé chùa, vé điểm miễn phí của các hãng hàng không, dùng được ở chặng này nhưng không dùng được ở chặng kia. Đó là chưa nói đến vé khứ hồi còn lại của tháng rồi, vé sắp phải mua cho tháng tới, tính lại thêm bằng ấy những rối trí. S. mới về đến Cali đây thôi, trên tay còn cầm vé chưa dùng đến Los Angeles-London để tháng 9 này vào học. Tháng 9 này, R. lại vào học ở Beirut, thằng thì bố đi theo, đứa lại phải mẹ kèm, nếu đáp số hàng không này giải toán được thì vào đúng lúc này tôi đang ngủ gật ở Cape Town chứ không phải trước màn hình của một nhà hàng Dubai.
Sao lại Cape Town cho thêm xa vời mà không là Johannesburg? Johannesburg, khi tôi tìm khách sạn, thì chỉ còn lại có Formula Inn, Formula 1, ở phía Nam thành phố mà những khách sạn này, khi đêm xuống chỉ có nước khóa cửa phòng lại mà ăn mì gói vì không có nhà hàng ở bên trong. Ra ngoài thì phiền toái, kẻ níu kéo xin tiền, người chặn lối xin tí huyết, đi 100 mét nếu không nộp tiền mãi lộ vỉa hè thì cũng phải nộp tiền hộ tống, bảo vệ. Nam Phi, World Cup hay không World Cup, tội ác vẫn hàng cao nhất thế giới, chỉ số án mạng chết người chỉ có đứng sau Colombia. Thống kê nào thì vào chi tiết cũng có thể cân nhắc, nhưng tội ác và an ninh cá nhân tại Nam Phi thì không cần cân nhắc. Từ phi trường Johannesburg về nhà là có thể bị đi theo để trấn lột hành lý, không tin tôi thì hỏi đại sứ Nam Phi tại Liên Hiệp Quốc về thăm nhà, ông Dumisali Kumalo.
Vì lý do giờ giấc đường bay, tuyến nọ và tuyến này, tôi không muốn hẹn hai con tôi tại một khu vực phiá Nam thành phố, tụi bay ra khỏi trường bay 12 giờ đêm, lấy xe về Formula Inn, sáng mai 6 giờ thì tao đến. Mà tôi đến thì cũng vậy, tội ác tại khu này không phải vì thế mà sẽ thuyên giảm. Đi đâu mà phải cảnh giác thì mất vui hẳn. An ninh và an tâm hơn chút xíu, thì là Cape Town, các khách sạn trong khu phố tốt vẫn còn chỗ.
Cape Town, kể cả ngay tại khu vực nhiều du khách và nhà hàng, khách sạn, như khu vực Victoria & Alfred, thì như thế này. Ban ngày thì còn dạo bờ biển được, rất là đẹp. Nhưng ngay sau khi đêm xuống thì khó lòng, mà đêm vào mùa đông ở đây (tức là những tháng hiện nay) đến rất sớm. Vẫn phải ru rú tử thủ ăn ngủ ở một chỗ chứ còn đi xa, tức là đi ra ngoài cỡ chừng 300 mét thôi khi trời đã tối thì là mạo hiểm. Phi châu mà, mạo hiểm Phi châu.
Bạn thò đầu ra khỏi khách sạn. Nhìn về hướng muốn đi vài mươi mét, xem có khách sạn nào khác hay cửa hàng, quán ăn nào khác có bảo vệ đứng trước thì đi nhanh đến và ngừng lại ở chặng này. Có chuyện gì thì vào bên trong nhà hàng hay khách sạn này còn xin tị nạn tạm được. Sau đó thập thò và quan sát tiếp, đi nhanh đến cổng môt nhà hàng hay khách sạn thứ nhì, chỗ có đèn còn bật đấy và vài ba bảo vệ uy nghi. Cứ thế mà lò cò đi tiếp, như là chạy pháo hay chạy đạn, cảnh giác cao thì về hay đến tận nơi an toàn!
Trong lúc di chuyển đừng có đeo máy hình, đừng đeo túi du lịch vướng vít, đừng có đeo phôn, đừng sử dụng di động mà cái gì cũng cất trong túi áo, túi quần. Một tay thì thọc túi nắm lấy một cái bóp cũ sắp sẵn không có giấy tờ tùy thân hay thẻ tín dụng, những thứ này phải cất riêng lận kín ở đâu đó. Nếu bị chặn lại thì rút cái bóp ngụy trang này ra ném ngay xuống đất và di tản chiến thuật, tốt hơn nữa là thủ hẳn một nắm tiền (không cần phải tiền Rand mà giấy 5000 VNĐ lại càng tốt, kẻ cướp ít người biết hối đoái chính xác) vung ra mở đường máu. Vung ra ở đây là ném vãi, chứ đừng cầm mà trao cho đối tác trấn lột vì ta đưa đến tận tay họ thì họ tiện tay đưa lại ta nhát dao, phát súng. Còn nếu ném xuống đất thì các bạn này sẽ phải bỏ dao bỏ súng mà thi nhau cúi xuống nhặt, tiện đường cho ta cấp kỳ triệt thoái. ơnh
Nhưng nghĩ đến chiến thuật này đã thấy chán, đi xem bóng đá việc gì mà lại phải khổ thế, nhìn trước nhìn sau với lại hai thằng bé, mày cất iPhone vào còn thằng kia gỡ kính mát Oakley ra.
Nữ hoàng Thái, có một bận than thở (mấy mươi năm về trước) với triệu phú Forbes và diễn viên Liz Taylor là bà cả đời chiến đấu chống cộng sản nhưng không chiến đấu nổi chống tắt kinh! Tôi nghĩ là ông Nelson Mandela cũng vậy, cả đời chiến đấu chống apartheid ở Nam Phi nhưng không chiến đấu nổi chống tội ác. Giải quyết thế nào thì tôi không biết, nhưng chẳng phải Phi châu ở đâu cũng thế. Nếu đêm xuống ở Asmara (Eritrea) mà bạn đi trên phố, đâm đầu phải mấy anh da đen lững thững thì không phải là cướp đường mà có thể là trong số có chủ tịch Isaias Afwerki từ bàn giấy ra khoan thai đi bộ một mình về nhà riêng của ông tại một chung cư bình dân.
Nhưng kể thế, lại có người trách là tôi tìm cách mà bênh khéo chủ nghĩa xã hội, tuy là CNXH Eritrea. Cũng không phải vậy, đây đang nói về an ninh và tội ác, và tại Dubai quân chủ độc đoán và tư bản tự do chủ nghĩa thì của rơi không ai nhặt cả, iPhone và kính mát Oakley các ngày qua con tôi có để quên mấy bận và mỗi lần đều có người ới theo, đuổi theo mà gọi trả, quán nước hay là xe taxi. Tại Dubai Mall nguy hiểm nhất cho bản thân là khi ra bãi đậu xe, nhìn trước nhìn sau chẳng khéo là Porsche Panamera hay Bentley bỏ mui đâm phải, các cô cậu này lái xe mà đầu lại còn đội khăn vướng vít, làm sao mà thấy được rõ bộ hành.
Chăn trẻ thì tôi chỉ muốn yên thân, việc gì mà đi rước lấy cái nhớn nhác để xem một trận bóng đá. Cho nên chặng 3 vào đất Thục gian nan này tôi quyết định bỏ. Tôi thông báo với bầy trẻ vào lúc chót là thôi không đi Nam Phi nữa, đằng nào thì đội Pháp của chúng mày cũng đã bị loại nhục nhã, và thay vào đó, thì mình xem truyền hình. Truyền hình thì ở đâu xem chẳng được, à, nhưng đây là xem ở ngay dưới chân của tháp cao nhất thế giới mới vừa được hoàn tất vì mình là người Việt rất thích những thứ gì Guiness, mà nhiều thứ này ở Dubai cũng có tạm, khỏi cần về thăm nhà. Tàu cao tốc này nhé, họ cũng có monorail (tuy là tượng trưng thôi, chừng vài kilomét chứ nào được dự án 1500 cây như của ta). Còn bánh chưng bánh dày với lại rượu giỗ vua Hùng lớn nhất thì đừng có đòi mà địch lại, phiên phiến thôi chứ, nước ngoài chứ bộ, sao mà hòng được.
Hơn ta thì thực ra họ chỉ hơn bóng đá, thế mới đau! Ở vòng tuyển châu Á, tại Mỹ Đình UAE hạ VN 1-0, tại sân nhà của họ ở Abu Dhabi là 5-0.
Sau hiệp đá thêm, Ghana-Uruguay vẫn đồng đều, giờ thì The Noodle Factory có thêm một gia đình Ấn Độ tay xách nách mang hàng mua sắm, dừng lại để gọi nước và xem các quả phạt đền. Nhân viên của nhà hàng đã đi về gần hết, hai nhân viên còn lại làm ra vẻ khoan thai theo dõi nhưng hẳn là sốt ruột và nhất là họ phải đứng chứ không ngồi ngủ gật được như tôi.
Một anh da đen tan việc từ đâu tới, mặc đồng phục vệ sinh của thương xá, tôi đoán là người Tanzania, đứng không yên và bồn chồn, hết thọc tay vào túi lại đưa lên bụm môi lầm bầm “Ghana, Ghana!” Thần chú này không hiệu quả, khi thủ môn Uruguay ngăn được trái thứ nhất, anh ôm đầu nói nhỏ “Thôi thế là xong!” Căng thẳng này làm tôi tỉnh đôi chút, các khán giả còn lại trong nhà hàng gay cấn thì gay cấn vẫn không tỏ ra theo phe nào hết, còn nhân viên của quán thì chỉ mong cho xong sớm để còn ra về. Niềm hy vọng cuối của châu Phi đến quả phạt đền thứ 8 thì chìm lỉm theo lục điạ huyền bí Atlantis. Đây (Atlantis) cũng là resort cũng mới vừa khai trương trên Palm Jumeirah, là hòn đảo hoàn toàn nhân tạo theo hình một cây dừa.
Và lớn nhất thế giới chứ sao nữa.
Chí ít là lớn nhất trong dịp giải bóng đá thứ 19. Giải lần sau, năm 2014 thì kinh tế đang thế này, không biết có kịp hoàn tất các đảo nhân tạo còn lớn gấp mấy là Palm Jebel Ali, The World, The Universe (khiếp thật) hay là Palm Deira.
Nhưng Brazil FIFA 20, không chắc là tôi sẽ có ý định tìm đến. Hay có tìm cũng lại lỡ đò dọc đường như ngày hôm nay.
© 2010 Đỗ Kh.
12/07/2010
Tác giả: Đỗ Kh.
Tôi giật mình bừng một con mắt luống cuống, gật gà suýt ngã khỏi cái ghế bàn ăn khi S. kịp thời nắm vai tôi lại. Đó là một cái ghế loại để ngoài vườn, tuy có hai tay tựa nhưng bằng gỗ trơn tuột, lót một cái đệm bọc vải cũng trơn không kém. Chẳng phải là tôi say xỉn, vào lúc hai tiếng đồng hồ hơn sau bữa tối tại nhà hàng The Noodle Factory này. Cả ngày hôm nay tôi không có một giọt rượu trong người. Chẳng qua là tôi mệt, và giờ là gì đó đã quá nửa đêm một ngày thứ Sáu cuối tuần.
Ở đây, cuối tuần là ngày thứ Sáu, không phải là ngày Chủ nhật và thế giới lại đang bóng đá tứ kết.
Giờ Dubai cách giờ Nam Phi hai tiếng. Khi 6 giờ chiều điểm, cha con tôi xuống quán rượu của khách sạn thì anh quản lý ra xin lỗi không cho hai thằng bé vào. Lúc thường thì không sao, tụi nó vẫn có thể uống bia ném phi tiêu nhưng bóng đá là chương trình đặc biệt có quảng cáo trước, công an bia rượu đến xét thì phiền, giá chót là khách nào cũng phải trên 21 tuổi, xin quý vị thông cảm. Tôi hiểu chứ, như vậy đã là rộng rãi quá rồi, Saudi phía bên kia biên giới còn cấm tiệt chất cồn, hay Iran phía bên kia Vịnh thì cũng thế, các nơi này mà ngửi thấy mùi men là ở tù cộng với mấy chục hèo chứ chẳng chơi. Trong môi trường địa lý này, United Arab Emirates như vậy là thiên đàng túy lúy rồi, nhưng bóng đá ở đây phát theo kiểu trả tiền từng trận, TV trên phòng riêng không bắt được, mà công cộng trong khách sạn thì chỉ có ở bar. Cha con tôi nhìn nhau, trận Brazil-Hà Lan đã bắt đầu.
Thương xá gần nhất đây là Al Difaya, nhưng tại đó khách phần lớn là người Philippines, Pakistan hay là Ấn, ba quốc gia không mặn mà gì lắm với túc cầu, chẳng hiểu có phát màn hình lớn hay không ở bên trong. Mall of the Emirates xa hơn nhưng phải có, R chợt nhớ ra chắc chắn, tại sân trượt băng Ice Rink của Dubai Mall có phát World Cup trên màn hình vĩ đại do Hyundai (“Hiện Đại”), Samsung (“Tam Tinh”) tài trợ, cha con tôi ra ngoài ới một cuốc xe vội. Thì thứ Sáu, tứ kết chứ chẳng chơi, Ice Rink ở Dubai Mall không chỗ ngồi, ba tầng hành lang mua sắm ở chung quanh nghẹt cả chỗ đứng, các hàng quán vây quanh không cho khách vào nữa. Tầng một MB Co, Café Costa, tầng hai nhìn xuống là Le Dôme (giả hiệu, đây là Le Dôme Australia, không phải là Le Dôme Paris, Montparnasse). Assia Wok, Au bon pain ở tầng ba cũng thế, lên tầng bốn thì tầm nhìn vướng các phướn quảng cáo, lúc chúng tôi đến nơi và cầu thang cuốn đi lên đi xuống thì Brazil đang dẫn Hà Lan 1-0.
Thương xá Dubai rất lớn, nghe đâu là một trong những thương xá lớn nhất thế giới, “Vô thượng Mall” kiểu Thanh Hải Bồ tát, hay là tranh giành quán quân với SM Mall of Asia ở Pasay City (Philippines) kẻ phô tám lạng người lòe nửa cân chưa rõ kết quả. Nhộn nhịp bóng đá cũng chỉ trong một góc nhỏ này, còn chung quanh vẫn là lượt là kẻ mua người sắm vô tư. Kể cả bốn tầng chen lấn theo dõi trận tứ kết đầu tiên của World Cup 2010, tôi ước là ngàn người hay ngàn rưỡi, đa số tất nhiên là (nhiều) mày (lắm) râu trong khi phụ nữ (rặm lông nhưng cạo nhẵn) đang còn tất tưởi các cửa hàng từ Zara, H&M đến Chanel, Versace. Dubai Mall mới khai trương hơn một năm nay trở lại nên còn tương đối vắng, nhiều cửa hàng chưa khánh thành tuy về mặt thành tích thì đã lâm bệnh nan y, đến Hoa Đà hay Việt Nam cũng phải lắc đầu bó tay. Nào là bể cá nhân tạo lớn nhất, cửa kính lớn nhất, vòi nước phun cao nhất những gì gì đó, và được toàn cầu biết đến là nhờ ở dưới chân của Burj (tháp) Khalifa là toà nhà cao, thì nhất thế giới, chứ sao.
Chúng tôi đổi chỗ đứng năm ba bận mới được một góc nhìn tàm tạm, cạnh một bà Ấn Độ trung niên cổ động của đội Brazil tuy bà không mang áo cộc (nịt ngực) màu vàng ở bên dưới sari. Thỉnh thoảng bà lại chồm người tại chỗ, lúc lắc mạng mỡ, nhưng tại đây chung quanh cũng có khán giả trầm trồ đội Hà Lan. Hà Lan thắng hay Brazil thua thì cũng chẳng chết thằng Ả-rập nào hết, tuy tại chỗ này, cũng như tại Dubai hay tại UAE, người địa phương là thiểu số, chỉ chiếm 20% áo thobe trắng hay là abbaya đen lướt thướt, phần dân số còn lại là tứ xứ đến đây lao động, trắng vàng đen đủ cả, từ Âu từ Á hay là từ Phi Châu. Khán giả trước màn hình này, cũng như chúng tôi, chẳng qua là dạng lỡ đò, dứng đây xem bằng một góc mắt. Có người không về nhà kịp, có người đợi vợ đang shopping, một số là nhân viên vào lúc nghỉ ăn tối, mang đồng phục của cơ quan hay nhà hàng (“Fauchon, Paris”) ở trên người. Hai đứa con tôi biến mất một khắc, và trở về bảo, phía khu vực của thương xá gọi là The Grove, có hai nhà hàng bật TV bên trong, loại bình thường 50 phân Anh, nhưng chỗ ngồi cũng đã chật hết. 10 giờ 30 đêm là trận Ghana-Uruguay, tôi nghĩ nếu lát nữa đến nhà hàng ăn tối chừng một tiếng trước để giữ chỗ thì an toàn xa lộ, khỏi phải kiễng chân mà ngóng cổ cao.
Dubai Mall bằng một nửa Hà Nội, tức là chỉ có đâu 18 phố phường. Phố hàng vàng (Boucheron, Cartier), phố hàng mã (Ralph Lauren, Armani), phố hàng quà… và The Grove nằm ở vòng ngoài của thương xá, hàng hiên mở ra một con đường như phố cổ châu Âu hay là Cấm Chỉ. Đây chỉ mới có vài ba cửa hàng mới mở, và con ngõ này dạng nửa kín nửa hở ngoài trời, không có điều hòa tập thể của bên trong thương xá mà cứ vài mươi thước lại có một dàn máy phun hơi mát gồm chục cái quạt, mới nhìn thì tưởng nhầm là một dàn loa phát thanh. Chuyện nói đùa của những ngày đầu “giải phóng” (xin lỗi, những ngày đầu “mất nước”) trở thành hiện thực.
Bộ đội vào Sài Gòn lần đầu thấy “máy làm mùa đông” ở trong nhà mát rượi. Được hỏi thế ngoài Bắc có không, bèn trả lời, ôi dào, thứ máy này công viên nào mà chả có ở Hà Nội! Máy làm mùa đông đặt ngoài đường thì tôi chỉ mới thấy lần đầu ở đây (tuy ở Pháp chẳng hạn, ôi dào, công viên nào mà chả có, kể cả vườn Lục Xâm Bảo). Phải nói, mùa hè vùng Vịnh nhiệt độ trên 40 C, đêm xuống vẫn còn trên 30, khiến đây cũng là nơi đầu tiên tôi biết, bến đợi xe buýt đóng kín cửa kính và bên trong chạy máy lạnh mát chẳng kém gì nhà riêng của (thí dụ) bạn Cường Đô la.
Quả là, 9 giờ 30 tối, The Noddle Factory lỏng chỏng chỉ có mấy bàn thực khách, dạng lăm le giữ chỗ trước cho trận Ghana-Uruguay. Khách thưa thớt, thứ nhất là trận này đấu trễ, và thứ nhì tôi nghĩ là không được theo dõi tận tình như các đội Brazil-Hà Lan. Tôi có quan tâm, cũng chẳng phải vì tôi mê bóng đá mà vì đây là đội châu Phi duy nhất còn lại, đại diện cho lục địa và mang niềm tự hào cho cả châu.
Bàn bên cạnh chúng tôi ở trong quán, là một gia đình Emirates, các cô con gái dáng chà là thướt tha và trùm abbaya ngồi quay lưng lại màn hình với bà mẹ, kiểu chịu đựng thú xem bóng đá của thằng em và của bố trong khi lơ đãng ngậm ống hút mocktail (tức là cocktail pha nhưng không có chất cồn của rượu). Cũng may, và cũng lạ, là nhà hàng này ăn ngon, từ mì Nhật đến mì Thái hay là mì Indonesia, ngay cả ở thức ăn Đông Á ở đây giờ cũng là world class. Nên khi trận đấu bắt đầu sau bữa dùng cơm là tôi đã căng bụng gật gà.
Không khí ở đây lại rất tĩnh, chỉ có bằng nấy người xem, thỉnh thoảng một ông bảo vệ Pakistan rảo qua liếc màn hình bằng góc mắt, hay nhân viên nhà bếp Malaysia mở cửa sau ra và nấn ná nửa phút đứng chống nạnh. Màn hình lại câm, không phát tiếng, hẳn để khỏi làm hỏng cái không khí thơ mộng đèn cầy lung linh. The Grove là chỗ kín để các tình nhân cầm tay nhau ngồi nhìn vào mắt tuy hôn nhau, thơm nhau hay mi nhau, nút lưỡi chùn chụt thì tôi không biết có được phép ở chốn công cộng này. Mới đây ở Saudi láng giềng, có anh đi tù về tội danh phạm thuần phong mỹ tục này và bị cấm không được dạo thương xá trong vòng hai năm. UAE cũng nhánh Sunni, trường Hanbali và phái Wahabite như là Saudi vậy nhưng không có gì gay gắt cả. Bằng chứng là ai áo trùm thì trùm, ai quần cộc Abecrombie & Ficht thì cứ việc, có cô voan che mặt cẩn thận nhưng mà áo đen chỉ khoác hờ ở vai kiểu hiệp sĩ, quần bò Lucky Seven lòi cả rốn dưới áo thun cũn cỡn. Bằng chứng là trăm cửa hàng áo quần phụ nữ thì chỉ có một hai cửa hàng áo dài truyền thống, nếu mà ai cũng mặc abbaya hết thì Tây chỉ có mở được ở đây cửa hàng đồ lót Victoria’s Secret hay là Etam Lingerie (đó là nếu dưới abbaya, phụ nữ Ả-rập truyền thống có mặc nội y, tôi không biết). Thương xá ở khu vực này, theo tôi nghĩ, đối với giới trẻ nam nữ giống như là lớp học thêm Anh ngữ tại Việt Nam (“Thưa bố, con đi học Anh văn lớp tối”). Đây là nơi hẹn hò gặp gỡ, làm quen kín đáo bằng Bluetooth di động, cho nhau địa chỉ Skype để mà tìm hiểu qua màn hình vi tính hay là Smart phone cao tốc 3G+. Trước khi có những phương tiện chuyển hình này, có chuyện một anh ở Kuwait bị bắt trong khi đang ở trên một nóc nhà chụp ảnh bằng đầu kính viễn vọng. Cuộc điều tra sau cho biết, không phải là anh chụp lén thiếu nữ nào hàng xóm đang gỡ khăn che mặt mà là chính bạn gái của anh nhắn trước bằng điện thoại (vào thuở đó còn cố định) “6 giờ chiều, em mở cửa sổ và kéo màn che ra múa rốn, anh mang máy đến, nhớ đúng hẹn”. Giờ thì có địa chỉ điện tử, cô chỉ cần bật webcam hidef lên và tự tốc váy ở bên trong phòng ngủ. Nhà nhiếp ảnh không may của thời “bao cấp” vùng Vịnh ấy, lúc đó lãnh 6 tháng tù! Giờ thì những chuyện như vậy may thay không còn nữa, chí ít là ở tại UAE, Qatar, Kuweit, Bahrain hay Oman, nhờ kinh tế thị trường dưới định hướng của Hồi giáo Wahabi. Kinh tế thị trường và tiêu thụ chủ nghĩa thì bất khả xâm phạm, không thày chùa nào cấm được việc đi thương xá mua sắm, cho nên ở đây tuy đền Hồi có lớn nhưng cũng không thể lớn bằng các thương xá.
Lời bình bóng đá tôi nghe ồm ồm là từ bên trong thương xá, phiá Ice Rink vọng lại qua các kính chắn, nhưng giờ không còn thấy âm thanh háo hức của quần chúng tại chỗ theo dõi trận tứ kết trước. Batman không bằng Combat, Ghana sao bằng Brazil, Uruguay sao bằng đội Hà Lan, đẹp từng centimét như người mẫu Tăng Thanh Hà. Không khí này hơi chán, các con tôi lại bỏ đi một vòng trinh sát, mãi mới thấy về báo cáo là giờ thì Ice Rink bớt đông hẳn, đã có chỗ đứng tuy là vẫn chưa có chỗ ngồi.
Tôi duỗi chân uể oải mà không buồn nhấc đít, Ghana dẫn 1-0 trên màn hình đặt ở lề một con ngõ vắng lặng, một con ngõ giả cổ châu Âu kiểu Las Vegas hay là Disneyland hóa, có máy làm mùa đông đặt dưới bên ngoài dưới trời sa mạc lung linh những ánh điện.
Hay ho gì mà kể, coi bóng đá qua truyền hình, lại không phải ở tại Nam Phi. Nhưng đúng ra thì bóng đá 2010, cha con tôi phải xem tại chỗ, nếu không lâm vào hoàn cảnh lỡ tàu.
Mười ngày trước, tôi hì hục tìm ra trên mạng ba cái vé cho hai trận, trận 56 (ngày 29.6, sau này rõ ra là Tây Ban Nha-Bồ Đào Nha) và trận 59 (ngày 3.7, sau này rõ ra là Argentina-Đức quốc) tại sân vận động Green Point ở Cape Town. Các vé hạng 3A này còn nhiều và chỉ đắt hơn giá chính thức FIFA có chút xíu. Kỳ World Cup này, vé xem không phải là vấn đề, ai theo dõi cũng thấy các trận đều thừa chỗ. Vấn đề là Nam Phi xa vời, đường đi không tới. Dự tính của tôi, nói đơn giản, muốn đến tận nơi từ Los Angeles, phải chia làm ba chặng.
Cali-Âu châu là chặng đầu, cho được chọn giữa London, Paris, Amsterdam, Frankfurt am Main. Đây đều có chuyến bay Nam Phi đi một lèo mươi tiếng, tuy một lèo này là Johannesburg chứ Cape Town thì giá nào cũng phải đổi tàu. Một khả năng khác, là vé South African Airways hay Cathay đi thẳng từ Hong Kong, cũng chỉ mười tiếng đâu đó. Nơi tôi đang ở, đi hướng Đông (Âu châu) hay đi hướng Tây (Á châu) thì cũng thế. Nhưng từ Los Angeles đi Hong Kong dưới dạng lục lọi và cần kiệm thì làm gì có vé bay thẳng, phải qua Đài Bắc hay Đông Kinh khúc mắc, thành thử ra tiện lợi vẫn là giải pháp châu Âu.
Được mấy bữa, trong khi tôi chần chừ, nào có phải muốn đi là đi được, trong khi đó thì các vé bay thẳng châu Âu-Nam Phi đều hết tiệt. Từ có hai chặng trở thành ba.
Nói ba chặng là thế này, Miền Tây Hoa Kỳ-Âu châu là chặng 1, Âu châu-vùng Vịnh (được chọn giữa Dubai-Abu Dhabi-Doha) là chặng 2. Chặng cuối là vùng Vịnh-Nam Phi. Nếu đây chỉ có việc đổi tàu, tất cả bằng ấy đoạn đường cũng chỉ chừng 30-35 tiếng, một sáng tinh sương 4:55 sáng bạn đạt Johannesburg, đến 9 giờ đạt Cape Town về khách sạn duỗi người, tối có mặt phất cờ (Việt Nam) tại sân vận động.
Những dịp thế này, tiện lợi nhất là mua tour bóng đá qua một công ty du lịch, có sẵn vé tàu lẫn cả vé xem, xe buýt đưa rước từ khách sạn đến sân rồi đưa về. Nhưng thế thì phải có thì giờ, và phải dự định sắp xếp trước, không phải là một tuần hay mươi ngày trước sự việc mới nổi hứng thân cư lang thang mà hấp tấp lên đường.
Nhưng như trong câu mở đầu của Anna Karenina, mỗi gia đình lại một hoàn cảnh. Gia đình tôi không tính trước được. Các con tôi và tôi có đi cùng một nơi cũng khó đến cùng ngày và về cùng một chốn. Sau Nam Phi các con tôi phải về Mỹ, tôi lại phải về Pháp, đi thì đại khái đi chung nhưng về lại về riêng, chưa nói đến mỗi người một tạng vé khác nhau, vé chùa, vé điểm miễn phí của các hãng hàng không, dùng được ở chặng này nhưng không dùng được ở chặng kia. Đó là chưa nói đến vé khứ hồi còn lại của tháng rồi, vé sắp phải mua cho tháng tới, tính lại thêm bằng ấy những rối trí. S. mới về đến Cali đây thôi, trên tay còn cầm vé chưa dùng đến Los Angeles-London để tháng 9 này vào học. Tháng 9 này, R. lại vào học ở Beirut, thằng thì bố đi theo, đứa lại phải mẹ kèm, nếu đáp số hàng không này giải toán được thì vào đúng lúc này tôi đang ngủ gật ở Cape Town chứ không phải trước màn hình của một nhà hàng Dubai.
Sao lại Cape Town cho thêm xa vời mà không là Johannesburg? Johannesburg, khi tôi tìm khách sạn, thì chỉ còn lại có Formula Inn, Formula 1, ở phía Nam thành phố mà những khách sạn này, khi đêm xuống chỉ có nước khóa cửa phòng lại mà ăn mì gói vì không có nhà hàng ở bên trong. Ra ngoài thì phiền toái, kẻ níu kéo xin tiền, người chặn lối xin tí huyết, đi 100 mét nếu không nộp tiền mãi lộ vỉa hè thì cũng phải nộp tiền hộ tống, bảo vệ. Nam Phi, World Cup hay không World Cup, tội ác vẫn hàng cao nhất thế giới, chỉ số án mạng chết người chỉ có đứng sau Colombia. Thống kê nào thì vào chi tiết cũng có thể cân nhắc, nhưng tội ác và an ninh cá nhân tại Nam Phi thì không cần cân nhắc. Từ phi trường Johannesburg về nhà là có thể bị đi theo để trấn lột hành lý, không tin tôi thì hỏi đại sứ Nam Phi tại Liên Hiệp Quốc về thăm nhà, ông Dumisali Kumalo.
Vì lý do giờ giấc đường bay, tuyến nọ và tuyến này, tôi không muốn hẹn hai con tôi tại một khu vực phiá Nam thành phố, tụi bay ra khỏi trường bay 12 giờ đêm, lấy xe về Formula Inn, sáng mai 6 giờ thì tao đến. Mà tôi đến thì cũng vậy, tội ác tại khu này không phải vì thế mà sẽ thuyên giảm. Đi đâu mà phải cảnh giác thì mất vui hẳn. An ninh và an tâm hơn chút xíu, thì là Cape Town, các khách sạn trong khu phố tốt vẫn còn chỗ.
Cape Town, kể cả ngay tại khu vực nhiều du khách và nhà hàng, khách sạn, như khu vực Victoria & Alfred, thì như thế này. Ban ngày thì còn dạo bờ biển được, rất là đẹp. Nhưng ngay sau khi đêm xuống thì khó lòng, mà đêm vào mùa đông ở đây (tức là những tháng hiện nay) đến rất sớm. Vẫn phải ru rú tử thủ ăn ngủ ở một chỗ chứ còn đi xa, tức là đi ra ngoài cỡ chừng 300 mét thôi khi trời đã tối thì là mạo hiểm. Phi châu mà, mạo hiểm Phi châu.
Bạn thò đầu ra khỏi khách sạn. Nhìn về hướng muốn đi vài mươi mét, xem có khách sạn nào khác hay cửa hàng, quán ăn nào khác có bảo vệ đứng trước thì đi nhanh đến và ngừng lại ở chặng này. Có chuyện gì thì vào bên trong nhà hàng hay khách sạn này còn xin tị nạn tạm được. Sau đó thập thò và quan sát tiếp, đi nhanh đến cổng môt nhà hàng hay khách sạn thứ nhì, chỗ có đèn còn bật đấy và vài ba bảo vệ uy nghi. Cứ thế mà lò cò đi tiếp, như là chạy pháo hay chạy đạn, cảnh giác cao thì về hay đến tận nơi an toàn!
Trong lúc di chuyển đừng có đeo máy hình, đừng đeo túi du lịch vướng vít, đừng có đeo phôn, đừng sử dụng di động mà cái gì cũng cất trong túi áo, túi quần. Một tay thì thọc túi nắm lấy một cái bóp cũ sắp sẵn không có giấy tờ tùy thân hay thẻ tín dụng, những thứ này phải cất riêng lận kín ở đâu đó. Nếu bị chặn lại thì rút cái bóp ngụy trang này ra ném ngay xuống đất và di tản chiến thuật, tốt hơn nữa là thủ hẳn một nắm tiền (không cần phải tiền Rand mà giấy 5000 VNĐ lại càng tốt, kẻ cướp ít người biết hối đoái chính xác) vung ra mở đường máu. Vung ra ở đây là ném vãi, chứ đừng cầm mà trao cho đối tác trấn lột vì ta đưa đến tận tay họ thì họ tiện tay đưa lại ta nhát dao, phát súng. Còn nếu ném xuống đất thì các bạn này sẽ phải bỏ dao bỏ súng mà thi nhau cúi xuống nhặt, tiện đường cho ta cấp kỳ triệt thoái. ơnh
Nhưng nghĩ đến chiến thuật này đã thấy chán, đi xem bóng đá việc gì mà lại phải khổ thế, nhìn trước nhìn sau với lại hai thằng bé, mày cất iPhone vào còn thằng kia gỡ kính mát Oakley ra.
Nữ hoàng Thái, có một bận than thở (mấy mươi năm về trước) với triệu phú Forbes và diễn viên Liz Taylor là bà cả đời chiến đấu chống cộng sản nhưng không chiến đấu nổi chống tắt kinh! Tôi nghĩ là ông Nelson Mandela cũng vậy, cả đời chiến đấu chống apartheid ở Nam Phi nhưng không chiến đấu nổi chống tội ác. Giải quyết thế nào thì tôi không biết, nhưng chẳng phải Phi châu ở đâu cũng thế. Nếu đêm xuống ở Asmara (Eritrea) mà bạn đi trên phố, đâm đầu phải mấy anh da đen lững thững thì không phải là cướp đường mà có thể là trong số có chủ tịch Isaias Afwerki từ bàn giấy ra khoan thai đi bộ một mình về nhà riêng của ông tại một chung cư bình dân.
Nhưng kể thế, lại có người trách là tôi tìm cách mà bênh khéo chủ nghĩa xã hội, tuy là CNXH Eritrea. Cũng không phải vậy, đây đang nói về an ninh và tội ác, và tại Dubai quân chủ độc đoán và tư bản tự do chủ nghĩa thì của rơi không ai nhặt cả, iPhone và kính mát Oakley các ngày qua con tôi có để quên mấy bận và mỗi lần đều có người ới theo, đuổi theo mà gọi trả, quán nước hay là xe taxi. Tại Dubai Mall nguy hiểm nhất cho bản thân là khi ra bãi đậu xe, nhìn trước nhìn sau chẳng khéo là Porsche Panamera hay Bentley bỏ mui đâm phải, các cô cậu này lái xe mà đầu lại còn đội khăn vướng vít, làm sao mà thấy được rõ bộ hành.
Chăn trẻ thì tôi chỉ muốn yên thân, việc gì mà đi rước lấy cái nhớn nhác để xem một trận bóng đá. Cho nên chặng 3 vào đất Thục gian nan này tôi quyết định bỏ. Tôi thông báo với bầy trẻ vào lúc chót là thôi không đi Nam Phi nữa, đằng nào thì đội Pháp của chúng mày cũng đã bị loại nhục nhã, và thay vào đó, thì mình xem truyền hình. Truyền hình thì ở đâu xem chẳng được, à, nhưng đây là xem ở ngay dưới chân của tháp cao nhất thế giới mới vừa được hoàn tất vì mình là người Việt rất thích những thứ gì Guiness, mà nhiều thứ này ở Dubai cũng có tạm, khỏi cần về thăm nhà. Tàu cao tốc này nhé, họ cũng có monorail (tuy là tượng trưng thôi, chừng vài kilomét chứ nào được dự án 1500 cây như của ta). Còn bánh chưng bánh dày với lại rượu giỗ vua Hùng lớn nhất thì đừng có đòi mà địch lại, phiên phiến thôi chứ, nước ngoài chứ bộ, sao mà hòng được.
Hơn ta thì thực ra họ chỉ hơn bóng đá, thế mới đau! Ở vòng tuyển châu Á, tại Mỹ Đình UAE hạ VN 1-0, tại sân nhà của họ ở Abu Dhabi là 5-0.
Sau hiệp đá thêm, Ghana-Uruguay vẫn đồng đều, giờ thì The Noodle Factory có thêm một gia đình Ấn Độ tay xách nách mang hàng mua sắm, dừng lại để gọi nước và xem các quả phạt đền. Nhân viên của nhà hàng đã đi về gần hết, hai nhân viên còn lại làm ra vẻ khoan thai theo dõi nhưng hẳn là sốt ruột và nhất là họ phải đứng chứ không ngồi ngủ gật được như tôi.
Một anh da đen tan việc từ đâu tới, mặc đồng phục vệ sinh của thương xá, tôi đoán là người Tanzania, đứng không yên và bồn chồn, hết thọc tay vào túi lại đưa lên bụm môi lầm bầm “Ghana, Ghana!” Thần chú này không hiệu quả, khi thủ môn Uruguay ngăn được trái thứ nhất, anh ôm đầu nói nhỏ “Thôi thế là xong!” Căng thẳng này làm tôi tỉnh đôi chút, các khán giả còn lại trong nhà hàng gay cấn thì gay cấn vẫn không tỏ ra theo phe nào hết, còn nhân viên của quán thì chỉ mong cho xong sớm để còn ra về. Niềm hy vọng cuối của châu Phi đến quả phạt đền thứ 8 thì chìm lỉm theo lục điạ huyền bí Atlantis. Đây (Atlantis) cũng là resort cũng mới vừa khai trương trên Palm Jumeirah, là hòn đảo hoàn toàn nhân tạo theo hình một cây dừa.
Và lớn nhất thế giới chứ sao nữa.
Chí ít là lớn nhất trong dịp giải bóng đá thứ 19. Giải lần sau, năm 2014 thì kinh tế đang thế này, không biết có kịp hoàn tất các đảo nhân tạo còn lớn gấp mấy là Palm Jebel Ali, The World, The Universe (khiếp thật) hay là Palm Deira.
Nhưng Brazil FIFA 20, không chắc là tôi sẽ có ý định tìm đến. Hay có tìm cũng lại lỡ đò dọc đường như ngày hôm nay.
© 2010 Đỗ Kh.
10/7/10
Kahlil Gibran - Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn
Kahlil Gibran - Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn
-----
Lời người dịch : Trên vách nhà của nhiều người Mỹ có treo tấm lắc ghi câu cố Tổng thống John F. Kennedy kêu gọi đồng bào Hoa Kỳ của ông và các công dân thế giới, trong diễn văn nhậm chức ngày 20.1.1961:
“Ask not what your country can do for you, but ask what you can do for your country.”
(Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước.)
Lời phát biểu bất hủ ấy lần đầu tiên xuất hiện trong một bài thơ xuôi của Kahlil Gibran, viết bằng tiếng Arập, khoảng thập niên 1920, mà nhan đề của nó, theo Joseph Sheban, có thể dịch sang tiếng Anh là The New Deal (Đối xử mới) hoặc The New Frontier (Biên cương mới).
Kahlil Gibran (1883-1931) là thi sĩ và họa sĩ người Mỹ gốc Liban. Cùng gia đình di dân sang New York năm 1895, tới năm 15 tuổi ông quay về học ở quê hương và trở lại Mỹ năm 1902. Ba mươi năm sau, thi hài của ông được đem về an táng tại thị trấn chôn nhau cắt rốn.
Gibran để lại hàng trăm bức họa và khoảng 30 tác phẩm viết bằng tiếng Arập hoặc tiếng Anh. Với cung giọng ngôn sứ đầy chất thơ, tác phẩm của Kahil Gibran như một dòng chảy tổng hợp các suối nguồn Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Các bài trường đoản cú hay các bài thơ xuôi của ông cao nhã, ngôn từ trang trọng, với hình ảnh con người hướng thượng, chiêm nghiệm, và dấn thân, kèm theo những cái nhìn thấu suốt vào các chủ đề của cuộc sống, được diễn tả bằng thuật ngữ tâm linh.
Tuyệt phẩm The Prophet (Ngôn sứ) của Gibran xuất bản lần đầu năm 1923, được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và là một trong các sách bán chạy nhất tại Mỹ trong thế kỷ 20. The Prophet gồm 26 tiểu luận bằng thơ xuôi, ứng xử chuyên biệt với các chủ đề trong cuộc sống. Nó đặc biệt nổi bật trong thập niên 1960 với hai trào lưu Thời đại Mới (New Age) và Phản Văn hóa (Counter-culture), đồng thời tinh thần Biên cương mới góp phần tạo cảm hứng cho các phong trào thiện nguyện viên quốc tế, các tổ chức bất vụ lợi (NGO) hoạt động văn hóa, xã hội, y tế… trên khắp thế giới.
Với Kahil Gibran, “Lịch sử chỉ lặp lại chính nó trong tâm trí những kẻ không biết lịch sử” (History does not repeat itself except in the minds of those who do not know history), và “Một nửa những gì tôi viết là vô nghĩa, nhưng tôi nói nửa ấy ra để nửa kia có thể với tới bạn” (Half of what I say is meaningless, but I say it so that the other half may reach you).
Một số câu truyện và bài viết của Gibran bảy tám chục năm trước đã thuộc về lịch sử, nhưng một số khác vẫn mang tính đương đại, vượt thời gian và thích hợp với hoàn cảnh chính trị và văn hóa thời nay, trong đó có thể kể luôn cả Việt Nam. Có lẽ nhờ thế từ sau khi Gibran qua đời, ảnh hưởng của ông ngày càng lan rộng từ lãnh vực hội họa, triết học, văn học cho tới môi sinh, tại các đại học Hoa Kỳ và Trung Ðông, Unesco, các giải thưởng quốc tế mang tên ông…
Tại Nam Việt trước năm 1975, có ít nhất năm tác phẩm của Kahil Gibran được dịch ra tiếng Việt và xuất bản. Cuốn The Prophet có hai bản dịch: Kẻ tiên tri và Mật khải.
Bài thơ xuôi dưới đây dịch từ bản tiếng Anh của Joseph Sheban, trích từ cuốn A Third Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng thứ ba của Kahlil Gibran) do Andrew Dib Sherfan biên tập và giới thiệu, Nxb The Citadel Press, Secaucus, New Jersey, HK, tái bản lần thứ ba năm 1975, tt. 52-57.
______________
Biên cương mới
Kahlil Gibran
Ở Trung Ðông ngày nay có hai ý tưởng cũ và mới đang thách thức nhau.
Những ý tưởng cũ rồi sẽ biến mất vì chúng yếu ớt và kiệt quệ.
Ở Trung Ðông đang có cơn bừng tỉnh xem thường những giấc ngủ say. Cơn bừng tỉnh này sẽ lướt thắng vì mặt trời là thủ lãnh và bình minh là đạo binh của nó.
Trên các cánh đồng Trung Ðông, nơi bao la đất nghĩa trang, đứng lên tuổi trẻ của mùa Xuân, cất lời kêu gọi những ai cư ngụ trong mộ đá hãy trỗi dậy và tiến về những biên cương mới.
Khi mùa Xuân ngân lên nhịp điệu của nó cũng là lúc thần chết vươn vai, trải tấm vải liệm và cất bước chân đi.
Nơi chân trời Trung Ðông cơn bừng tỉnh mới đang dâng cao và trải rộng, chạm tới và bao phủ mọi linh hồn mẫn tuệ và nhạy cảm, thấm sâu và thu phục thiện cảm của những con tim cao nhã.
Trung Ðông ngày nay có hai chủ nhân. Một là người quyết định, ra lệnh và được vâng lời; nhưng kẻ đó đang lâm vào thời điểm tử vong.
Còn chủ nhân kia dù im tiếng tuân giữ luật lệ và trật tự, trầm lặng trông chờ công lý; nhưng là người khổng lồ đầy quyền năng, biết rõ sức mạnh của mình, tự tin vào sự hiện hữu của mình và tin tưởng định mệnh của mình.
Ở Trung Ðông ngày nay, có hai loại người: một của quá khứ và một của tương lai. Bạn là con người nào trong hai loại đó? Hãy tới sát bên tôi để tôi nhìn bạn, và hãy cho tôi được bảo đảm, bằng diện mạo và hạnh kiểm của bạn, rằng bạn là người cất bước tiến về nơi ánh sáng hay là kẻ đang đi vào chốn tối tăm.
Hãy tới kề bên tôi, nói cho tôi biết bạn là ai và bạn làm gì.
Có phải là bạn là kẻ làm chính trị đang hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, hay bạn là người nhiệt tình đang hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là ký sinh trùng; nếu là người thứ hai, thế thì bạn đang là ốc đảo trong sa mạc.
Có phải bạn là một thương buôn đang sử dụng những cần thiết của xã hội cho các nhu cầu của cuộc sống mình, cho lợi nhuận độc quyền và phi lý, hay bạn là người siêng năng giản dị, cần cù lao động, sẵn lòng cho sự đổi chác giữa thợ dệt và nông dân, và có phải bạn đang đòi lợi nhuận hợp lý như một người trung gian giữa hai phía cung cầu?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là phạm nhân dù đang sống trong lâu đài biệt thự hay chốn lao tù. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là người từ tâm cho dẫu bạn được dân chúng cảm tạ hoặc bị họ đấu tố.
Có phải bạn là nhà lãnh đạo tôn giáo đang đan dệt cho hình hài mình chiếc áo chùng tu sĩ xuất từ sự vô minh của dân chúng, đang nặn đúc chiếc mũ miện cho mình xuất từ sự chất phác của tâm hồn dân chúng, và đang giả vờ ghét cái ác chỉ vì muốn sống dựa vào lợi tức của mình?
Hay có phải bạn là người ngoan đạo và tận hiến, đang tìm thấy trong lòng mộ đạo của cá nhân mỗi người nền tảng cho một đất nước tiến bộ, và có thể thấy xuyên qua cuộc tìm kiếm sâu xa trong thăm thẳm linh hồn mình chiếc thang dẫn lên linh hồn vĩnh cửu, cái định hướng cho thế giới?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là tên dị giáo, không tin vào Thượng đế dù đang ăn chay ban ngày và cầu nguyện ban đêm.
Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cây hoa tím trong vườn chân lý cho dẫu mùi thơm thất lạc trên cánh mũi của loài người, hoặc cho dẫu hương thơm tỏa vào không khí hiếm hoi ở đó mùi hương của các đóa hoa được giữ gìn.
Có phải bạn là người làm báo, đang bán ý tưởng và nguyên tắc của mình trong ngôi chợ nô lệ, và sống trên sự khốn khó của dân chúng, như kên kên chỉ sà cánh xuống các thây ma động vật thối rữa?
Hay có phải bạn là nhà giáo trên bục giảng của đô thị, đang thu thập kinh nghiệm từ cuộc sống và trình bày cho dân chúng theo những bài giảng bạn từng học được?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là vết thương và mụt nhọt. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là thuốc xoa dịu chỗ đau và là dược phẩm.
Có phải bạn là người cai trị đang tự hạ trước kẻ bổ nhiệm mình, xem thường những ai bị mình cai trị, và chưa hề nhấc bàn tay trừ phi để với tới các chiếc túi, cũng như không bao giờ cất chân bước tới trừ phi để nghênh đón cấp trên?
Hay có phải bạn là người đầy tớ trung thành chỉ phục vụ cho phúc lợi của dân chúng?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn như bao bì khấu trừ trong sân đập lúa của quốc gia; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là phúc lành trên các kho lẫm.
Có phải bạn là người đang cho mình được làm điều mình không cho phép vợ làm, bỏ nàng sống quạnh hiu với chiếc chìa khóa bạn nhét kỹ trong chiếc ủng của mình, và đang tham lam ăn nhậu, nhồi nhét các thức ăn mình ưa chuộng trong khi nàng ngồi đó với chiếc đĩa trống không?
Hay có phải bạn là người bạn đời chỉ hành động khi sóng đôi tay trong tay hoặc không làm điều gì nếu nàng chưa đưa ý nghĩ và ý kiến của riêng nàng, và cùng chia sẻ với nàng hạnh phúc và thành công của bạn?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là một tàn dư của bộ lạc, đang khoác lớp da của loài sinh vật đã biến mất rất lâu trước ngày rời hang động; và nếu bạn là người thứ hai, thế thì bạn là lãnh đạo của một đất nước đang chuyển động trong rạng đông tới ánh sáng của công lý và minh triết.
Có phải bạn là một nhà văn đang chỉ tìm kiếm trong sự tự ngưỡng mộ, giữ cho mình ở mãi trong thung lũng quá khứ bụi bặm, nơi các thời đại vứt lại tàn dư y trang và các ý tưởng vô dụng?
Hay bạn là người suy tư sáng sủa, đang xem xét điều tốt lành và hữu ích cho xã hội, và trang trải đời mình trong cuộc xây dựng những gì mang lại lợi ích và hủy diệt những gì gây tổn hại?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn nhu nhược và rồ dại; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cơm cho những ai đang đói và nước cho những ai đang khát.
Có phải bạn là một nhà thơ đang rung lục lạc nơi cửa nhà các tiểu vương gia hay tung hoa trong lễ cưới, và là kẻ bước đi trong đám tang với chiếc khăn thấm đẫm nước ấm trên cửa miệng, rồi được vắt bằng lưỡi cùng môi mình ngay lúc vừa đặt chân tới nghĩa trang?
Hay có phải bạn là tặng phẩm Thượng đế đặt trong đôi bàn tay bạn, nơi dạo lên những khúc nhạc tuyệt trần, nâng tâm hồn chúng tôi tới những tuyệt vời trong cuộc sống?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là gã làm trò tung hứng, đang gợi lên trong lòng chúng tôi điều ngược lại những gì bạn dự tính.
Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là tình yêu trong con tim của chúng tôi và là khải thị trong tâm trí của chúng tôi.
Ở Trung Ðông đang có hai đám rước: một của dân chúng già nua bước đi với những chiếc lưng cong, được nâng đỡ bởi những chiếc gậy cong; họ phì phò thở dù đang trên đường bước xuống đồi.
Hai là đám rước của những người trẻ trung, chạy như bằng đôi chân có cánh và hân hoan như trong thanh quản có sợi tơ đàn; họ vượt qua các chướng ngại như thể đang có nam châm hút họ lên sườn núi và đang có ma thuật mê hoặc trái tim họ.
Bạn thì sao, bạn muốn mình chuyển động trong đám rước nào?
Bạn hãy tự hỏi và lắng mình suy tưởng khi vẫn còn đêm, hãy thấy cho ra mình là nô lệ của hôm qua hay giải thoát cho ngày mai.
Tôi nói với bạn rằng con cái của các năm qua đang bước đi trong đám ma của một kỷ nguyên do chúng tạo ra cho chính chúng. Chúng đang níu kéo sợi thừng mục nhão hẳn sẽ sớm đứt và khiến chúng rơi xuống vực thẳm lãng quên. Tôi nói cho biết rằng chúng đang sống trong những ngôi nhà nền móng suy sụp - nhà của chúng sẽ đổ ập xuống đầu chúng, và như thế sẽ trở thành huyệt mộ của chúng. Tôi nói cho biết rằng hết thảy các ý nghĩ của chúng, các lời nói của chúng, các tranh cãi của chúng, các sáng tác phẩm của chúng, các cuốn sách của chúng và toàn bộ công trình của chúng đều chỉ là những dây xích quá yếu ớt chúng lê theo, không đủ sức kéo khối nặng của chính chúng.
Nhưng con cái của ngày mai là những người được cuộc đời kêu gọi. Họ đi theo nó với đầu ngẩng cao và bằng bước chân chắc nịch. Họ là rạng động của những biên cương mới, không khói sương nào che phủ được họ, không tiếng loảng xoảng của xiềng xích nào nhấn chìm nổi tiếng nói của họ. Họ ít ỏi về số lượng nhưng khác với đống cỏ khô, họ là hạt lúa giống. Chẳng ai biết họ nhưng họ biết nhau. Họ giống những đỉnh núi có thể thấy nhau và nghe nhau, không như những cái hang chẳng bao giờ có thể nghe và thấy. Là hạt giống gieo bởi bàn tay Thượng đế trên cánh đồng, họ sẽ xuyên thủng vỏ và đong đưa chiếc lá tươi non trước vầng thái dương. Rồi sẽ lớn thành cây mạnh mẽ với rễ cắm sâu trong lòng đất và cành vươn lên giữa trời cao.
( ND : NGUYEN UOC )
-----
Lời người dịch : Trên vách nhà của nhiều người Mỹ có treo tấm lắc ghi câu cố Tổng thống John F. Kennedy kêu gọi đồng bào Hoa Kỳ của ông và các công dân thế giới, trong diễn văn nhậm chức ngày 20.1.1961:
“Ask not what your country can do for you, but ask what you can do for your country.”
(Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước.)
Lời phát biểu bất hủ ấy lần đầu tiên xuất hiện trong một bài thơ xuôi của Kahlil Gibran, viết bằng tiếng Arập, khoảng thập niên 1920, mà nhan đề của nó, theo Joseph Sheban, có thể dịch sang tiếng Anh là The New Deal (Đối xử mới) hoặc The New Frontier (Biên cương mới).
Kahlil Gibran (1883-1931) là thi sĩ và họa sĩ người Mỹ gốc Liban. Cùng gia đình di dân sang New York năm 1895, tới năm 15 tuổi ông quay về học ở quê hương và trở lại Mỹ năm 1902. Ba mươi năm sau, thi hài của ông được đem về an táng tại thị trấn chôn nhau cắt rốn.
Gibran để lại hàng trăm bức họa và khoảng 30 tác phẩm viết bằng tiếng Arập hoặc tiếng Anh. Với cung giọng ngôn sứ đầy chất thơ, tác phẩm của Kahil Gibran như một dòng chảy tổng hợp các suối nguồn Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Các bài trường đoản cú hay các bài thơ xuôi của ông cao nhã, ngôn từ trang trọng, với hình ảnh con người hướng thượng, chiêm nghiệm, và dấn thân, kèm theo những cái nhìn thấu suốt vào các chủ đề của cuộc sống, được diễn tả bằng thuật ngữ tâm linh.
Tuyệt phẩm The Prophet (Ngôn sứ) của Gibran xuất bản lần đầu năm 1923, được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và là một trong các sách bán chạy nhất tại Mỹ trong thế kỷ 20. The Prophet gồm 26 tiểu luận bằng thơ xuôi, ứng xử chuyên biệt với các chủ đề trong cuộc sống. Nó đặc biệt nổi bật trong thập niên 1960 với hai trào lưu Thời đại Mới (New Age) và Phản Văn hóa (Counter-culture), đồng thời tinh thần Biên cương mới góp phần tạo cảm hứng cho các phong trào thiện nguyện viên quốc tế, các tổ chức bất vụ lợi (NGO) hoạt động văn hóa, xã hội, y tế… trên khắp thế giới.
Với Kahil Gibran, “Lịch sử chỉ lặp lại chính nó trong tâm trí những kẻ không biết lịch sử” (History does not repeat itself except in the minds of those who do not know history), và “Một nửa những gì tôi viết là vô nghĩa, nhưng tôi nói nửa ấy ra để nửa kia có thể với tới bạn” (Half of what I say is meaningless, but I say it so that the other half may reach you).
Một số câu truyện và bài viết của Gibran bảy tám chục năm trước đã thuộc về lịch sử, nhưng một số khác vẫn mang tính đương đại, vượt thời gian và thích hợp với hoàn cảnh chính trị và văn hóa thời nay, trong đó có thể kể luôn cả Việt Nam. Có lẽ nhờ thế từ sau khi Gibran qua đời, ảnh hưởng của ông ngày càng lan rộng từ lãnh vực hội họa, triết học, văn học cho tới môi sinh, tại các đại học Hoa Kỳ và Trung Ðông, Unesco, các giải thưởng quốc tế mang tên ông…
Tại Nam Việt trước năm 1975, có ít nhất năm tác phẩm của Kahil Gibran được dịch ra tiếng Việt và xuất bản. Cuốn The Prophet có hai bản dịch: Kẻ tiên tri và Mật khải.
Bài thơ xuôi dưới đây dịch từ bản tiếng Anh của Joseph Sheban, trích từ cuốn A Third Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng thứ ba của Kahlil Gibran) do Andrew Dib Sherfan biên tập và giới thiệu, Nxb The Citadel Press, Secaucus, New Jersey, HK, tái bản lần thứ ba năm 1975, tt. 52-57.
______________
Biên cương mới
Kahlil Gibran
Ở Trung Ðông ngày nay có hai ý tưởng cũ và mới đang thách thức nhau.
Những ý tưởng cũ rồi sẽ biến mất vì chúng yếu ớt và kiệt quệ.
Ở Trung Ðông đang có cơn bừng tỉnh xem thường những giấc ngủ say. Cơn bừng tỉnh này sẽ lướt thắng vì mặt trời là thủ lãnh và bình minh là đạo binh của nó.
Trên các cánh đồng Trung Ðông, nơi bao la đất nghĩa trang, đứng lên tuổi trẻ của mùa Xuân, cất lời kêu gọi những ai cư ngụ trong mộ đá hãy trỗi dậy và tiến về những biên cương mới.
Khi mùa Xuân ngân lên nhịp điệu của nó cũng là lúc thần chết vươn vai, trải tấm vải liệm và cất bước chân đi.
Nơi chân trời Trung Ðông cơn bừng tỉnh mới đang dâng cao và trải rộng, chạm tới và bao phủ mọi linh hồn mẫn tuệ và nhạy cảm, thấm sâu và thu phục thiện cảm của những con tim cao nhã.
Trung Ðông ngày nay có hai chủ nhân. Một là người quyết định, ra lệnh và được vâng lời; nhưng kẻ đó đang lâm vào thời điểm tử vong.
Còn chủ nhân kia dù im tiếng tuân giữ luật lệ và trật tự, trầm lặng trông chờ công lý; nhưng là người khổng lồ đầy quyền năng, biết rõ sức mạnh của mình, tự tin vào sự hiện hữu của mình và tin tưởng định mệnh của mình.
Ở Trung Ðông ngày nay, có hai loại người: một của quá khứ và một của tương lai. Bạn là con người nào trong hai loại đó? Hãy tới sát bên tôi để tôi nhìn bạn, và hãy cho tôi được bảo đảm, bằng diện mạo và hạnh kiểm của bạn, rằng bạn là người cất bước tiến về nơi ánh sáng hay là kẻ đang đi vào chốn tối tăm.
Hãy tới kề bên tôi, nói cho tôi biết bạn là ai và bạn làm gì.
Có phải là bạn là kẻ làm chính trị đang hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, hay bạn là người nhiệt tình đang hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là ký sinh trùng; nếu là người thứ hai, thế thì bạn đang là ốc đảo trong sa mạc.
Có phải bạn là một thương buôn đang sử dụng những cần thiết của xã hội cho các nhu cầu của cuộc sống mình, cho lợi nhuận độc quyền và phi lý, hay bạn là người siêng năng giản dị, cần cù lao động, sẵn lòng cho sự đổi chác giữa thợ dệt và nông dân, và có phải bạn đang đòi lợi nhuận hợp lý như một người trung gian giữa hai phía cung cầu?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là phạm nhân dù đang sống trong lâu đài biệt thự hay chốn lao tù. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là người từ tâm cho dẫu bạn được dân chúng cảm tạ hoặc bị họ đấu tố.
Có phải bạn là nhà lãnh đạo tôn giáo đang đan dệt cho hình hài mình chiếc áo chùng tu sĩ xuất từ sự vô minh của dân chúng, đang nặn đúc chiếc mũ miện cho mình xuất từ sự chất phác của tâm hồn dân chúng, và đang giả vờ ghét cái ác chỉ vì muốn sống dựa vào lợi tức của mình?
Hay có phải bạn là người ngoan đạo và tận hiến, đang tìm thấy trong lòng mộ đạo của cá nhân mỗi người nền tảng cho một đất nước tiến bộ, và có thể thấy xuyên qua cuộc tìm kiếm sâu xa trong thăm thẳm linh hồn mình chiếc thang dẫn lên linh hồn vĩnh cửu, cái định hướng cho thế giới?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là tên dị giáo, không tin vào Thượng đế dù đang ăn chay ban ngày và cầu nguyện ban đêm.
Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cây hoa tím trong vườn chân lý cho dẫu mùi thơm thất lạc trên cánh mũi của loài người, hoặc cho dẫu hương thơm tỏa vào không khí hiếm hoi ở đó mùi hương của các đóa hoa được giữ gìn.
Có phải bạn là người làm báo, đang bán ý tưởng và nguyên tắc của mình trong ngôi chợ nô lệ, và sống trên sự khốn khó của dân chúng, như kên kên chỉ sà cánh xuống các thây ma động vật thối rữa?
Hay có phải bạn là nhà giáo trên bục giảng của đô thị, đang thu thập kinh nghiệm từ cuộc sống và trình bày cho dân chúng theo những bài giảng bạn từng học được?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là vết thương và mụt nhọt. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là thuốc xoa dịu chỗ đau và là dược phẩm.
Có phải bạn là người cai trị đang tự hạ trước kẻ bổ nhiệm mình, xem thường những ai bị mình cai trị, và chưa hề nhấc bàn tay trừ phi để với tới các chiếc túi, cũng như không bao giờ cất chân bước tới trừ phi để nghênh đón cấp trên?
Hay có phải bạn là người đầy tớ trung thành chỉ phục vụ cho phúc lợi của dân chúng?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn như bao bì khấu trừ trong sân đập lúa của quốc gia; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là phúc lành trên các kho lẫm.
Có phải bạn là người đang cho mình được làm điều mình không cho phép vợ làm, bỏ nàng sống quạnh hiu với chiếc chìa khóa bạn nhét kỹ trong chiếc ủng của mình, và đang tham lam ăn nhậu, nhồi nhét các thức ăn mình ưa chuộng trong khi nàng ngồi đó với chiếc đĩa trống không?
Hay có phải bạn là người bạn đời chỉ hành động khi sóng đôi tay trong tay hoặc không làm điều gì nếu nàng chưa đưa ý nghĩ và ý kiến của riêng nàng, và cùng chia sẻ với nàng hạnh phúc và thành công của bạn?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là một tàn dư của bộ lạc, đang khoác lớp da của loài sinh vật đã biến mất rất lâu trước ngày rời hang động; và nếu bạn là người thứ hai, thế thì bạn là lãnh đạo của một đất nước đang chuyển động trong rạng đông tới ánh sáng của công lý và minh triết.
Có phải bạn là một nhà văn đang chỉ tìm kiếm trong sự tự ngưỡng mộ, giữ cho mình ở mãi trong thung lũng quá khứ bụi bặm, nơi các thời đại vứt lại tàn dư y trang và các ý tưởng vô dụng?
Hay bạn là người suy tư sáng sủa, đang xem xét điều tốt lành và hữu ích cho xã hội, và trang trải đời mình trong cuộc xây dựng những gì mang lại lợi ích và hủy diệt những gì gây tổn hại?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn nhu nhược và rồ dại; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cơm cho những ai đang đói và nước cho những ai đang khát.
Có phải bạn là một nhà thơ đang rung lục lạc nơi cửa nhà các tiểu vương gia hay tung hoa trong lễ cưới, và là kẻ bước đi trong đám tang với chiếc khăn thấm đẫm nước ấm trên cửa miệng, rồi được vắt bằng lưỡi cùng môi mình ngay lúc vừa đặt chân tới nghĩa trang?
Hay có phải bạn là tặng phẩm Thượng đế đặt trong đôi bàn tay bạn, nơi dạo lên những khúc nhạc tuyệt trần, nâng tâm hồn chúng tôi tới những tuyệt vời trong cuộc sống?
Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là gã làm trò tung hứng, đang gợi lên trong lòng chúng tôi điều ngược lại những gì bạn dự tính.
Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là tình yêu trong con tim của chúng tôi và là khải thị trong tâm trí của chúng tôi.
Ở Trung Ðông đang có hai đám rước: một của dân chúng già nua bước đi với những chiếc lưng cong, được nâng đỡ bởi những chiếc gậy cong; họ phì phò thở dù đang trên đường bước xuống đồi.
Hai là đám rước của những người trẻ trung, chạy như bằng đôi chân có cánh và hân hoan như trong thanh quản có sợi tơ đàn; họ vượt qua các chướng ngại như thể đang có nam châm hút họ lên sườn núi và đang có ma thuật mê hoặc trái tim họ.
Bạn thì sao, bạn muốn mình chuyển động trong đám rước nào?
Bạn hãy tự hỏi và lắng mình suy tưởng khi vẫn còn đêm, hãy thấy cho ra mình là nô lệ của hôm qua hay giải thoát cho ngày mai.
Tôi nói với bạn rằng con cái của các năm qua đang bước đi trong đám ma của một kỷ nguyên do chúng tạo ra cho chính chúng. Chúng đang níu kéo sợi thừng mục nhão hẳn sẽ sớm đứt và khiến chúng rơi xuống vực thẳm lãng quên. Tôi nói cho biết rằng chúng đang sống trong những ngôi nhà nền móng suy sụp - nhà của chúng sẽ đổ ập xuống đầu chúng, và như thế sẽ trở thành huyệt mộ của chúng. Tôi nói cho biết rằng hết thảy các ý nghĩ của chúng, các lời nói của chúng, các tranh cãi của chúng, các sáng tác phẩm của chúng, các cuốn sách của chúng và toàn bộ công trình của chúng đều chỉ là những dây xích quá yếu ớt chúng lê theo, không đủ sức kéo khối nặng của chính chúng.
Nhưng con cái của ngày mai là những người được cuộc đời kêu gọi. Họ đi theo nó với đầu ngẩng cao và bằng bước chân chắc nịch. Họ là rạng động của những biên cương mới, không khói sương nào che phủ được họ, không tiếng loảng xoảng của xiềng xích nào nhấn chìm nổi tiếng nói của họ. Họ ít ỏi về số lượng nhưng khác với đống cỏ khô, họ là hạt lúa giống. Chẳng ai biết họ nhưng họ biết nhau. Họ giống những đỉnh núi có thể thấy nhau và nghe nhau, không như những cái hang chẳng bao giờ có thể nghe và thấy. Là hạt giống gieo bởi bàn tay Thượng đế trên cánh đồng, họ sẽ xuyên thủng vỏ và đong đưa chiếc lá tươi non trước vầng thái dương. Rồi sẽ lớn thành cây mạnh mẽ với rễ cắm sâu trong lòng đất và cành vươn lên giữa trời cao.
( ND : NGUYEN UOC )
5/7/10
Kahlil Gibran- Trầm tưởng
Trầm tưởng
Tác giả: Kahlil Gibran
Dưới ánh mặt trời
Mục lục , Nhà thi sĩ Baalbeck , Trong đêm tối , Dưới ánh mặt trời , Câu chuyện của một người bạn ,
Ta đã nhìn thấy mọi sự việc xảy ra dưới ánh mặt trời;
và kìa, thảy đều là hư ảo và khổ não.
Các giáo sĩ [1].
Ô linh hồn Salomon đang bay phảng phất trên miền thinh không; người, ném sang bên bộ trang phục rách tả tơi của vật chất, đã để lại đằng sau người những lời nói đó, xuất sinh từ yếu đuối và khổ đau, những lời nói làm ngã lòng những kẻ còn bị giam hãm trong xác thể.
Nhưng người biết rằng có một ý nghĩa trên đời này mà Tử Thần không che giấu. Nhưng làm cách nào mà nhân loại có thể vươn tới một kiến thức nó chỉ có thể đến chừng nào linh hồn được giải thoát khỏi những trói buộc của trần gian?
Giờ đây người nhận ra rằng cuộc đời chẳng là khổ não; rằng những sự việc xảy ra dưới ánh mặt trời chẳng phải thảy là hư ảo; rằng bằng cách nào đó mọi vật xưa và nay vẫn bước về và sẽ vẫn bước về hướng Chân Lý. Chúng tôi những sinh vật thống khổ đã bám mình vào những lời dạy dưới trần của người như những lời nói thông thái tuyệt đời. Nhưng chúng là những cánh cửa sổ làm tối mù trí tuệ và tiêu ma hy vọng.
Giờ đây người hiểu rõ rằng ngu muội, độc ác, và chuyên chế đều có nguyên do của chúng; và rằng Sự Đẹp là điều phát lộ của trí năng, sản phẩm của đức tính và thành quả của công lý.
Giờ đây người biết rằng nỗi thống khổ và cảnh nghèo nàn làm thanh khiết trái tim con người; dù rằng trí óc khiếp nhược của ta chẳng thấy gì có giá trị trong vũ trụ ngoại trừ an lạc và hạnh phúc.
Giờ đây người thấy rằng tinh thần vẫn tiến về hướng ánh sáng bất chấp những gian khổ trên trần. Ấy nhưng chúng tôi nhắc lại những lời nói của người dạy rằng con người chỉ là một đồ chơi trong bàn tay của bất tri.
Người đã hối tiếc việc người cấy trong tim chúng tôi lòng khiếp nhược đối với kiếp sống trong thế giới và lòng ngờ vực với kiếp sống mai sau. Ấy nhưng chúng tôi vẫn còn lắng nghe những lời dạy trên trần của người.
Ô linh hồn Salomon đang ngụ nơi Vĩnh Cửu, hãy hiện về với những kẻ yêu trí năng và dạy cho họ đừng đi con đường tà giáo và khốn cùng. May ra đó sẽ là một cách chuộc lại một lỗi lầm không cố ý.
Một thoáng nhìn về tương lai.
Từ phía sau bức tường Hiện Tại tôi nghe thấy tiếng những khúc thánh ca nhân loại. Tôi nghe thấy tiếng chuông đổ báo hiệu lúc bắt đầu buổi cầu nguyện trong đền Sự Đẹp. Chuông đền được đúc bằng khuôn xúc cảm và treo đu đưa phía trên thánh đài – trái tim loài người.
Từ phía sau Tương Lai tôi trông thấy tầng tầng lớp lớp đang sùng bái trong lòng Thiên Nhiên, mặt hướng về Đông Phương và chờ đợi ánh sáng ban mai ngập lụt – ban mai của Chân Lý.
Tôi trông thấy thành phố trong hoang phế và chẳng còn lại đặng nói với con người về sự thất bại của Ngu Tối và vinh quang của Ánh Sáng.
Tôi trông thấy những bậc lão niên ngồi dưới bóng cây bá hương và thuỳ liễu, bao vây bởi các thanh niên đang lắng nghe họ kể truyện cổ tích thời xưa.
Tôi trông thấy các thanh niên đang gảy đàn và thổi sáo và các thiếu nữ đang xoã tóc nhảy múa dưới bóng cây nhài.
Tôi trông thấy các nông phu đang gặt lúa, và vợ họ đang đi lượm những bó lúa thơm và véo von những khúc ca vui sướng.
Tôi thấy một thiếu phụ đang vấn một vòng hoa huệ trắng quanh đầu và một vòng đai lá xanh quanh lưng.
Tôi thấy Tình Bằng Hữu được khăng khít thêm giữa con người và tất cả các sinh vật, và các loài chim và các loài bướm, tin tưởng và bình an, đang bay về những dòng suối.
Tôi không thấy cảnh nghèo khổ; mà cũng chẳng hề gặp cảnh giàu thái quá. Tôi thấy tình huynh đệ và bình đẳng đắc thắng giữa loài người.
Tôi không thấy một người thày thuốc nào hết, bởi lẽ mỗi người đã đều có phương tiện và kiến thức tự chữa cho mình khỏi bệnh.
Tôi không thấy mục sư, bởi lẽ thiện tâm đã trở thành thày Đại Tư Tế. Tôi cũng chẳng hề trông thấy luật sư, bởi lẽ Thiên Nhiên đã đến thay thế các pháp đình, và các điều ước giao hảo và đồng hành đang có hiệu lực.
Tôi thấy rằng con người đã biết được mình là nền tảng của sáng tạo, rằng hắn đã tự nâng mình lên khỏi sự nhỏ nhen và hèn hạ và đã tháo gỡ ra tấm màn u mê khỏi đôi mắt linh hồn; linh hồn này giờ đây đọc biết được những gì các đám mây viết trên nền trời và những gì ngọn gió thoảng vẽ trên mặt nước; giờ đây hiểu được ý nghĩa hơi thở của loài hoa và những nhịp điệu của loài hoạ mi.
Từ phía sau bức tường Hiện Tại, trên sân khấu những kỷ nguyên sắp tới, tôi trông thấy Sự Đẹp là tân lang và tinh thần là tân nương, và Cuộc Đời là Đêm lễ Kedre. [2].
Nữ thần mộng tưởng.
Và sau một cuộc hành trình mệt nhọc tôi tới phế tích thành Palmyre [3] . Nơi đây, kiệt sức, tôi ngã gục trên thảm cỏ mọc giữa những hàng cột trụ mà các thời đại đã làm đổ vỡ và san bằng. Chúng trông giống như những mảnh vụn do các đạo quân xâm chiếm bỏ lại.
Đêm rơi, và khi màn yên lặng đã phủ kín vạn vật, tôi tỉnh dậy và ngửi thấy một mùi hương lạ trong không khí. Mùi hương thơm ngát như trầm nhưng lại làm ngây ngất như rượu nho. Linh hồn tôi há miệng hớp lấy thứ rượu tiên thanh khiết này. Thế rồi một bàn tay ẩn giấu nào dường như đè nặng lên các giác quan tôi và mí mắt tôi bỗng thấy nặng nề, trong khi tinh thần tôi cảm thấy được giải thoát khỏi mọi xiềng xích.
Và rồi mặt đất chuyển động dưới chân tôi và phía trên tôi bầu trời rung chuyển; ngay lúc đó tôi bỗng nhảy lên cao dường như là được một thần lực nào nhấc bổng lên. Và rồi tôi thấy tôi ở trong một đồng cỏ, một đồng cỏ mà chưa một con người nào đã có thể tưởng tượng ra nổi. Tôi thấy tôi đứng giữa một bầy thiếu nữ đồng trinh chẳng hề bận lấy một mảnh xiêm y nào khác ngoài cái vẻ đẹp mà Thượng Đế đã ban cho họ. Bầy trinh nữ bước quanh tôi, nhưng chân họ không chạm đến đất. Họ xướng lên những khúc ca biểu tỏ những giấc mộng tình yêu. Mỗi thiếu nữ gẩy một cây đàn làm bằng ngà và có căng dây bằng vàng.
Tôi bước tới một khoảng trống ở giữa, trên đó có một ngai vàng nạm đá quí và được soi sáng bởi những tia cầu vồng Các trinh nữ đứng hai bên, cất cao tiếng hát và hướng mặt về phía thoảng lại hương trầm và hương mộc dược. Mọi loài cây đều đang nở hoa, và giữa các cành cây nặng trĩu những đoá hoa thì một nữ hoàng uy nghi bước về phía ngai vàng. Khi nữ hoàng đã ngồi xuống, thì một bầy chim bồ câu, trắng như tuyết, bay sà xuống và đậu chung quanh chân Nàng và tạo thành một hình bán nguyệt, trong khi đó các trinh nữ hát những khúc thánh ca vinh tôn. Tôi đứng đó ngắm nhìn những gì mà chưa mắt con người nào hề được nhìn, lắng nghe những gì mà chưa tai con người nào hề được nghe.
Rồi Nữ Hoàng giơ tay ra hiệu, và mọi vật im phăng phắc. Và bằng một giọng khiến cho hồn ta rung động như các dây đàn rung dưới ngón tay kẻ chơi đàn, Nàng nói:
“Ta đã cho vời người đến, hỡi con người, bởi ta là Nữ Thần Mộng Tưởng. Ta đã ban cho ngươi cái vinh dự đứng trước mặt ta, Nữ Hoàng của xứ mộng. Hãy lắng nghe mệnh lệnh của ta, bởi ta chỉ định cho ngươi về thuyết giảng cho toàn thể giống người: hãy giải nghĩa cho loài người rằng cõi mộng là một đám cưới, ở cửa có một vị thần hộ pháp đứng canh giữ. Không một ai được phép bước vô trừ khi có bận một bộ quần áo cưới. Hãy bảo cho họ biết rằng cõi mộng này là một thiên đàng mà kẻ đứng canh giữ là thiên thần Tình Yêu, và không một con người nào được quyền ngó đến ngoại trừ kẻ nào trên trán có ghi dấu hiệu của Tình Yêu. Hãy tả cho họ nghe những cánh đồng mỹ miều nơi đây mà những dòng suối chảy mật hoa và rượu tiên, mà chim muông bay giong lả trên các tầng trời và ca hót với các thiên thần. Hãy tả cho họ nghe mùi thương thơm hoa cỏ xứ mộng và bảo cho họ biết rằng chỉ có Người Con Xứ Mộng mới được phép dẫm chân trên thảm cỏ êm đềm đó”.
“Hãy nói rằng ta đã ban cho con người ly rượu hoan lạc; nhưng con người, trong cơn mê muội, đã đổ nó đi. Và rồi các thiên thần của Bóng Tối đã rót đầy ly bằng thứ rượu Thảm Sầu và con người đã uống phải và đã say ngất ngây.”
“Hãy nói rằng chẳng một ai có thể chơi cây đàn thất huyền Đời Sống cho nổi trừ khi các ngón tay hắn đã được tay ta ban phép lành và đôi mắt hắn đã được ngai vàng ta thánh hoá”.
“I-zai [4] đã sáng tác những lời nói thông thái như một chuỗi vòng đeo cổ làm bằng đá quí treo trên dây vàng của tình yêu ta. Thánh Giăng [5] đã thuật lại sự thấy Đức Chúa Trời dùm cho ta. Và Đante [6] chẳng thể khám phá nổi nơi ẩn trú của các linh hồn ngoại trừ do ta hướng dẫn. Ta là sự ám dụ ôm lấy thực tại, và thực tại phát lộ cái duy nhất xác nhận hành vi của các thánh thần”.
“Quả thật ta nói với người rằng tư tưởng có một nơi trú ngụ cao cả hơn là thế giới hữu hình, và các tầng trời của nó chẳng được mây mù dục vọng che phủ. Trí tưởng tượng tìm ra một con đường đưa tới thiên quốc, và nơi đó con người có thể ngó thấy những gì sẽ xảy đến sau khi linh hồn được giải thoát khỏi thế giới vật chất”.
Và rồi Nữ Hoàng Mộng Tưởng kéo tôi lại phía Nàng bằng cái nhìn đầy thần diệu, ma ảo, và gắn một cánh hôn lên đôi môi đang cháy bỏng của tôi, và nói:
“Hãy bảo với họ rằng ai không sống trong xứ mộng là nô lệ của tháng ngày”.
Tới lúc đó thì tiếng bầy trinh nữ lại cất lên cao và cột khỏi trầm hương bốc lên cuồn cuộn. Và rồi mặt đất lại bắt đầu chuyển động và bầu trời lại bắt đầu rung chuyển; và bỗng nhiên tôi lại thấy tôi đang nằm giữa đồng phế tích buồn thảm của thành Palmyre.
Bình Minh mỉm cười đã ló rạng, và giữa lưỡi tôi và đôi môi tôi còn lại những lời nói này: “Ai không sống trong xứ mộng là nô lệ của tháng ngày.”
Lịch sử và dân tộc.
Bên một dòng suối nhỏ lượn quanh những tảng đá dưới chân núi Liban, một cô bé chăn cừu ngồi giữa một bầy cừu gầy ốm đang gặm chút cỏ còn lại đã khô cằn. Nàng nhìn về phía hoàng hôn xa tắp như thể là tương lai đang diễn qua trước mắt nàng. Những giọt lệ đã đeo ngọc trên đôi mắt nàng như những giọt sương tô điểm những cánh hoa. Niềm sầu thảm đã khiến môi nàng hé mở để nó có thể xuyên vào và xâm chiếm trái tim đang thở dài phiền muộn của nàng.
Sau lúc mặt trời lặn, khi những cánh đồi non đã thu mình trong bóng tối, thì Lịch Sử hiện ra trước người trinh nữ. Đó là một cụ già râu tóc bạc phơ như tuyết xoã xuống ngực và trên đôi vai, và bên tay mặt cầm một lưỡi liềm sắc bén. Bằng một giọng như biển gầm, cụ già nói:
“Cầu chúc Xyri được an bình [7] ”.
Nàng trinh nữ đứng lên, run sợ mà hỏi rằng:
“Lão trượng cầu chúc gì cho con, hỡi Lịch Sử? Và rồi nàng trỏ bầy cừu của nàng và nói tiếp: Đây là tất cả những gì còn lại từ một bầy cừu mạnh khoẻ đã một hồi làm đông đảo khu thung lũng này. Đây là tất cả những gì mà lòng tham lam của Lão Trượng đã bỏ lại cho con. Lão Trượng bây giờ còn tới đây để thoả mãn lòng tham một lần nữa hay sao đây?”.
“Những cánh đồng đã có một hồi rất là phì nhiêu này đã bị những bàn chân của Người dẫm nát thành bụi khô cằn. Đàn bò của con có hồi đã gặm cỏ hoa và sản xuất nhiều sữa béo tốt, bây giờ chúng chỉ nhấm được cỏ gai, cho nên chúng thành gầy còm và khô héo”.
“Hãy hãi sợ thượng Đế, ô Lịch Sử, và đứng tác hại nữa! Cứ chỉ nhìn thấy bóng dáng Lão Trượng cũng đã khiến cho con ghê tởm đời sống, và sự bạo tàn của lưỡi liềm Lão Trượng đã khiến cho con yêu mến Tử Thần”.
“Hãy bỏ mặc con trong nỗi cô đơn để con uống cạn ly đau khổ - thứ rượu nho ngon nhất. Hãy đi đi, hỡi Lịch Sử, ra hội cưới của Cuộc Đời. Nơi đây, xin Lão Trượng hãy để cho con than vãn niềm cô quạnh tiêu điều mà Lão Trượng đã sữa soạn cho con”.
Giấu đi lưỡi liềm dưới vạt áo, Lịch Sử ngó nhìn nàng như một người cha yêu quí nhìn đứa con mình, và nói:
“Ô Xyri, những gì ta lấy lại của ngươi chính là những tặng vật của ta đó. Nên biết rằng các dân tộc anh em của ngươi có quyền được hưởng một phần vinh quang của ngươi. Ta phải ban cho họ những gì ta đã ban cho ngươi. Niềm đau của ngươi cũng giống như niềm đau của Ai Cập, Ba-tư, và Hy-Lạp, bởi mỗi nước này đều cũng đang có một bầy cừu ốm yếu và một đồng cỏ khô cằn. Ô Xyri, điều mà ngươi gọi là băng hoại chỉ là một giấc ngủ cần thiết đặng cho ngươi lấy lại sức lực mà thôi. Đoá hoa chẳng thể quay trở lại cuộc đời ngoại trừ qua sự chết, và tình yêu chẳng thể trưởng thành ngoại trừ sau lúc chia ly”.
Cụ già bước đến gần nàng trinh nữ, chìa bàn tay ra và nói:
“Hãy bắt tay ta, Ô Người Con Gái của những nhà Tiên Tri”.
Và nàng nắm lấy tay cụ già và ngó cụ đằng sau tấm màn nước mắt, và nói:
“Vĩnh biệt, Lịch Sử, xin vĩnh biệt!”
Và cụ già đáp:
“Cho đến khi nào ta gặp lại nhau, Xyri, cho đến khi nào ta gặp lại nhau”.
Và cụ già vụt biến đi mất như một tia chớp xoẹt, và cô gái chăn cừu cất tiếng gọi bầy cừu của nàng và bắt đầu lên đường trở về, trong lòng thầm nhủ: “Liệu sẽ còn một cuộc gặp gỡ nữa hay sao?”
Loài thú không tiếng nói.
Trong cái nhìn của loài thú không tiếng nói có một câu chuyện.
mà chỉ linh hồn triết nhân mới có thể thực sự hiểu biết.
(Một thi sĩ Ấn Độ)
Trong giờ phút hoàng hôn của một ngày đẹp, khi mà mộng tưởng đã chế ngự hồn tôi, tôi bước ra ngoài thành phố và đứng nán lại đằng trước một căn nhà bỏ trống đã sụp đổ, chỉ còn lại một đống phế tàn.
..Trong đống phế tàn tôi trong thấy một con chó nằm trên đống rác rưởi và tro tàn. Lông nó mang đầy vết thương, và bệnh tật hoành hành cơ thể yếu ốm của nó. Thỉnh thoảng ngó nhìn ánh mặt trời đang dần khuất, đôi mắt sầu thảm của nó biểu lộ lòng khiêm nhường, tuyệt vọng, và đau khổ.
Tôi chậm rãi bước về phía nó, ước ao rằng tôi biết nói tiếng loài vật đặng tôi có thể an ủi nó với lòng thương xót của tôi. Nhưng sự tôi đến gần chỉ làm cho nó khiếp đảm, và nó cố đứng dậy trên bốn chân tê liệt của nó.
Ngã khuỵu xuống, nó ném cho tôi một cái nhìn vừa giận dữ vừa van lơn. Trong cái nhìn đó tôi thấy có nhiều lời nói sáng suốt hơn tiếng nói người đàn ông và cảm động hơn những giọt lệ của một người đàn bà. Đây là những gì tôi hiểu nó muốn nói:
“Hỡi người, tôi đã chịu đau đớn vì bệnh tật do lòng độc ác và sự hành hạ của các người gây ra”.
“Tôi đã chạy trốn khỏi cái bàn chân gây thương tích của các người và ẩn trốn nơi đây, vì cát bụi và tro tàn còn êm đềm hơn là tim người, vì những phế tích còn ít buồn thảm hơn lòng người. Hãy đi khỏi nơi đây, hỡi khách lạ từ thế giới bất công và bất trị”.
“Tôi là người của Ađam rất mực trung thành và tín cẩn. Tôi là người bạn đường chung thuỷ của con người, tôi canh giữ con người ngày, đêm. Tôi đau buồn trong lúc con người vắng mặt và hớn hở đón mừng khi hắn trở về. Tôi hài lòng với những mảnh vụn bánh rơi rớt trừ trên bàn của hắn, và vui sướng với những mẩu xương mà răng hắn đã xé ra. Nhưng lúc tôi về già và đau ốm, thì con người đuổi tôi khỏi nhà và bỏ mặc tôi cho lũ trẻ ngõ hẻm không thương xót”.
“Hỡi người con của Ađam, tôi thấy sự tương đồng giữa tôi và kẻ đồng loại của người khi mà tuổi già đã làm tàn phế họ. Có những người lính trong lúc thanh xuân đã chiến đấu cho tổ quốc họ, và về sau trở về xới đất. Nhưng giờ đây khi mùa đông trong đời họ đã tới và họ không còn hữu dụng nữa thì họ bị gạt sang một bên”.
“Tôi cũng thấy sự giống nhau giữa phận của tôi với phận của một người đàn bà mà, trong những ngày đào tơ mơn mởn, đã làm rộn rã trái tim một người thanh niên; rồi lúc là người mẹ đã tận tuỵ hy sinh cả cuộc đời cho con cái. Nhưng giờ đây, trở về già, nàng đã bị lãng quên và tránh xa. Ôi, người con của Ađam, ngươi áp chế làm sao, ngươi độc ác làm sao!”.
Con vật không tiếng nói đã nói như thế, và đó là những điều tim tôi đã nghe hiểu.
Thi sĩ và thi ca.
Nếu các bạn thi sĩ của tôi đã tưởng rằng những chuỗi ngọc thơ mà họ sáng tác, và những khổ thơ mà vần điệu họ đã làm cho mạnh lên và nối lại với nhau, một ngày nào đó sẽ hoá thành những dây cương giữ lại thi tài của họ, thì chắc họ đã xé bản thảo của họ đi rồi.
Nếu Al-Mutanabbi [8] , nhà tiên tri, đã tiên tri, và nếu Al-Farid [9] , người đoán trước tương lai, đã đoán trước thấy rằng những gì họ đã viết sẽ trở thành một nguồn suối cạn và một hướng đạo bó buộc cho các thi sĩ ngày nay chúng ta, thì chắc họ đã đổ mực của họ xuống giếng Lãng Quên, và bẻ bút họ đi bằng đôi bàn tay Sơ Hốt.
Nếu như tâm hồn của Al-Maary [10] , Hôme [11] , Virgil [12] , và Milton [13] đã biết rằng thi ca sẽ trở thành một đồ chơi của người giàu, thì chắc hẳn họ sẽ lìa bỏ cái thế giới mà sự việc này có thể xảy ra.
Tôi đau buồn mà nghe thấy cái ngôn ngữ của linh hồn lại bị lưỡi của kẻ ngu tối nói lắp chắp. Hồn tôi xẻ ra khi thấy rượu của nàng thơ lại chảy xuống ngòi bút của kẻ giả mạo.
Chẳng phải có mình tôi trong thung lũng Hiềm Oán. Hãy nói rằng tôi là một trong nhiều người trông thấy con nhái thổi phồng đặng bắt chước con trâu.
Thi ca, hỡi các bạn quí của tôi, là một hiện thân thiêng liêng của một nụ cười. Thi ca là một thần linh trú ngụ trong tâm hồn, mà thực phẩm là trái tim và rượu là tình thương cảm. Thi ca mà không tới trong hình thức này ắt là một nguỵ chúa cứu thế.
Ô thần linh của thi sĩ đang ngắm nhìn chúng tôi từ thiên đàng Vĩnh Cửu, chúng tôi quì trước tế đàn mà các người đã tô điểm bằng những hạt ngọc trai của tư tưởng và những viên ngọc thạch của tâm hồn người, bởi lẽ tiếng sắt thép khua vang, tiếng công xưởng huyên náo đang áp chế chúng tôi. Cho nên những bài thơ của chúng tôi nặng nề như xe lửa và khó chịu như tiếng còi máy hơi nước.
Và hỡi các anh, những nhà thi sĩ đích thực, hãy tha tội cho chúng tôi. Chúng tôi thuộc vào Tân Thế Giới, nơi mà con người chạy theo vật chất phàm tục; và thi ca ngày nay cũng chỉ là một hoá vật, chẳng phải một hơi thở của Vô Cùng.
Giữa nơi phế tích.
Mặt trăng giải xoã tấm khăn voile lên khắp các mảnh vườn trong Kinh Thành Mặt Trời [14] , và yên lặng bao trùm vạn vật. Các hoàng cung đổ nát trông đe doạ như những quái vật đang gầm ghè.
Vào giờ phút đó có hai bóng ma, giống như hơi nước bốc lên tự đáy hồ nước xanh biêng biếc, ngồi trên một cột trụ cẩm thạch ngắm nhìn cảnh vật lúc bấy giờ trông như một xứ thần diệu, ma ảo. Một bóng ma ngẩng đầu lên, và bằng một giọng khiến cho những tiếng vang phản hưởng lại oang oang, nói:
“Đây là những gì còn lại từ những đền đài ta đã xây cho khanh, hỡi người yêu dấu, và đây là phế tích của một hoàng cung ta đã dựng lên cho khanh thưởng ngoạn. Chẳng gì còn lại đặng nói với các dân tộc về cái vinh quang mà ta đã dâng hiến trọn đời, và về cái tráng lệ nó khiến ta đã khai thác kẻ yếu”.
“Hãy suy ngẫm, hỡi khanh yêu dấu, đến những nguyên lực đã đắc thắng kinh thành ta, đến Thời Gian đã coi thường nỗ lực của ta”.
“Sự Quên Lãng đã làm đắm chìm đế quốc mà ta đã xây dựng nên, và chẳng còn lại gì ngoại trừ một ít hạt tình yêu mà sắc đẹp của khanh đã sáng tạo, và những hiệu lực của sắc đẹp mà tình yêu của khanh đã mang lại sinh khí”.
“Ta đã dựng lên một ngôi đền ở Giêruxalem và những giáo sĩ đã thánh hoá nó, nhưng thời gian đã tiêu huỷ nó. Nhưng trong trái tim ta thì cái tế đài ta xây cho Tình Yêu đã được Thượng Đế làm phép và duy trì chống lại mọi lực huỷ hoại”.
“Loài người nói về ta: “Quả là một vị minh quân!” Các thiên thần nói về ta: “Quả là minh trí hắn tầm thường!” Nhưng thiên thần hân hoan khi ta tìm thấy khanh, hỡi người yêu dấu, và ca cho khanh nghe khúc ca Tình Ái và mong đợi; dẫu rằng loài người chẳng được nghe một tiếng nào trong khúc thành ca của ta…”.
“Những ngày tại ngôi đã ngăn không cho ta hiểu ý nghĩa của Tình Yêu và cái đẹp của cuộc đời, nhưng lúc ta trông thấy khanh, thì Tình Yêu thức giấc và đạp đổ những rào ngăn đó xuống, và ta than tiếc cuộc đời ta đã sống qua, coi mọi sự vật dưới ánh mặt trời thảy là hư ảo”.
“Khi Tình Yêu đã soi sáng cho ta, thì ta trở nên khiêm nhường trước những bộ lạc đã một hồi kiếp hãi vũ lực của ta, và khiêm nhường trước dân ta.
“Nhưng khi Thần chết tới nơi, nó chôn vùi vũ khí chết người của ta dưới đất và chở mối tình của ta lên Thượng Đế.”
Và rồi bóng ma kia nói:
“Giống như loài hoa lấy đời sống và hương thơm từ quả đất, linh hồn rút ra khôn ngoan và sức mạnh từ vật chất”.
Và hai bóng ma nhập làm một, rồi cùng bước đi, nói:
“Vĩnh Cửu chẳng giữ lại gì ngoài Tình Yêu, Bởi Tình Yêu giống như Vĩnh Cửu”.
Trước cửa đền.
Tôi làm thanh khiết đôi môi tôi bằng ngọn lửa thiêng, để nói về Tình Yêu, nhưng chẳng kiếm được lời.
Khi tôi đã hiểu được Tình Yêu, thì các lời nói tan thành hơi thở nhẹ, và khúc hát trong tim tôi thành niềm yên lặng sâu.
Ô những kẻ đã đến hỏi tôi về Tình Yêu, những kẻ mà tôi đã thuyết phục về những bí ẩn và thần kỳ của Tình Yêu, giờ đây bởi lẽ Tình Yêu đã bao trùm tôi trong màn khăn của nó, tôi tới hỏi các anh về hành trình và công dụng của Tình Yêu.
Ai có thể trả lời câu hỏi của tôi? Tôi hỏi về cái điều nó đang ở trong tôi; tôi muốn được trỏ cho biết về chính tôi.
Ai trong các anh có thể phát hiện cái bản thể của tôi cho chính bản thể tôi và linh hồn tôi cho linh hồn tôi?.
Hãy vì Tình Yêu mà bảo cho tôi biết ngọn lửa đó là gì mà đang cháy rực trong tim tôi và ngấu nghiến sức lực tôi và phá hoại ý chí tôi như thế?.
Những bàn tay ẩn giấu nào mềm mại và sần sùi đang bấu chặt lấy linh hồn tôi đó; rượu nào pha lẫn niềm vui đắng cay và niềm đau ngọt ngào đang tràn ngập tim tôi đó?.
Những đôi cánh nào đang bay lượn phía trên gối tôi trong giờ phút yên lặng của Tối Đêm, và làm cho tôi thức tỉnh, chờ ngóng điều gì không một ai hay biết đó?.
Vật nào là vật vô hình mà tôi đang đăm đăm ngó đó, là điều bất khả tri nào tôi đang suy ngẫm đó, là cảm giác nào chẳng thể cảm thấy đó?.
Trong những tiếng thở dài của tôi có nỗi buồn đau còn đẹp hơn tiếng vọng của tràng cười và ngây ngất hơn cả niềm vui.
Tại sao tôi đầu hàng một uy quyền vô danh đến giết tôi chết đi và làm tôi sống lại cho đến lúc Bình Minh nhô dậy và tràn ngập phòng tôi ánh sáng?.
Những bóng ma thức giấc rún rẩy giữa hàng mi khô héo của tôi, và những ảo hình mộng mị bay lượn phía trên tấm giường đá của tôi.
Điều nào đó mà ta gọi là Tình Yêu? Hãy nói tôi nghe, niềm bí mật nào ẩn giấu trong thiên thu mà thấm nhuần mọi ý thức đó?.
Ý thức nào đó vừa là nhân vừa là quả của mọi sự vật?.
Cơn chằn chọc nào đó thêu dệt từ Cuộc Đời và Sự Chết thành một giấc mơ, dị kỳ hơn Cuộc Đời và sâu sắc hơn Sự Chết?.
Hãy nói tôi nghe, ôi những người bạn của tôi, có ai mà không tỉnh dậy khỏi giấc ngủ mê của Cuộc Đời nếu Tình Yêu khẽ mơn man linh hồn ta?.
Có ai trong các anh mà chẳng từ biệt người cha và người mẹ mình khi có tiếng gọi của nàng trinh nữ mà trái tim mình đang yêu dấu?.
Có ai trong các anh mà chẳng dong buồm đi khắp đại dương, vượt khắp sa mạc, leo lên chót đỉnh núi cao để gặp người thiếu phụ mà tâm hồn ta đã hằng chọn lựa?.
Trái tim người trẻ tuổi nào mà sẽ chẳng theo đi tới tận cuối chân mây người thiếu nữ mà hơi thở thơm tho, giọng nói ngọt ngào, đôi bàn tay nõn nà kỳ diệu đã làm hồn mình đắm say ngây ngất?.
Kẻ nào sẽ chẳng đốt cháy tim mình như trầm hương trước một vị thần lắng nghe những lời ta cầu đảo và ban ân cho lời ta khẩn nguyện?.
Ngày hôm qua tôi đứng nơi cửa đền hỏi thăm những khách qua lại về điều bí ẩn và giá trị của Tình Yêu.
Và trước mặt tôi bước đi một ông già có khuôn mặt tiều tuỵ và buồn thảm; ông già thở dài, đoạn nói:
“Tình Yêu là sự suy nhược thiên nhiên mà người thứ nhất trên trần đã ban cấp cho ta”.
Nhưng một thanh niên cường tráng cãi lại:
“Tình Yêu nối liền hiện tại của ta với tương lai và quá khứ”.
Rồi một thiếu phụ với khuôn mặt bi đát thở dài và nói:
“Tình Yêu là một nọc độc chết người của loài rắn đen, chúng bò lên từ những hang động địa ngục. Chất độc trông tuồng tươi mát như sương mai và tâm hồn khao khát miết mê nốc uống; nhưng sau cơn say ngất đầu tiên kẻ uống nó sẽ lên cơn đau và chết một cái chết từ tốn.”
Rồi một thiếu nữ mỹ miều, má đỏ au, mỉm cười nói:
“Tình Yêu là rượu thắm do bầy tân nương Bình Minh dâng lên môi ta uống làm mạnh thêm những linh hồn đã mạnh và khiến chúng bay bổng được lên những vì sao.”
Phía sau nàng, một người đàn ông khoác áo dài đen, có râu hàm rậm, bước tới chau mày nói:
“Tình Yêu là sự ngu muội mù loà mà tuổi xanh bắt đầu và chấm dứt.”
Một kẻ khác, mỉm cười, dõng dạc:
“Tình Yêu là tri thức thần linh khiến cho loài người nhìn thấy được nhiềư như thần thánh.”
Rồi một người mù khua gậy bước tới nói:
“Tình Yêu là lớp sương mù che mắt đặng linh hồn khỏi biện biệt được niềm bí ẩn của hiện sinh, đặng trái tim chỉ nhìn thấy những bóng ma run rẩy của dục vọng giữa các vùng đồi nương, và chỉ nghe thấy những tiếng vọng của những tiếng kêu la từ các thung lũng không tiếng nói.”
Một chàng thanh niên, gảy cây đàn thất huyền, ca hát:
“Tình Yêu là một tia sáng ảo diệu từ đáy thẳm của tâm hồn đang bốc cháy và chiếu sáng vùng đất chung quanh. Nó khiến cho ta nhận thức được Cuộc Đời như một cơn mộng đẹp giữa một cơn thức tỉnh này và một cơn thức tỉnh khác.”
Và một lão nhân yếu đuối, lê lết đôi chân như hai miếng giẻ, nói giọng run run:
“Tình Yêu là sự ngơi nghỉ của thể xác trong cái yên tịnh của nấm mồ, sự bình an của linh hồn trong vực sâu của Vĩnh Cửu.”
Và một đứa bé năm tuổi bước đằng sau lão nói cười ha hả:
“Tình Yêu là cha và mẹ của em, và không ai hiểu được Tình Yêu ngoại trừ cha và mẹ em.”
Và cứ như thế, những người đi qua nói đến Tình Yêu như hình ảnh của chính những ước vọng, những dằn vặt của họ, và để nó lại còn nguyên là một niềm bí ẩn như lúc trước.
Rồi tôi nghe thấy một tiếng nói vọng từ trong đền:
“Cuộc đời được chia thành hai nửa, một nửa đã đóng băng, một nửa thì bừng cháy; nửa đang bốc cháy ấy là Tình Yêu vậy.”
Nghe thấy thế, tôi liền bước chân vào đền, quỳ xuống, hớn hở và nguyện cầu:
“Hãy biến tôi, Ô Chúa trên Trời, thành thực phẩm cho ngọn lửa đang bừng cháy…”
“Hãy biến tôi, Ô Thượng Đế, thành thức ăn cho ngọn lửa thiêng… Amen!”
Thuốc ma tuý và dao giải phẫu.
“Ông thái quá và cuồng tín đến cái độ điên loạn. Mặc dù ông là một nhà lý tưởng chủ nghĩa, nhưng mục tiêu văn chương của ông là đầu độc trí óc thanh niên… Giá mọi người mà theo lời khuyên nhủ của Gibran về hôn nhân, thì các sợi dây ràng buộc gia đình sẽ đứt, xã hội sẽ suy sụp, và thế giới sẽ trở thành một hoả ngục đầy quỉ thần và ác ma…”
“Lối hành văn của ông đẹp một cách quyến rũ, khiến làm khuếch đại mối nguy hại của kẻ thù nhân loại thâm căn này. Lời khuyên của chúng tôi cho dân chúng thuộc phần Núi được giáng phúc này (Núi Liban) là hãy bác bỏ những lời giảng dạy quỉ quyệt của kẻ vô chính phủ và bội giáo này và đốt hết sách của ông đi, để các chủ thuyết của ông khỏi dẫn người vô tội đi lầm đường. Chúng tôi đã đọc cuốn Uyên ương gãy cánh và thấy nó là thứ chất độc pha bằng mật ong.”
Đó là những điều người ta nói về tôi và họ nói đúng, vì quả thực tôi là một kẻ cuồng tín và tôi có khuynh hướng phá huỷ cũng như xây dựng. Trong trái tim tôi có niềm thù ghét những gì mà những kẻ gièm pha tôi thần thánh hoá, và có sự yêu quí những gì mà họ gạt bỏ. Và nếu tôi có thể làm bật gốc một số tập tục, tín điều, và truyền thống của mọi người, thì tôi sẽ làm như thế không ngại ngần. Khi họ nói sách của tôi là thuốc độc, thì họ đã nói sự thật về chính họ, bởi những điều tôi nói chính là thuốc độc cho họ. Nhưng họ đã nguỵ tạo khi họ nói rằng tôi đã pha mật ong vào thuốc độc, bởi tôi pha nguyên vẹn độc dược và đổ nó ra từ một ly trong suốt. Những kẻ gọi tôi là một nhà lý tưởng nằm yên ổn trên tầng mây chính là những kẻ quay mặt đi khỏi cái ly trong suốt mà họ gọi là độc dược đó, biết rằng dạ dầy họ chẳng thể tiêu hoá nó nổi.
Điều này nghe có vẻ tàn nhẫn, nhưng liệu tàn nhẫn chẳng còn hơn là sự mạo nhận quyến rũ ư?
Người Đông Phương [15] đòi hỏi rằng nhà văn phải giống như một con ong lúc nào cũng làm mật. Họ thèm uống mật và thích nó hơn mọi thức ăn khác.
Người Đông Phương muốn nhà thi sĩ của họ tự đốt cháy mình như trầm hương trước mặt những Sultan của họ. Những vầng trời phía Đông đã ngợp ngụa hương trầm ấy mà người Đông Phương vẫn chưa nư đã.
Họ đòi thế giới phải học lịch sử họ, khảo cứu những đồ cổ, tập tục và truyền thống họ, và nói được ngôn ngữ họ. Họ cũng muốn rằng những ai biết về họ đừng lập lại những lời nói của Triết gia Baidaba, Ben Rished, Ephraim Al-Syriani, và Giăng thánh Đamascus.
Nói ngắn đi, người Đông Phương muốn lấy quá khứ họ làm một biện minh và một tấm giường êm ả. Họ trốn tránh tư tưởng thực chứng và những lời thuyết giảng tích cực và bất cứ tri thức nào về thực tại có thể châm chích họ và làm họ bừng tỉnh khỏi giấc ngủ say sưa của họ.
Đông Phương hiện đang đau, nhưng nó đã trở thành chai đá về những tật nguyền của nó đến cái độ coi chúng là những phẩm chất thiên nhiên và còn quí phái là khác, những phẩm chất phân biệt họ ở trên những kẻ khác. Họ coi ai thiếu những phẩm chất như thế là bất túc và không xứng với cái tặng vật toàn thiện hảo của thần linh.
Có vô số những thày thuốc xã hội tại Đông Phương, và cũng có rất nhiều bệnh nhân của họ chưa khỏi nhưng trông như đỡ đau là vì họ chịu tác dụng của những chất ma tuý xã hội. Nhưng những an thần dược này chỉ che giấu đi triệu chứng mà thôi.
Những chất ma tuý đó được tinh luyện từ nhiều nguồn gốc nhưng nguồn gốc chính là cái triết lý Đông Phương về sự khuất phục Số Mệnh (hành vi của Thượng Đế). Một nguồn gốc nữa là sự hèn nhát của các thày thuốc xã hội sợ làm tăng cơn đau nếu cho uống thuốc mạnh.
Đây là một số thuốc an thần xã hội.
Một cặp vợ chồng, vì nhiều lý do, thấy rằng tình ghét đã đến thay thế tình yêu giữa hai người. Sau một thời kỳ lâu dài hành hạ nhau, họ chia ly. Ngay lập tức cha mẹ đôi bên gặp nhau giàn xếp thế nào cho đôi vợ chồng ly gián đó hoà giải với nhau. Mới đầu họ dùng những lời lừa dối người vợ, rồi họ lại dùng những mánh khoé gạt gẫm tương tự với người chồng. Cả hai người chẳng ai chịu thuyết phục, nhưng rồi vì xấu hổ mà hai người phải nguỵ hoà với nhau. Sự việc này chẳng thể kéo dài; chẳng bao lâu tác dụng của thuốc ma tuý xã hội tan đi, và cặp vợ chông đau khổ lại phải trở lại uống nhiều liều mạnh hơn nữa.
Hoặc một đoàn hay một đảng nổi lên chống lại một chính phủ độc tài và cổ suý các cuộc cải cách chính trị đặng giải thoát những kẻ bị áp chế khỏi xiềng xích. Họ phân phát những bản tuyên ngôn và tung ra những bài diễn văn nảy lửa và đăng tải những bài báo châm chọc. Nhưng một tháng sau, ta nghe thấy rằng chính phủ hoặc đã bỏ tù người lãnh đạo hoặc đã làm cho hắn im tiếng bằng cách ban cho hắn một địa vị quan trọng. Và thế là chẳng ai nghe thấy gì thêm nữa.
Hoặc một giáo phái nổi tiếng lên chống lại vị lãnh đạo tôn giáo của mình, lên án người này có những hành vi sai lầm và doạ đi theo một tôn giáo khác, con người hơn và không có những điều mê tín dị đoan. Nhưng rồi ta nghe thấy rằng những người khôn ngoan trong nước đã hoà giải kẻ chăn cừu và đàn cừu, bằng cách cho uống những chất ma tuý xã hội.
Khi một kẻ yếu than van là bị kẻ mạnh hà hiếp, thì người hàng xóm sẽ uỷ lạo hắn: “Thôi, thôi, nguôi đi, mắt kẻ nhìn cứng đầu sẽ chẳng chịu nổi sức lao của ngọn dáo đâu.”
Khi một dân làng nghi ngờ về thánh tính của mục sư, thì người ta sẽ bảo hắn: “Hãy chỉ nghe lời giảng đạo của ông ta và chớ kể gì đến những khuyết điểm hay hành vi sai lầm của ông ta.”
Khi một thầy giáo quở mắng một học trò, ông ta sẽ nói: “Những cái cớ mà một thiếu niên lười biếng bịa ra thường còn tệ hơn cả cái tội.”
Nếu một người con gái không chịu theo những tập tục của mẹ nàng, thì bà mẹ sẽ nói: “Con không bao giờ biết hơn mẹ; nó phải bước theo dấu chân của mẹ mình.”
Giá như một thanh niên xin một người giảng đạo soi sáng cho hắn về một nghi thức cổ xưa nào đó, thì người giảng đạo sẽ trách hắn: “Con ơi, kẻ nào mà không nhìn tôn giáo với đôi mắt của Đức Tin sẽ chẳng thấy gì ngoại trừ sương mờ và khói ảo.”
Ấy nên Đông Phương đang nằm trên một cái giường êm. Người ngủ tỉnh dậy chốc lát khi bị rệp đốt, rồi lại tiếp tục giấc ngủ ma tuý của mình.
Ai mà đến đánh thức hắn dậy sẽ bị coi là kẻ thô lỗ chẳng đi ngủ mà cũng chẳng để cho ai ngủ. Nhắm mắt lại một lần nữa, họ nói thầm vào tai linh hồn họ: “Hắn là mộ kẻ dị giáo đầu độc trí óc thanh niên và phá ngầm nền tảng của các thời đại.”
Có nhiều lần tôi đã hỏi linh hồn tôi: “Có phải tôi là một trong số người nổi loạn thức tỉnh bác bỏ chất ma tuý chăng?” nhưng hồn tôi trả lời với những lời bí hiểm. Nhưng khi nghe thấy tên tuổi và nguyên lý của tôi bị bêu riếu thì tôi đã đoán chắc rằng tôi đã thức tỉnh và có thể kể trong số những kẻ không đầu hàng những mộng mị ma tuý, rằng tôi thuộc vào những kẻ vững tim đang bước đi trên những con đường nhỏ hẹp và đầy gai nhọn, nơi muôn loài hoa nở, trong tiếng sói hú và chim họa mi hót.
Giá như thức tỉnh là một đức tính, ắt hẳn lòng khiêm tốn sẽ ngăn cản tôi nhận lấy nó. Ấy nhưng nó chẳng phải là một đức tính, mà là một thực tại, nó xuất hiện bất ngờ cho những kẻ nào có sức mạnh nhỏm lên. Khiêm tốn khi nói sự thật là giả đạo đức. Than ôi, ấy lại là điều người Đông Phương gọi là giáo dục.
Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu các “nhà tư tưởng” nói về tôi rằng: “Hắn là một con người quá độ chỉ nhìn đến cái khía cạnh nhớp nhúa của đời sống và không báo cáo gì hết ngoài điều sầu thảm và than van.”
Với những người đó tôi xin tuyên bố:
“Tôi xót xa cho cái lòng thèm trốn tránh thực tại suy nhược và đau khổ của người Đông Phương chúng ta.”
Tôi đau buồn rằng đất nước yêu dấu của chúng tôi không ca hát trong mừng vui mà là để làm yên đi những xao động của lòng sợ hãi.
Khi chiến đấu chống lại sự ác, thì quá độ là điều tốt; bởi kẻ nào ôn hoà khi loan báo sự thật thì chỉ trình bày có nửa sự thật. Là kẻ giấu đi nửa kia vì sợ hãi sự giận dữ của mọi người.
Tôi thù ghét trí óc của thây ma; mùi hôi thối của nó làm tôi buồn mửa. Tôi sẽ không dâng hiến nó kẹo ngọt và rượu nồng.
Ấy nhưng tôi sẽ vui lòng đánh đổi những lời la hét của tôi lấy tràng cười vui tươi, nói những lời tán tụng thay vì lên án, thay thế quá độ bằng ôn hoà, nếu như các người trỏ cho tôi thấy một người cai trị công chính, một luật gia thanh liêm, một vị lãnh đạo tôn giáo thực hành những điều mình thuyết giảng, một người chồng nhìn người vợ mình với cùng một cặp mắt khi hắn nhìn mình.
Nếu các người muốn cho tôi nhảy múa, gióng kèn đồng và đập trống thì hãy mời tôi tới một bữa tiệc cưới và dẫn tôi ra khỏi nghĩa trang.
Toàn thiện mỹ.
Anh hỏi tôi khi nào con người vươn tới toàn thiện mỹ. Hãy nghe tôi trả lời:
Con người vươn tới hoàn thiện mỹ khi hắn cảm thấy mình là một không gian vô hạn và một biển cả vô bờ,
Một ngọn lửa vô cùng, một ánh sáng chẳng thể dập tắt.
Một ngọn gió êm hay một cơn giông cuồng nộ, một vùng trời sấm sét hay một khoảng trời mưa rơi.
Một ngọn suối hát ca hay một dòng lạch than vãn, một đại thụ bừng hoa Mùa Xuân, hay một cây non trần truồng Mùa Thu,
Một ngọn núi dướn lên hay một cánh đồi thoải xuống,
Một cánh đồng phì nhiêu hay một bãi sa mạc khô cằn.
Khi cảm được thấy tất cả những điều đó, con người đã vượt được nửa đường tới thoàn thiện.
Muốn tới đích hắn sẽ phải nhận được rằng hắn là một đứa trẻ nít tuỳ thuộc vào người mẹ, một người cha có trách nhiệm với gia đình,
Một thanh niên ngơ ngác trong tình yêu,
Một ông lão vật lộn với quá khứ,
Một kẻ sùng bái trong đền, một kẻ tội phạm trong nhà lao.
Một học giả vùi trong mớ bản thảo,
Một linh hồn ngu tối vấp ngã giữa khoảng tối đen ban đêm và khoảng u ám ban ngày,
Một nữ tu đau khổ giữa những đoá hoa của lòng tin và đám cỏ gai của niềm cô độc,
Một gái giang hồ bị cấu xé giữa những nanh nhọn của lòng yếu đuối và vuốt sắc của nhu cầu,
Một người nghèo bị sập bẫy giữa chua xót và khuất phục,
Một người giàu giữa lòng tham và lương tâm,
Một nhà thơ giữa màn sương mù sẩm tối và những tia sáng bình minh.
Anh thấy không, ai có thể kinh nghiệm và hiểu thấu sự vật này sẽ vươn tới được toàn thiện mỹ và trở thành một bóng hình của Bóng Hình Thượng Đế.
Hôm qua, hôm nay, và ngày mai.
Tôi nói với bạn tôi,
“Thấy không nàng đang tựa vào tay hắn?.
Hôm qua nàng đã tựa vào tay tôi.”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ tựa vào tay tôi.”.
Và tôi nói,
“Thấy không nàng đang ngồi bên hắn?.
Và hôm qua nàng đã ngồi bên tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ ngồi bên tôi”.
Và tôi nói,
“Thấy không nàng đang uống từ ly hắn?
Và hôm qua nàng đã uống từ ly tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ uống từ ly tôi”.
Và tôi nói,
“Hãy ngó xem đôi mắt nàng liếc nhìn hắn đầy ân ái!
Và cũng ngần ấy ân ái, hôm qua nàng đã liếc nhìn tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ liếc nhìn tôi như thế”.
Và tôi nói,
“Hãy lắng nghe nàng đang thì thầm những khúc ca tình tứ bên tai hắn.
Và hôm qua nàng đã thì thầm cũng những khúc ca đó bên tai tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ thì thầm bên tai tôi”.
Và tôi nói,
“Hãy ngó xem nàng đang ôm hôn hắn;
Và hôm qua nàng đã ôm hôn tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ nằm trong tay tôi”.
Và tôi nói:
“Ôi người con gái dị kỳ!”.
Và chàng nói:
“Nàng là Cuộc Đời đó vậy.”
CHÚ THÍCH.
[1]2 1:14. Dịch theo bản tiếng Anh (“Kinh James” Holy Bible, Oxford University Press.) Tuy nhiên, so sánh bản dịch mới đây của L.M. Trần Đức Huân (Ra Khơi, Thánh Kinh Thiện Bản, Saigon, 1970: “Ta đã nhìn rõ mọi truyện xảy ra dưới mặt trời: kìa thảy đều hư vô như gió thổi.” (L.N.D.).
[2]Một đêm đặc biệt trong Mùa Chay Hồi Giáo; đêm đó người theo đạo tin rằng Thượng Đế sẽ thoả mãn mọi nguyện cầu của kẻ sùng đạo. (L.N.D.).
[3]Một ngôi thành cổ ở Trung Xyri, nay là làng Tamor, phía Đông Bắc Damas, (Thủ đô Xyri) tục truyền là do Salomon xây lên. Đã một thời là một thành phố rất mạnh dưới triều nữ hoàng Zénobie; về sau bị quân La Mã chinh phục năm 272 và bị hoàng đế Aurélien phá huỷ. Ở đây có nhiều phế tích quan trọng. (L.N.D).
[4]Isaie hay Isaich, người thứ nhất trong bốn nhà Đại Tiên Tri của thế kỷ thứ VIII T.T.C., tác giả cuốn Thánh Kinh mang cùng tên, nổi tiếng về chất thơ của nó. (L.N.D.).
[5]Thánh Jean l’Evangéliste, một trong mười hai sứ đồ, môn đồ yêu quí của Giê-xu, tác giả tập Mật Khải và một trong bốn Kinh Tân Ước. (L.N.D.).
[6]Dante Alighieri (1265-1321), đại thi hào Ý-đại-lợi, tác giả kiệt phẩm Divina Comedia, (L.N.D.).
[7]Lúc bài này được viết, thì Liban và Xyri vẫn còn là một nước gọi là Xyri.
[8]Chữ Al-Mutanabbi có nghĩa là người tiên đoán. Ông là một nhà thơ Ả-rập nổi tiếng, có nhiều thơ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. (A.R.Ferris).
[9]Một thi sĩ và triết gia Ả-rập lừng danh (A.R.F).
[10]Một thi sĩ A-rập hồi thế kỷ thứ chín, bị mù lúc mới lên bốn, được coi là một thiên tài. (A.R.F).
[11]Homer, đại thi hào anh hùng ca Hy-lạp hồI thế kỷ thứ VIII trước T.C., tác giả Iliad và Ôđyxê. (L.N.D.).
[12]Virgil, đại thi hào La-mã hồi thế kỷ thứ I trước T.C., tác giả thiên anh hùng ca Ênêid (L.N.D.).
[13]Milton, đại hào Anh hồi thế kỷ thứ XVII, tác giả tập Thiên Đàng Đã Mất. (L.N.D.).
[14]Thành Baalbik, đã hoang phế. (L.N.D.).
[15]6 Ở đây trỏ người các nước phía Đông và Đông-Nam Địa Trung Hải. (L.N.D.)
Tác giả: Kahlil Gibran
Dưới ánh mặt trời
Mục lục , Nhà thi sĩ Baalbeck , Trong đêm tối , Dưới ánh mặt trời , Câu chuyện của một người bạn ,
Ta đã nhìn thấy mọi sự việc xảy ra dưới ánh mặt trời;
và kìa, thảy đều là hư ảo và khổ não.
Các giáo sĩ [1].
Ô linh hồn Salomon đang bay phảng phất trên miền thinh không; người, ném sang bên bộ trang phục rách tả tơi của vật chất, đã để lại đằng sau người những lời nói đó, xuất sinh từ yếu đuối và khổ đau, những lời nói làm ngã lòng những kẻ còn bị giam hãm trong xác thể.
Nhưng người biết rằng có một ý nghĩa trên đời này mà Tử Thần không che giấu. Nhưng làm cách nào mà nhân loại có thể vươn tới một kiến thức nó chỉ có thể đến chừng nào linh hồn được giải thoát khỏi những trói buộc của trần gian?
Giờ đây người nhận ra rằng cuộc đời chẳng là khổ não; rằng những sự việc xảy ra dưới ánh mặt trời chẳng phải thảy là hư ảo; rằng bằng cách nào đó mọi vật xưa và nay vẫn bước về và sẽ vẫn bước về hướng Chân Lý. Chúng tôi những sinh vật thống khổ đã bám mình vào những lời dạy dưới trần của người như những lời nói thông thái tuyệt đời. Nhưng chúng là những cánh cửa sổ làm tối mù trí tuệ và tiêu ma hy vọng.
Giờ đây người hiểu rõ rằng ngu muội, độc ác, và chuyên chế đều có nguyên do của chúng; và rằng Sự Đẹp là điều phát lộ của trí năng, sản phẩm của đức tính và thành quả của công lý.
Giờ đây người biết rằng nỗi thống khổ và cảnh nghèo nàn làm thanh khiết trái tim con người; dù rằng trí óc khiếp nhược của ta chẳng thấy gì có giá trị trong vũ trụ ngoại trừ an lạc và hạnh phúc.
Giờ đây người thấy rằng tinh thần vẫn tiến về hướng ánh sáng bất chấp những gian khổ trên trần. Ấy nhưng chúng tôi nhắc lại những lời nói của người dạy rằng con người chỉ là một đồ chơi trong bàn tay của bất tri.
Người đã hối tiếc việc người cấy trong tim chúng tôi lòng khiếp nhược đối với kiếp sống trong thế giới và lòng ngờ vực với kiếp sống mai sau. Ấy nhưng chúng tôi vẫn còn lắng nghe những lời dạy trên trần của người.
Ô linh hồn Salomon đang ngụ nơi Vĩnh Cửu, hãy hiện về với những kẻ yêu trí năng và dạy cho họ đừng đi con đường tà giáo và khốn cùng. May ra đó sẽ là một cách chuộc lại một lỗi lầm không cố ý.
Một thoáng nhìn về tương lai.
Từ phía sau bức tường Hiện Tại tôi nghe thấy tiếng những khúc thánh ca nhân loại. Tôi nghe thấy tiếng chuông đổ báo hiệu lúc bắt đầu buổi cầu nguyện trong đền Sự Đẹp. Chuông đền được đúc bằng khuôn xúc cảm và treo đu đưa phía trên thánh đài – trái tim loài người.
Từ phía sau Tương Lai tôi trông thấy tầng tầng lớp lớp đang sùng bái trong lòng Thiên Nhiên, mặt hướng về Đông Phương và chờ đợi ánh sáng ban mai ngập lụt – ban mai của Chân Lý.
Tôi trông thấy thành phố trong hoang phế và chẳng còn lại đặng nói với con người về sự thất bại của Ngu Tối và vinh quang của Ánh Sáng.
Tôi trông thấy những bậc lão niên ngồi dưới bóng cây bá hương và thuỳ liễu, bao vây bởi các thanh niên đang lắng nghe họ kể truyện cổ tích thời xưa.
Tôi trông thấy các thanh niên đang gảy đàn và thổi sáo và các thiếu nữ đang xoã tóc nhảy múa dưới bóng cây nhài.
Tôi trông thấy các nông phu đang gặt lúa, và vợ họ đang đi lượm những bó lúa thơm và véo von những khúc ca vui sướng.
Tôi thấy một thiếu phụ đang vấn một vòng hoa huệ trắng quanh đầu và một vòng đai lá xanh quanh lưng.
Tôi thấy Tình Bằng Hữu được khăng khít thêm giữa con người và tất cả các sinh vật, và các loài chim và các loài bướm, tin tưởng và bình an, đang bay về những dòng suối.
Tôi không thấy cảnh nghèo khổ; mà cũng chẳng hề gặp cảnh giàu thái quá. Tôi thấy tình huynh đệ và bình đẳng đắc thắng giữa loài người.
Tôi không thấy một người thày thuốc nào hết, bởi lẽ mỗi người đã đều có phương tiện và kiến thức tự chữa cho mình khỏi bệnh.
Tôi không thấy mục sư, bởi lẽ thiện tâm đã trở thành thày Đại Tư Tế. Tôi cũng chẳng hề trông thấy luật sư, bởi lẽ Thiên Nhiên đã đến thay thế các pháp đình, và các điều ước giao hảo và đồng hành đang có hiệu lực.
Tôi thấy rằng con người đã biết được mình là nền tảng của sáng tạo, rằng hắn đã tự nâng mình lên khỏi sự nhỏ nhen và hèn hạ và đã tháo gỡ ra tấm màn u mê khỏi đôi mắt linh hồn; linh hồn này giờ đây đọc biết được những gì các đám mây viết trên nền trời và những gì ngọn gió thoảng vẽ trên mặt nước; giờ đây hiểu được ý nghĩa hơi thở của loài hoa và những nhịp điệu của loài hoạ mi.
Từ phía sau bức tường Hiện Tại, trên sân khấu những kỷ nguyên sắp tới, tôi trông thấy Sự Đẹp là tân lang và tinh thần là tân nương, và Cuộc Đời là Đêm lễ Kedre. [2].
Nữ thần mộng tưởng.
Và sau một cuộc hành trình mệt nhọc tôi tới phế tích thành Palmyre [3] . Nơi đây, kiệt sức, tôi ngã gục trên thảm cỏ mọc giữa những hàng cột trụ mà các thời đại đã làm đổ vỡ và san bằng. Chúng trông giống như những mảnh vụn do các đạo quân xâm chiếm bỏ lại.
Đêm rơi, và khi màn yên lặng đã phủ kín vạn vật, tôi tỉnh dậy và ngửi thấy một mùi hương lạ trong không khí. Mùi hương thơm ngát như trầm nhưng lại làm ngây ngất như rượu nho. Linh hồn tôi há miệng hớp lấy thứ rượu tiên thanh khiết này. Thế rồi một bàn tay ẩn giấu nào dường như đè nặng lên các giác quan tôi và mí mắt tôi bỗng thấy nặng nề, trong khi tinh thần tôi cảm thấy được giải thoát khỏi mọi xiềng xích.
Và rồi mặt đất chuyển động dưới chân tôi và phía trên tôi bầu trời rung chuyển; ngay lúc đó tôi bỗng nhảy lên cao dường như là được một thần lực nào nhấc bổng lên. Và rồi tôi thấy tôi ở trong một đồng cỏ, một đồng cỏ mà chưa một con người nào đã có thể tưởng tượng ra nổi. Tôi thấy tôi đứng giữa một bầy thiếu nữ đồng trinh chẳng hề bận lấy một mảnh xiêm y nào khác ngoài cái vẻ đẹp mà Thượng Đế đã ban cho họ. Bầy trinh nữ bước quanh tôi, nhưng chân họ không chạm đến đất. Họ xướng lên những khúc ca biểu tỏ những giấc mộng tình yêu. Mỗi thiếu nữ gẩy một cây đàn làm bằng ngà và có căng dây bằng vàng.
Tôi bước tới một khoảng trống ở giữa, trên đó có một ngai vàng nạm đá quí và được soi sáng bởi những tia cầu vồng Các trinh nữ đứng hai bên, cất cao tiếng hát và hướng mặt về phía thoảng lại hương trầm và hương mộc dược. Mọi loài cây đều đang nở hoa, và giữa các cành cây nặng trĩu những đoá hoa thì một nữ hoàng uy nghi bước về phía ngai vàng. Khi nữ hoàng đã ngồi xuống, thì một bầy chim bồ câu, trắng như tuyết, bay sà xuống và đậu chung quanh chân Nàng và tạo thành một hình bán nguyệt, trong khi đó các trinh nữ hát những khúc thánh ca vinh tôn. Tôi đứng đó ngắm nhìn những gì mà chưa mắt con người nào hề được nhìn, lắng nghe những gì mà chưa tai con người nào hề được nghe.
Rồi Nữ Hoàng giơ tay ra hiệu, và mọi vật im phăng phắc. Và bằng một giọng khiến cho hồn ta rung động như các dây đàn rung dưới ngón tay kẻ chơi đàn, Nàng nói:
“Ta đã cho vời người đến, hỡi con người, bởi ta là Nữ Thần Mộng Tưởng. Ta đã ban cho ngươi cái vinh dự đứng trước mặt ta, Nữ Hoàng của xứ mộng. Hãy lắng nghe mệnh lệnh của ta, bởi ta chỉ định cho ngươi về thuyết giảng cho toàn thể giống người: hãy giải nghĩa cho loài người rằng cõi mộng là một đám cưới, ở cửa có một vị thần hộ pháp đứng canh giữ. Không một ai được phép bước vô trừ khi có bận một bộ quần áo cưới. Hãy bảo cho họ biết rằng cõi mộng này là một thiên đàng mà kẻ đứng canh giữ là thiên thần Tình Yêu, và không một con người nào được quyền ngó đến ngoại trừ kẻ nào trên trán có ghi dấu hiệu của Tình Yêu. Hãy tả cho họ nghe những cánh đồng mỹ miều nơi đây mà những dòng suối chảy mật hoa và rượu tiên, mà chim muông bay giong lả trên các tầng trời và ca hót với các thiên thần. Hãy tả cho họ nghe mùi thương thơm hoa cỏ xứ mộng và bảo cho họ biết rằng chỉ có Người Con Xứ Mộng mới được phép dẫm chân trên thảm cỏ êm đềm đó”.
“Hãy nói rằng ta đã ban cho con người ly rượu hoan lạc; nhưng con người, trong cơn mê muội, đã đổ nó đi. Và rồi các thiên thần của Bóng Tối đã rót đầy ly bằng thứ rượu Thảm Sầu và con người đã uống phải và đã say ngất ngây.”
“Hãy nói rằng chẳng một ai có thể chơi cây đàn thất huyền Đời Sống cho nổi trừ khi các ngón tay hắn đã được tay ta ban phép lành và đôi mắt hắn đã được ngai vàng ta thánh hoá”.
“I-zai [4] đã sáng tác những lời nói thông thái như một chuỗi vòng đeo cổ làm bằng đá quí treo trên dây vàng của tình yêu ta. Thánh Giăng [5] đã thuật lại sự thấy Đức Chúa Trời dùm cho ta. Và Đante [6] chẳng thể khám phá nổi nơi ẩn trú của các linh hồn ngoại trừ do ta hướng dẫn. Ta là sự ám dụ ôm lấy thực tại, và thực tại phát lộ cái duy nhất xác nhận hành vi của các thánh thần”.
“Quả thật ta nói với người rằng tư tưởng có một nơi trú ngụ cao cả hơn là thế giới hữu hình, và các tầng trời của nó chẳng được mây mù dục vọng che phủ. Trí tưởng tượng tìm ra một con đường đưa tới thiên quốc, và nơi đó con người có thể ngó thấy những gì sẽ xảy đến sau khi linh hồn được giải thoát khỏi thế giới vật chất”.
Và rồi Nữ Hoàng Mộng Tưởng kéo tôi lại phía Nàng bằng cái nhìn đầy thần diệu, ma ảo, và gắn một cánh hôn lên đôi môi đang cháy bỏng của tôi, và nói:
“Hãy bảo với họ rằng ai không sống trong xứ mộng là nô lệ của tháng ngày”.
Tới lúc đó thì tiếng bầy trinh nữ lại cất lên cao và cột khỏi trầm hương bốc lên cuồn cuộn. Và rồi mặt đất lại bắt đầu chuyển động và bầu trời lại bắt đầu rung chuyển; và bỗng nhiên tôi lại thấy tôi đang nằm giữa đồng phế tích buồn thảm của thành Palmyre.
Bình Minh mỉm cười đã ló rạng, và giữa lưỡi tôi và đôi môi tôi còn lại những lời nói này: “Ai không sống trong xứ mộng là nô lệ của tháng ngày.”
Lịch sử và dân tộc.
Bên một dòng suối nhỏ lượn quanh những tảng đá dưới chân núi Liban, một cô bé chăn cừu ngồi giữa một bầy cừu gầy ốm đang gặm chút cỏ còn lại đã khô cằn. Nàng nhìn về phía hoàng hôn xa tắp như thể là tương lai đang diễn qua trước mắt nàng. Những giọt lệ đã đeo ngọc trên đôi mắt nàng như những giọt sương tô điểm những cánh hoa. Niềm sầu thảm đã khiến môi nàng hé mở để nó có thể xuyên vào và xâm chiếm trái tim đang thở dài phiền muộn của nàng.
Sau lúc mặt trời lặn, khi những cánh đồi non đã thu mình trong bóng tối, thì Lịch Sử hiện ra trước người trinh nữ. Đó là một cụ già râu tóc bạc phơ như tuyết xoã xuống ngực và trên đôi vai, và bên tay mặt cầm một lưỡi liềm sắc bén. Bằng một giọng như biển gầm, cụ già nói:
“Cầu chúc Xyri được an bình [7] ”.
Nàng trinh nữ đứng lên, run sợ mà hỏi rằng:
“Lão trượng cầu chúc gì cho con, hỡi Lịch Sử? Và rồi nàng trỏ bầy cừu của nàng và nói tiếp: Đây là tất cả những gì còn lại từ một bầy cừu mạnh khoẻ đã một hồi làm đông đảo khu thung lũng này. Đây là tất cả những gì mà lòng tham lam của Lão Trượng đã bỏ lại cho con. Lão Trượng bây giờ còn tới đây để thoả mãn lòng tham một lần nữa hay sao đây?”.
“Những cánh đồng đã có một hồi rất là phì nhiêu này đã bị những bàn chân của Người dẫm nát thành bụi khô cằn. Đàn bò của con có hồi đã gặm cỏ hoa và sản xuất nhiều sữa béo tốt, bây giờ chúng chỉ nhấm được cỏ gai, cho nên chúng thành gầy còm và khô héo”.
“Hãy hãi sợ thượng Đế, ô Lịch Sử, và đứng tác hại nữa! Cứ chỉ nhìn thấy bóng dáng Lão Trượng cũng đã khiến cho con ghê tởm đời sống, và sự bạo tàn của lưỡi liềm Lão Trượng đã khiến cho con yêu mến Tử Thần”.
“Hãy bỏ mặc con trong nỗi cô đơn để con uống cạn ly đau khổ - thứ rượu nho ngon nhất. Hãy đi đi, hỡi Lịch Sử, ra hội cưới của Cuộc Đời. Nơi đây, xin Lão Trượng hãy để cho con than vãn niềm cô quạnh tiêu điều mà Lão Trượng đã sữa soạn cho con”.
Giấu đi lưỡi liềm dưới vạt áo, Lịch Sử ngó nhìn nàng như một người cha yêu quí nhìn đứa con mình, và nói:
“Ô Xyri, những gì ta lấy lại của ngươi chính là những tặng vật của ta đó. Nên biết rằng các dân tộc anh em của ngươi có quyền được hưởng một phần vinh quang của ngươi. Ta phải ban cho họ những gì ta đã ban cho ngươi. Niềm đau của ngươi cũng giống như niềm đau của Ai Cập, Ba-tư, và Hy-Lạp, bởi mỗi nước này đều cũng đang có một bầy cừu ốm yếu và một đồng cỏ khô cằn. Ô Xyri, điều mà ngươi gọi là băng hoại chỉ là một giấc ngủ cần thiết đặng cho ngươi lấy lại sức lực mà thôi. Đoá hoa chẳng thể quay trở lại cuộc đời ngoại trừ qua sự chết, và tình yêu chẳng thể trưởng thành ngoại trừ sau lúc chia ly”.
Cụ già bước đến gần nàng trinh nữ, chìa bàn tay ra và nói:
“Hãy bắt tay ta, Ô Người Con Gái của những nhà Tiên Tri”.
Và nàng nắm lấy tay cụ già và ngó cụ đằng sau tấm màn nước mắt, và nói:
“Vĩnh biệt, Lịch Sử, xin vĩnh biệt!”
Và cụ già đáp:
“Cho đến khi nào ta gặp lại nhau, Xyri, cho đến khi nào ta gặp lại nhau”.
Và cụ già vụt biến đi mất như một tia chớp xoẹt, và cô gái chăn cừu cất tiếng gọi bầy cừu của nàng và bắt đầu lên đường trở về, trong lòng thầm nhủ: “Liệu sẽ còn một cuộc gặp gỡ nữa hay sao?”
Loài thú không tiếng nói.
Trong cái nhìn của loài thú không tiếng nói có một câu chuyện.
mà chỉ linh hồn triết nhân mới có thể thực sự hiểu biết.
(Một thi sĩ Ấn Độ)
Trong giờ phút hoàng hôn của một ngày đẹp, khi mà mộng tưởng đã chế ngự hồn tôi, tôi bước ra ngoài thành phố và đứng nán lại đằng trước một căn nhà bỏ trống đã sụp đổ, chỉ còn lại một đống phế tàn.
..Trong đống phế tàn tôi trong thấy một con chó nằm trên đống rác rưởi và tro tàn. Lông nó mang đầy vết thương, và bệnh tật hoành hành cơ thể yếu ốm của nó. Thỉnh thoảng ngó nhìn ánh mặt trời đang dần khuất, đôi mắt sầu thảm của nó biểu lộ lòng khiêm nhường, tuyệt vọng, và đau khổ.
Tôi chậm rãi bước về phía nó, ước ao rằng tôi biết nói tiếng loài vật đặng tôi có thể an ủi nó với lòng thương xót của tôi. Nhưng sự tôi đến gần chỉ làm cho nó khiếp đảm, và nó cố đứng dậy trên bốn chân tê liệt của nó.
Ngã khuỵu xuống, nó ném cho tôi một cái nhìn vừa giận dữ vừa van lơn. Trong cái nhìn đó tôi thấy có nhiều lời nói sáng suốt hơn tiếng nói người đàn ông và cảm động hơn những giọt lệ của một người đàn bà. Đây là những gì tôi hiểu nó muốn nói:
“Hỡi người, tôi đã chịu đau đớn vì bệnh tật do lòng độc ác và sự hành hạ của các người gây ra”.
“Tôi đã chạy trốn khỏi cái bàn chân gây thương tích của các người và ẩn trốn nơi đây, vì cát bụi và tro tàn còn êm đềm hơn là tim người, vì những phế tích còn ít buồn thảm hơn lòng người. Hãy đi khỏi nơi đây, hỡi khách lạ từ thế giới bất công và bất trị”.
“Tôi là người của Ađam rất mực trung thành và tín cẩn. Tôi là người bạn đường chung thuỷ của con người, tôi canh giữ con người ngày, đêm. Tôi đau buồn trong lúc con người vắng mặt và hớn hở đón mừng khi hắn trở về. Tôi hài lòng với những mảnh vụn bánh rơi rớt trừ trên bàn của hắn, và vui sướng với những mẩu xương mà răng hắn đã xé ra. Nhưng lúc tôi về già và đau ốm, thì con người đuổi tôi khỏi nhà và bỏ mặc tôi cho lũ trẻ ngõ hẻm không thương xót”.
“Hỡi người con của Ađam, tôi thấy sự tương đồng giữa tôi và kẻ đồng loại của người khi mà tuổi già đã làm tàn phế họ. Có những người lính trong lúc thanh xuân đã chiến đấu cho tổ quốc họ, và về sau trở về xới đất. Nhưng giờ đây khi mùa đông trong đời họ đã tới và họ không còn hữu dụng nữa thì họ bị gạt sang một bên”.
“Tôi cũng thấy sự giống nhau giữa phận của tôi với phận của một người đàn bà mà, trong những ngày đào tơ mơn mởn, đã làm rộn rã trái tim một người thanh niên; rồi lúc là người mẹ đã tận tuỵ hy sinh cả cuộc đời cho con cái. Nhưng giờ đây, trở về già, nàng đã bị lãng quên và tránh xa. Ôi, người con của Ađam, ngươi áp chế làm sao, ngươi độc ác làm sao!”.
Con vật không tiếng nói đã nói như thế, và đó là những điều tim tôi đã nghe hiểu.
Thi sĩ và thi ca.
Nếu các bạn thi sĩ của tôi đã tưởng rằng những chuỗi ngọc thơ mà họ sáng tác, và những khổ thơ mà vần điệu họ đã làm cho mạnh lên và nối lại với nhau, một ngày nào đó sẽ hoá thành những dây cương giữ lại thi tài của họ, thì chắc họ đã xé bản thảo của họ đi rồi.
Nếu Al-Mutanabbi [8] , nhà tiên tri, đã tiên tri, và nếu Al-Farid [9] , người đoán trước tương lai, đã đoán trước thấy rằng những gì họ đã viết sẽ trở thành một nguồn suối cạn và một hướng đạo bó buộc cho các thi sĩ ngày nay chúng ta, thì chắc họ đã đổ mực của họ xuống giếng Lãng Quên, và bẻ bút họ đi bằng đôi bàn tay Sơ Hốt.
Nếu như tâm hồn của Al-Maary [10] , Hôme [11] , Virgil [12] , và Milton [13] đã biết rằng thi ca sẽ trở thành một đồ chơi của người giàu, thì chắc hẳn họ sẽ lìa bỏ cái thế giới mà sự việc này có thể xảy ra.
Tôi đau buồn mà nghe thấy cái ngôn ngữ của linh hồn lại bị lưỡi của kẻ ngu tối nói lắp chắp. Hồn tôi xẻ ra khi thấy rượu của nàng thơ lại chảy xuống ngòi bút của kẻ giả mạo.
Chẳng phải có mình tôi trong thung lũng Hiềm Oán. Hãy nói rằng tôi là một trong nhiều người trông thấy con nhái thổi phồng đặng bắt chước con trâu.
Thi ca, hỡi các bạn quí của tôi, là một hiện thân thiêng liêng của một nụ cười. Thi ca là một thần linh trú ngụ trong tâm hồn, mà thực phẩm là trái tim và rượu là tình thương cảm. Thi ca mà không tới trong hình thức này ắt là một nguỵ chúa cứu thế.
Ô thần linh của thi sĩ đang ngắm nhìn chúng tôi từ thiên đàng Vĩnh Cửu, chúng tôi quì trước tế đàn mà các người đã tô điểm bằng những hạt ngọc trai của tư tưởng và những viên ngọc thạch của tâm hồn người, bởi lẽ tiếng sắt thép khua vang, tiếng công xưởng huyên náo đang áp chế chúng tôi. Cho nên những bài thơ của chúng tôi nặng nề như xe lửa và khó chịu như tiếng còi máy hơi nước.
Và hỡi các anh, những nhà thi sĩ đích thực, hãy tha tội cho chúng tôi. Chúng tôi thuộc vào Tân Thế Giới, nơi mà con người chạy theo vật chất phàm tục; và thi ca ngày nay cũng chỉ là một hoá vật, chẳng phải một hơi thở của Vô Cùng.
Giữa nơi phế tích.
Mặt trăng giải xoã tấm khăn voile lên khắp các mảnh vườn trong Kinh Thành Mặt Trời [14] , và yên lặng bao trùm vạn vật. Các hoàng cung đổ nát trông đe doạ như những quái vật đang gầm ghè.
Vào giờ phút đó có hai bóng ma, giống như hơi nước bốc lên tự đáy hồ nước xanh biêng biếc, ngồi trên một cột trụ cẩm thạch ngắm nhìn cảnh vật lúc bấy giờ trông như một xứ thần diệu, ma ảo. Một bóng ma ngẩng đầu lên, và bằng một giọng khiến cho những tiếng vang phản hưởng lại oang oang, nói:
“Đây là những gì còn lại từ những đền đài ta đã xây cho khanh, hỡi người yêu dấu, và đây là phế tích của một hoàng cung ta đã dựng lên cho khanh thưởng ngoạn. Chẳng gì còn lại đặng nói với các dân tộc về cái vinh quang mà ta đã dâng hiến trọn đời, và về cái tráng lệ nó khiến ta đã khai thác kẻ yếu”.
“Hãy suy ngẫm, hỡi khanh yêu dấu, đến những nguyên lực đã đắc thắng kinh thành ta, đến Thời Gian đã coi thường nỗ lực của ta”.
“Sự Quên Lãng đã làm đắm chìm đế quốc mà ta đã xây dựng nên, và chẳng còn lại gì ngoại trừ một ít hạt tình yêu mà sắc đẹp của khanh đã sáng tạo, và những hiệu lực của sắc đẹp mà tình yêu của khanh đã mang lại sinh khí”.
“Ta đã dựng lên một ngôi đền ở Giêruxalem và những giáo sĩ đã thánh hoá nó, nhưng thời gian đã tiêu huỷ nó. Nhưng trong trái tim ta thì cái tế đài ta xây cho Tình Yêu đã được Thượng Đế làm phép và duy trì chống lại mọi lực huỷ hoại”.
“Loài người nói về ta: “Quả là một vị minh quân!” Các thiên thần nói về ta: “Quả là minh trí hắn tầm thường!” Nhưng thiên thần hân hoan khi ta tìm thấy khanh, hỡi người yêu dấu, và ca cho khanh nghe khúc ca Tình Ái và mong đợi; dẫu rằng loài người chẳng được nghe một tiếng nào trong khúc thành ca của ta…”.
“Những ngày tại ngôi đã ngăn không cho ta hiểu ý nghĩa của Tình Yêu và cái đẹp của cuộc đời, nhưng lúc ta trông thấy khanh, thì Tình Yêu thức giấc và đạp đổ những rào ngăn đó xuống, và ta than tiếc cuộc đời ta đã sống qua, coi mọi sự vật dưới ánh mặt trời thảy là hư ảo”.
“Khi Tình Yêu đã soi sáng cho ta, thì ta trở nên khiêm nhường trước những bộ lạc đã một hồi kiếp hãi vũ lực của ta, và khiêm nhường trước dân ta.
“Nhưng khi Thần chết tới nơi, nó chôn vùi vũ khí chết người của ta dưới đất và chở mối tình của ta lên Thượng Đế.”
Và rồi bóng ma kia nói:
“Giống như loài hoa lấy đời sống và hương thơm từ quả đất, linh hồn rút ra khôn ngoan và sức mạnh từ vật chất”.
Và hai bóng ma nhập làm một, rồi cùng bước đi, nói:
“Vĩnh Cửu chẳng giữ lại gì ngoài Tình Yêu, Bởi Tình Yêu giống như Vĩnh Cửu”.
Trước cửa đền.
Tôi làm thanh khiết đôi môi tôi bằng ngọn lửa thiêng, để nói về Tình Yêu, nhưng chẳng kiếm được lời.
Khi tôi đã hiểu được Tình Yêu, thì các lời nói tan thành hơi thở nhẹ, và khúc hát trong tim tôi thành niềm yên lặng sâu.
Ô những kẻ đã đến hỏi tôi về Tình Yêu, những kẻ mà tôi đã thuyết phục về những bí ẩn và thần kỳ của Tình Yêu, giờ đây bởi lẽ Tình Yêu đã bao trùm tôi trong màn khăn của nó, tôi tới hỏi các anh về hành trình và công dụng của Tình Yêu.
Ai có thể trả lời câu hỏi của tôi? Tôi hỏi về cái điều nó đang ở trong tôi; tôi muốn được trỏ cho biết về chính tôi.
Ai trong các anh có thể phát hiện cái bản thể của tôi cho chính bản thể tôi và linh hồn tôi cho linh hồn tôi?.
Hãy vì Tình Yêu mà bảo cho tôi biết ngọn lửa đó là gì mà đang cháy rực trong tim tôi và ngấu nghiến sức lực tôi và phá hoại ý chí tôi như thế?.
Những bàn tay ẩn giấu nào mềm mại và sần sùi đang bấu chặt lấy linh hồn tôi đó; rượu nào pha lẫn niềm vui đắng cay và niềm đau ngọt ngào đang tràn ngập tim tôi đó?.
Những đôi cánh nào đang bay lượn phía trên gối tôi trong giờ phút yên lặng của Tối Đêm, và làm cho tôi thức tỉnh, chờ ngóng điều gì không một ai hay biết đó?.
Vật nào là vật vô hình mà tôi đang đăm đăm ngó đó, là điều bất khả tri nào tôi đang suy ngẫm đó, là cảm giác nào chẳng thể cảm thấy đó?.
Trong những tiếng thở dài của tôi có nỗi buồn đau còn đẹp hơn tiếng vọng của tràng cười và ngây ngất hơn cả niềm vui.
Tại sao tôi đầu hàng một uy quyền vô danh đến giết tôi chết đi và làm tôi sống lại cho đến lúc Bình Minh nhô dậy và tràn ngập phòng tôi ánh sáng?.
Những bóng ma thức giấc rún rẩy giữa hàng mi khô héo của tôi, và những ảo hình mộng mị bay lượn phía trên tấm giường đá của tôi.
Điều nào đó mà ta gọi là Tình Yêu? Hãy nói tôi nghe, niềm bí mật nào ẩn giấu trong thiên thu mà thấm nhuần mọi ý thức đó?.
Ý thức nào đó vừa là nhân vừa là quả của mọi sự vật?.
Cơn chằn chọc nào đó thêu dệt từ Cuộc Đời và Sự Chết thành một giấc mơ, dị kỳ hơn Cuộc Đời và sâu sắc hơn Sự Chết?.
Hãy nói tôi nghe, ôi những người bạn của tôi, có ai mà không tỉnh dậy khỏi giấc ngủ mê của Cuộc Đời nếu Tình Yêu khẽ mơn man linh hồn ta?.
Có ai trong các anh mà chẳng từ biệt người cha và người mẹ mình khi có tiếng gọi của nàng trinh nữ mà trái tim mình đang yêu dấu?.
Có ai trong các anh mà chẳng dong buồm đi khắp đại dương, vượt khắp sa mạc, leo lên chót đỉnh núi cao để gặp người thiếu phụ mà tâm hồn ta đã hằng chọn lựa?.
Trái tim người trẻ tuổi nào mà sẽ chẳng theo đi tới tận cuối chân mây người thiếu nữ mà hơi thở thơm tho, giọng nói ngọt ngào, đôi bàn tay nõn nà kỳ diệu đã làm hồn mình đắm say ngây ngất?.
Kẻ nào sẽ chẳng đốt cháy tim mình như trầm hương trước một vị thần lắng nghe những lời ta cầu đảo và ban ân cho lời ta khẩn nguyện?.
Ngày hôm qua tôi đứng nơi cửa đền hỏi thăm những khách qua lại về điều bí ẩn và giá trị của Tình Yêu.
Và trước mặt tôi bước đi một ông già có khuôn mặt tiều tuỵ và buồn thảm; ông già thở dài, đoạn nói:
“Tình Yêu là sự suy nhược thiên nhiên mà người thứ nhất trên trần đã ban cấp cho ta”.
Nhưng một thanh niên cường tráng cãi lại:
“Tình Yêu nối liền hiện tại của ta với tương lai và quá khứ”.
Rồi một thiếu phụ với khuôn mặt bi đát thở dài và nói:
“Tình Yêu là một nọc độc chết người của loài rắn đen, chúng bò lên từ những hang động địa ngục. Chất độc trông tuồng tươi mát như sương mai và tâm hồn khao khát miết mê nốc uống; nhưng sau cơn say ngất đầu tiên kẻ uống nó sẽ lên cơn đau và chết một cái chết từ tốn.”
Rồi một thiếu nữ mỹ miều, má đỏ au, mỉm cười nói:
“Tình Yêu là rượu thắm do bầy tân nương Bình Minh dâng lên môi ta uống làm mạnh thêm những linh hồn đã mạnh và khiến chúng bay bổng được lên những vì sao.”
Phía sau nàng, một người đàn ông khoác áo dài đen, có râu hàm rậm, bước tới chau mày nói:
“Tình Yêu là sự ngu muội mù loà mà tuổi xanh bắt đầu và chấm dứt.”
Một kẻ khác, mỉm cười, dõng dạc:
“Tình Yêu là tri thức thần linh khiến cho loài người nhìn thấy được nhiềư như thần thánh.”
Rồi một người mù khua gậy bước tới nói:
“Tình Yêu là lớp sương mù che mắt đặng linh hồn khỏi biện biệt được niềm bí ẩn của hiện sinh, đặng trái tim chỉ nhìn thấy những bóng ma run rẩy của dục vọng giữa các vùng đồi nương, và chỉ nghe thấy những tiếng vọng của những tiếng kêu la từ các thung lũng không tiếng nói.”
Một chàng thanh niên, gảy cây đàn thất huyền, ca hát:
“Tình Yêu là một tia sáng ảo diệu từ đáy thẳm của tâm hồn đang bốc cháy và chiếu sáng vùng đất chung quanh. Nó khiến cho ta nhận thức được Cuộc Đời như một cơn mộng đẹp giữa một cơn thức tỉnh này và một cơn thức tỉnh khác.”
Và một lão nhân yếu đuối, lê lết đôi chân như hai miếng giẻ, nói giọng run run:
“Tình Yêu là sự ngơi nghỉ của thể xác trong cái yên tịnh của nấm mồ, sự bình an của linh hồn trong vực sâu của Vĩnh Cửu.”
Và một đứa bé năm tuổi bước đằng sau lão nói cười ha hả:
“Tình Yêu là cha và mẹ của em, và không ai hiểu được Tình Yêu ngoại trừ cha và mẹ em.”
Và cứ như thế, những người đi qua nói đến Tình Yêu như hình ảnh của chính những ước vọng, những dằn vặt của họ, và để nó lại còn nguyên là một niềm bí ẩn như lúc trước.
Rồi tôi nghe thấy một tiếng nói vọng từ trong đền:
“Cuộc đời được chia thành hai nửa, một nửa đã đóng băng, một nửa thì bừng cháy; nửa đang bốc cháy ấy là Tình Yêu vậy.”
Nghe thấy thế, tôi liền bước chân vào đền, quỳ xuống, hớn hở và nguyện cầu:
“Hãy biến tôi, Ô Chúa trên Trời, thành thực phẩm cho ngọn lửa đang bừng cháy…”
“Hãy biến tôi, Ô Thượng Đế, thành thức ăn cho ngọn lửa thiêng… Amen!”
Thuốc ma tuý và dao giải phẫu.
“Ông thái quá và cuồng tín đến cái độ điên loạn. Mặc dù ông là một nhà lý tưởng chủ nghĩa, nhưng mục tiêu văn chương của ông là đầu độc trí óc thanh niên… Giá mọi người mà theo lời khuyên nhủ của Gibran về hôn nhân, thì các sợi dây ràng buộc gia đình sẽ đứt, xã hội sẽ suy sụp, và thế giới sẽ trở thành một hoả ngục đầy quỉ thần và ác ma…”
“Lối hành văn của ông đẹp một cách quyến rũ, khiến làm khuếch đại mối nguy hại của kẻ thù nhân loại thâm căn này. Lời khuyên của chúng tôi cho dân chúng thuộc phần Núi được giáng phúc này (Núi Liban) là hãy bác bỏ những lời giảng dạy quỉ quyệt của kẻ vô chính phủ và bội giáo này và đốt hết sách của ông đi, để các chủ thuyết của ông khỏi dẫn người vô tội đi lầm đường. Chúng tôi đã đọc cuốn Uyên ương gãy cánh và thấy nó là thứ chất độc pha bằng mật ong.”
Đó là những điều người ta nói về tôi và họ nói đúng, vì quả thực tôi là một kẻ cuồng tín và tôi có khuynh hướng phá huỷ cũng như xây dựng. Trong trái tim tôi có niềm thù ghét những gì mà những kẻ gièm pha tôi thần thánh hoá, và có sự yêu quí những gì mà họ gạt bỏ. Và nếu tôi có thể làm bật gốc một số tập tục, tín điều, và truyền thống của mọi người, thì tôi sẽ làm như thế không ngại ngần. Khi họ nói sách của tôi là thuốc độc, thì họ đã nói sự thật về chính họ, bởi những điều tôi nói chính là thuốc độc cho họ. Nhưng họ đã nguỵ tạo khi họ nói rằng tôi đã pha mật ong vào thuốc độc, bởi tôi pha nguyên vẹn độc dược và đổ nó ra từ một ly trong suốt. Những kẻ gọi tôi là một nhà lý tưởng nằm yên ổn trên tầng mây chính là những kẻ quay mặt đi khỏi cái ly trong suốt mà họ gọi là độc dược đó, biết rằng dạ dầy họ chẳng thể tiêu hoá nó nổi.
Điều này nghe có vẻ tàn nhẫn, nhưng liệu tàn nhẫn chẳng còn hơn là sự mạo nhận quyến rũ ư?
Người Đông Phương [15] đòi hỏi rằng nhà văn phải giống như một con ong lúc nào cũng làm mật. Họ thèm uống mật và thích nó hơn mọi thức ăn khác.
Người Đông Phương muốn nhà thi sĩ của họ tự đốt cháy mình như trầm hương trước mặt những Sultan của họ. Những vầng trời phía Đông đã ngợp ngụa hương trầm ấy mà người Đông Phương vẫn chưa nư đã.
Họ đòi thế giới phải học lịch sử họ, khảo cứu những đồ cổ, tập tục và truyền thống họ, và nói được ngôn ngữ họ. Họ cũng muốn rằng những ai biết về họ đừng lập lại những lời nói của Triết gia Baidaba, Ben Rished, Ephraim Al-Syriani, và Giăng thánh Đamascus.
Nói ngắn đi, người Đông Phương muốn lấy quá khứ họ làm một biện minh và một tấm giường êm ả. Họ trốn tránh tư tưởng thực chứng và những lời thuyết giảng tích cực và bất cứ tri thức nào về thực tại có thể châm chích họ và làm họ bừng tỉnh khỏi giấc ngủ say sưa của họ.
Đông Phương hiện đang đau, nhưng nó đã trở thành chai đá về những tật nguyền của nó đến cái độ coi chúng là những phẩm chất thiên nhiên và còn quí phái là khác, những phẩm chất phân biệt họ ở trên những kẻ khác. Họ coi ai thiếu những phẩm chất như thế là bất túc và không xứng với cái tặng vật toàn thiện hảo của thần linh.
Có vô số những thày thuốc xã hội tại Đông Phương, và cũng có rất nhiều bệnh nhân của họ chưa khỏi nhưng trông như đỡ đau là vì họ chịu tác dụng của những chất ma tuý xã hội. Nhưng những an thần dược này chỉ che giấu đi triệu chứng mà thôi.
Những chất ma tuý đó được tinh luyện từ nhiều nguồn gốc nhưng nguồn gốc chính là cái triết lý Đông Phương về sự khuất phục Số Mệnh (hành vi của Thượng Đế). Một nguồn gốc nữa là sự hèn nhát của các thày thuốc xã hội sợ làm tăng cơn đau nếu cho uống thuốc mạnh.
Đây là một số thuốc an thần xã hội.
Một cặp vợ chồng, vì nhiều lý do, thấy rằng tình ghét đã đến thay thế tình yêu giữa hai người. Sau một thời kỳ lâu dài hành hạ nhau, họ chia ly. Ngay lập tức cha mẹ đôi bên gặp nhau giàn xếp thế nào cho đôi vợ chồng ly gián đó hoà giải với nhau. Mới đầu họ dùng những lời lừa dối người vợ, rồi họ lại dùng những mánh khoé gạt gẫm tương tự với người chồng. Cả hai người chẳng ai chịu thuyết phục, nhưng rồi vì xấu hổ mà hai người phải nguỵ hoà với nhau. Sự việc này chẳng thể kéo dài; chẳng bao lâu tác dụng của thuốc ma tuý xã hội tan đi, và cặp vợ chông đau khổ lại phải trở lại uống nhiều liều mạnh hơn nữa.
Hoặc một đoàn hay một đảng nổi lên chống lại một chính phủ độc tài và cổ suý các cuộc cải cách chính trị đặng giải thoát những kẻ bị áp chế khỏi xiềng xích. Họ phân phát những bản tuyên ngôn và tung ra những bài diễn văn nảy lửa và đăng tải những bài báo châm chọc. Nhưng một tháng sau, ta nghe thấy rằng chính phủ hoặc đã bỏ tù người lãnh đạo hoặc đã làm cho hắn im tiếng bằng cách ban cho hắn một địa vị quan trọng. Và thế là chẳng ai nghe thấy gì thêm nữa.
Hoặc một giáo phái nổi tiếng lên chống lại vị lãnh đạo tôn giáo của mình, lên án người này có những hành vi sai lầm và doạ đi theo một tôn giáo khác, con người hơn và không có những điều mê tín dị đoan. Nhưng rồi ta nghe thấy rằng những người khôn ngoan trong nước đã hoà giải kẻ chăn cừu và đàn cừu, bằng cách cho uống những chất ma tuý xã hội.
Khi một kẻ yếu than van là bị kẻ mạnh hà hiếp, thì người hàng xóm sẽ uỷ lạo hắn: “Thôi, thôi, nguôi đi, mắt kẻ nhìn cứng đầu sẽ chẳng chịu nổi sức lao của ngọn dáo đâu.”
Khi một dân làng nghi ngờ về thánh tính của mục sư, thì người ta sẽ bảo hắn: “Hãy chỉ nghe lời giảng đạo của ông ta và chớ kể gì đến những khuyết điểm hay hành vi sai lầm của ông ta.”
Khi một thầy giáo quở mắng một học trò, ông ta sẽ nói: “Những cái cớ mà một thiếu niên lười biếng bịa ra thường còn tệ hơn cả cái tội.”
Nếu một người con gái không chịu theo những tập tục của mẹ nàng, thì bà mẹ sẽ nói: “Con không bao giờ biết hơn mẹ; nó phải bước theo dấu chân của mẹ mình.”
Giá như một thanh niên xin một người giảng đạo soi sáng cho hắn về một nghi thức cổ xưa nào đó, thì người giảng đạo sẽ trách hắn: “Con ơi, kẻ nào mà không nhìn tôn giáo với đôi mắt của Đức Tin sẽ chẳng thấy gì ngoại trừ sương mờ và khói ảo.”
Ấy nên Đông Phương đang nằm trên một cái giường êm. Người ngủ tỉnh dậy chốc lát khi bị rệp đốt, rồi lại tiếp tục giấc ngủ ma tuý của mình.
Ai mà đến đánh thức hắn dậy sẽ bị coi là kẻ thô lỗ chẳng đi ngủ mà cũng chẳng để cho ai ngủ. Nhắm mắt lại một lần nữa, họ nói thầm vào tai linh hồn họ: “Hắn là mộ kẻ dị giáo đầu độc trí óc thanh niên và phá ngầm nền tảng của các thời đại.”
Có nhiều lần tôi đã hỏi linh hồn tôi: “Có phải tôi là một trong số người nổi loạn thức tỉnh bác bỏ chất ma tuý chăng?” nhưng hồn tôi trả lời với những lời bí hiểm. Nhưng khi nghe thấy tên tuổi và nguyên lý của tôi bị bêu riếu thì tôi đã đoán chắc rằng tôi đã thức tỉnh và có thể kể trong số những kẻ không đầu hàng những mộng mị ma tuý, rằng tôi thuộc vào những kẻ vững tim đang bước đi trên những con đường nhỏ hẹp và đầy gai nhọn, nơi muôn loài hoa nở, trong tiếng sói hú và chim họa mi hót.
Giá như thức tỉnh là một đức tính, ắt hẳn lòng khiêm tốn sẽ ngăn cản tôi nhận lấy nó. Ấy nhưng nó chẳng phải là một đức tính, mà là một thực tại, nó xuất hiện bất ngờ cho những kẻ nào có sức mạnh nhỏm lên. Khiêm tốn khi nói sự thật là giả đạo đức. Than ôi, ấy lại là điều người Đông Phương gọi là giáo dục.
Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu các “nhà tư tưởng” nói về tôi rằng: “Hắn là một con người quá độ chỉ nhìn đến cái khía cạnh nhớp nhúa của đời sống và không báo cáo gì hết ngoài điều sầu thảm và than van.”
Với những người đó tôi xin tuyên bố:
“Tôi xót xa cho cái lòng thèm trốn tránh thực tại suy nhược và đau khổ của người Đông Phương chúng ta.”
Tôi đau buồn rằng đất nước yêu dấu của chúng tôi không ca hát trong mừng vui mà là để làm yên đi những xao động của lòng sợ hãi.
Khi chiến đấu chống lại sự ác, thì quá độ là điều tốt; bởi kẻ nào ôn hoà khi loan báo sự thật thì chỉ trình bày có nửa sự thật. Là kẻ giấu đi nửa kia vì sợ hãi sự giận dữ của mọi người.
Tôi thù ghét trí óc của thây ma; mùi hôi thối của nó làm tôi buồn mửa. Tôi sẽ không dâng hiến nó kẹo ngọt và rượu nồng.
Ấy nhưng tôi sẽ vui lòng đánh đổi những lời la hét của tôi lấy tràng cười vui tươi, nói những lời tán tụng thay vì lên án, thay thế quá độ bằng ôn hoà, nếu như các người trỏ cho tôi thấy một người cai trị công chính, một luật gia thanh liêm, một vị lãnh đạo tôn giáo thực hành những điều mình thuyết giảng, một người chồng nhìn người vợ mình với cùng một cặp mắt khi hắn nhìn mình.
Nếu các người muốn cho tôi nhảy múa, gióng kèn đồng và đập trống thì hãy mời tôi tới một bữa tiệc cưới và dẫn tôi ra khỏi nghĩa trang.
Toàn thiện mỹ.
Anh hỏi tôi khi nào con người vươn tới toàn thiện mỹ. Hãy nghe tôi trả lời:
Con người vươn tới hoàn thiện mỹ khi hắn cảm thấy mình là một không gian vô hạn và một biển cả vô bờ,
Một ngọn lửa vô cùng, một ánh sáng chẳng thể dập tắt.
Một ngọn gió êm hay một cơn giông cuồng nộ, một vùng trời sấm sét hay một khoảng trời mưa rơi.
Một ngọn suối hát ca hay một dòng lạch than vãn, một đại thụ bừng hoa Mùa Xuân, hay một cây non trần truồng Mùa Thu,
Một ngọn núi dướn lên hay một cánh đồi thoải xuống,
Một cánh đồng phì nhiêu hay một bãi sa mạc khô cằn.
Khi cảm được thấy tất cả những điều đó, con người đã vượt được nửa đường tới thoàn thiện.
Muốn tới đích hắn sẽ phải nhận được rằng hắn là một đứa trẻ nít tuỳ thuộc vào người mẹ, một người cha có trách nhiệm với gia đình,
Một thanh niên ngơ ngác trong tình yêu,
Một ông lão vật lộn với quá khứ,
Một kẻ sùng bái trong đền, một kẻ tội phạm trong nhà lao.
Một học giả vùi trong mớ bản thảo,
Một linh hồn ngu tối vấp ngã giữa khoảng tối đen ban đêm và khoảng u ám ban ngày,
Một nữ tu đau khổ giữa những đoá hoa của lòng tin và đám cỏ gai của niềm cô độc,
Một gái giang hồ bị cấu xé giữa những nanh nhọn của lòng yếu đuối và vuốt sắc của nhu cầu,
Một người nghèo bị sập bẫy giữa chua xót và khuất phục,
Một người giàu giữa lòng tham và lương tâm,
Một nhà thơ giữa màn sương mù sẩm tối và những tia sáng bình minh.
Anh thấy không, ai có thể kinh nghiệm và hiểu thấu sự vật này sẽ vươn tới được toàn thiện mỹ và trở thành một bóng hình của Bóng Hình Thượng Đế.
Hôm qua, hôm nay, và ngày mai.
Tôi nói với bạn tôi,
“Thấy không nàng đang tựa vào tay hắn?.
Hôm qua nàng đã tựa vào tay tôi.”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ tựa vào tay tôi.”.
Và tôi nói,
“Thấy không nàng đang ngồi bên hắn?.
Và hôm qua nàng đã ngồi bên tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ ngồi bên tôi”.
Và tôi nói,
“Thấy không nàng đang uống từ ly hắn?
Và hôm qua nàng đã uống từ ly tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ uống từ ly tôi”.
Và tôi nói,
“Hãy ngó xem đôi mắt nàng liếc nhìn hắn đầy ân ái!
Và cũng ngần ấy ân ái, hôm qua nàng đã liếc nhìn tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ liếc nhìn tôi như thế”.
Và tôi nói,
“Hãy lắng nghe nàng đang thì thầm những khúc ca tình tứ bên tai hắn.
Và hôm qua nàng đã thì thầm cũng những khúc ca đó bên tai tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ thì thầm bên tai tôi”.
Và tôi nói,
“Hãy ngó xem nàng đang ôm hôn hắn;
Và hôm qua nàng đã ôm hôn tôi”.
Và chàng nói:
“Ngày mai nàng sẽ nằm trong tay tôi”.
Và tôi nói:
“Ôi người con gái dị kỳ!”.
Và chàng nói:
“Nàng là Cuộc Đời đó vậy.”
CHÚ THÍCH.
[1]2 1:14. Dịch theo bản tiếng Anh (“Kinh James” Holy Bible, Oxford University Press.) Tuy nhiên, so sánh bản dịch mới đây của L.M. Trần Đức Huân (Ra Khơi, Thánh Kinh Thiện Bản, Saigon, 1970: “Ta đã nhìn rõ mọi truyện xảy ra dưới mặt trời: kìa thảy đều hư vô như gió thổi.” (L.N.D.).
[2]Một đêm đặc biệt trong Mùa Chay Hồi Giáo; đêm đó người theo đạo tin rằng Thượng Đế sẽ thoả mãn mọi nguyện cầu của kẻ sùng đạo. (L.N.D.).
[3]Một ngôi thành cổ ở Trung Xyri, nay là làng Tamor, phía Đông Bắc Damas, (Thủ đô Xyri) tục truyền là do Salomon xây lên. Đã một thời là một thành phố rất mạnh dưới triều nữ hoàng Zénobie; về sau bị quân La Mã chinh phục năm 272 và bị hoàng đế Aurélien phá huỷ. Ở đây có nhiều phế tích quan trọng. (L.N.D).
[4]Isaie hay Isaich, người thứ nhất trong bốn nhà Đại Tiên Tri của thế kỷ thứ VIII T.T.C., tác giả cuốn Thánh Kinh mang cùng tên, nổi tiếng về chất thơ của nó. (L.N.D.).
[5]Thánh Jean l’Evangéliste, một trong mười hai sứ đồ, môn đồ yêu quí của Giê-xu, tác giả tập Mật Khải và một trong bốn Kinh Tân Ước. (L.N.D.).
[6]Dante Alighieri (1265-1321), đại thi hào Ý-đại-lợi, tác giả kiệt phẩm Divina Comedia, (L.N.D.).
[7]Lúc bài này được viết, thì Liban và Xyri vẫn còn là một nước gọi là Xyri.
[8]Chữ Al-Mutanabbi có nghĩa là người tiên đoán. Ông là một nhà thơ Ả-rập nổi tiếng, có nhiều thơ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. (A.R.Ferris).
[9]Một thi sĩ và triết gia Ả-rập lừng danh (A.R.F).
[10]Một thi sĩ A-rập hồi thế kỷ thứ chín, bị mù lúc mới lên bốn, được coi là một thiên tài. (A.R.F).
[11]Homer, đại thi hào anh hùng ca Hy-lạp hồI thế kỷ thứ VIII trước T.C., tác giả Iliad và Ôđyxê. (L.N.D.).
[12]Virgil, đại thi hào La-mã hồi thế kỷ thứ I trước T.C., tác giả thiên anh hùng ca Ênêid (L.N.D.).
[13]Milton, đại hào Anh hồi thế kỷ thứ XVII, tác giả tập Thiên Đàng Đã Mất. (L.N.D.).
[14]Thành Baalbik, đã hoang phế. (L.N.D.).
[15]6 Ở đây trỏ người các nước phía Đông và Đông-Nam Địa Trung Hải. (L.N.D.)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)