15/6/11

Bùi Giáng -Đi vào cõi thơ (2)

Bùi Giáng
Đi vào cõi thơ
(Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngoạ Long Sinh, Rimbaud, Paul Eluard, Mai Văn Thu, Trần Cũ Một, Vương Quốc Quyên, Tiêu Quỳnh, Lục Vân Bình, Xuân Diệu)


Nguyễn Du

Nguyễn Du cũng như Camus, lúc nào linh hồn ông nói đúng tiếng nói của hồn ông, thì lời thơ biến ra làm thơ phong cảnh.

Điều nên lưu tâm là: phong cảnh Nguyễn Du tuyệt nhiên không liên can chi tới loại thơ phong cảnh của bọn chuyên môn tả thực.

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
(Xem Mùa Thu trong Thi Ca)


Hồ Xuân Hương

Lối tả cảnh của Hồ Xuân Hương nhằm vào chỗ: phá vỡ tinh thể của phong cảnh đi, cưỡng bức thiên nhiên, để giúp vạn vật hiện lại nguyên hình trong tinh thể thiên nhiên phusis thiết cốt.

Đối với cảnh là vậy. Đối với người cũng vậy. Bà táo bạo gan liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont.


Ngoạ Long Sinh

Là một thiên tài thy sỹ thâm cảnh rằng ngôn ngữ Trung Hoa không còn sinh lực nữa để bước một bước khổng lồ thi ca ngôn ngữ Việt Nam, Pháp, Đức, Anh.
Nên ông xô ùa nguồn thơ Trung Hoa vào văn chương vũ hiệp.

Vì lý do đó, nên ban sơ sách vũ hiệp của ông không được hưởng ứng chan hòa như sách của Kim Dung. Nhưng một phen đã kiên nhẫn theo dõi ông một thời gian, ắt sẽ thấy tâm tình cháy bỏng.

Trong sách ông không có những loại tên hề Shakespeare. Nhưng có những ngôn từ “hề ngầm”. Cũng đốt cháy bỏng linh hồn ta như thế.

Sách của ông còn mở ra một khoảng vắng lặng để cho Dịch Kinh tương ứng với Phật Giáo và thành tựu một bước đường tối hậu cho sử lịch Đông Phương.


Rimbaud

Mỗi phen muốn nói tới thơ Rimbaud, thì lập thời ta gác bút bình luận, nắm lấy ngọn bút tái tạo thi ca.

Để làm gì như thế ?

Để có thể cho hai làn sóng bành bái cùng song song dâng lên, đập vỡ vào nhau cho hiện ra một tinh thể nào khác.

Với Nguyễn Du, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Quang Dũng, ta vẫn thường sử dụng phép “cưỡng bức” kia.

Nhưng cái âm thanh riêng biệt thoát từ hai triều sóng tuôn ra, âm thanh đó sẽ ngân lên như thế nào, và dội vào đâu để vọng lại ?

Cuối cùng đành phải quay sang cuộc làm thơ vịnh sách vũ hiệp.


Paul Eluard

Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của Đức Khổng.

Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide.

Như Lai biến làm Saint John Perse, Walt Whit-man, Dylan Thomas.

Trang Tử biến làm Jean Paul Sartre.

Nguyễn Du bước hụt một bước, ắt có thể biến thành Simone Weil.


Mai Vân Thu

Mai Vân Thu rất ít làm thơ. Nhưng mỗi bài thơ của cô mang tính chất riêng biệt – là tính chất không tuổi không tên. Không ai rõ đó là xao xuyến hay vui tươi, buồn rầu hay hoan lạc. Thơ của cô xóa hết mọi biên giới trong bảy mối tình cảm của con người. Độc giả thử đọc một bài sau đây:

Ra Đời

Hoa đắm đuối lìa cành rớt xuống
Mùa xuân xanh thu muộn hai hàng
Song song từ giã lên đàng
Cơn mưa chếnh choáng ngựa vàng ướt lưng

Màu thấm thoát xưa từng đã luống
Hương gây ngô cuồn cuộn quen rồi
Đường trường điểm gạch tô vôi
Non trùng điệp giục ra đời ai đi.


Trần Cũ Một

Tôi thích mấy bài thơ đơn giản sau đây của Trần Cũ Một.

Nếp áo

Đã phai nếp áo sông hồ
Chuyện vàng đá cũng nếp xô đi rồi
Âm thanh ray rứt nửa đời
Thoảng dư hương ấy về nơi vong tình
Ngủ yên hằng cửu nín thinh
Càng xa vó ngựa trường đình năm nào.

Buông rơi

Chắc gì cố quận còn nghe
Mưa xuân thấm thoát bờ tre giậu vàng
Hai bàn tay nắm một hàng
Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu.

Vân hoa

Môi vàng nửa giọt máu hoa
Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng
Trang hồng rứt bỏ từng trang
Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên.


Vương Quốc Quyên

Vương Quốc Quyên làm thơ nhiều, nhưng chẳng chịu in ra sách. Cô vốn người Đà Nẵng. Chỉ thỉnh thoảng gửi cho tôi vài bài “Ngẫu Hứng”. Cô bảo rằng bài nào cũng ngẫu nhiên làm khoảng năm giờ sáng, làm xong vài bài thì buông bút, lo việc tảo tần, bếp núc…

Chim kêu

Nửa tiếng chim kêu lạc giọng rồi
Đồng hoang chừ cỏ lấp hai nơi
Chữ nghiêng trang giấy đêm về sáng
Gà gáy biên cương tiếng lộn lời
Nửa tiếng chim kêu nào thánh thót
Một đời quang gánh đất chia đôi
Đò giang xuôi ngược đêm trì hoãn
Nam bắc mù sương một mảnh trời.

Mưa nắng

Ngày chan chứa lục hồng thưa rậm
Giữa đêm tăm quỳ bẩm thiên tiên
Tôi nay mất cõi quên miền
Tản cư năm tháng trận phiền dây dưa
Tình phố xá cuộc mua cơn bán
Đứa con thơ khóc khản cổ rồi
Chim bay mất bóng lưng trời
Quỳ xin tiên nữ một lời cuối sương.


Tiêu Quỳnh

Cô người Thừa Thiên, nhưng gốc gác vốn là Hà Tĩnh. Chép ra đây vài bài để độc giả thưởng thức chút khí hậu của hai vùng đất thơ mộng nhất Việt Nam.

Tao phùng

Tao phùng bến nước đầu hoa
Xuân đi như mộng trái đà sang thu
Vườn xuân ghi chữ sa mù
Một vùng giếng ngọc giọt từ từ ngân.

Biệt ly

Biệt ly đầy rẫy can trường
Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây
Não nùng khăn đỏ choàng vai
Nào xin một lúc nào hai ba hàng.

Đọc sách

Đọc trang khung cửa của người
Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè
Đường tơ bích lục sắt se
Mưa xuân sớm dứt nắng hè vội sang.
Bắc Nam hai ngả lộn đường
Đông Tây trùng ngộ phi thường âm thanh
Dẫu sao nguồn cũ sao đành
Mấy lòng hạ tứ đã thành chiêm bao?

Ngủ gục

Chạnh ngủ gục một phen buồn bã
Sầu khổ ôi em ạ em ôi
Đêm nay tờ mộng rách rồi
Máu me bồi phụng rã rời xãu xương
Đường phía trước còn vương hoa phấn?

Nẻo phía sau từng trận tan hoang
Tâm thành thể lệ hỗn mang
Ngủ vùi tái điệp nghe tràng giang đi.


Lục Vân Bình

Bài thơ sau của Lục Vân Bình tình cờ tôi đọc được. Không rõ thi sĩ này ở đâu.

Ngày xế

Ngày xế đi qua xóm nhẹ nhàng
Chuông chùa vọng tiếng gọi đa mang
Ai về kết áo vàng tơ cỏ
Phương trượng từ đàm có hỏi han
Chung nhật thiết tha gào tiếng cuối
Mây trời bỗng loãng mất dư vang
Mai kìa chìm tắt giòng thơ suối
Mạch động âm thầm hết thở than.


Xuân Diệu

Dường như thuở bấy giờ ông linh cảm rằng ngày mai chỉ còn đau khổ và tan nát trên mặt đất quê hương, nên trong tiếng thơ thanh xuân của ông, ông đã dốc hết ra một lần tất cả niềm vui và nỗi buồn của thời đại.

Gửi hương cho gió

Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ phàng
Mất một đời thơm trong kẽ núi
Không người du tử đến nhằm hang

Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều
Là truyền tin thắm gọi tình yêu
Song le hoa đợi càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều

Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm

Tình yêu muôn thuở vẫn là hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa đường
Đã mất tình yêu trong gió rủi
Không người thấu rõ đến nguồn thương

Thiên hạ vô tình nhận ước mơ
Nhận rồi không hiểu mộng và thơ
Người si muôn kiếp là hoa núi
Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ.

(Xuân Diệu)

Xuân Diệu có chỗ đặc biệt là: ông nói tới niềm bi đát tồn sinh, ông nói rốt ráo cùng cực, mà vẫn ẩn ẩn một chút mỉm cười mát mẻ. Những hình tượng ông vẽ ra bay múa rộn ràng khiến cho thảm kịch trở thành một ân huệ mưa móc. Nỗi đời gay cấn biến làm màu sắc phiêu du. Đoạn trường trở thành mùi hương rớt hột.

Người thi sĩ vốn tiềm tàng một chứa chất một tư lự hoằng viễn của những linh hồn thượng đạt, nên ngôn ngữ quay cuồng đủ hướng vẫn qui về thể thái phiêu nhiên niêm hoa vi tiếu của Khổng Tử điềm đạm trang nghiêm; niêm hoa vi tiếu của Như Lai heo hút man mác; niêm hoa vi tiếu của Long Thọ Bồ Tát và Heidegger đi bước nghiêm mật trừu tượng trong ngôn ngữ quẩn quẩn quanh quanh thoáng hiện thoáng ẩn: niêm hoa vi tiếu của Huy Cận suốt bình sinh thốt tiếng ngậm ngùi; niêm hoa vi tiếu của Trang Tử “mộ tứ nhi triêu tam, triêu tứ nhi mộ tam”. Niêm hoa vi tiếu của Xuân Diệu “lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng, xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi”…

Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phũ phàng
Mất một đời thơm trong kẽ núi
Không người du tử đến nhằm hang

Trong kẽ núi? Là nơi chốn của những hang hốc ngổn ngang um tùm cỏ mọc. Hương hoa mất cả một đời thơm trong kẽ núi. Nghĩa là gió phũ phàng không đem hương hoa về đồng nội thôn làng thôn ổ, cho nhân gian tiếp đón. Gió phụ phàng đẩy hương vào trong kẽ núi tối om om, lạnh căm căm, chịu đọa đày trong quạnh hiu tù ngục. Một đời thơm mất đi trong kẽ núi đá đờ đẫn ra như thế, thì kể cũng đà thiểu não lắm thay. Còn khốn đốn hơn tình cảnh Thuý Kiều lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Bởi vì lênh đênh là trôi dạt. Trôi dạt thì còn dịp được tấp vào bờ. Hoặc còn mong lưu ly thì được gặp bàn tay tế độ của Thúc, của Từ… Mà cho dẫu không gặp bàn tay nào cả, thì riêng cái việc được lưu ly cũng là thơ mộng. Có chìm, có nổi, có dìu dặt, có nhấp nhô.

Còn như? Còn như cái sự tình mất một đời thơm trong kẽ núi, là cái sự tình ngột ngạt, không khác chi bị vùi chôn trong nấm mồ, chẳng khác chi cái nhà mồ Siêu Hình Học Âu Châu đã chôn vùi sấp ngửa Nerval Hölderlin.

Bị vùi chôn ngột thở, hy vọng có người du tử nào ngẫu nhiên đi nhằm hang trúng hố, mà cứu ra? Nhưng núi non thì trùng trùng điệp điệp, hang hố thì hàng triệu ngổn ngang, nằm ù lỳ trong tịch mịch.

Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng.

Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ phàng

Biết bao hoa đẹp? Hoa đẹp của rừng thẳm rừng thiêng? Loại hoa đó không giống loại hoa của phồn hoa son phấn. Loại hoa đó u nùng như rừng thẳm âm u. Loại hoa đó mọc từ uyên nguyên vũ trụ. Từ giữa lòng tịch hạp của càn khôn.

Nó tin cậy đem ký thác tinh thể nó cho gió. Thấy gió phiêu bồng chịu chơi, nó hân hoan gửi hương cho gió. Thì đùng một cái, vừa gửi đi, thoắt thấy mình chết đắm. Tại sao gió không mang nó đi tỏa ra man mác bốn chân trời chân mây tứ hải. Gió lại chơi khăm đưa nó vào trong kẽ núi bịt bùng. Cái tiếng phụ phàng chọi lại đem gửi. Chọi một cách kịch liệt. Đem gửi? Đem ra mà gửi? Là tin cậy mới đem ra. Gửi đi là kỳ vọng.

Bốn câu tiếp chậm rãi nói ra sự tình trớ trêu cắc cớ:

Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều
Lá truyền tin thắm gọi tình yêu
Song le hoa đợi càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều…

Mọi tiếng không một tiếng nào không nói ra cớ sự ảo não. Hoa bản chất vốn là phù du. Đợi nhiều như thế thì còn gì tinh thể của hoa:

Gió mặc hồn hương nhạt với chiều

Chiều là hoàng hôn. Hoàng hôn là đêm tối. Đêm tối là dặm khuya ngất tạnh mù khơi. Ngất tạnh mù khơi là câm nín. Không một âm thanh tương ứng vọng lại suốt rừng cao, lũng thấp, cồn bãi lè tè.

Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm

Gió câm? Gió sao lại câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nó không nghe cái lời. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp.

Nhưng sự tình trái hẳn. Dưới rừng cũng như trên rừng, hai ngả đều lạnh giá câm nín cả hai.

Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá

Nếu rơi trên đất còn khả dĩ gọi là. Mà nếu rơi được trên giòng khe thì càng may mắn hơn nữa. Nhưng hoa đẹp rơi trên đá? Rơi trên đá thì còn ra cái thể thống gì?
Thì cũng tỷ như cô Marceline rơi rụng cái hồng nhan mình trên cái hình hài anh chàng Michel (L’Immoraliste).

Hoặc cái chú Jan chạm phải cái phũ phàng cứng rắn của cô em gái Martha. Hoặc cái cứng nuồng Caesonia Seiphion vấp phải cái khối Caligula sa mạc.

Sa mạc phát tiết anh hoa ra ngoài một phen thì sự tình đi tới chỗ trầm trọng bất khả vãn hồi.

Jésus Christ phải lên Calvaire, song song với hai tên trộm cướp…

Tình yêu muôn thuở vẫn là hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa đường
Đã mất tình yêu trong gió rủi…

Cái trận gió rủi kia đã đem tai họa đến cho gia đình Nguyễn Trãi. Đã xô Nguyễn Du về giữa triều đình Gia Long. Đó là nơi chốn phát tiết tiếng thơ xưa kia :

Kim cổ vô cùng giang mạc mạc.

Và:

Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao

Và:

Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu? tên họ là chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly bao giờ?

Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con người ta. Lúc Jésus Christ nói với Ponce Pilate: “Vương quốc ta không phải là cõi đời này” thì ý Ngài muốn nói gì như thế?

Nói xong câu đó, thì Ngài im lặng. Ponce Pilate hỏi: “Bọn chúng lên án Ngài lan tràn như thế, Ngài nghĩ sao?” Jésus Christ vẫn im lặng.

Ấy bởi vì câu nói trên của Ngài đã là lời đáp cho mọi câu hỏi rồi. Ngài không phải là con dân của non nước này, thì luật lệ của non nước này sao có thể lên án Ngài. Ngài chỉ ghé lại viếng chơi giây lát, ôn tồn tâm sự phút giây, rồi phiêu nhiên nhi khứ, như đã phiêu nhiên như lai…

Mọi oan nghiệt trần gian thế là được gột rửa sạch sẽ vệ sinh.

Trong trận lặng lẽ kia của Ngài, chẳng còn ai giết ai, chẳng còn ai anh hùng hữu hận…

Ngài đã đóng xong vai trò của thân thể ở trong cuộc hý trường hư vô kim cổ vô cùng giang mạc mạc.

Bài thơ của Xuân Diệu không có nói ra như thế. Lời thơ Nguyễn Trãi cũng không. Nhưng nó đã bao hàm tất cả những gì chuẩn bị cho linh hồn con người ta thể hội sự tình kia, trong cái thể điệu thi ca hiu hiu hắt hắt. Nó nói chuyện hoa rừng mà không phải chuyện hoa rừng. Nó nói chuyện người thơ, mà không hẳn là chuyện người thơ. Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế. Vô biên vô tế cũng có thể là hư vô mà cũng có thể là không phải là hư vô. Non nước ta không phải ở cõi đời này nhưng vì sao ta lại về đây và gieo Phúc Âm vào cho non nước? Gieo vào cho non nước, mà vẫn biết trước rằng non nước chẳng nghe ra. Non nước chẳng nghe ra thì công gieo là công uổng. Công uổng là luống công lao. Thế tại sao lại bận lòng gieo rắc? Bận lòng gieo rắc mà lòng dạ vẫn chẳng bận tâm. Chẳng bận tâm sao có sự đoạn trường. Sao có sự vụ đoạn trường tân thanh? Đã có đoạn trường tân thanh sao còn gọi là góp nhặt lời quê mua vui một vài trống canh cũng được? Mua vui chơi một cuộc sao còn thở than “bất tri tam bách dư niên hậu?”.

Nêu câu hỏi lai rai ráo riết như thế rốt cuộc ta chạm phải cái gì? Ấy là lời thơ hắt hiu đồng Bương Cấn:

Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?

Triệt ngộ cái lẽ ẩn mật trong nếp gấp thi ca, từ đó về sau chẳng bao giờ ta còn dám trách chúa Jésus mâu thuẫn. Tại sao lúc Ngài bảo là non nước này chẳng phai non nước của Ngài, rồi lúc lâm biệt, ngài lại thở than: “Hỡi Thượng Đế ! Vì sao Người bỏ rơi con !”. (Xem Trăng Châu Thổ).

Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Bùi Giáng -Đi vào cõi thơ (1)

Bùi Giáng
Đi vào cõi thơ
(Tuệ Sỹ, Trương Cam Vũ, René Crayssac, Huy Cận)

1

Tựa

Đi vào cõi thơ theo lối ngẫu nhiên tao ngộ. Cơ duyên sẽ dun dủi… Chẳng nên gò ép cưỡng cầu.

Người viết sách này có dụng tâm không sắp đặt theo thứ tự thứ loại thường thấy. Những bài thơ đến rồi đi. Lời “nhận định” cũng đi rồi đến…
Bùi Giáng




Tuệ Sỹ

Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u …

Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt.

Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghiệu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.

Nhưng có ai ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ.
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…

Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.

Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.

Ông đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ

Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? – Cung trời hội cũ. Một hội đạp thanh? Một hội nao nức? – “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”.

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ…

Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.

Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”.

Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe.

Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne.

Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.

Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (……..) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”.

Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch!

Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.

Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời hội cũ.

Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay vì quá long lanh?

Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng niệm cho thơ.

Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ.

Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang…

Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?

Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho ông một đôi giép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?

Mình là thân bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?

Phải có nhìn thấy gương mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.

Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzsche.

Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?

Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:

Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường:

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh

Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:

Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh

Tiết điệu cũng rời rạc như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi Xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm giã từ mọi yêu thương?

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn…

Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.


Trương Cam Vũ

Trương Cam Vũ là người thy sỹ đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi.

Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi đã bàn nhiều trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.


René Crayssac

René Crayssac là thy sỹ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ Pháp.

Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère.

Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.


Huy Cận

Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người ta dâng cả tình thương

Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng.

Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính.

Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có.

Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ
Tình đi mau sầu ở lại lâu dài
Ta đã để hồn tan trong tiếng thở
Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai

Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng.

Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du – Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh.

Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh.

Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày nay không thể nào quan niệm được ra.

Xa nhau mười mấy tỉnh dài
Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi.

Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ” như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.

Trông vời trời biển mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu.

Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng.

Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận.

Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi

Sang đêm thuyền đã xa vời
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang

Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước trường giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau.

Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.

Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia chăng.

Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.

Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamurti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái phận con ngợm.

Đó chính là cái lõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thi sỹ trung niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia.

Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn – càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.

Chúng ta thà chui vào một cái hang dế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia.

Nghĩ cũng kỳ dị thật. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn những da đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh.

Thôi thì thôi cũng chìu lòng
Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai.

Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc:

Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường…

Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường?

Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ.

Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:

“Chư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định hướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem Sương Bình Nguyên, trang 490).

Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử:

“Hữu thiên địa, nhiên hậu vận vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả doanh dã. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chỉ dĩ Mông. Mông giả Mông dã. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Cố thụ chi dĩ Nhu. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Tụng. Tụng tất hữu chúng khởi. Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…”

Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”:

Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên.


Thuyền Đi

Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi? biệt ly, nói tóm lại?

Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền Đi” của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế?

Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi

Sang đêm thuyền đã xa vời
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang

Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau

Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp.

Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên

Một cái gì bỗng dưng về giữa hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải là Thời Gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Về trong một lúc? Là về trong một Sát Na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở của Càn Khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng lên, đang chiều…”

Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du.

Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ.

Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi.

Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi

Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. – “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai !”.

Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay!

Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường.

Sang đêm thuyền đã xa rồi
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng

Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện.

Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi?

Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể? Cõi thái hư tịch mịch? Cõi sầu bi siêu thoát?

Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang
Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ

Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trơi nào thiểu não.

Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau

Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. “Deviens ce que tu es” – Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? – phát nguyện đại từ bi?

Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần:

“Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân… Truân giả doanh dã. Truân giả vạn vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…”

Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài.

Chết

Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bước
Miệng trao lời rồi đến buổi làm thinh
Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình
Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng

Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống
Ở trên đời - đầu ấy ngửng lên cao
Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào
Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí

Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ
Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa tươi
Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười
Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc

Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc
Còn biết gì đất ở trên kia
Bướm bay chi! Tay nhậy đã chia lìa
Tình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng

Bỏ chung chạ để nằm khô một bóng
Chẳng ai vào an ủi nắm bàn tay
Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngày
Tìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc.

Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Cuộc Sống ôi! Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao?

Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết.

Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống.

Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng.

Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi.

Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương.

Đức Phật ôi! Chính Ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn…

Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt.

Tinh thể của con người là: sinh - thể - cho - tử - vong?

Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp mặt biển dâu lảo đảo.

Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen…

Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn cái da đen? Cái da trắng văn minh hơn cái da đỏ?

Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thế giới mất ân tình. Cõi đời mất đời cõi. Thì lễ hội mất đi cái gọi là. Là gì? Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng:

Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Hội đạp thanh mất đi cái ý nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ…

Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế?
Kèn đám ma? Hay ấy tiếng yêu thương
Của cuộc đời…

Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng…

Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa
(Apollinaire)

Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Đi làm đạo sỹ? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Kỹ nghệ gia? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy.

Ngày còn đi học, hai bài thơ “Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu!

Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế.

Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui.

Nhạc sầu

Ai chết đó! Nhạc buồn chi lắm thế
Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả

Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành
Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh
Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy

Ai chết đó! Trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào
Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao
Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó

Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy

Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảy
Kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời
Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi

Người đã chết. Một vài ba đầu cuối
Dăm bảy lòng thương tiếc đến bên mồ
Để cho hồn khi sắp xuống hư vô
Còn được thấy trên mặt người ấm áp

Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp
Xe tang đi xin đường chớ ghập ghềnh
Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênh
Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt

Và ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiết
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn
Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu dẫn hồn người đã xế

Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió dường quạnh quẽ
Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế…
(Huy Cận)

Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kị. Nó có tính ăn hiếp. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta.

Bây giờ nên ngâm chơi vài vần “Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận:

Tặng em mười sáu

Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt
Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót
Để tay ngời nối lại với tay anh
Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh

Một giải lụa quấn qua hồn đây đó
Nỗi vui cũ ngày nay anh lại có
Thêu đời hồng anh nói ít lời hoa
Em ca lừng cho bốn phía sinh ca

Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới
Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng vời vợi
Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự hồn vui
Thuyền du dương anh cầm lái em mui

Chèo một nhịp hò khoan cùng vũ trụ
Em mười sáu ấy hoa đời đương nụ
Nở xuân quang anh vừa quá hai mươi
Ta nối tay tròn kết một vòng tươi

Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có thấy
Trong máu thắm dòng vui luôn tiếp chảy
Suối hân hoan cuồn cuộn sóng dương hòa
Làm nụ cười cho vạn vật muôn hoa
Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ Lạc
(Huy Cận)

Nguồn thơ vui nhất của Việt Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự đó không còn chi đáng nên ngạc nhiên.

Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn mình, vì thế ông sống trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mặt buồn vui của nhân thế.

Từ Nguyễn Du đến chúng ta bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà thôi. Một Quang Dũng mà thôi. Một J. Leiba, Kiên Giang, Hồ Dzếnh mà thôi.

Và mọi mọi chúng ta cũng từ đó mà mọi mọi được có một nguồn thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi.

Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng?

Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót. Đến từ xứ lạ? Xứ quen? Xứ xa xuôi vô ngần thân thuộc? Ngứa cổ hát chơi? Khi gió nắng vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa?

Họ đơn sơ hồn nhiên như thế. Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ chẳng bao giờ tranh giành địa vị? Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…

Khi ta đến các ngươi đà đến cả
Có Thiên Nhiên Suối Chị với Rừng Anh
Cỏ vạn dại đã quen chiều óng ả
Liễu thiên thu từng thuộc lối buông mành

Thơ Huy Cận dịu dàng như thế đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông đơn giản ca ngâm. Ông chân thành khiêu vũ. Đừng ai nỡ đem gán bừa cho họ những gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng tàn nhẫn một cách quá vô tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi buổi chiều về bên mình để tâm sự cô đơn:

Chiều ơi hãy xuống thăm ta với
Thiên hạ lìa xa đời trống không
Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ
Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng

Thiên hạ lìa xa? Thiên hạ vẫn ngồi đó. Vẫn làm thơ tặng nhau. Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa nhau dằng dặc…

Đã mấy năm rồi thơ nở hoa
Trang vui cũng lúc lệ buồn nhòa
Giòng đời cũng nặng sầu lưu thủy
Tóc nặng sầu tư gió thổi tà

Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn
Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn
Một buổi xưa kia phòng vắng bạn
Đó ngày quen biết với cô đơn

Buổi hoàng hôn dị thường nào xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm sự? Buổi hoàng hôn nhân loại. Ngày tận thế đó chăng? Không có lẽ như thế. Vì lời thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một bình minh sắp mọc trong hoang liêu:

Có lúc xa người bởi quá yêu
Than ôi sông núi lại buồn nhiều
Mây xa lạc gió bên trời vắng
Đời bạt lòng ta lại gặp chiều.

Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Nguyễn Bắc Sơn - Chiến tranh Việt Nam và Tôi

Nguyễn Bắc Sơn

Chiến tranh Việt Nam và Tôi


Nhị hồng

Lòng vui sướng như một chiều nắng tốt
Cầm tay em chầm chậm bước qua sông
Tà áo em buồn trắng đã căng phồng
Những tình ý một đời chưa nói hết

Trong thành phố này từ lâu anh vẫn biết
Ở đâu đây còn chảy một dòng sông
Ở đâu đây còn có mặt trời hồng
Có bến tịnh đậu con thuyền trôi nổi

Thời tuổi nhỏ đời anh buồn quá đỗi
Nhà anh nghèo ngày không đủ cơm ăn
Mẹ hai tay lau nước mắt nhọc nhằn
Cay đắng quá đàn con đâu có biết

Khi lớn khôn nhiều đêm anh hối tiếc
Ðã bao ngày mê mải với văn chương
Nhưng bất tài không viết nổi tình thương
Của người mẹ tóc dài đang nhuốm tuyết

Em cũng biết tình yêu anh bát ngát
Và ngây thơ như đồng mía lau say
Biết ngày xưa anh là ngọn gió tây
Thổi quanh quẩn con đường nhà em mỗi tối

Ta về với nhau vợ chồng không đám cưới
Khi em thành sương phụ áo màu đen
Anh bán đi chồng sách quí nuôi em
Cuộc tình hai ta sao cũng buồn quá đỗi

Khu vườn nhà ta sáng nay có nhiều lá mới
Những lá già rã mục tự hôm qua
Trong lòng anh cũng nở một bông hoa
Ðóa hoa chỉ mỗi mình em ngó thấy


Không có gì để khoan dung

Ở các quận miền Bắc
Có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính
Nhà tu được người đời tôn kính
Kẻ cầm quyền được người đời nể sợ
Kẻ giàu sang được người đời bợ đỡ
Các cô gái nhà lành được người đời chiều chuộng
Còn các gái điếm được người đời khinh khi
Ta không muốn tranh luận về vấn đề mãi dâm
Tôi chỉ muốn nói lên một điều dễ thấy
Nếu không có các nhà điếm ở bốn quận miền Bắc
Con số các cô nhà lành
Và lường gạt tình yêu
Ðương nhiên sẽ gia tăng
Người đời vốn có thói quen
Khinh rẻ bất cứ ai
Gặp những bất hạnh cùng loại
Tôi nhân danh một kẻ làm thơ
Có một điều khuyên các cô nhà lành
Là trước khi lên giường ngủ
Nên nguyện cầu cho các ân nhân.


Bức bích hoạ về một thành phố ban mai

Trong túi quần cậu học trò tiểu học
Có con dế than nồng nàn mùi đất ướt
Gáy lên đi ta
Gáy rung rinh làm rụng những lá me non.
Gáy niềm vui tích tắc trong trái tim chàng

Người lính đêm qua đi kích về gác chân lên
Chiếc xe chở đầy những ổ mì vàng nóng hổi
Cười nụ cười đầu tiên trong ngày.
Và bật que diêm đốt thuốc

Nhà văn đã hoàn thành tác phẩm
Ðứng ngoài thềm thích thú nhổ những chiếc chân râu
Như người phụ xe
Nhấp từng ngụm cà phê bốc khói

Nhân vật trong sách ông ta
Nhiều người chào đời nhiều người đã chết
Nhưng không ai hiểu vì sao mình được sinh ra

Vấn đề dở dang này không làm dở dang tác phẩm.
Người đọc chắc sẽ vô cùng thích thú
Dù cũng không hiểu vì sao

Những chiếc chân râu đế nhỏ
Trời sinh ra ta để sống
Gáy lên đi anh em


Những dự tính lãng mạn đầu năm 1970

Tặng Vĩnh Diên và Ôn Ðăng Khang

Ta sẽ đóng vai kẻ hành khất
Gõ cửa những nhà giàu trong thị xã mỗi sáng mai
Ta mang theo một ống sáo đồng
Cùng quyển kinh Việt Nam
Ta xin tiền
Chia cho các người nghèo trong các ấp
Ta đánh thức
Lương tâm người giàu
Bằng tính lì lợm của ta

Ta sẽ đóng vai người thợ thiến
Chuyên môn đi thiến vòi
Những thằng điên
Những chính trị gia
Những kẻ say mê giết người vì lý thuyết
Những nghệ sĩ viễn mơ
Ta thiến tuốt
Không phải những hệ lụy và những thống khổ lớn lao
Của loài người
Phát xuất từ chiếc vòi ấy hay sao?
Người thợ thiến chính là nhà văn hóa lớn

Nhưng đây mới là điều ta khát khao nhất
Ước gì ta lên được núi cao
Và tịnh cốc
Ðể đi nốt con đường thiền
Con đường trước mặt
Ôi hạnh phúc,
Bao giờ ta biến thành người?!...


Viết tặng các nhà cách mạng giả hình trong thời đại tôi

Trong góc nhà tôi
Sống một chàng dế nhủi
Y cao hứng cất tiếng ca
Ðánh thức những sinh vật vô hình trong đêm tịnh mịch
Y đánh thức luôn tôi
Khi tôi cất tiếng sáo đồng lên thổi
Y im lặng nghe tôi
Giữa tôi và y nảy sinh một tình thân lặng lẽ

Trong đáy giếng nhà tôi
Sống một con cá trào già
Những đêm trăng
Dường như y không ngủ được

Y bì bõm
Chơi đùa cùng ánh trăng, khí hàn và nước
Tôi ngồi bên thành giếng
Im lìm chiêm ngưỡng y

Bên cạnh nhà tôi
Sống một kẻ láng giềng
Y thường phóng uế trước nhà
Khi con gà nòi của y đi lạc

Y nhìn vào nhà tôi
Và chửi thề như máy
Tôi định đến mùa hè này
Sẽ đá y một đá

Nếu chúng ta tự đáy lòng
Không mảy may yêu người hàng xóm
Vậy hi sinh vì cách mệnh có nghĩa gì.


Con trai ta chào đời
Người bạn ta nằm xuống

Khi vì sao Hôm lặn
Chúng ta có một vì sao Mai mọc
Ôi Trần Thái
Năm ta sinh đứa con trai đầu tiên
Cũng là năm em gục chết
Gã du kích mù
Bắn viên đạn mù
Vào thân thể người sĩ quan lim dim ngoài trận mạc
Trong trận chiến mù mịt này
Chúng ta làm sao tỉnh thức
Khi em chết đi
Em sẽ thành sấm sét
Thành bụi vàng
Thành gió thành mây
Trong vũ trụ hoài hoài sinh diệt
Con trai ba
Năm nay chào đời trong căn nhà ba ấm áp
Ngoài kia, ngoài khu rừng khói sương kia
Trần Thái bạn ba đã chết

Con sinh ra đời
Chắc gì đã là điều đáng vui
Bạn ta gục chết
Chắc gì đây là điều đáng tiếc
Con đã chào đời
Con sẽ thành gì hỡi con ta
Con sẽ thành một chính trị gia
Xúi đồng bào chơi trò chơi khủng khiếp
Con sẽ thành một nhà thơ
Một anh hùng bất lực
Con sẽ thành một giáo sư
Ru ngủ học trò
Bằng những điều con không mảy may tin
Một trẻ con mới sinh
Chắc gì là điều đáng vui
Một người chết
Chắc gì là điều đáng tiếc


Bài ca khổ nhục

Mày về thăm ta như chuột lột
Thất thểu chỉ còn xương với cốt
Tráng sĩ kia hề qui cố hương
Thê thảm còn hơn thằng cốt đột
Tráng sĩ kia hề qui cố hương
Chinh chiến sao mày không chết tốt
Dăm đồng rượu trắng vội bày ra
Nhậu để khói sầu lên ngút ngút
Ðó là phương thuốc trị bùi ngùi
Ðốt lòng uất hận cao ngùn ngụt
Ngửi mày một tí xem làm sao
Thân thể mày bay mùi binh đao
Ngày trước mày hiền như đất cục
Giờ mở miệng ra là chửi tục
Hà hà ra thế con nhà binh
Ngôn ngữ thơm tho như mùi cứt
Ngày trước mày định đi tu tiên
Giờ lính tu bi-đông ừng ực
Người đời dễ đâu theo ý mình
Như hạt bụi nhằm con gió trốc
Bạn mày nằm nhà thất nghiệp dài
Mẹ già không tính tiền cơm thuốc
Ngày xưa văn nghệ ta mê làm
Cách mệnh còn hăng say vượt bực
Giờ tối nằm mơ chỉ thấy tiền
Nhân nghĩa gì gì quên tuốt luốt
Thèm tiền song quả đứa vô tài
Nên thằng ta đây chỉ có nước
Mỗi tuần một vé số mươi đồng
Thê thảm ôi làm sao tả được
Hai ta cùng quẫn như thế này
Nhắc làm chi nữa cho tủi nhục
Vậy xem như mình đã chết rồi
Chí lớn mộng to đều đã vứt
Quên trời quên đất quên luôn ta
Dăm đồng rượu trắng cùng say khướt.


Tha lỗi cho tôi

Tiếc mày không gặp tao ngày trước
Ta cho mày say quất cần câu
Rượu bia bốn chục chai đồ bỏ
Uống từ chạng vạng suốt đêm thâu

Thành phố giới nghiêm ta ngất ngưỡng
Một mình huýt sáo một mình nghe
Theo sau còn có vầng trăng lạnh
Cao tiếng cười buông tiếng chửi thề

Thời đó là thời ta chấp hết
Lửng lơ hoài trên chiếc đu quay
Ðời mình như ly rượu cạn
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày

Thời đó là thời ta bất xá
Sẵn sàng chia khổ với anh em
Hơi cay, đạn khói, dùi ba trắc
Bước cũng không lui trước bạo quyền

Bây giờ ta đã thành ti tiểu
Uốn vào khuôn khổ cuộc đời kia
Loanh quanh trong chiếc chuồng vuông chật
Sống đủ trăm năm kiếp ngựa què.


Những năm tâm hồn còn trữ tình điên mê vì thi ca và triết học

Ngoài nghĩa trang có một tòa cổ miếu
Trưa học về chàng hay trốn vào đây
Gởi tâm hồn vào những đám mây bay
Ði tranh luận cùng thánh hiền thiên cổ

Ðến thư viện chàng vội vàng trở lại
Chồng sách cao chôn mất nửa đời người
Còn thi ca? Ta không còn muốn nhớ
Những thiên đường không tưởng tuổi mê chơi

Có một lần trong đêm mù thác loạn
Trăng non nằm trên bãi nước vi vu
Tôi cất tiếng, tiếng chìm trong tiếng sóng
Chàng đi lùi như một kẻ miên du

Trùng bọt biển tấp chìm vào chân sóng
Em là chim bay thoát tới trời xa
Ta còn ta trong cánh rừng hoài vọng
Vuốt tóc bồng theo dấu vết em qua

Mùa bão rớt đưa tang trong thành phố
Anh không về theo ngõ tối bờ sông
Từng tối đến anh không về thổi sáo
Vì phố lầu không có kẻ ngồi mong

Nước dâng cao vùng biển chiều trăng đỏ
Một góc bờ ngồi đắp cát lên chơi
Chàng lặng lẽ gối lên chồng sách nhỏ
Ngủ âm thầm như chiếc bóng mùa đông.


Những điều cần nói khi thôi học 1963

Khi ta thôi học
Người khách trú bán ve chai già đã chết
Y đã hát cho ta nghe
Những buổi trưa buồn rầu
Trong ngôi trường đầy vết tích chiến tranh
Những bài hát làm nhớ hoài một nước cổ Trung Hoa
Một nước Trung Hoa loạn lạc
Thiếu cơm và thừa nước mắt
Ôi giấc mộng anh hùng Lương Sơn Bạc
Khi ta thôi học
Các giáo sư dạy cho lũ học trò những điều họ không tin
Và chúng ta tin những điều họ không dạy
Khi ta thôi học
Ta không biết con người sinh ra để làm gì
Và ta mải miết
Ði tìm câu trả lời
Ðể sống yên tâm


Say

Tặng Phan Anh Dũng

Vết chém trong tâm hồn
Nhức nhối cùng con nước lớn
Sóng vỗ bọt vào ghềnh
Nỗi sầu theo rượu bia
Ðủ làm ta chếnh choáng
Một vầng trăng lãng đãng
Ðậu trên hàng dương cao
Lòng ta làm đáy hồ
Chìm trong vầng ánh sáng
Lòng ta là thạch động
Con chim tình cô đơn
Hót mãi bài vô vọng
Bãi cỏ con đường mòn
Ta chỉ là chiếc bóng
Thôi Dũng ơi hãy ngừng
Bài không tên, không tên
Vũ Thành An nức nở
Khi nghe mày hát lên
Thây ma trong cửa mộ
Không thể nào ngủ yên
Khi nghe mày khóc lên
Lòng ta là núi đá
Trên ngọn núi Bắc Sơn
Những buổi chiều lính thú
Ta tưởng đã từ lâu
Thành một người dửng dưng


Chân dung tự hoạ

Ta sống ở đời như một kẻ nhàn du
Trôi qua tháng, trôi qua ngày
Trôi trên cuộc đời huyễn mộng
Trôi từ chiếc nôi ra đến nấm mồ
Trên trái đất có rừng già, núi non cùng sông biển
Trong Nguyễn Bắc Sơn có một kẻ làm thơ
Kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng
Hoặc làm thơ theo khí hậu từng mùa
Bạn bè đã chia xa ta khề khà cùng sách vở
Mất bảy năm trời ta hiểu Thích Ca
Ôi nụ cười đã từng đêm ta mất ngủ
Những ngày ăn gạo lức muối mè chữa bệnh
Tắm mình trong dòng triết học cực Đông
Những ngày xem zen là lẽ sống
Hạnh phúc về như nước lấp con sông
Ta đổi mới ta nồng nàn sức sống
Như mùa mưa phân phối ruộng đồng xanh
Ta dự tính giã từ vai khán giả
Nối vòng tay, vòng tay lớn Việt Nam.


Chúng ta không phải sinh ra để sống như thế này

Những ngày lửa
Thị xã chúng ta giống như một chuồng khỉ chật
Nơi đó lũ thị dân đóng đủ trò
Và làm khổ nhau vì những điều thuần tưởng tượng
Những ngày như hôm nay
Mọi vật đối với ta đều quái gở
Người hàng xóm ta
Ðang cởi trần chửi thề khí hậu
Ðến giờ đi làm
Hắn trở thành người cảnh sát nghiêm trang
Sau khi đội mũ và thay đồng phục
Ðến giờ đi làm
Bạn ta những thằng đang cởi trần kêu khổ
Trong những căn nhà hộp
Bỗng nhiên
Trở thành quan tòa
Ðứa trở thành thầy giáo
Ðứa tài xế
Ðứa nhà văn
Ðứa quan ba
Ðứa khùng khùng
Thật là quái gở
Nhưng thật ra chúng ta là ai?
Ðêm nay trời bỗng mát
Trong đáy hồ tâm thức
Ta câu lên một bầy rắn nước
Con rắn này có tên là Nguyễn Bắc Sơn
Con này tên tiền của
Con này tình yêu
Con này danh vọng
Thật quái gở
Trong đáy hồ tâm thức, khuya nay trong cơn thiền
Ta đã câu lên và đã nhìn tận mặt
Những con rắn chết
Dường như kiếp trước ta không phải là kẻ định cư
Trong những thị trấn đầy phó bản văn minh


Quà tặng bằng hữu

Ta bẩm sinh vốn là người thích tặng
Ngày xưa ta đến trường
Ta thường tặng cho gã hành khất
Tiền ăn sáng của mẹ ta cho
Ta tặng cho bạn bè
Những chồng sách ta hằng yêu quí
Ta định tặng cho mọi người
Một món quà thật lớn
Tặng cho người ta yêu
Tặng luôn người ta ghét
Tặng kẻ từng quen biết
Tặng luôn kẻ không quen
Tặng thế hệ mai sau
Những kẻ chưa sinh khi ta đã chết
Ðiều ta tặng chính là một điều khoái cảm
Trong gói quà
Có núi có sông
Có rừng có biển
Có những sinh vật dễ thương
Có âm thanh và ánh tượng
Có một Việt Nam
Quằn quại trong cơn đau
Có khí thế đang lên
Xây đời hậu chiến
Ðiều ta tặng chính là một bài thơ hay
Kẻ làm thơ chính trực
Là kẻ tặng mọi người
Những gì y có
Sau cùng còn cái mạng không
Y tặng nốt cho người y yêu.


Viết cho các con tôi

Kính dâng Mẹ

Khi các con khôn lớn thế nào cũng nghe kể chuyện đời ba
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba
Dù ở tiểu khu này ba là tên tiểu tốt
Nhưng các con nên tự hào ở tấm lòng ba

Ôi câu chuyện người anh hùng lỡ vận
Nên bụi đời cùng những kẻ ngu phu
Ðó là câu chuyện đời ba các con cần phải nhớ
Ôi một quãng đời dài lê bước ưu du

Ba không cực lòng khi bị đời khinh rẻ
Con đường ba đi đã chọn từ lâu
Nhưng khi nhìn những đám hoa râm trên đầu tóc nội
Ba đã khóc thầm khi nghĩ đến mai sau

Rồi mai mốt khi các con đã lớn
Hãy tìm trong trang nhục sử Việt Nam
Ðể thấu hiểu vì sau ba khổ cực
Vì sao nên đất nước lầm than


Trên đường tới nhà Xuân Hồng

Khi qua cầu thấy từng chùm ánh sáng
Trên những chiếc lưng trần của lũ cá thu đen
Thấy ngôi nhà em soi mình trong bóng nước
Và thấy tình yêu đầy những nỗi bi hoan

Khi qua nghĩa trang thấy một bầy mả đá
Nghĩ đời mình đâu đến một trăm năm
Nên muốn suốt đời làm tên lãng tử
Trăng mọc đêm nay lạnh chỗ nằm

Trước khi tới nhà phải trèo lên dốc
Mối tình mình cay đắng biết bao
Và tình yêu phải chăng có thật
Hay chỉ là ảo vọng đâu đâu

Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại yêu em?
Ôi mắt em nhìn như là bầy chuột
Ta quàng xiên nên đã sa chân.


Mai sau dù có bao giờ

Ðêm phù cát dù bên ngoài trời rất lạnh
Nhưng trong ngôi nhà tranh của thiếu úy Hồ Ban
Có tình bạn nồng nàn như ly rượu chôn nhiều năm dưới đất
Có câu chuyện tình thi vị man man

Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Ðể choàng vai ấm áp cuộc rong chơi

Vì đàn bà người nào cũng như người nấy
Nên ta bảo mình thôi hãy quên em
Nhưng đàn bà đâu phải người nào cũng như người nấy
Nên suốt đời ta nhớ nhớ, quên quên

Dù mỗi ngày ta xé đi năm mươi tờ lịch
Nhưng thời gian đâu có chịu trôi nhanh
Dù đen bạc là nơi cố xứ
Nhưng đi biền biệt cũng không đành


Thảo khấu

Buổi sáng xuất quân về phương Bắc
Âm thầm sương sớm toán quân ma
Qua cầu Sông Lũy nhìn quanh quất
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà

Nước reo bèo dạt mặt trời lên
Khói núi lời ca chú dế mèn
Cỏ gió cao che đầu tráng sĩ
Thanh cầu gõ súng nhạc leng keng

Vì sao ta tới đây hò hét
Học trò bẻ bút tập cầm gươm
Tập uống máu người thay nước uống
Múa may theo lịch sử điên cuồng

Vì sao người đến đây làm giặc
Ðóng trò tráng sĩ loạn Xuân Thu
Giận đời ghê những bàn tay bẩn
Ðưa đẩy người trong cát bụi mù

Buổi chiều uống nước dòng Ma Hí
Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh
Hỡi ơi sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình

Ðốt lửa đồi cao không thấy ấm
Lính Chàm giận ghét Chế Bồng Nga
Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt
Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà?


Mật khu Lê Hồng Phong

Tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
Còn ngại hành quân động Thái An
Cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu nước lính hoang mang

Ðêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng buồn bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Vung tiền mua vội một ngày vui

Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoát đã ở phương tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến thành mây bay

Linh hồn ta sẽ thành đom đóm
Vơ vẩn trong rừng động thái an
Miền Bắc sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm những đám sương tàn


Nhắc đến Ma Lâm

Chiều Thiện Giáo hồn mình đầy bóng núi
Con đường mìn ươm vết máu đơm khô
Khu phố quận những đời người đã mỏi
Cỏ xanh đùn cao gió khói hư vô

Ðêm ngủ đổ ngâm thơ cùng đại bác
Hồn lao đao trong chuyến trực thăng bay
Ðâu có chắc mặt trời mai sẽ mọc
Trời rây mưa lành lạnh khiến thèm say

Khuya thức mãi trầm tư cây đèn lạp
Cháy trong lòng men nhạc Trịnh Công Sơn
Ðêm không ngủ trong những ngày bão táp
Ôi những ngày máu ứa xác quê hương

Tôi hỡi tôi xin đừng chết nhé
Bóng hòa bình thấp thoáng ở miền Nam
Ngày ta mong nằm trong tầm tay với
Sao thấy lòng chưa dứt mối hoang mang

Chiến tranh quá dài nên người quá khác
Không thể mừng vui rước tiếp hòa bình
Ðêm đen quá dài nên người quá khác
Không thể nào tin sẽ có bình minh


Một tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân

Khi tao đi lấy khẩu phần
Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
Chúng mình nhậu đế trừ hao
Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng
Mùa này gió núi mưa bưng
Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan
Mùa này gió bão mưa ngàn
Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà
Những thằng lính trẻ hào hoa
Lưu đày trong cõi rừng già núi xanh
Lao mình vào chốn phân tranh
Tiếc thương xương máu sinh thành được ư


Tiệc tẩy trần của người sống sót

Bóng bồ câu gù trên đầu ngọn tháp
Ai chèo thuyền câu cá giữa dòng sông
Vẫn còn đây bóng dáng chiếc cầu cong
Ðây có sẵn rượu bia đồ nhắm tốt
Các bạn cũ những thằng nào vô phước
Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua
Hãy về đây mà say khướt cùng ta
Này bóng mây cao, này vòm lá thấp
Con đường phố người anh em tấp nập
Một người này yêu một chút người kia
Tay ấm trong tay chân ấm viả hè
Trái tim ấm lửa tình người ấm áp
Người sống sót nâng ly mời kẻ khuất
Lại gần đây trên bãi cỏ bờ sông
Soi mặt mình trong dòng nước xanh trong
Ðể nhìn thấy hình bản lai diện mục
Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt
Xin giã từ đời vũ khí huy chương
Xin trở về như một kẻ hoàn lương
Xin vứt hết, xin bắt đầu lại hết.


Ở đời như một nhà thơ phương Đông

Y là một nhà chiêm bái đích thực
Có cần chi
Ði hàng ngìn dặm đường
Ðể nhìn các thánh tích

Một ngày kia y chiêm bái đồng lúa chín vàng
Và tìm thấy lòng hảo tâm của trời đất

Một đêm kia
Y chiêm bái ngọn bấc đèn
Và tìm thấy sự ấm áp vô cùng của lửa

Y chiêm bái hạt muối trắng tinh
Y chiêm bái hạt mè đen bóng

Có lần y chiêm bái một hạt mưa sa
Trong hạt mưa có khuôn mặt trẻ con
Cùng đôi mắt chiêm bái người nữ
Y bỗng rùng mình biến thành vũ trụ.


Căn bệnh thời chiến

Một ngày chủ nhật phơi giầy trận
Ta bỗng tìm ra một vết thương
Vết thương bàng bạc như là khói
Ngưng đọng nhà ai ở cuối đường
Mày gởi một chân ngoài trận mạc
Mang về cho mẹ một bàn chân
Mẹ già khóc đến mù hai mắt
Ðời tàn trong lứa tuổi thanh xuân
Chiều chiều ngồi nhà hút ống vố
Cao giọng ngâm chơi khúc cố văn
Chiến tranh xa tít như là mộng
Thôi kể ra mày cũng yên phần
Ta may mắn tay chân lành lặn
Nhưng tâm hồn trống rỗng bơ vơ
Mỗi ngày chữa bệnh bằng ly rượu
Tối nằm đánh vật với cơn mơ
Ta mắc bệnh ung thư thời chiến
Thoi thóp còn một trái tim khô
Sợ hãi con người hơn thú dữ
Nhìn nơi nào cũng thấy hư vô
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
Ta chắc rằng không thể yêu ai
Nhà thương điên nếu còn chỗ trống
Xin chiếc giường cho xác tàn phai
Mai kia khi thành đồ phế thải
Ta lên cao nguyên nằm dưỡng thương


Cười lên đi tiếng khóc bi hùng

Ðời bắt một kẻ làm thơ như ta đi làm lính
Bắt lê la mang một chiếc mu
Nên tâm hồn ta là một cánh đồng úng thủy
Và nỗi buồn như nước những đêm mưa

Trong thành phố này ta là người phản chiến
Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu
Râu tóc mọc dài như bầy cỏ loạn
Sống thật âm thầm, ai hiểu ta đâu

Dù đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu
Trời đất bao la ta chỉ có một mình
Nhưng làm sao quên cuộc đời dưới đó
Quên những thằng người bôi bẩn kiếp nhân sinh

Ngày hôm nay ta muốn chặt đi bàn tay trái
Ðể được làm người theo ý riêng ta
Ngày hôm nay ta muốn chọc mù con mắt phải
Ngày hôm nay ta muốn bỏ đi xa

Khi nâng chén lên cao ta muốn cười lớn tiếng
Cười lên đi những tiếng bi hùng
Ðời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính
Chiếc mai rùa đã nặng ở trên lưng

Nguồn: In lần đầu tại nhà xuất bản Đồng Dao, Sài Gòn, 1972.

Kenzaburo Oe -Nuôi thù (3)

Kenzaburo Oe


Nuôi thù


Diễm Châu dịch

CHÚNG TÔI BẮT ĐẦU MỜI TÊN LÍNH da đen ra khỏi hầm và đưa nó đi dọc theo con đường trải đá xuyên qua làng. Việc này chúng tôi thường làm, và người lớn không than phiền gì cả. Mỗi khi gặp tên lính da đen đi trên đường giữa đám trẻ con chúng tôi, họ thường quay mặt đi chỗ khác tránh sang một bên, y như họ vẫn thường bước qua một bụm cỏ tránh lối cho con bò mộng của công nuôi ở nhà ông đầu làng.

Ngay cả những khi lũ trẻ mắc công chuyện trong nhà không thể tới thăm thằng da đen ở dưới hầm được, nó cũng vẫn thường lên khoảng sân trống bên căn nhà chứa đồ mà ngủ thiu thiu dưới bóng cây hoặc chầm chậm thả bộ dọc theo con đường làng, đôi vai cúi lom khom. Chuyện quen dần đến nỗi người lớn cũng như trẻ con, không ai còn một cảm tưởng kinh ngạc nào nữa. Thằng da đen đã trở thành một thành phần của sinh hoạt trong làng, không khác gì lũ chó săn, lũ trẻ con hoặc cây cối.

Đôi khi Cha thường trở về nhà lúc tảng sáng, mang bên mình một cái bẫy dài mà hẹp làm bằng mấy tấm ván đóng đinh rất thô sơ, bên trong lồng lộn một con chồn, cái mình mập mạp dài ngoẵng. Những hôm ấy tôi với em tôi thường phải mất trọn cả buổi sáng ngồi trên nền đất trống của căn nhà chứa đồ, giúp vào việc lột da, và hai anh em thường cầu mong thằng da đen tới coi chúng tôi làm việc. Mỗi khi nó tới chúng tôi thường nín thở quỳ hai bên Cha trong lúc người nắm chặt cái chuôi nhẫy bóng của con dao mổ vấy máu; và chúng tôi thường vì thằng da đen tới coi mà mong sao cho cái chết của con chồn lanh lẹ, bất trị kia được êm đẹp và việc lột da được khéo léo. Trong lúc bị chẹt cổ, con chồn thường tống ra một thứ mùi hôi thối khủng khiếp — một cử chỉ oán hận cuối cùng trong lúc giẫy chết. Một tiếng xé nhẹ khi lớp da bị lưỡi dao sáng mờ của Cha lách ra, và cuối cùng toàn thân nó cuộn trong một lớp thịt sáng long lanh, nằm phơi trần dưới mắt chúng tôi, nhỏ bé và tục tĩu. Khi chúng tôi đưa bộ ruột của nó ra đống phân, cẩn thận không để rơi rớt, ném đi và trở về chùi tay vào những chiếc lá cây to, bộ lông da con chồn đã được đóng đinh vào tường, phía bên trong lật ngửa ra, lớp mỡ và những mạch máu li ti lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đôi môi chúm lại phát ra một tiếng kêu như tiếng huýt sáo, thằng da đen giương mắt nhìn những vết nhăn thành hình trên mặt lớp da trong lúc Cha đưa mấy đầu ngón tay to gẩy lớp mỡ đi cho mau khô. Và cuối cùng, khi thấy bộ lông da căng trên tường khô queo, như một đầu móng tay với những vết màu máu chạy trên đó như những đường xe lửa trên một tấm bản đồ, thằng da đen thường trố mắt kinh ngạc khiến cho em tôi và tôi cũng phải đâm hãnh diện vì cái tài khéo của Cha. Cả đến Cha đôi khi cũng ngừng công việc vẩy nước trên mấy miếng da để đưa ánh mắt thân thiện nhìn tên lính da đen. Những lúc ấy, tôi với em tôi với thằng da đen và Cha hợp nhất với nhau như thể người trong cùng một nhà quây quần quanh cái tài lột da chồn khéo léo của Cha.

Thằng da đen cũng thích ngó vô xưởng rèn nữa. Thỉnh thoảng, nhất là những khi Sứt Môi, cái mình trần lấp loáng trong ánh lửa, đứng phụ ông thợ rèn làm cuốc, trẻ con chúng tôi lại tới nhà ông thợ rèn với thằng da đen đi giữa. Khi ông thợ rèn lượm một miếng sắt đỏ hồng bằng mấy ngón tay phủ đầy than, và thọc sâu xuống nước, thằng da đen lại kinh ngạc la lên trong lúc lũ trẻ vỗ tay hoan nghênh. Chính ông thợ rèn cũng đâm hãnh diện và thường sử dụng cái phương pháp biểu diễn tài nghệ nguy hiểm này.

Thậm chí mấy người đàn bà cũng hết sợ thằng da đen và thỉnh thoảng chính họ lại còn tự tay đưa thẳng đồ ăn cho nó nữa.

Mùa hè đã lên tới độ gay gắt nhất mà vẫn chưa có chỉ thị nào của cơ quan chính quyền ở vùng tới. Người ta đồn rằng đô thị nơi đặt các cơ sở vùng đã bị phá hủy trong một vụ phi cơ oanh tạc, nhưng tiếng đồn này không có hiệu lực gì đối với chúng tôi. Không khí nóng nực hơn bất cứ thứ lửa nào có thể thiêu hủy một thành phố bao trùm lấy khu làng chúng tôi hết ngày nọ qua ngày kia. Chung quanh người thằng da đen, mỗi khi chúng tôi ngồi với nó trong căn hầm lặng lẽ, kín bưng, một cái mùi hôi nồng nặc, nhầy nhụa, có thể nói là ngột ngạt bắt đầu đè nặng — một thứ mùi phảng phất cái mùi thịt chồn thối rữa trên đống phân công cộng. Đó chính là nguồn giải trí thường xuyên cho chúng tôi, và chúng tôi thường cười lớn về chuyện đó cho đến khi nước mắt chảy cả ra; thế nhưng đến khi thằng da đen bắt đầu đổ mồ hôi thì cái mùi da của nó hôi hám quá sức khiến chúng tôi không thể nào ở gần nó được.

Một buổi chiều nóng nực, Sứt Môi đề nghị chúng tôi đưa thằng da đen ra chỗ suối nước công cộng trong làng. Ân hận vì đã không nghĩ ra việc đó từ trước, chúng tôi nắm lấy hai bàn tay dơ dáy, nhớp nháp của thằng da đen mà kéo lên thang. Lũ trẻ con tụ tập ngoài sân trống vây lấy chúng tôi với những tiếng la hét, và chúng tôi hùa nhau chạy trên con đường bỏng cháy dưới ánh mặt trời.

Chúng tôi cởi hết quần áo ra trần trụi như gà bị vặt lông, lột áo quần thằng da đen, rồi cùng với đám đông nhảy xuống giữa lòng suối, té nước lên nhau và bắt đầu la hét om sòm, say mê với cái sáng kiến mới mẻ nhất của chúng tôi. Thằng da đen ở trần to đến nỗi ngay cả ở chỗ lòng suối sâu nhất nước cũng chỉ vừa tới ngang hông nó. Mỗi khi chúng tôi té nước vào nó, thằng da đen thường kêu ré lên như một con gà mái bị vặn cổ và lại thọc đầu xuống dưới mặt nước. Nó ở nguyên dưới đó cho đến khi bắt buộc phải đứng dậy, vừa phun nước ra phì phì vừa la hét. Cái mình trần loáng ướt của nó phản chiếu những tia nắng gắt sáng lên như mình con ngựa ô; thật là hoàn hảo và đẹp. Chúng tôi té nước và la hét, được một chốc lũ con gái nhỏ tụ tập dưới bóng râm mấy cây sồi cũng vội vàng nhảy xuống nước nhúng những tấm thân gầy còm (...). Khi Sứt Môi nắm lấy một đứa và bắt đầu cái trò dơ bẩn, chúng tôi kéo thằng da đen qua và chỉ cho nó coi thằng Sứt Môi (...) từ một vị trí thuận lợi nhất. Ánh nắng gay gắt tung tóe khắp trên thân mình rắn rỏi của chúng tôi, nước nóng sôi lên và sáng lấp lánh. Sứt Môi cười, cái mặt đỏ gay, và khi xòe bàn tay ra đét vào đôi mông loáng ướt của một đứa con gái hắn cất tiếng la lớn. Chúng tôi cười đến phát đau; đứa con gái nhỏ khóc.

Đột nhiên chúng tôi thấy thằng da đen có một cái giống tuyệt vời, dũng mãnh, ngoạn mục và đẹp không thể nào tin được. Chúng tôi xúm quanh nó la hét, thân mình trần truồng ngả nghiêng va chạm nhau, thế rồi thằng da đen nắm lấy (...), lấy thế đứng táo tợn của một con cừu đực sắp sửa phóng tới và buông ra một tiếng gầm dữ dội. Chúng tôi té nước lên (...) thằng lính da đen và cười ngất cho đến khi nước mắt ràn rụa trên má. Thế rồi Sứt Môi nhảy ra khỏi mặt nước, trần truồng phóng đi và trở lại với một con dê cái giắt từ sân nhà người bán thực phẩm. Chúng tôi vỗ tay hoan nghênh cái ý kiến thần tình ấy. Thằng da đen há hốc cái miệng hồng hồng và la lên rồi múa may bước ra khỏi vũng nước (...). Chúng tôi cười như điên dại.

Chúng tôi coi nó như một thứ gia súc hiếm hoi, lạ lùng nào đó, một thứ súc vật siêu đẳng, tuyệt vời. Lúc này làm sao tôi có thể diễn tả lại được cái tình thương mến của chúng tôi đối với thằng lính da đen ấy, cái ánh nắng chập chờn vờn trên làn da dầy loáng ướt của nó buổi chiều hè xa xôi chói lòa ấy, những bóng tối thâm u trên làn đá mòn, cái mùi của lũ trẻ và thằng da đen, làm sao tôi có thể diễn tả cái nhịp nhàng phong phú của tất cả những thứ đó ?

Đối với chúng tôi lúc ấy thì dường như cái mùa hè của những bắp thịt trần lấp lánh — cái mùa hè như một giếng dầu chợt vọt lên xối xả tỏa xuống, bao phủ lấy chúng tôi bằng một lớp dầu khoái cảm đen đậm kia — sẽ tiếp tục mãi không cùng, không bao giờ có thể cùng được.


TỐI HÔM CHÚNG TÔI LÀM CÁI LỄ TẨY trần ấy, một cơn giông bão mịt mù bủa kín thung lũng, và mưa rơi suốt đêm. Sáng hôm sau trời vẫn còn mưa; em tôi, Sứt Môi và tôi phải bám lấy vách căn nhà chứa đồ khi đem thức ăn lại cho thằng da đen. Ăn xong, thằng da đen hai tay bó gối bắt đầu hát nho nhỏ. Chúng tôi xòe mấy ngón tay ra đứng bắt bụi mưa hắt vào qua khung cửa trổ trên nóc, trôi theo tiếng hát lớn dần lên của thằng da đen, trôi theo những bài ca uy nghiêm và trọng thể như biển cả. Lúc nó ngừng hát, mưa cũng không còn rắc bụi qua khung cửa. Nắm lấy cánh tay nó, chúng tôi kéo nó ra khoảng sân làng trong lúc nó vẫn tươi cười. Sương mù đột nhiên cuốn khỏi thung lũng, và cây cối hút đẫm nước mưa trong đám lá cành rậm rạp căng phồng lên như những con gà mái tơ. Mỗi cơn gió nhẹ thoảng qua, chúng lại đung đưa tung nhẹ những cánh lá ướt và những giọt nước mưa tạo thành những đường cầu vồng thoáng qua mau chóng. Ve sầu khởi sự bay vào đó. Chúng tôi ngồi thật lâu trên tấm đá ở ngay lối vào hầm, hít thở cái mùi thơm của cây cối đẫm nước trong hơi nóng ban ngày đương hồi lại giữa tiếng ve ran ran.

Quá trưa, lúc ông Ký cắp cái ô đi xuống lối mòn xuyên qua rừng tới nhà ông đầu làng, chúng tôi vẫn còn ở đó. Chúng tôi đứng dậy và dựa người vào thân cây mơ già hãy còn rả rích nhỏ giọt chờ cho ông Ký lò cò nhảy ra khỏi vùng tối đen của ngôi nhà để có thể ra hiệu cho ông. Nhưng chúng tôi chờ đợi hoài công vì ông Ký không xuất hiện. Thay vào đó, tiếng chuông báo động ở chái nhà ông đầu làng lại vang lên báo hiệu triệu tập cho người lớn đương làm việc ở dưới thung và trong rừng, và đàn bà, trẻ con từ những căn nhà sũng nước mưa cũng bước cả ra đường.

Tôi quay lại nhìn thằng da đen và thấy nụ cười đã rời bỏ màu sáng nâu trên gương mặt nó. Ngực tôi thắt lại với một nỗi bất an đột ngột. Bỏ mặc thằng da đen ở đó, tôi với em tôi và Sứt Môi chạy tới lối vào nhà ông đầu làng.

Ông Ký đương đứng yên lặng ở lối cửa, không để ý đến chúng tôi. Ông đầu làng khoanh chân ngồi trên khoảng sàn lót ván cao dường như đương trầm tư mặc tưởng. Cố gắng kiểm soát những điều chúng tôi hy vọng có lẽ cũng chẳng ăn thua gì, chúng tôi nóng nảy đợi cho người lớn họp lại. Dần dà họ từ ngoài đồng, rừng kéo về, trên người còn mang quần áo làm việc, đôi má xị xuống vì bực bội. Cha cũng trở về với một mớ chim nhỏ buộc chặt vào nòng súng.

Cuộc họp mới bắt đầu thì ông Ký đã làm tiêu tan mọi hy vọng của lũ trẻ khi giải thích bằng tiếng địa phương rằng người ta đã quyết định trao thằng phi công da đen cho các nhà chức trách vùng. Chính ra, ông nói, quân đội phải tới đưa nó đi, nhưng hình như quân đội đương lộn xộn và bất đồng ý kiến với nhau, vì thế họ yêu cầu dân làng đưa nó ra tới tỉnh. Đối với người lớn thì cái bất tiện duy nhất là việc đem thằng da đen đi nộp, nhưng trẻ con chúng tôi thì lại hết sức bàng hoàng và tuyệt vọng. Nếu họ đem thằng da đen đi nộp thì trong làng còn lại cái gì nữa? Chả còn cái gì hết, ngoài cái vỏ trống không của một mùa hè...

Tôi phải báo cho thằng da đen mới được. Tôi lách qua đám chân người lớn, chạy về chỗ nó đương ngồi ở khoảng sân trống trước căn nhà chứa đồ. Lúc tôi dừng lại trước mặt nó, thở hổn hển, thằng da đen từ từ ngửa đôi mắt to, mịt mờ lên nhìn tôi. Không thể diễn tả gì cho nó hiểu, tôi, tôi chỉ biết ngước nhìn nó với một vẻ buồn bã và thất vọng trộn lẫn. Hai cánh tay đặt trên đầu gối, nó nhìn vào mắt tôi như dò hỏi. Đôi môi nó căng tròn như cái bụng một con cá nước ngọt đầy trứng trễ ra, và nước bọt rỉ thành những dòng nhỏ lấp lánh trắng giữa hàm răng. Tôi quay lại thấy mấy người lớn có ông Ký dẫn đầu xuất hiện từ lối cửa tối đen nhà ông đầu làng và đương tiến về phía căn nhà chứa đồ.

Tôi nắm lấy vai thằng da đen đương ngồi mà lay lay và gọi nó bằng tiếng địa phương. Tôi muốn hết hơi vì thất vọng. Tôi làm gì được? Im lặng, thằng da đen để mặc cho cánh tay tôi lay mạnh, cái đầu to lớn của nó lăn từ bên này qua bên kia. Đầu rũ xuống vì mệt mỏi, tôi buông vai nó ra.

Bỗng dưng nó trỗi dậy, sừng sững trên đầu tôi như một tàng cây. Nắm lấy bắp tay tôi nó kéo tôi lại gần, và ép chặt lấy tôi vào người, nó chạy xuống mấy bậc thang ở hầm. Hết sức kinh ngạc, trong một lúc tôi chỉ biết ở yên ngó trân những hoạt động của đôi bắp vế rắn rỏi và những bắp thịt co thắt trên đôi mông của nó trong lúc nó lẹ làng đi lại quanh hầm. Thằng da đen hạ cánh cửa sập xuống, gỡ cái bẫy heo rừng vẫn còn lủng lẳng ở đó từ khi nó sửa lại, xích cái khoen thường dùng để cài then ở mặt trong cánh cửa sập vào với cây đỡ cánh cửa này từ trong tường phóng ra. Hai bàn tay nắm chặt lấy nhau, cái đầu hạ thấp, nó lại bước xuống mấy bậc thang. Khi tôi nhìn vào hai con mắt không còn thần sắc gì của nó, tôi nhận thấy rõ ràng là tên lính da đen đã trở thành con ác thú đen đủi thách đố mọi hiểu biết, đã trở thành cái chất độc tối nguy hiểm trước kia, lúc đầu tiên bị bắt mang về. Tôi ngước nhìn cái hình thù to lớn của nó, nhìn cái bẫy heo rừng khóa chặt cánh cửa sập rồi nhìn xuống đôi chân không bé nhỏ của mình. Sợ hãi và xúc động mạnh ào ào đổ xuống và xoáy tít qua ruột tôi. Tôi nhảy ra xa thằng da đen và đứng dựa sát lưng vào tường, nhưng nó vẫn ở giữa hầm, đầu cúi xuống. Tôi bặm chặt môi cố dập tắt cái run rẩy của đôi chân.

Mấy người lớn đã tới phía bên trên cánh cửa sập và bắt đầu lay cái bẫy heo rừng khóa chặt vào đó — lúc đầu còn nhè nhẹ, nhưng về sau họ giật mạnh với cái điên dại của một loài cầm thú đột nhiên bị tấn công. Thế nhưng cánh cửa sập bằng gỗ sồi dầy cộp — cánh cửa đã từng hết sức chắc chắn đối với mấy người lớn khi họ dùng để nhốt thằng phi công da đen ở dưới hầm — lúc này lại khóa chặt tất cả bọn họ ở phía ngoài: từ người lớn trong làng tới trẻ con, rồi cây cối và thung lũng.

Ngó lên khung cửa trổ phía trên, tôi thấy những khuôn mặt kinh hoàng của người lớn, những khuôn mặt được thay thế rất mau bằng những vừng trán vụng về xô đẩy nhau của những người khác. Tôi cảm thấy có một sự thay đổi đột ngột trong cách thức xử sự của mấy người lớn ở bên ngoài. Ban đầu họ còn la thét. Lúc này họ im lặng, và một nòng súng đe dọa thọc qua khung cửa trổ trên nóc hầm. Như một con thú lanh lẹ, thằng da đen nhảy tới chỗ tôi và ghì chặt lấy tôi để che cho mình khỏi họng súng. Rên rỉ vì đau đớn và giẫy giụa trong hai cánh tay thằng da đen, tôi nhận ra cái sự thật tàn ác: tôi đã bị bắt và là một thứ con tin. Thằng da đen đã biến thành «quân địch» trong lúc bên tôi la ó dữ dội ở ngoài cánh cửa sập. Giận dữ, tủi nhục và buồn bực vì bị phản bội chạy qua thân thể tôi, thiêu đốt nó như lửa. Tệ hơn hết, nỗi sợ hãi như một cơn lốc cuốn trào lên trong người tôi, đe dọa làm tôi nghẹt thở.

Bị mắc trong vòng tay thô bạo của thằng da đen, tôi sôi lên vì giận dữ và nước mắt đồng thời ứa ra. Thằng lính da đen đã bắt tôi làm tù binh.

Cái nòng súng được rút ra, tiếng la ó của người lớn to thêm, thế rồi một cuộc bàn luận thật lâu khởi sự ở bên ngoài khung cửa trổ. Vẫn còn bấu chặt lấy cánh tay tôi khiến nó đau điếng phát tê đi, thằng da đen rút vào trong một góc hầm chỗ không sợ bị bắn lén, và lặng lẽ ngồi xuống. Tôi bị kéo về phía nó cho đến khi, hệt như tôi đã làm khi chúng tôi còn thân thiện, tôi quỳ hai đầu gối trần bên nó, cái mùi mốc meo, nồng nặc từ thân thể nó bao phủ chung quanh. Mấy người lớn to nhỏ một lúc thật lâu. Thỉnh thoảng cha tôi lại ngó qua khung cửa trổ trên nóc hầm. Mỗi lần người gật đầu với đứa con của người bị bắt làm con tin, tôi lại khóc.

Ngọn triều bóng tối lan tới hầm đầu tiên, rồi tới khoảng sân trống bên kia khung cửa trổ. Khi bóng tối đã rơi xuống, người lớn lục tục ra về mỗi lúc một vài người, ném cho tôi mấy câu khuyến khích lúc họ bỏ đi. Trong một lúc thật lâu tôi còn nghe thấy tiếng bước chân của Cha bước ở phía bên ngoài khung cửa trổ, nhưng rồi đột nhiên vết tích cuối cùng của con người biến mất khỏi mặt đất phía bên trên, và đêm phủ ngập căn hầm.

Thằng da đen buông cánh tay tôi ra và đăm đăm nhìn tôi như thể bỗng dưng cái tình thân thiện mọi ngày giữa chúng tôi từ trước cho đến sáng hôm ấy lại trở lại với nó. Run run vì giận dữ, tôi cắm mặt nhìn xuống đất, hai vai bướng bỉnh nhô lên, cho đến khi nó xoay lưng lại tôi và ngồi bệt xuống, rúc cái đầu vào giữa hai đầu gối. Tôi còn có một mình, bị bỏ rơi như con chồn mắc bẫy, hoàn toàn tuyệt vọng. Thằng lính da đen không động đậy trong bóng tối.

Tôi đứng dậy, bước tới chỗ mấy bậc thang và đưa tay động tới cái bẫy heo rừng, nhưng nó lạnh ngắt và cứng, như muốn xua đuổi mấy ngón tay tôi và những mầm hy vọng chưa ra hình thể gì. Tôi như con thỏ trong rừng bị yếu dần và chết mà vẫn giương mắt nhìn những lưỡi sắt ngoạm chặt cái chân bị thương tích, không sao tin được những vùng sâu thẳm mà nó đã sa xuống hoặc cái bẫy đã bẫy được mình. Tôi bị giày vò khổ sở vì dại khờ đi tin thằng da đen như tin một người bạn. Nhưng nào có ai đã ngờ được cái thằng da đen to lớn, hôi rì, lúc nào cũng tươi cười kia?

Tôi bị rét run lên, hàm răng đánh lập cập. Bụng tôi bắt đầu đau. Tôi ngồi bệt xuống, ấn hai bàn tay vào chỗ bụng dưới và đột nhiên nhận thấy rõ rệt một điều hết sức phiền phức: tôi sắp sửa tháo dạ. Tình trạng đau đớn của những dây thần kinh cùng khắp trên thân thể tôi chỉ giúp thêm vào việc đưa tới chuyện đó. Tuy nhiên tôi không thể làm gì về việc đó trước mặt thằng da đen được. Tôi nghiến răng chống lại, mồ hôi vã ra trên trán. Tôi đau đớn chống cự lại cho đến khi cố gắng chống cự ấy lướt thắng cả nỗi sợ hãi của tôi.

Nhưng sau cùng tôi đành chịu thua. Tôi bước tới chỗ cái thùng gỗ — cái thùng gỗ đã khiến chúng tôi hết sức vui nhộn mỗi khi thằng da đen doạng chân ngồi trên đó — và kéo quần xuống. Đối với tôi, đôi mông tôi lột trần, trắng trẻo có vẻ yếu đuối vô cùng và không đủ che chở; xấu hổ dường như đã nhuộm đen hết mọi sự trong tôi, từ cổ họng xuống thực quản và tới ngay phía trong ruột tôi. Cuối cùng tôi lại đứng dậy và trở về xó hầm. Tôi cảm thấy mình tan nát, hèn hạ, nhục nhã vô cùng. Tôi ép sát vừng trán nhơ nhớp vào tường — tôi có thể cảm thấy hơi ấm của đất truyền qua đó — và khóc nho nhỏ. Đêm thì dài. Trong rừng một bầy chó hoang sủa. Không khí lạnh lẽo thêm. Quá mệt mỏi, tôi nằm lăn ra đất mà thiếp đi.

Lúc tôi thức dậy, lòng bàn tay thằng da đen còn nặng trĩu trên cánh tay hầu như tê đi của tôi. Cơn gió nhẹ lùa qua khung cửa trổ ở phía trên đưa vào một đám sương mù cuồn cuộn lẫn với những tiếng nói của người lớn. Tôi có thể nghe thấy cả tiếng cái chân giả của ông Ký kèn kẹt khi ông bước nữa. Được một lúc, giữa những tiếng ồn ào khác nổi bật lên tiếng một cây búa lớn nện xuống cánh cửa sập. Âm thanh nặng nề, mạnh mẽ vang vọng trong cái bụng đói của tôi, phóng ra những cái đau nhói.

Thình lình thằng da đen la lớn, nắm lấy vai tôi mà kéo dậy. Lôi tôi ra giữa hầm, nó giơ tôi lên cao cho người lớn ở bên ngoài khung cửa trông thấy. Tôi không thể hiểu được nó ra sức làm gì. Qua khung cửa trổ vô số những cặp mắt chăm chăm nhìn vào cái nhục nhã của tôi, trong lúc tôi lủng lẳng ở đó như một con thỏ. Giá phải đôi mắt đen, ướt của em tôi mà có trong số đó thì chắc hẳn tôi đã cắn đứt lưỡi vì xấu hổ. Nhưng tất cả những cặp mắt ở chỗ nhòm vào đều là của người lớn.

Tiếng búa nện mỗi lúc một dữ dội hơn. Thằng da đen hét lên một tiếng, và hai bàn tay to lớn của nó nắm lấy cổ họng tôi từ phía sau. Những móng tay cắm sâu xuống làn da mềm đau đớn, và sức ép mạnh trên trái yết hầu của tôi khiến cho tôi nghẹt thở. Tôi vung tay vung chân đập mạnh, ngả đầu ra đằng sau và rên rỉ. Hết sức hổ thẹn vì bị người lớn ở ngoài khung cửa trông thấy, tôi vùng vẫy cố thoát ra khỏi người thằng da đen lúc ấy đương ép sát vào lưng tôi, và dùng hai gót đá vào hai gót đá vào hai ống xương chân của nó. Nhưng hai cánh tay lông lá, to lớn của nó thật cứng và bướng bỉnh, và tiếng la thét của nó lớn hơn cả tiếng rên rỉ của tôi. Những khuôn mặt của người lớn lui dần từ phía bên kia khung cửa. Tôi đoán là họ đã nhượng bộ sự đe dọa của thằng da đen và chạy đi bảo những người khác thôi đập phá cánh cửa sập. Những tiếng kêu la của thằng da đen ngừng lại và sức ép như đá tảng đè trên cổ họng tôi nới ra. Tình cảm gần gũi và thương yêu người lớn của tôi trở lại.

Nhưng tiếng nện vào cánh cửa sập lại trở nên dữ dội hơn. Một lần nữa, những khuôn mặt của người lớn lại nhòm vào qua khung cửa và với một tiếng kêu lớn thằng da đen lại xiết chặt vòng tay quanh cổ họng tôi. Tôi cố thoát vòng tay ấy, nhưng đôi môi trên khuôn mặt vùng ra đằng sau của tôi chỉ mở ra méo mó và một tiếng kêu yếu ớt thoát ra, như tiếng kêu của một con thú nhỏ trong cảnh khốn cùng. Thế là cả người lớn cũng bỏ rơi tôi. Họ đi đập phá cánh cửa sập, mặc cho thằng phi công da đen bóp cổ tôi. Rốt cuộc, khi họ phá xong được cánh cửa có lẽ họ sẽ tìm thấy xác tôi, tứ chi lạnh ngắt, bị bóp cổ cho đến chết như một trong mấy con chồn của Cha mà thôi. Tôi sôi lên vì oán hận. Trong tuyệt vọng, tôi rên la vì nỗi nhục nhã ấy, đầu tôi hất ra phía sau, và nước mắt tuôn ràn rụa trong lúc tôi quằn quại và lắng tai nghe tiếng búa.

Tiếng ào ào xoáy tít của muôn vàn vòng bánh xe tràn ngập tai tôi, vang dội lại và máu từ lỗ mũi tôi chảy xuống má. Cánh cửa sập đã bị dập nát, những bàn chân đầy bùn đất xô tới — những bàn chân lông lá đến tận mấy đầu ngón — và căn hầm tràn ngập những người lớn xấu xí hầu như điên dại vì giận dữ. La lớn hết sức, thằng da đen cặp chặt lấy tôi vào người và lùi dần, lùi dần về phía vách hầm. Tôi cảm thấy lưng tôi và hai mông đít bị ép thật sát vào cái mình đầy mồ hôi, nhớp nháp của nó, và dường như có một luồng hơi nóng bỏng như một cơn giận dữ bất thần len qua giữa chúng tôi. Lòng tôi tràn đầy tủi nhục và một nỗi thù nghịch không che đậy giấu giếm, y như một con mèo bị bắt gặp trong lúc đương phủ: thù nghịch đối với những người lớn đương đứng yên lố nhố trên đầu mấy bậc thang, ngắm nghía nỗi tủi nhục của tôi; thù nghịch đối với tên lính da đen mà hai bàn tay to béo đương xiết quanh cổ họng tôi, những móng tay cắn vào làn da mềm mỏng, vây máu ra; và một nỗi thù nghịch tức tối, mơ hồ đối với bất cứ cái gì và hết mọi sự. Thằng da đen tru lên như một con chó. Âm thanh làm tê liệt hai màng tai tôi, và ở đó, trong căn hầm vào giữa lúc mùa hè gay gắt nhất, tôi thấy mình chìm dần vào một cảm giác tê mê sâu thẳm, mãn nguyện, gần như khoái lạc. Hơi thở dữ tợn của thằng da đen phủ lấy gáy tôi.

Từ đám người lớn cha tôi tiến lên, tay lăm lăm cây rìu. Hai mắt người giận dữ bốc cháy, nóng đỏ như hai mắt chó. Móng tay thằng da đen cắm sâu thêm vào cổ tôi. Tôi rền rĩ. Cha à tới phía chúng tôi, vung cái rìu lên. Tôi nhắm nghiền mắt lại. Nắm lấy cườm tay trái của tôi, thằng da đen lôi cánh tay tôi lên che đầu. Một tiếng hú bốc lên từ đám đông tụ tập trong hầm, và tôi nghe tiếng dập nát của bàn tay trái tôi và cái sọ thằng da đen. Trên làn da nhờn, bóng của cánh tay thằng da đen ở dưới cằm tôi, máu tung tóe xuống từng cục lớn. Người lớn đổ xô lại phía chúng tôi, và đúng lúc ấy tôi cảm thấy cánh tay thằng da đen lơi ra và một nỗi đau đớn bỏng cháy khắp người.


DẦN DÀ, BÊN TRONG MỘT CÁI BAO dẻo quẹo, dính chặt, đôi mu mắt hầm hập, cái cổ họng nóng bỏng và bàn tay bầm dập của tôi bắt đầu khít lại với nhau khiến cho thân hình tôi một lần nữa lại lành lặn. Tuy nhiên, tôi vẫn không sao chọc qua được cái màng dính nhem nhép ấy và thoát ra khỏi cái bao. Như một con chiên sinh non, tôi bị quấn trong một lớp bọc, ẩm ướt và lạnh lẽo bó lấy mấy đầu ngón tay. Tôi cũng không sao cựa mình được. Bấy giờ đương lúc ban đêm, và mấy người lớn đương trò chuyện chung quanh tôi. Thế rồi trời sáng, và tôi có thể cảm thấy ánh sáng ở bên ngoài mu mắt. Đôi khi một nỗi đau đớn quá sức dằn mạnh trên trán khiến tôi phát rên rỉ và cố vùng vẫy thoát ra nhưng đầu tôi vẫn không sao chuyển được.

Lần đầu tiên khi tôi mở được mắt ra thì trời lại sáng. Tôi nằm trên giường mình trong căn nhà chứa đồ. Ở trước cửa Sứt Môi và em tôi đứng trông chừng tôi. Tôi mở to hai con mắt và mấp máy đôi môi. Sứt Môi và em tôi đổ xô xuống cầu thang la lớn, và cha tôi cùng với người đàn bà bên tiệm thực phẩm chạy lên. Tôi bấy giờ đói lả, nhưng vừa khi Cha ấn bình sữa dê lên môi tôi, bỗng dưng tôi buồn nôn. Tôi la hét và bặm chặt môi khiến những giọt sữa lăn xuống họng, xuống cổ tôi. Tất cả mọi người lớn, kể cả cha tôi, tôi thấy không thể nào chịu nổi. Những người lớn đã nhe răng trắng ởn mà chồm tới tôi, vung những chiếc rìu lên, thật là kỳ dị, không sao hiểu nổi, chỉ khiến cho mình buồn nôn. Tôi la hét mãi cho đến khi cha tôi và những người khác ra khỏi buồng.

Thời gian trôi đi, và tôi cảm thấy cánh tay mềm mại của em tôi lặng lẽ chạm vào người tôi. Không thốt một lời, cĩng không buồn mở mắt, tôi lắng tai nghe nó nói giọng trầm trầm. Nó đã đi lượm hộ cành khô để hỏa thiêu thằng lính da đen nhưng ông Ký đã có lệnh đưa về truyền ngưng việc hỏa táng. Mấy người lớn liền đem cái xác tới một hầm mỏ bỏ phế ở dưới thung lũng để giữ cho khỏi thối, và họ đương dựng một hàng rào để ngăn chặn lũ chó rừng.

Nó đã tưởng là tôi chết rồi. Em tôi cứ nhắc đi nhắc lại điều đó với một giọng khiếp đảm. Trong hai ngày trời tôi nằm dài ra đó, không ăn uống gì hết, khiến nó cứ tưởng là tôi đã chết.

Trong hai bàn tay em tôi, tôi trôi vào một giấc ngủ, nó lôi cuốn tôi mãnh liệt, nó kéo hút tôi xuống mãi như chính sự chết vậy.

Vào buổi chiều tôi lại tỉnh dậy và lần đầu tiên nhận ra được một miếng vải quấn quanh bàn tay bị dập nát của tôi. Tôi nằm yên không động tĩnh một lúc lâu, chằm chặp nhìn cánh tay vắt qua ngực tôi sưng phù lên không sao nhận ra nổi. Trong buồng không có một người nào. Một cái mùi gớm ghiếc luồn vào qua cửa sổ. Tôi biết đó là mùi gì, nhưng trong người tôi không một nỗi buồn nào dâng lên.

Căn buồng dần dần tối và không khí thì lạnh ngắt. Tôi ngóc mình dậy trên giường và sau một hồi lâu chần chừ, buộc lại hai đầu miếng vải quấn quanh bàn tay dập nát và quàng lên đầu. Thế rồi, dựa người vào khung cửa mở, tôi nhìn xuống làng. Lớp không khí bên trên con đường lót đá, bên trên những căn nhà và cái thung lũng đỡ lấy chúng, tràn ngập mùi hôi thối từ cái thân xác nặng nề của thằng da đen đã chết bốc lên, tràn ngập cái tiếng kêu âm thầm của cái thây ma mỗi lúc một trương lên, bao trùm lấy thân thể chúng tôi và lan ra khắp trên đầu chúng tôi như trong một cơn ác mộng. Bấy giờ là nhá nhem tối. Màn trời, một màu xám long lanh nhuốm màu da cam từ bên trong rịn ra, rủ thấp và kéo sát xuống thung lũng.

Từ phía sau căn nhà chứa đồ, xuyên qua mùi xác thằng da đen, bốc lên tiếng la thét dữ dội của lũ trẻ. Cẩn thận từng bước một, đôi chân run rẩy như sau một cơn bệnh lâu ngày, tôi lần xuống những bậc thang tăm tối và theo con đường vắng vẻ bước về phía lũ trẻ đương la hét.

Bọn chúng xô đẩy nhau tụ tập trên cái sườn đồi cỏ mượt thoải xuống dòng suối ở mãi dưới lòng thung, và mấy con chó vừa chạy quanh chúng vừa sủa. Những người lớn thì ở dưới đáy thung lũng rậm rạp phía dưới sườn đồi, lo dựng một hàng rào thật chắc chắn để ngăn chặn lũ chó rừng khỏi vào được chỗ hầm mỏ nơi để xác thằng da đen. Tiếng cọc đóng xuống lòng đất nghe thình thịch. Mấy người lớn lặng lẽ làm việc, nhưng lũ trẻ con thỉ chạy loanh quanh và la hét vang lừng.

Ngả người trên một thân cây bào-đồng đã già, tôi ngắm lũ trẻ nô đùa. Chúng trượt xuống những sườn đồi cỏ mượt trên một chiếc xe trượt làm bằng đuôi cái tàu bay của thằng da đen. Cưỡi trên cái đuôi sắc cạnh trôi nổi lạ lùng ấy, chúng trườn trên lớp cỏ như những con thú con. Mỗi khi chiếc xe trượt sắp xô phải một trong những tảng đá đen trồi lên đây đó trên thảm cỏ, đứa nhỏ ở trên xe lại thò một bàn chân không đạp vào đám cỏ, rẽ sang một hướng khác. Lũ trẻ và chiếc xe trượt nhẹ đến nỗi lúc một đứa trong bọn kéo trở lên đỉnh đồi, lớp cỏ mà nó đánh dập khi lao xuống lại từ từ dựng đứng lên, xóa mờ hẳn dấu vết chuyến băng qua táo bạo của nó. Chúng thường trượt xuống la hét, bầy chó đuổi theo sủa, rồi chúng lại kéo cái xe trở lên. Dường như có một sự thú chí không sao kìm hãm được rạn nứt và phóng ra khắp chung quanh thân thể chúng.

Sứt Môi tách ra khỏi lũ trẻ và chạy tới phía tôi, miệng nhai nhai một sợi cỏ kẹt giữa hai hàm răng. Nó dựa lưng vào một gốc sồi đã đốn hình thù như thể cái chân nai và nhòm thẳng vào mặt tôi. Tôi quay đi chỗ khác và làm như đương chăm chú vào chuyện trượt xe. Sứt Môi vẫn nhìn chằm chặp vào cánh tay treo lên cổ tôi bằng một sợi dây thòng lọng và hít hít ầm ĩ.

«Thối», hắn nói. «Bàn tay mi bị dập thối kinh khủng, đúng không?»

Tôi quay lại nhìn vào hai con mắt Sứt Môi. Đôi mắt ấy lấp lóe thứ ánh sáng của đánh lộn, và hắn lấy thế đánh nhau, hai chân dạng ra, sẵn sàng chờ tôi tấn công. Nhưng tôi lờ đi; và thay vì chồm tới cổ họng hắn, tôi cất tiếng khàn khàn mệt mỏi như không thiết đến một chuyện gì nữa, «Không phải tao có mùi đâu. Mùi thằng da đen đấy.»

Sứt Môi nhìn tôi kinh ngạc. Tôi bặm môi, tránh đôi mắt của hắn và nhìn xuống những lá cỏ nhỏ bé chờm lên trên đôi mắt cá chân hắn. Hắn nhún vai khinh bỉ, nhổ mạnh nước miếng rồi chạy đi la lối gọi lũ bạn hắn đương chơi xe trượt.

Tôi không còn phải là một đứa trẻ con nữa... Ý nghĩ ấy tràn ngập tâm hồn tôi như một thứ mặc khải. Những trận «huyết chiến» với Sứt Môi, những đêm trăng sáng đi bắt chim, chiếc xe trượt, những con chó rừng — tất cả những thứ ấy đều là dành cho trẻ con. Giờ thì những lề lối của thế giới trẻ thơ ấy đã hoàn toàn xa cách tôi rồi.

Mệt mỏi, lạnh giá và run rẩy, tôi ngồi xuống mặt đất, nơi hơi ấm trong ngày hãy còn nấn ná. Khi tôi cúi mình xuống thì những người lớn, đương lặng lẽ làm việc, biến mất sau đám cỏ hoang rậm rạp mùa hè, trong lúc lũ trẻ con đột nhiên bật dậy, đen đủi in lên nền trời như lũ yêu quái.

«Ê, Nhái! Đỡ chưa mày?»

Một bàn tay khô và nóng từ phía sau ấn lên đầu tôi, nhưng tôi không hề nhúc nhích để quay lại hay đứng dậy. Khuôn mặt tôi vẫn hướng về phía lũ trẻ đương chơi trên sườn đồi. Tôi đưa mắt liếc xéo cái chân giả đen thui của ông Ký cắm sát ngay bên đầu gối trần của tôi. Nguyên một việc có mặt của ông Ký cũng đã làm cho cổ họng tôi khô đi.

«Tí nữa mày đi xe trượt chứ?» ông Ký hỏi. «Ấy đầu tiên tao cứ ngỡ là ý kiến của mày đấy.»

Tôi bướng bỉnh nín thinh. Lách cách cái chân giả ông Ký ngồi xuống, lôi ở trong cánh áo ngắn ra cái ống vố mà thằng da đen đã cho ông khi trước và nhồi chặt nõ điếu với một thứ thuốc riêng của ông. Một thứ mùi hăng hắc bốc lên làm nhức nhối những màng mỏng hai bên lỗ mũi tôi, một thứ mùi tựa như một cánh rừng với nhiều thứ cây khác nhau cùng bốc cháy, bao trùm lấy ông Ký và tôi trong cùng một lớp sương mù xanh nhạt.

«Chiến tranh mà đến thế này thì thực là khủng khiếp», ông nói. «Làm dập nát cả mấy ngón tay con trẻ...»

Tôi hít một hơi thật dài và vẫn im lặng. Chiến tranh, một thứ «huyết chiến» trên một quy mô rộng lớn, hẳn vẫn còn đương tiếp diễn. Chiến tranh, cũng như những trận lụt cuốn đi những đàn cừu và những bãi cỏ non xén thấp ở những miền đất xa xăm, đáng lẽ chẳng bao giờ được kéo tới làng chúng tôi mới phải. Thế mà nó đã tới, làm nát bấy những ngón tay và bàn tay tôi, khiến cho cha tôi phải khoa cái rìu lên, say trong máu của chiến tranh, và ở giữa tất cả những xô đẩy, ồ ạt đó tôi không làm sao thở được.

«Coi bộ cũng chẳng còn bao lâu nữa thì hết», ông Ký nghiêm trang nói như thể đương trò chuyện với một người lớn tuổi nào khác, «Mình đã cố liên lạc với quân đội ngoài thành phố nhưng lộn xộn quá làm không được, chả còn biết làm gì nữa.»

Tiếng búa vẫn còn vọng lên từ dưới lòng thung.

«Mấy người còn làm dữ, há», ông Ký vểnh tai nghe tiếng búa mà nói. «Thầy mày với mấy người kia cũng chẳng biết làm gì nữa, bởi thế mà phí ngày giờ đi đóng cọc.»

Chúng tôi im lặng ngồi nghe tiếng búa nện thình thịch vọng tới qua những lúc lũ trẻ bớt la hét, cười đùa. Được một lúc, ông Ký lần mấy ngón tay thành thạo gỡ cái chân giả ra. Tôi đưa mắt ngắm ông.

«Ê!» ông gọi với tới lũ trẻ. «Tụi bay đem cái xe trượt lại cho tao.»

Lũ trẻ ồn ào kéo cái xe lên. Ông Ký lò cò nhảy tới, lách qua đám trẻ đương xúm quanh cái xe, trong lúc tôi nhặt cái chân giả lên, cặp chặt lấy mà chạy xuống sườn đồi cỏ mượt. Cái chân giả ấy nặng lắm, ôm một tay thực khó và bực bội.

Lớp sương đầu tiên đã đọng trong đám cỏ rậm và thấm ướt đôi chân không của tôi. Những lá cỏ sắc đâm vào đôi chân ấy ngứa ngáy. Tôi ôm cái chân giả đợi ở dưới cuối sườn đồi. Bấy giờ trời đã tối. Chỉ còn có tiếng lũ trẻ trên đỉnh đồi khua động màn không khí mờ đục, tối tăm, mỗi lúc một thêm dầy đặc.

Tiếng la hét, cười đùa lại rộ lên lớn hơn, và thảm cỏ rung rinh nhè nhẹ: nhưng không thấy cái xe trượt rẽ qua lớp không khí nhớp nháp kia mà trườn tới phía tôi. Hình như tôi có nghe một tiếng thịch nặng nề, nhưng tôi vẫn ở yên không nhúc nhích, mắt chăm chú nhìn vào lớp không khí lúc hoàng hôn. Một phút im lặng ngắn ngủi, thế rồi tôi thấy cái đuôi máy bay trườn tới phía tôi, lăn lông lốc tới. Cái đuôi ấy trống không. Tôi liệng cái chân giả đi, cắm đầu chạy ngược lên bãi cỏ ẩm ướt.

Bên cạnh một tảng đá chồi lên mặt đất, ông Ký nằm ngửa mắt ngước lên trời, hai cánh tay rã sang hai bên mềm nhũn. Tôi cúi xuống, thấy máu đặc và đục lờ lờ từ hai lỗ mũi và hai lỗ tai trên khuôn mặt tươi cười của ông chảy ra. Tiếng rì rầm của lũ trẻ chạy xuống phía bãi cỏ tối tăm lớn dần át cả tiếng gió nhè nhẹ từ dưới thung lũng thổi lên.

Tôi không muốn bị lũ trẻ bao quanh nên bỏ xác ông Ký lại mà đứng dậy giữa đám cỏ. Bỗng dưng tôi đâm quen thuộc với cái chết bất ngờ, với những khuôn mặt khác nhau của sự chết, khi buồn bã, lúc tươi cười — hệt như những người lớn trong làng đã quen với chúng. Tôi đoán xác ông Ký sẽ được hỏa thiêu với chỗ củi mà họ đã lượm để hỏa thiêu người da đen. Nước mắt rơm rớm, tôi ngước nhìn khoảng trời trắng, hẹp nơi ánh tà huy còn nán lại, rồi vùng chạy xuống bãi cỏ kiếm em tôi.

Nguồn: Bản in lần đầu của nhà Trình bầy, Sài Gòn 1970.