101 TRUYỆN THIỀN
101 ZEN STORIES
transcribed by NYOGEN SENZAKI and PAUL REPS
Tâm Minh NGÔ TẰNG GIAO chuyển ngữ
----------------------------------------------------------------------------
-I-
* 1 *
MỘT TÁCH TRÀ
Nan-In, một thiền sư Nhật Bản vào thời Minh - Trị (1868 - 1912), tiếp một ông giáo sư đại học đến tìm hiểu về Thiền.
Nan-In mời dùng trà. Ông đã rót đầy vào tách của khách và vẫn tiếp tục rót thêm.
Ông giáo sư nhìn nước tràn cho đến khi tự mình không nhịn được thêm nữa. "Tách đã đầy tràn rồi. Không thêm vào được nữa đâu!"
"Giống như cái tách này" Nan-In nói, "ông mang đầy ý kiến và suy đoán riêng của ông. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền trừ phi ông cạn cái tách của ông trước đã?"
*
* 2 *
TÌM THẤY KIM CƯƠNG TRÊN ĐƯỜNG BÙN
Gudo là thầy của hoàng đế vào thời đó. Tuy thế, ngài vẫn thường hay du hành một mình như là một khất sĩ lang thang. Một lần khi ngài trên đường đi tới Edo, trung tâm văn hóa và chính trị của một địa phương quan trọng, ngài đến gần một làng nhỏ có tên là Takenaka. Trời đã chiều tối và một cơn mưa đang rơi nặng hạt. Gudo ướt sũng. Đôi dép rơm của ngài giã ra từng mảnh. Tại một căn nhà nông trại gần làng ngài nhận thấy có khoảng bốn hay năm đôi dép trong cửa sổ và định hỏi mua một đôi khô ráo.
Người đàn bà biếu dép cho ngài, thấy ngài bị thấm ướt quá, mời ngài ở lại qua đêm trong nhà bà. Gudo nhận lời và cám ơn bà ta. Ngài vào và tụng một thời kinh trước bàn thờ của gia đình. Sau đó ngài được giới thiệu với mẹ và các con của bà chủ nhà. Nhận thấy cả nhà đều buồn bã, Gudo hỏi xem có điều gì xảy ra không.
"Chồng con là một kẻ cờ bạc và say sưa", bà chủ nhà thưa với ngài. "Khi anh ấy mà được bạc thì anh ấy uống rượu rồi trở nên thô lỗ. Khi anh ấy thua thì lại vay mượn tiền người khác. Đôi khi say sưa quá mức thì anh ấy lại chẳng về nhà gì cả. Con phải làm sao đây?"
"Ta sẽ giúp anh ấy cho," Gudo nói. "Đây có ít tiền. Hãy đi mua cho ta một hũ rượu tốt và ít đồ gì ngon để ăn. Rồi bà có thể vào nghỉ ngơi đi. Ta sẽ thiền định trước bàn thờ."
Khi anh chủ nhà trở về vào khoảng nửa đêm, say mèm, anh ta tru tréo lên: "Này, mụ vợ ơi, ta đã về đây. Mụ có gì cho ta ăn không?"
"Ta có đồ ăn cho anh đây" Gudo nói. "Ta bất ngờ bị mắc mưa và bà vợ anh tử tế cho ta tạm trú tại đây qua đêm. Để đáp lại ta có mua một ít rượu và cá, như vậy anh có thể dùng được đấy."
Anh chồng hài lòng. Anh ta uống rượu ngay rồi nằm lăn xuống trên sàn nhà. Gudo ngồi thiền bên cạnh anh ta.
Vào buổi sáng khi anh chồng tỉnh dậy anh ta quên hẳn mọi chuyện đêm qua. "Ông là ai? Ông ở đâu đến đây?" anh hỏi Gudo, khi ngài vẫn còn đang thiền định.
"Ta là Gudo ở Đông Kinh và ta đang trên đường đi đến Edo," vị thiền sư trả lời.
Anh chồng quá xấu hổ. Anh rối rít xin lỗi vị thầy của hoàng đế của mình.
Gudo mỉm cười. "Mọi vật trên cõi đời này đều vô thường," ngài giảng dạy. "Cuộc đời rất ngắn ngủi. Nếu anh cứ tiếp tục đánh bạc và uống rượu thì anh chẳng còn lại thì giờ đâu mà hoàn thành được việc gì khác, và anh sẽ làm khổ cho cả gia đình của anh nữa."
Anh chồng chợt tỉnh ngộ như ra khỏi cơn mê. "Ngài nói đúng," anh ta lên tiếng. "Làm sao con có thể đền ơn cho ngài về lời dạy tuyệt vời này! Hay là để con tiễn chân ngài và mang hành lý hầu ngài một quãng đường."
"Nếu anh muốn," Gudo đồng ý.
Cả hai người lên đường. Sau khi đi được chừng ba dặm đường Gudo bảo anh ta quay về. "Chỉ xin được thêm năm dặm nữa thôi," anh năn nỉ Gudo. Họ tiếp tục đi tới.
"Anh có thể trở lại bây giờ," Gudo đề nghị.
"Sau khi thêm mười dặm nữa," anh ta đáp lại.
"Bây giờ hãy quay trở về đi," Gudo nói, sau khi đã đi qua hết mười dặm.
"Con sẽ theo ngài suốt quãng đời còn lại của con," anh ta tuyên bố.
Những thiền sư hiện đại ở Nhật Bản đều xuất phát từ dòng của một vị thầy nổi danh, ngài là người kế thừa của Gudo. Tên của ngài là Mu-nan, người không bao giờ quay trở lại.
*
* 3 *
VẬY SAO?
Thiền sư Hakuin được mọi người chung quanh ca tụng là một người sống cuộc đời trong sạch.
Một cô gái Nhật Bản xinh đẹp, mà bố mẹ có một cửa hàng thực phẩm, sống gần ngài. Bỗng nhiên, thật chẳng ai ngờ, bố mẹ cô khám phá ra rằng cô đang có thai.
Điều này làm bố mẹ cô tức giận. Cô không chịu thú nhận ai là người làm chuyện đó, nhưng sau bao phen bị vặn hỏi cuối cùng cô chỉ tên người đó là Hakuin.
Cha mẹ cô giận dữ vô cùng, đến kiếm ông thiền sư. "Vậy sao?" ngài chỉ nói có vậy thôi.
Sau khi đứa trẻ sinh ra, người ta mang nó tới cho Hakuin. Vào lúc này ngài đã mất hết cả danh tiếng rồi, nhưng điều đó không làm ngài bực bội, ngài chăm sóc đứa trẻ rất là chu đáo. Ngài xin sữa của những người lối xóm và các thứ khác mà đứa trẻ cần đến.
Một năm sau cô gái làm mẹ kia không chịu đựng được điều đó thêm nữa. Cô bèn thú thật với bố mẹ cô rằng người cha thật sự của đứa con là một anh trẻ tuổi làm việc trong chợ cá.
Mẹ và bố cô gái vội vàng tìm đến Hakuin xin ngài tha thứ, sau khi xin lỗi hết lời, rồi xin nhận lại đứa trẻ.
Hakuin ưng thuận. Khi trao đứa trẻ lại ngài chỉ nói: "Vậy sao?"
*
* 4 *
TUÂN LỜI
Những buổi thuyết pháp của thiền sư Bankei không những chỉ có các thiền sinh mà còn có thêm người thuộc các đẳng cấp và tông phái khác tham dự. Ngài không bao giờ viện dẫn kinh điển cũng chẳng hăng say thuyết giảng về những điều nặng phần học thuật. Thay vào đó, lời ngài nói đi thẳng từ tâm ngài tới tâm các người nghe ngài.
Số thính giả đông đúc của ngài làm cho một tu sĩ của môn phái Nichiren tức giận bởi vì các môn đồ của ông ta cũng bỏ đi nghe Thiền. Ông tu sĩ môn phái Nichiren tự đắc kia tìm đến thiền đường, định tranh luận với Bankei.
"Này, ông thầy dạy Thiền!" ông ta kêu lớn tiếng. "Đợi một chút đi. Bất cứ ai kính phục ông đều nghe theo lời ông nói cả, nhưng một người như ta đây không hề kính phục ông đâu. Ông có thể làm cho ta tuân lời ông được không?"
"Hãy đến gần tôi đây và tôi sẽ chỉ cho" Bankei nói.
Với vẻ tự hào, ông tu sĩ chen lấn đường qua đám đông bước đến phía thiền sư.
Bankei mỉm cười. "Ông hãy sang bên phía trái tôi."
Ông tu sĩ tuân theo.
"Không," Bankei nói, "chúng mình có thể nói chuyện thoải mái hơn nếu ông ở phía bên phải. Hãy bước qua đây."
Ông tu sĩ kiêu hãnh bước sang bên phải.
"Ông thấy đấy" Bankei nói, "ông đang tuân theo lời tôi và tôi nghĩ rằng ông là một người rất hoà nhã. Bây giờ hãy ngồi xuống và lắng nghe nhé."
*
* 5 *
NẾU ANH YÊU, HÃY YÊU CÔNG KHAI
Hai mươi tăng sinh và một ni sinh, cô được đặt tên là Eshun, đang tu tập thiền định với một vị thiền sư nọ.
Eshun rất xinh đẹp mặc dù đầu cô đã cạo và quần áo của cô thì đơn sơ. Một vài tăng sinh thầm yêu cô. Một tăng sinh trong nhóm đó viết cho cô một lá thư tình, ước mong được gặp gỡ riêng tư.
Eshun không trả lời. Ngày hôm sau thầy giảng bài cho cả nhóm, và khi bài giảng chấm dứt, Eshun đứng dậy. Nhắm về người đã viết thư cho cô, cô nói: "Nếu anh thực sự yêu tôi quá nhiều, thì hãy đến đây và ôm tôi bây giờ đi."
*
* 6 *
KHÔNG CÓ TÂM TỪ
Có một bà lão ở Trung Hoa đã cung dưỡng cho một ông sư hơn hai mươi năm. Bà đã cất một thảo am nhỏ cho ông và cung cấp lương thực cho ông khi ông thiền định. Cuối cùng bà muốn thử biết xem ông đã đạt được tiến bộ đến đâu trong suốt thời gian này.
Muốn khám phá ra điều đó bà tìm một cô gái nhiều dục vọng nhờ giúp đỡ. "Hãy đến và ôm ông ấy," bà bảo cô, "và rồi hỏi ông một cách bất ngờ: ‘Làm gì nữa bây giờ đây?’"
Cô gái đến thăm ông sư và chẳng cần làm bộ làm tịch gì cả cô vuốt ve ông ta, rồi hỏi ông xem ông sẽ làm gì tiếp về chuyện này.
"Một cây cổ thụ mọc trên một tảng đá lạnh vào mùa đông," ông sư trả lời một cách hơi thi vị. "Không đâu còn chút ấm áp nào."
Cô gái quay về và thuật lại những gì sư đã nói.
"Nghĩ xem ta đã nuôi cái ông này cả hai mươi năm trời!" Bà già kêu lên giận dữ, "Ông ấy đã không thèm đếm xỉa đến nhu cầu của cô, đã không có ý muốn giải thích cho cái tình cảnh của cô. Ông ấy không cần phải đáp ứng sự tham dục, nhưng ít nhất ông ấy cũng phải tỏ lộ ra một chút tâm từ chứ."
Bà già lập tức đi ngay tới thảo am của ông sư và đốt rụi nó luôn
*
* 7 *
THÔNG BÁO
Tanzan viết sáu mươi tấm bưu thiếp vào ngày cuối cùng của đời ông, và sai một người hầu cận gửi bưu thiếp đi. Xong rồi ông từ giã cõi đời.
Những tấm thiếp viết:
Ta sắp rời khỏi cõi trần gian này.
Đây là lời thông báo cuối cùng của ta.
Tanzan.
Tháng 7 ngày 27, 1892
*
* 8 *
NHỮNG CON SÓNG LỚN
Vào những ngày đầu của thời Minh Trị có một tay đô vật nổi tiếng tên là O-nami, Sóng Lớn.
O-nami khoẻ vô cùng và biết nghệ thuật đô vật. Trong những lần đấu riêng tư chàng còn hạ ngay cả thầy của chàng nữa, nhưng trước công chúng thì chàng lại nhút nhát đến nỗi những học trò riêng của chàng cũng quật ngã được chàng.
O-nami thấy chàng cần phải tìm đến một thiền sư nhờ giúp đỡ. Hakuju, một ông thầy du hành lang thang, đang dừng chân ở một ngôi chùa nhỏ gần đó, cho nên O-nami tìm đến gặp ông và trình bày cho ông rõ về cái trở ngại của chàng.
"Sóng Lớn là tên của anh," ông thầy khuyên nhủ, "vậy thì hãy ở lại trong chùa này tối nay. Hãy tưởng tượng rằng anh là những cuộn sóng lớn đó. Anh không còn là một tay đô vật bị hãi sợ nữa. Anh là những đợt sóng hùng vĩ này cuốn phăng đi tất cả mọi thứ ở trước sóng, nuốt đi tất cả mọi thứ trên con đường sóng cuộn. Hãy làm như vậy và anh sẽ là tay đô vật vĩ đại nhất trong nước".
Ông thầy lui vào. O-nami ngồi thiền định cố tưởng tượng chính mình là những cuộn sóng. Chàng nghĩ ngợi đến nhiều thứ khác nhau quá. Rồi dần dần chàng chuyển càng ngày càng nhiều hơn nữa qua cái cảm giác của những cuộn sóng. Đêm càng về khuya thì những cuộn sóng càng lúc càng lớn thêm lên. Sóng cuốn phăng đi những bông hoa trong các bình. Ngay cả ông Phật trên bàn thờ cũng bị ngập chìm. Trước khi trời sáng thì ngôi chùa chẳng còn là gì nữa mà chỉ còn là sóng dâng lên rồi lại rút đi trong một đại dương bao la.
Vào buổi sáng ông thầy thấy O-nami đang thiền định, một nụ cười thoáng nhẹ trên khuôn mặt chàng. Thầy vỗ vào vai tay đô vật. "Giờ đây không còn gì có thể quấy nhiễu anh nữa," ông nói. "Anh là những cuộn sóng đó. Anh sẽ cuốn phăng đi mọi vật trước anh."
Cùng ngày hôm ấy O-nami tham gia vào các cuộc thi đấu vật và chiến thắng. Sau đó, không còn ai ở Nhật Bản có thể đánh bại được chàng nữa.
*
* 9 *
MẶT TRĂNG KHÔNG THỂ BỊ ĂN CẮP
Ryokan, một thiền sư, sống cuộc đời đơn giản nhất trong một thảo am nhỏ bé ở dưới chân một ngọn núi. Một đêm có một tên trộm đến viếng thảo am nhưng chỉ thấy rằng chẳng có gì trong đó để lấy trộm cả.
Ryokan trở về và bắt gặp hắn. "Có lẽ anh phải đi khá xa để đến thăm ta," ngài nói với kẻ rình mò, "và anh chẳng nên quay về với tay không. Hãy lấy bộ quần áo của ta mà làm quà."
Tên trộm chưng hửng. Hắn lấy bộ quần áo và chuồn đi ngay.
Ryokan ngồi trần truồng, ngắm mặt trăng. "Anh bạn đáng thương," ngài trầm ngâm, "Ta ước gì ta có thể tặng cho anh ấy mặt trăng đẹp đẽ này."
*
* 10 *
BÀI THƠ CUỐI CÙNG CỦA HOSHIN
Thiền sư Hoshin sống ở Trung Hoa nhiều năm. Rồi ngài quay về vùng đông bắc nước Nhật Bản, ở đó ngài dạy các đệ tử của ngài. Khi ngài quá già, ngài kể cho họ một câu chuyện mà ngài đã nghe được ở Trung Hoa. Đây là câu chuyện:
Một năm vào ngày hai muơi lăm tháng chạp, Tokufu, đã rất già, nói với đệ tử của ngài: "Ta không sống nổi được đến sang năm vậy các con hãy chăm sóc ta cho chu đáo trong năm nay."
Các đệ tử nghĩ rằng ngài nói đùa, nhưng vì ngài là vị thầy có tấm lòng cao cả cho nên mỗi người trong nhóm đệ tử thay phiên nhau đãi tiệc ngài trong những ngày kế tiếp của năm sắp tàn.
Vào đêm giao thừa, Tokufu sau chót nói: "Các con đã tử tế với ta. Ta sẽ xa các con vào chiều mai khi tuyết ngừng rơi."
Các đệ tử đều cười, nghĩ rằng ngài đã có tuổi và ăn nói lẩm cẩm bởi vì đêm thì quang đãng và không có tuyết. Nhưng vào nửa đêm tuyết bắt đầu rơi, và đến ngày hôm sau thì họ chẳng thấy ông thầy họ đâu nữa. Họ đi đến thiền đường. Ngài đã qua đời nơi đó.
Hoshin, người kể câu chuyện này, nói với các đệ tử của ngài: "Một thiền sư đoán trước ngày mình viên tịch cũng không phải là một điều cần thiết chi, nhưng nếu vị ấy thực sự muốn làm như vậy, vị ấy có thể làm được."
"Thầy có làm được không ạ?" một đệ tử hỏi.
"Được chứ," Hoshin trả lời. "Ta sẽ cho các con biết ta có thể làm được những gì sau bảy ngày nữa tính từ hôm nay."
Chẳng có một đệ tử nào tin ngài hết, và hầu như đa số trong bọn họ cũng đã quên câu chuyện rồi cho đến lần sau khi Hoshin cho gọi họ tụ họp lại.
"Bảy ngày trước đây," ngài nhắc lại, "Ta nói ta sẽ xa lìa các con. Theo lệ thường thì nên viết một bài thơ từ biệt, nhưng ta chẳng phải là thi sĩ cũng không là người viết thư họa. Vậy một người trong các con hãy ghi lại những lời cuối cùng của ta."
Các môn đồ của ngài tưởng ngài nói đùa, nhưng một người trong bọn họ đã sửa soạn để viết.
"Con sẵn sàng chưa?" Hoshin hỏi.
"Thưa thầy rồi ạ" người viết đáp lời.
Rồi Hoshin đọc:
Ta đến từ tánh sáng
Và về với tánh sáng.
Đây là cái gì vậy?
Bài thơ thiếu một dòng nữa để trở thành một bài tứ tuyệt thường làm, vì vậy người đệ tử nói: "Kính thầy, chúng ta thiếu một câu."
Hoshin, với tiếng gầm của một con sư tử chiến thắng, la lớn lên: "Kaa!" rồi ra đi.
*
* 11 *
CÂU TRUYỆN NÀNG SHUNKAI
Người đẹp Shunkai còn có tên khác là Suzu đã bị ép buộc kết hôn trái với ý nguyện của nàng khi nàng còn quá trẻ. Sau đó, khi cuộc hôn nhân này đã chấm dứt, nàng theo học tại trường đại học, ở đó nàng học môn triết.
Nhìn thấy Shunkai là yêu nàng ngay. Hơn nữa, nàng đi đến đâu, chính nàng cũng lại phải lòng các người khác. Tình yêu đến với nàng ở trường đại học, và cả sau đó nữa, khi môn triết học không làm nàng hài lòng và nàng đến viếng một thiền viện để học về Thiền, các thiền sinh lại thương yêu nàng. Cả cuộc đời của Shunkai đắm chìm trong tình yêu.
Cuối cùng ở Kyoto nàng trở thành một thiền sinh thực sự. Các huynh đệ của nàng ở thiền viện phụ Kennin đều ca ngợi lòng thành thật của nàng. Một người trong số đó tỏ ra có tinh thần tương thân và giúp đỡ nàng thấu triệt được môn Thiền.
Viện trưởng của thiền viện Kennin, Mokurai, Tiếng Sấm Im Lặng, thì nghiêm khắc. Chính ngài tự giữ giới luật và đòi hỏi mọi tu sĩ của ngài cũng phải giữ như thế. Trong nước Nhật Bản hiện đại khi các tu sĩ này mất đi nhiệt tâm cho Phật giáo thì họ lại có nhiệt tình khi lấy vợ. Mokurai thường phải lấy một cây chổi và xua đuổi phụ nữ đi chỗ khác khi ngài thấy họ trong bất cứ thiền viện nào của ngài, nhưng ngài càng đuổi bao nhiêu bà vợ ra thì hình như lại càng có nhiều bà quay trở lại.
Trong thiền viện đặc biệt này bà vợ của ông tu sĩ trưởng tràng trở nên ghen tuông với lòng sốt sắng và sắc đẹp của Shunkai. Nghe các thiền sinh ca tụng môn Thiền đứng đắn của nàng khiến bà vợ này bực bội và bồn chồn. Sau cùng bà tung ra một tin đồn về Shunkai và người thanh niên, là bạn của nàng. Hậu quả là anh ta bị trục xuất và Shunkai bị chuyển ra khỏi thiền viện.
"Mình có thể phạm lầm lỗi vì tình yêu," Shunkai nghĩ, "nhưng bà vợ của ông tu sĩ cũng không nên được ở lại thiền viện khi bạn của ta bị đối xử một cách bất công như thế."
Shunkai ngay đêm đó với một bình dầu lửa đã phóng hỏa vào ngôi thiền viện cổ xưa có từ năm trăm năm nay và đốt nó cháy rụi hết. Vào buổi sáng nàng bị cảnh sát bắt giữ rồi.
Một ông luật sư trẻ tuổi chú ý đến nàng và cố gắng giúp làm cho án phạt của nàng nhẹ hơn. "Đừng nên giúp tôi," nàng nói với ông ấy. "Tôi có thể quyết định sẽ làm chuyện gì khác để rồi lại bị bỏ tù nữa thôi."
Cuối cùng hình phạt bảy năm tù cũng mãn hạn, và Shunkai được phóng thích khỏi nhà tù, nơi đó ông cai ngục sáu chục tuổi đầu cũng say mê nàng.
Nhưng giờ đây mọi người đều coi nàng như một "con mọt tù." Không ai muốn liên hệ với nàng. Ngay cả các người theo Thiền, những người vốn tin tưởng vào sự giác ngộ giải thoát trong đời này và với tấm thân này, cũng xa lánh nàng. Shunkai khám phá thấy rằng Thiền là một việc và những kẻ theo Thiền lại là một việc hoàn toàn khác biệt. Những thân nhân của nàng cũng tránh xa nàng. Nàng mắc bệnh, nghèo nàn, và yếu đuối.
Nàng gặp một tu sĩ phái Shinshu ông ta dạy nàng danh hiệu Đức Quán Thế Âm, nhờ vậy Shunkai tìm được niềm an ủi và thanh thản trong tâm hồn. Nàng qua đời khi còn rất xinh đẹp và gần ba mươi tuổi đầu.
Nàng đã cố gắng viết lại câu chuyện riêng của nàng để kiếm sống cho chính nàng và một phần câu chuyện thời nàng kể lại cho một người phụ nữ viết. Bởi thế câu chuyện đã tới tai dân chúng Nhật Bản. Những kẻ đã từng từ bỏ Shunkai, những kẻ đã từng vu cáo và ghét bỏ nàng, nay đọc chuyện về đời nàng trong nước mắt hối hận.
*
* 12 *
ÔNG TÀU SUNG SƯỚNG
Bất cứ ai đi quanh các phố Tàu ở Mỹ cũng đều nhận thấy những pho tượng của một ông mập mạp vác một cái bị bằng vải. Những người buôn bán Trung Hoa gọi ông ta là Ông Tàu Sung Sướng hay Ông Phật Cười.
Ông Hotei này sống ở đời nhà Đường. Ông chẳng có lòng ham muốn tự gọi mình là một thiền sư hoặc thâu nạp nhiều đệ tử quanh ông. Thay vào đó ông đi khắp phố phường với một cái bị lớn trong đó ông đựng các món quà như kẹo, trái cây, hay bánh. Những thứ này ông sẽ mang phân phát cho những đứa trẻ con hay quây quần quanh ông chơi đùa. Ông đã tạo lập một vườn trẻ ngoài đường phố.
Mỗi khi ông gặp một người tôn sùng đạo Thiền ông liền chìa tay của ông ra và nói: "Cho tôi xin một xu." Và nếu có ai đó yêu cầu ông trở về một thiền viện để dạy dỗ người khác, ông lại trả lời là: "Cho tôi xin một xu."
Một lần ông đang làm cái công việc chơi đùa, có một thiền sư khác tình cờ đi ngang và hỏi: "Thế nào là ý nghĩa của Thiền?"
Hotei lập tức buông rơi cái bị của ông xuống đất để trả lời một cách yên lặng.
"Vậy thì," thiền sư kia hỏi, "cái thực dụng của Thiền là gì?"
Tức khắc Ông Tàu Sung Sướng quăng cái bị lên vai ông và tiếp tục con đường của mình.
*
* 13 *
MỘT ÔNG PHẬT
Sống tại Đông Kinh vào thời đại Minh Trị có hai ông thầy nổi bật với tính tình trái ngược hẳn nhau. Một ông là Unsho, giáo sư ở Shingon, giữ giới luật của Phật một cách nghiêm túc. Ông không bao giờ uống đồ uống có chất rượu, cũng chẳng ăn sau mười một giờ sáng. Ông thầy kia, Tanzan, một giáo sư triết học tại trường đại học hoàng gia, chẳng hề bao giờ giữ giới. Khi ông thấy thích ăn thì ông ăn, và khi ông thấy thích ngủ lúc ban ngày thì ông ngủ.
Một hôm Unsho đến thăm Tanzan, lúc đó ông này đang uống rượu, dù cho lưỡi của một Phật tử không được phép đụng tới thứ này dù chỉ một giọt.
"Chào sư huynh," Tanzan lên tiếng đón mừng. "Uống một ly nhé?"
"Tôi chẳng bao giờ uống!" Unsho lớn tiếng một cách nghiêm trang.
"Ai không uống đâu có còn là người nữa," Tanzan nói.
"Sư huynh định coi tôi không phải là người chỉ vì tôi không ham những thứ chất lỏng độc hại à!" Unsho la lớn giận dữ. "Vậy nếu tôi không phải là người thì tôi là cái gì vậy?"
"Một ông Phật," Tanzan trả lời.
*
* 14 *
ĐƯỜNG BÙN LẦY
Tanzan và Ekido một lần cùng đi với nhau xuống một con đường lầy lội. Một cơn mưa nặng hạt vẫn còn đang rơi.
Tới một khúc quanh, họ gặp một cô gái dễ thương trong bộ áo kimono và đai lưng bằng lụa, không thể băng qua ngã tư đường được.
"Đi nào cô bé," Tanzan liền nói. Đưa tay nhấc bổng cô gái, ông đưa cô qua vũng bùn.
Ekido không nói năng lại nữa cho mãi đến tối hôm đó khi họ tới một ngôi chùa tạm trú. Rồi tự mình không thể nhịn được thêm nữa. "Những nhà sư chúng ta không đến gần phụ nữ," ông nói với Tanzan, "nhất là không được gần những người trẻ và đẹp. Nguy hiểm đấy. Tại sao sư huynh lại làm như vậy chứ?"
"Tôi đã bỏ cô gái lại chỗ đó rồi," Tanzan nói. "Sư huynh vẫn còn mang cô ấy theo hay sao?"
*
* 15 *
SHOUN VÀ MẸ
Shoun đã trở thành một ông thầy của phái Thiền Soto. Khi ông còn là một thiền sinh cha ông qua đời, để lại cho ông phải chăm nom bà mẹ già.
Mỗi khi Shoun đến thiền đường ông đều dẫn mẹ theo với ông. Vì bà theo bên cạnh ông, cho nên mỗi khi ông viếng các tu viện ông không thể sống cùng các nhà sư. Do đó ông xây một căn nhà nhỏ và săn sóc bà ở đó. Ông thường chép kinh, những bài kệ Phật giáo, và nhờ cách đó mà nhận được ít tiền để mua thực phẩm.
Khi Shoun mua cá cho mẹ ông, người ta giễu cợt ông, bởi vì một ông sư không được ăn cá. Nhưng Shoun chẳng thèm lưu tâm tới. Tuy nhiên, mẹ ông lại đau khổ khi thấy mọi người cười chê con bà. Cuối cùng bà bảo Shoun: "Mẹ nghĩ mẹ có thể trở thành một ni cô được. Mẹ cũng có thể là một người ăn chay nữa." Bà liền thực hiện điều đó và hai mẹ con tu học cùng nhau.
Shoun yêu thích âm nhạc và từng là một ông thầy về đàn hạc, thứ đàn mà mẹ ông cũng biết chơi. Vào những đêm trăng tròn, hai mẹ con thường hòa đàn cùng nhau.
Một buổi tối có một cô gái trẻ đi ngang nhà họ và nghe thấy tiếng nhạc. Cảm động sâu xa, cô mời Shoun đến thăm cô vào đêm hôm sau và chơi đàn. Ông nhận lời mời. Một vài ngày sau ông gặp cô gái trẻ ở ngoài phố và cám ơn cô về lòng hiếu khách của cô. Những người khác cười nhạo ông. Ông đã ghé thăm nhà của một cô gái đứng đường.
Một hôm Shoun phải đi đến một ngôi chùa ở xa để thuyết giảng. Một vài tháng sau đó ông trở về nhà và mới hay mẹ qua đời. Bạn bè trước đó không biết liên lạc với ông ở đâu, nên tiến hành đám tang.
Shoun bước đến và gõ lên quan tài bằng cây thiền trượng của mình. "Thưa mẹ, con của mẹ đã trở về," ông nói.
"Mẹ vui mừng khi thấy con đã trở về, con ạ!" ông trả lời thay cho mẹ ông.
"Vâng, con cũng rất vui mừng," Shoun đáp lại. Rồi ông loan báo với mọi người ở chung quanh ông: "Tang lễ xong rồi. Quý vị có thể chôn cất thi hài."
Khi Shoun về già, ông biết sắp tới cuối đời. Ông liền gọi các đệ tử đến quây quần chung quanh ông vào buổi sáng, bảo họ rằng ông sẽ viên tịch vào buổi trưa. Đốt hương trước ảnh của mẹ ông và của người thầy cũ của ông, ông viết một bài thơ:
Trong năm mươi sáu năm trời ta đã cố sống cho thật tốt đẹp nhất,
Lang thang trong cõi trần gian này.
Giờ đây mưa đã ngừng rơi, mây đang trôi tản mác,
Bầu trời xanh xuất hiện một bóng trăng tròn.
Các đệ tử của ông tụ họp quanh ông, tụng kinh, và Shoun ra đi trong tiếng nguyện cầu.
*
* 16 *
KHÔNG XA CÕI PHẬT
Một sinh viên đại học khi viếng thăm Gasan đã hỏi ông: "Có bao giờ ngài đọc Thánh Kinh Thiên Chúa không?
"Không, hãy đọc kinh đó cho ta nghe," Gasan nói.
Chàng sinh viên mở cuốn Thánh Kinh và đọc trong phần Thánh Matthew: "Và các ngươi lo nghĩ làm chi về phần đồ mặc? Hãy ngẫm xem hoa huệ ngoài cánh đồng, chúng mọc lớn lên như thế nào. Chúng chẳng hề lao khổ, chúng cũng chẳng kéo chỉ, và tuy nhiên ta nói cùng các ngươi rằng dù cho Solomon vinh quang biết mấy, cũng không ăn mặc được bằng một trong những hoa ấy... Vì vậy cho nên, chớ lo nghĩ gì cho ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo nghĩ cho mọi sự của ngày mai."
Gasan nói: "Bất cứ người nào đã thốt ra những lời đó ta coi như là một người đã giác ngộ rồi."
Chàng sinh viên tiếp tục đọc: "Hãy xin và cái đó sẽ cho ngươi, hãy tìm và ngươi sẽ thấy; hãy gõ và cái đó sẽ mở cho ngươi. Vì mọi người ai xin thì được, và ai tìm thì thấy, và ai gõ thì được mở cho."
Gasan phê bình: "Thật là tuyệt vời. Vị nào đã nói điều đó thời không xa cõi Phật."
*
* 17 *
HÀ TIỆN LỜI DẠY
Một y sĩ trẻ ở Đông Kinh tên là Kusuda gặp một người bạn từ hồi đại học, người này đang nghiên cứu về Thiền. Anh y sĩ trẻ hỏi người đó Thiền là gì.
"Tôi không thể nói được cho bạn cái đó là gì," người bạn trả lời, "nhưng có một điều chắc chắn. Nếu anh hiểu được Thiền, anh sẽ không còn sợ chết nữa."
"Được thôi," Kusuda nói. "Tôi sẽ thử điều đó. Ở đâu mà tôi có thể tìm gặp được một ông thầy?"
"Hãy tới thầy Nan-in," người bạn bảo anh ta.
Thế là Kusuda đi tìm thăm Nan-in. Anh mang theo một con dao găm dài chín phân rưỡi để xem chính ông thầy có thực sự sợ chết hay không.
Khi Nan-in trông thấy Kusuda, ông nói lớn tiếng: "Chào bạn. Bạn khỏe không? Chúng mình không gặp nhau đã lâu lắm rồi!"
Việc này khiến Kusuda bối rối, anh trả lời: "Chúng ta chưa từng gặp nhau trước đây mà."
"Đúng thế," Nan-in trả lời "Tôi nhầm anh với một y sĩ khác anh ấy đang thụ huấn ở đây."
Vì khởi đầu như vậy, Kusuda đã mất đi cơ hội của anh để thử thách ông thiền sư, vì thế anh ta miễn cưỡng hỏi xem anh có thể học Thiền được hay không?
Nan-in nói: "Thiền chẳng phải là một chuyện khó khăn. Nếu anh là một y sĩ, hãy chữa trị cho các bệnh nhân của anh với hảo tâm. Đó là Thiền."
Kusuda đã đến viếng Nan-in ba lần. Mỗi lần Nan-in đều nói với anh cùng một câu như vậy. "Một y sĩ chớ nên phí phạm thời giờ ở quanh đây. Hãy đi về nhà và chăm sóc các bệnh nhân của anh."
Kusuda chưa thấy được sáng tỏ tại sao lời giảng dạy như vậy có thể làm tan đi nỗi sợ chết. Vì thế đến lần viếng thăm thứ tư anh phàn nàn: "Bạn con bảo con rằng khi ai học thiền thì không còn sợ chết nữa. Mỗi lần con đến đây tất cả những điều thầy bảo con chỉ là phải chăm sóc cho bệnh nhân của con. Con biết nhiều về việc đó chứ. Nếu đó là cái gọi là Thiền của thầy thì con sẽ không đến thăm thầy nữa đâu."
Nan-in mỉm cười và vỗ vai anh y sĩ. "Ta đã quá nghiêm khắc với anh. Để ta đưa cho anh một công án." Ông trao cho Kusuda công án về "Không" của Triệu Châu để quán tưởng, đó là vấn đề đốn ngộ tâm đầu tiên trong cuốn sách có tên là Vô Môn Quan.
Kusuda suy tư về vấn đề "Không" này trong hai năm trời. Cuối cùng anh nghĩ rằng anh đã ngộ được chân tâm. Nhưng ông thầy của anh phê phán: "Anh chưa đạt vào."
Kusuda tiếp tục tập trung quán tưởng thêm một năm rưỡi nữa. Tâm của anh bắt đầu ổn định. Các vấn đề được lý giải. Cái "Không" trở thành chân lý. Anh ta phục vụ bệnh nhân của anh đàng hoàng và chính anh cũng chẳng hề nhận biết là anh đã không còn quan tâm về chuyện sống và chết nữa.
Từ đó mỗi khi anh đến thăm Nan-in, ông thầy già của anh chỉ mỉm cười.
*
* 18 *
MỘT NGỤ NGÔN
Đức Phật kể một ngụ ngôn trong một kinh:
Một người đi ngang qua một cánh đồng và gặp một con hổ. Anh chàng chạy trốn, con hổ đuổi theo anh. Tới một bờ vực sâu, anh nắm được vào rễ một cây nho dại và đu mình xuống qua bờ vực. Con hổ đánh hơi anh ở phía bên trên. Run sợ anh chàng nhìn xuống, phía xa bên dưới, lại thấy một con hổ khác đang chờ ăn thịt anh. Chỉ có cây nho giúp đỡ anh.
Hai con chuột, một con trắng và một con đen, đang bắt đầu gậm nhấm bứt cây nho dần dần từng chút một. Anh chàng nhìn thấy một quả dâu ngon gần bên anh. Một tay nắm cây nho, tay kia anh hái quả dâu. Dâu nếm sao ngon ngọt đến thế.
*
* 19 *
ĐỆ NHẤT ĐẾ
Khi ai đến thiền viện Obaku ở Kyoto đều nhìn thấy có khắc trên cổng những chữ "Đệ Nhất Đế". Những chữ to một cách bất thường, và với những người biết thưởng thức lối viết thư họa ai cũng luôn khâm phục những chữ này là một tuyệt tác. Những chữ này do Kosen vẽ hai trăm năm về trước.
Khi ông thầy vẽ những chữ này ông vẽ trên giấy, rồi người thợ mới dựa theo đó mà khắc lớn ra vào gỗ. Khi Kosen phác họa chữ thì một chú học trò dạn dĩ ở gần bên ông, chú mài cả mấy hũ mực cho việc phác họa và cũng không ngừng bình phẩm công trình của ông thầy chú.
"Cái đó không đẹp," chú thưa với Kosen sau lần vẽ thử thứ nhất.
"Cái kia thì thế nào?"
"Xấu. Dở hơn trước, " chú học trò lên tiếng.
Kosen nhẫn nại viết hết bản này qua bản khác cho đến khi tám mươi tư bản "Đệ Nhất Đế" đã chất đống mà chẳng được học trò chấp nhận.
Thế rồi, đến khi anh chàng trẻ tuổi bước ra ngoài trong chốc lát, Kosen nghĩ: "Bây giờ là cái cơ hội của ta để thoát ra khỏi con mắt sắc sảo của nó," và ông liền viết một cách vội vã, với một tâm trạng không còn bối rối: "Đệ Nhất Đế."
"Một tuyệt tác." chú học trò reo lên.
*
* 20 *
LỜI KHUYÊN CỦA MỘT BÀ MẸ
Jiun, một thiền sư Shingon, là một học giả chữ Phạn nổi tiếng vào thời đại Tokugawa. Lúc còn trẻ ông thường hay diễn thuyết cho các anh em bạn học.
Mẹ của ông nghe được về chuyện này và viết cho ông một lá thư:
"Con à, mẹ không nghĩ rằng con trở thành một người hiến mình vào cửa Phật bởi vì con muốn trở thành một cuốn tự điển sống cho các người khác. Sự hiểu biết và phê phán, vinh quang và danh dự cũng chẳng đi đến đâu. Mẹ muốn con hãy chấm dứt cái việc diễn thuyết đó đi. Hãy tự lánh mình trong một thiền viện nhỏ bé ở một nơi xa xôi trong núi. Con hãy dành thì giờ của mình để thiền định và bằng cách đó mà đạt sự chứng ngộ thật sự."
*
* 21 *
ÂM THANH CỦA MỘT BÀN TAY
Thiền sư của chùa Kennin là Mokurai, Tiếng Sấm Yên Lặng. Ông có một đệ tử bảo trợ nhỏ tên là Toyo chỉ mới mười hai tuổi. Toyo thấy các môn đồ lớn tuổi hơn đến thăm phòng thầy vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối để được chỉ dạy về thiền định an tâm theo đó họ được trao cho những công án để ngăn chặn cho tâm khỏi chao động.
Toyo cũng mong ước được ngồi tham thiền.
"Hãy chờ đợi thêm ít lâu," Mokurai bảo. "Con hãy còn nhỏ lắm."
Nhưng cậu bé nài nỉ, nên cuối cùng ông thầy ưng thuận.
Vào buổi tối cậu bé Toyo đến bên ngoài ngưỡng cửa phòng thiền của Mokurai vào một thời điểm thích hợp. Cậu đánh chiêng báo hiệu mình hiện diện, cúi chào cung kính ba lần phía ngoài cửa, rồi đến ngồi trước mặt thầy yên lặng kính cẩn.
"Con có thể nghe thấy âm thanh của hai bàn tay khi chúng vỗ vào nhau," Mokurai nói. "Bây giờ hãy cho ta biết về âm thanh của một bàn tay."
Toyo cúi chào và lui về phòng mình mà nghiên cứu vấn đề này. Từ cửa sổ phòng mình cậu có thể nghe thấy âm nhạc của các cô đào hát. "A! Ta thấy được rồi!" cậu reo lên.
Đêm hôm sau, khi thầy của cậu bảo cậu diễn tả âm thanh của một bàn tay, Toyo bắt đầu chơi âm nhạc của các cô đào hát.
"Không, không," Mokurai nói. "Chẳng bao giờ như vậy đâu. Cái đó không phải là âm thanh của một bàn tay. Con chưa thâu thái được gì hết."
Cho rằng âm nhạc như thế có thể làm gián đoạn, Toyo di chuyển chỗ ở của cậu đến một nơi yên tĩnh. Cậu ta lại tham thiền. "Âm thanh của một bàn tay có thể là gì?" Cậu chợt nghe tiếng nước nhỏ giọt. "Ta thấy rồi," Toyo tưởng tượng.
Lần sau khi cậu đến trước mặt thầy của cậu, Toyo bắt chước tiếng nước nhỏ giọt.
"Đó là cái gì vậy?" Mokurai hỏi. "Đó là tiếng nước nhỏ giọt, nhưng không phải là âm thanh của một bàn tay. Cố nữa đi."
Toyo trầm tư để nghe âm thanh của một bàn tay nhưng chẳng ăn thua gì. Cậu nghe thấy tiếng thở dài của gió. Nhưng âm thanh bị bác bỏ.
Cậu nghe thấy tiếng kêu của một con cú. Tiếng đó cũng bị từ chối.
Âm thanh của một bàn tay không phải là những con châu chấu.
Cả đến hơn mười lần Toyo đến viếng thăm Mokurai với các âm thanh khác nhau. Tất cả đều sai. Gần suốt một năm cậu cứ nghĩ ngợi xem âm thanh của một bàn tay là thế nào.
Sau cùng cậu bé Toyo nhập vào thiền định thật sự và vượt qua tất cả các âm thanh. "Ta không còn thâu thập được thêm gì nữa," cậu giải thích về sau này, "bởi vậy ta đã đạt tới âm thanh không âm thanh."
Toyo đã ngộ được âm thanh của một bàn tay.
*
* 22 *
TIM TA CHÁY NHƯ LỬA
Soyen Shaku, thiền sư đầu tiên tới Châu Mỹ, nói: "Tim ta cháy như lửa nhưng mắt ta lạnh như tro tàn." Ngài đặt ra những quy luật sau mà ngài thực hành mỗi ngày trong cuộc đời ngài.
Buổi sáng trước khi khoác y phục, hãy thắp nhang và thiền định.
Lui vào an nghỉ theo một giờ giấc nhất định. Nhận phần ăn uống vào những lúc nhất định. Ăn điều độ và không bao giờ tới mức thỏa mãn.
Tiếp một người khách với cùng một thái độ mà bạn có khi ở một mình. Khi ở một mình, cũng giữ nguyên thái độ như lúc bạn tiếp khách.
Lưu ý vào điều gì bạn nói, và bất cứ bạn nói điều chi, hãy thực hành điều đó.
Khi một cơ hội đến đừng để nó trôi đi, tuy nhiên luôn luôn suy nghĩ hai lần trước khi hành động.
Đừng nuối tiếc quá khứ. Hãy nhìn tới tương lai.
Nên có thái độ không hãi sợ của một người anh hùng và trái tim thương yêu của một đứa trẻ.
Khi đi ngủ, hãy ngủ như là bạn đang bước vào giấc ngủ cuối cùng của bạn. Khi thức dậy, hãy rời bỏ cái giường lại phía sau bạn ngay tức khắc như là bạn vứt bỏ đi một đôi giày cũ.
*
* 23 *
SỰ RA ĐI CỦA ESHUN
Khi Eshun, thiền sư ni, đã ngoài sáu mươi tuổi và sắp lìa cõi dương gian này, bà bảo một vài sư chất củi thành đống ở trong sân.
Đích thân ngồi vững vàng ở ngay giữa giàn hỏa táng, bà ra lệnh châm lửa ở xung quanh giàn.
"Sư bà ơi!" một sư kêu lớn lên, "trong đó có nóng không?"
"Chuyện như thế chỉ có kẻ ngu xuẩn như ngươi mới quan tâm đến mà thôi," Eshun trả lời.
Ngọn lửa bốc lên cao, và bà qua đời.
*
* 24 *
TỤNG KINH
Một bác nông dân thỉnh một thầy tu phái Tendai tụng kinh cho vợ bác ta, bà ấy vừa qua đời. Sau khi kinh tụng đã xong, bác nông dân hỏi: "Thầy có nghĩ rằng vợ tôi sẽ được phước vì việc này không?"
"Không những chỉ vợ bác, mà tất cả chúng sinh hữu tình đều được hưởng phước trong việc tụng kinh," thầy tu trả lời.
"Nếu thầy nói mọi chúng sinh hữu tình đều được hưởng phước," bác nông dân nói, "vợ tôi có lẽ rất yếu đuối và những người khác sẽ dành mất phần của bà ấy, tranh phần phước mà bà ấy đáng lẽ được hưởng. Cho nên xin thầy làm ơn tụng kinh cho riêng bà ấy thôi."
Thầy tu giải thích rằng mong ước của một người Phật tử là hồi hướng phước báu và công đức cho tất cả mọi chúng sinh.
"Đó là một lời dạy cao quý," bác nông dân kết luận, "nhưng xin thầy hãy cho một ngoại lệ. Tôi có một tên hàng xóm, hắn thô lỗ và xấu ác với tôi. Chỉ xin thầy loại bỏ tên đó ra khỏi cái thành phần chúng sinh hữu tình kia thôi."
*
* 25 *
BA NGÀY NỮA
Suiwo, đệ tử của Hakuin, là một thiền sư giỏi. Trong một mùa an cư kiết hạ, một đệ tử từ một hòn đảo miền nam Nhật Bản đến thăm thầy.
Suiwo trao cho anh ta một công án: "Hãy nghe âm thanh của một bàn tay."
Anh đệ tử ở lại ba năm trời mà vẫn chưa vượt qua được cuộc trắc nghiệm này. Một đêm anh ta mắt đẫm lệ tìm đến Suiwo. "Con phải trở về miền nam trong sự nhục nhã và ngượng ngùng," anh ta thưa, "vì con không thể giải đáp được vấn đề của con."
"Hãy đợi thêm một tuần nữa và siêng năng thiền định." Suiwo khuyên. Anh đệ tử vẫn không giác ngộ được. "Hãy cố gắng thêm một tuần nữa," Suiwo nói. Anh đệ tử vâng lời, nhưng vô ích.
"Vậy thêm một tuần nữa." Tuy nhiên vẫn không có hiệu quả. Anh đệ tử thất vọng xin được bãi miễn, nhưng Suiwo yêu cầu thêm năm ngày thiền định nữa. Không có kết quả gì. Rồi ông nói: "Thiền định thêm ba ngày nữa, nếu anh không đạt được giác ngộ thì tốt hơn hết là anh nên tự tử đi."
Đến ngày thứ hai anh đệ tử giác ngộ.
*
* 26 *
ĐỐI THOẠI DÀNH CHỖ TRÚ NGỤ
Nếu mở một cuộc tranh luận về Phật pháp và thắng được các người đang cư trú ở nơi đó thì bất kỳ một nhà sư nào lang thang đi thuyết pháp cũng có thể được lưu lại trong một thiền viện. Nếu nhà sư đó bị bại, sư phải đi nơi khác.
Trong một thiền viện ở miền bắc Nhật Bản có hai ông sư huynh đệ kia đang cư ngụ cùng với nhau. Sư huynh thì có học thức, nhưng sư đệ thì ngu dốt và chỉ có một con mắt.
Một nhà sư lang thang ghé đến và xin trú ngụ, đã chính thức thách họ tranh luận về giáo pháp thượng thừa. Sư huynh, ngày hôm đó đã mệt mỏi vì nghiên cứu nhiều, nói sư đệ thay thế mình. "Đi ra và đề nghị đối thoại trong tĩnh lặng" sư huynh cẩn thận dặn dò.
Bởi thế nhà sư trẻ và người khách lạ cùng đi tới trước bàn thờ Phật và ngồi xuống.
Một lát sau đó, người du khách đứng dậy rồi đi vào gặp sư huynh và nói: "Sư đệ của ông quả là một tay phi thường. Ông ấy đánh bại tôi rồi."
"Hãy thuật lại cuộc đối thoại cho tôi nghe," sư huynh nói.
"Được chứ!" người du khách kể, "thoạt tiên tôi giơ lên một ngón tay, tượng trưng cho Đức Phật, đấng Giác Ngộ. Cho nên ông ấy liền giơ lên hai ngón tay, biểu hiệu cho Đức Phật và giáo pháp của ngài. Tôi giơ lên ba ngón tay, tượng trưng cho Đức Phật, giáo pháp của ngài và các môn đệ của ngài sống một cách hòa đồng. Lúc đó ông ấy liền giơ nắm đấm vào mặt tôi, ám chỉ rằng cả ba đều khởi từ một sự chứng ngộ. Như vậy là ông ấy đã thắng và vì thế tôi không có quyền lưu lại nơi đây." Nói xong, người du khách ra đi.
"Cái tên đó đâu rồi?" sư đệ chạy vào hỏi sư huynh.
"Ta biết rằng sư đệ đã thắng cuộc tranh luận."
"Chẳng thắng cái quái gì cả. Tôi sẽ đập cho hắn một trận."
"Kể cho ta biết đề tài tranh luận," sư huynh hỏi.
"Tại sao à! Ngay lúc hắn vừa trông thấy em hắn giơ một ngón tay lên, sỉ nhục em bằng cách ám chỉ rằng em chỉ có một con mắt. Vì hắn là người lạ nên em nghĩ rằng em nên lịch sự với hắn, bởi thế em giơ lên hai ngón tay, chúc mừng hắn rằng hắn có hai con mắt. Rồi thì tên hèn hạ vô lễ lại giơ lên ba ngón tay, muốn tỏ lộ rằng giữa hai người chúng ta chỉ có ba con mắt. Cho nên em phát điên lên định đấm hắn, nhưng hắn lại chạy ra mất và rốt cuộc chỉ có vậy thôi!"
*
* 27 *
GIỌNG NÓI CỦA HẠNH PHÚC
Sau khi Bankei lìa trần, một người mù sống cạnh thiền viện của thiền sư kể với một người bạn rằng: "Vì tôi mù, tôi không thể nào nhìn thấy được mặt người, cho nên tôi phải đoán tâm tánh của người qua thanh âm tiếng nói của người đó. Thông thường khi tôi nghe thấy ai chúc mừng người khác được hạnh phúc hay thành công, tôi cũng nghe được một cái giọng ganh tị thầm kín. Khi nghe lời chia buồn với điều bất hạnh của người khác, tôi nghe có sự vui thích và mãn nguyện, tưởng chừng như kẻ đang chia buồn nhưng thật sự sung sướng vì có chút gì bỏ lại để cho mình kiếm chác trong cõi riêng tư.
"Tuy nhiên, với bao kinh nghiệm của tôi, giọng nói của Bankei luôn luôn thành thực. Mỗi khi ông bầy tỏ sự vui sướng, tôi chỉ nghe thấy giọng sướng vui mà thôi, và mỗi khi ông tỏ ra phiền muộn, tôi chỉ nghe thấy một giọng muộn phiền."
*
* 28 *
HÃY MỞ KHO CHÂU BÁU CỦA RIÊNG ÔNG
Daiju đến thăm thiền sư Baso ở Trung Hoa. Baso hỏi: "Ông tìm gì vậy?"
"Sự giác ngộ," Daiju trả lời.
"Ông có kho châu báu của riêng ông. Tại sao ông phải kiếm ở bên ngoài?" Baso hỏi.
Daiju dò hỏi: "Kho châu báu của tôi ở đâu?"
Baso trả lời: "Cái mà ông đang hỏi là kho châu báu của ông đấy."
Daiju giác ngộ! Từ đấy về sau này ông hối thúc các bạn bè của ông: "Hãy mở kho châu báu của riêng ông và hãy xử dụng những của báu này."
*
* 29 *
KHÔNG NƯỚC, KHÔNG TRĂNG
Khi ni cô Chiyono học Thiền với Bukko của phái Engaku, cô không đạt được kết quả của sự thiền định trong một thời gian dài.
Sau cùng vào một đêm sáng trăng cô xách nước trong một cái thùng xô cũ buộc bằng nan tre. Nan tre bị đứt và cái đáy rớt ra khỏi thùng xô, và ngay vào lúc đó Chiyono được giác ngộ.
Để kỷ niệm, cô viết một bài thơ:
Bằng cách đó và ta đã cố bảo toàn
cái thùng xô cũ
Vì dây nan tre đã yếu và sắp đứt
Cho đến lúc cuối cùng cái đáy rớt ra.
Không còn nước trong thùng nữa!
Không còn trăng trong nước nữa!
*
* 30 *
DANH THIẾP
Keichu, đại thiền sư thời Minh Trị, là người đứng đầu của Tofuku, một tu viện ở Kyoto. Một ngày thống đốc của Kyoto đến viếng thăm ngài lần đầu tiên.
Người hầu cận của ngài trình vào tấm thiếp của vị thống đốc, đọc thấy là: Kitagaki, Thống đốc Kyoto.
"Ta không có việc gì dính dáng với một kẻ như thế," Keichu nói với người hầu cận của ngài. "Hãy bảo ông ấy ra khỏi nơi đây."
Người hầu cận mang tấm thiếp ra đưa lại với lời cáo lỗi. "Đó là sự lầm lẫn của tôi," vị thống đốc nói, và lấy bút chì ông gạch bỏ đi mấy chữ Thống đốc Kyoto. "Hãy thưa lại với thầy anh."
"Ồ! đấy là Kitagaki ư?" thiền sư reo lên khi ông nhìn thấy tấm thiếp. "Ta muốn gặp ông bạn đó."
*
* 31 *
MỌI THỨ ĐỀU HẠNG NHẤT
Khi Banzan đi ngang qua một khu chợ ông bất chợt nghe được một cuộc đối thoại giữa một bác bán thịt và người khách hàng của bác ta.
"Bán cho tôi miếng thịt ngon nhất mà bác có," người khách hàng nói.
"Mọi thứ trong cửa hàng của tôi cũng đều là hạng nhất cả," bác hàng thịt đáp lại. "Ông không thể tìm thấy ở đây miếng thịt nào mà không phải là hạng nhất đâu."
Nghe những lời đó, Banzan trở nên giác ngộ.
*
* 32 *
CHÚT THỜI GIAN BAO NGỌC BÁU
Một lãnh chúa hỏi Takuan, một thiền sư, để xin thầy khuyên ông phải dùng thời giờ như thế nào. Ông ta cảm thấy những ngày của ông quá dài khi tham gia nơi việc công và ngồi ngay đơ đón nhận sự tôn sùng của mọi người.
Takuan viết tám chữ Hán và trao lại cho lãnh chúa:
Không có hai lần như ngày nay
Chút thời gian bao ngọc báu.
Ngày này sẽ không trở lại
Mỗi phút đáng giá một viên ngọc vô giá.
*
* 33 *
BÀN TAY CỦA MOKUSEN
Mokusen Hiki đang sống trong một thiền viện ở tỉnh Tamba. Một trong những môn đồ của ông than phiền về tính keo kiệt của vợ anh ta.
Mokusen đến thăm vợ của người môn đồ và giơ nắm đấm của ông ra trước mặt bà ấy.
"Ông định ám chỉ gì với cái đó vậy?" người đàn bà ngạc nhiên hỏi.
"Giả dụ nắm tay của ta cứ luôn luôn như thế đó. Bà gọi nó là cái gì?" ông hỏi.
"Dị dạng," người đàn bà trả lời.
Rồi ông xòe bàn tay thẳng ra trước mặt bà ấy và hỏi: "Giả dụ như nếu nó cứ luôn luôn như thế đó. Lúc đó là cái gì?"
"Một loại dị dạng khác," người vợ nói.
"Nếu bà hiểu được nhiều như vậy," Mokusen kết luận, "bà là một người vợ tốt." Xong ông ra về.
Sau lần viếng thăm của ông, người vợ này phụ giúp chồng bà trong việc tiêu pha cũng như dành dụm.
*
* 34 *
MỘT NỤ CƯỜI TRONG CUỘC ĐỜI CỦA ÔNG
Được biết Mokugen chưa bao giờ cười cho đến tận ngày cuối cùng của ông trên cõi dương gian. Khi tới giờ sắp qua đời ông nói với các đệ tử trung thành của ông: "Các con đã theo học với ta hơn mười năm trời. Hãy biểu lộ cho ta thấy cách lý giải thực sự của các con về Thiền. Ai diễn tả điều này minh bạch nhất sẽ là người kế vị ta và nhận y với bát của ta."
Mọi người nhìn vào gương mặt nghiêm trang của Mokugen, nhưng không một người nào trả lời.
Encho, một đệ tử đã ở với thầy mình một thời gian lâu rồi, đến bên cạnh giường. Anh đẩy chén thuốc tới phía trước vài phân. Đó là câu anh trả lời cho cái lệnh truyền.
Nét mặt thầy trở nên nghiêm trang hơn nữa. "Đấy là tất cả những gì mà con thấu triệt hay sao?" ông hỏi.
Encho vươn tới và chuyển cái chén lui trở lại.
Một nụ cười đẹp đẽ tươi nở trên nét mặt của Mokugen. "Thằng nhãi ranh," ông nói với Encho. "Mi theo ta đã mười năm và chưa hề thấy toàn thể tấm thân của ta. Hãy cầm lấy y và bát. Chúng thuộc về mi đó."
*
* 35 *
THIỀN TỪNG PHÚT
Các thiền sinh phải ở với thầy của họ ít nhất cũng phải mười năm trước khi họ coi như có thể dạy người khác. Tenno đến viếng thăm Nan-in. Tenno đã trải qua thời gian học tập của anh và đã trở thành một thiền sư. Nhằm đúng vào ngày trời mưa, cho nên Tenno đi guốc gỗ và mang theo một cây dù. Sau khi chào hỏi anh Nan-in nhận xét: "Ta cho rằng anh đã để đôi guốc gỗ của anh trong phòng phía trước. Ta muốn biết cái dù của anh ở phía bên phải hay bên trái đôi guốc."
Tenno, bối rối, không trả lời ngay được. Anh ta nhận thức ra rằng anh ta chưa đủ sức để thể hiện được Thiền của anh trong từng phút. Anh trở thành học trò của Nan-in, và anh học hỏi thêm sáu năm nữa để thành tựu Thiền trong từng phút của mình.
*
* 36 *
MƯA HOA
Subhuti là đệ tử của Đức Phật. Ngài có năng lực thấu triệt được tiềm lực của tánh không, cái quan điểm cho rằng chẳng có chi hiện hữu ngoài sự tương quan giữa chủ thể và khách thể.
Một ngày Subhuti, trong một tâm trạng tánh không siêu phàm, đang ngồi dưới một cái cây. Hoa bắt đầu rơi rụng xung quanh ngài.
"Chúng tôi đang tán thán ngài về bài giảng pháp về tánh không của ngài," các thiên thần thì thầm với ngài.
"Nhưng tôi có nói gì đến tánh không đâu." Subhuti nói.
"Ngài chưa nói về tánh không, chúng tôi chưa nghe đến tánh không," các thiên thần đáp lại. "Đây là cái tánh không thực sự" Và các bông hoa rơi phủ xuống ngài như mưa.
*
* 37 *
XUẤT BẢN KINH
Tetsugen, một người hâm mộ Thiền ở Nhật Bản, quyết định xuất bản kinh, mà lúc bấy giờ chỉ có bằng chữ Hán. Những cuốn sách được đem in bằng những bản khắc gỗ mỗi lần bẩy ngàn bản, một công tác vĩ đại.
Tetsugen bắt đầu bằng cách du hành và lạc quyên tiền hiến tặng cho mục đích này. Một vài người có thiện cảm tặng ông cả trăm đồng tiền vàng, nhưng hầu hết những lần khác ông chỉ nhận được những đồng tiền lẻ. Ông cảm tạ mỗi người hiến tặng bằng một lòng biết ơn ngang nhau. Sau mười năm Tetsugen có đủ tiền để bắt đầu công việc của ông.
Nhưng lúc đó bất ngờ sông Uji bị dâng tràn. Nạn đói xảy ra theo. Tetsugen mang tiền quỹ mà ông đã quyên góp được để in sách ra tiêu dùng vào việc cứu những người khác khỏi chết đói. Thế rồi ông lại bắt đầu công tác lạc quyên của ông.
Vài năm sau đó một bệnh dịch lan tràn khắp nước. Tetsugen lại đem cho đi những gì ông đã quyên góp được, để giúp đỡ dân chúng của ông.
Một lần thứ ba ông lại tiến hành công tác của ông, và sau hai mươi năm nguyện ước của ông đã thành đạt. Những bản in dùng để sản xuất ra những ấn bản đầu tiên của kinh ngày nay được trưng bày tại tu viện Obaku ở Kyoto.
Người Nhật Bản kể cho con cái họ nghe rằng Tetsugen đã làm ra được ba bộ kinh, và rằng hai bộ vô hình đầu tiên còn vượt trội hơn cả bộ sau cùng.
*
* 38 *
CÔNG TRÌNH CỦA GISHO
Gisho được thọ giới làm ni cô lúc cô mười tuổi. Cô được huấn luyện cũng giống như những chú tiểu khác. Khi cô tới mười sáu tuổi cô di chuyển từ thiền sư này đến thiền sư khác để học hỏi với tất cả các vị đó.
Cô ở lại trong ba năm với Unzan, sáu năm với Gukei, nhưng vẫn chưa thể đạt được một cái nhìn sáng suốt. Cuối cùng cô đến với thiền sư Inzan.
Inzan không có một chút phân biệt gì về giới tính của cô cả. Ông rầy la cô như giông bão. Ông tát tai cô để đánh thức bản tánh thầm kín của cô.
Ginsho ở lại với Inzan mười ba năm, và rồi cô thấy ra được điều mà cô đang kiếm tìm!
Để vinh danh cô, Inzan viết một bài thơ:
Ni cô này đã theo học mười ba năm dưới sự chỉ dẫn của ta.
Vào buổi tối cô suy xét những công án sâu xa nhất,
Vào buổi sáng cô bị lôi cuốn vào những công án khác.
Ni cô người Trung Hoa Tetsuma đã vượt qua tất cả trước cô,
Và kể từ Mujaku chẳng có ai chân chính như Gisho này!
Tuy nhiên còn có thêm nhiều cửa nữa mà cô phải vượt qua.
Cô vẫn còn phải nhận thêm nhiều cú đấm nữa từ nắm tay sắt của ta.
Sau khi Gisho giác ngộ cô đi đến tỉnh Banshu, khởi sự thiền viện riêng của cô, và dạy hai trăm ni cô khác cho đến ngày cô qua đời trong một năm vào tháng Tám.
*
* 39 *
NGỦ LÚC BAN NGÀY
Thiền sư Soyen Shaku từ giã thế gian này lúc ông sáu mươi mốt tuổi. Hoàn tất sự nghiệp của đời ông, ông để lại một giáo pháp to lớn, phong phú hơn giáo pháp của đa số những thiền sư khác rất nhiều. Các học trò của ông thường hay ngủ lúc ban ngày vào giữa mùa hạ, và trong lúc ông bỏ qua việc này thì chính bản thân ông, ông không bao giờ bỏ phí một phút nào.
Khi ông chỉ mới mười hai tuổi, ông đã học hỏi sự suy tư triết lý phái Tendai. Một ngày mùa hạ trời oi nồng đến nỗi cậu bé Soyen duỗi chân ra và ngủ thiếp đi khi thầy của cậu vắng xa.
Ba giờ đồng hồ đã trôi qua, khi thình lình thức dậy cậu nghe thấy thầy của cậu đi vào, nhưng đã quá muộn rồi. Cậu nằm dài ngay ra đấy, chắn ngang ngưỡng cửa vào.
"Ta xin lỗi con, ta xin lỗi con," thầy của cậu nói thầm thì, bước cẩn thận qua người của Soyen như thể là bước qua người vị khách quý nào đó vậy. Sau chuyện này, Soyen không bao giờ còn ngủ vào buổi trưa nữa.
*
* 40 *
TRONG CÕI MỘNG
"Ông thầy học của chúng tôi hay ngủ một giấc ngắn mỗi buổi trưa," một đệ tử của Soyen Shaku kể lại. "Bọn trẻ con chúng tôi hỏi thầy tại sao ông làm như vậy thì ông bảo với chúng tôi là: ‘Ta đi vào cõi mộng để gặp các vị thánh hiền thời xa xưa như ngài Khổng Tử thường làm.’ Khi ngài Khổng Tử ngủ, ngài thường nằm mơ thấy các vị thánh hiền thuở trước và về sau này kể lại cho các đệ tử nghe về những vị này.
"Một ngày nọ trời nóng dữ dội cho nên vài đứa chúng tôi ngủ một giấc ngắn. Thầy học của chúng tôi la mắng chúng tôi. ‘Chúng con đi vào cõi mộng để gặp các vị thánh hiền thuở xa xưa tương tự như ngài Khổng Tử đã làm vậy,’ chúng tôi biện minh. ‘Các vị thánh hiền đó nhắn nhủ cái gì không?’ thầy học của chúng tôi hỏi. Một đứa trong bọn chúng tôi trả lời: ‘Chúng con đã đi vào cõi mộng và đã gặp các vị thánh hiền rồi hỏi các ngài đó rằng thầy học của chúng con có đến đấy vào mỗi buổi trưa hay không, nhưng các ngài nói rằng các ngài chưa hề bao giờ trông thấy một người nào như vậy cả.’"
*
* 41 *
THIỀN CỦA JOSHU
Joshu khởi sự học Thiền khi ông sáu mươi tuổi và tiếp tục cho đến lúc ông tám mươi tuổi, khi mà ông giác ngộ Thiền.
Ông giảng dạy từ lúc tám mươi tuổi cho đến khi ông một trăm hai mươi tuổi.
Có một lần một thiền sinh hỏi ông: "Nếu con chẳng có gì trong tâm của con, thì con sẽ phải làm gì?"
Joshu trả lời: "Hãy liệng nó ra ngoài."
"Nhưng nếu con chẳng có gì cả, thì làm sao con liệng nó ra được?" người hỏi tiếp tục hỏi.
"Được thôi" Joshu nói " vậy hãy mang nó ra."
*
* 42 *
CÂU TRẢ LỜI CỦA NGƯỜI CHẾT
Khi Mamiya, người mà về sau trở thành một nhà thuyết pháp nổi danh, đến một thiền sư để được hướng dẫn riêng tư, ông được yêu cầu phải giải thích về âm thanh của một bàn tay.
Mamiya tập trung xem âm thanh của một bàn tay có thể là cái gì. "Con vẫn chưa tích cực suy tư cho đầy đủ," thầy của ông nói với ông. "Con bị ràng buộc quá nhiều đến thức ăn, tài sản, vật dụng và cái âm thanh đó. Chắc sẽ tốt đẹp hơn nếu con chết đi. Như vậy sẽ giải quyết được vấn đề."
Lần sau Mamiya hiện diện trước mặt thầy của ông thì ông lại bị hỏi là đã có gì để biểu lộ về cái âm thanh của một bàn tay hay không. Mamiya lập tức ngã lăn ra như là ông đã chết rồi.
"Con đã chết thì được lắm" thiền sư nói. "Nhưng về cái âm thanh đó thì thế nào?"
"Con vẫn chưa giải đáp được cái đó," Mamiya trả lời, ngước nhìn lên.
"Những người chết đâu có nói được," thầy lên tiếng. "Hãy ra ngay!"
*
* 43 *
THIỀN TRONG CUỘC ĐỜI MỘT NGƯỜI HÀNH KHẤT
Tosui là một thiền sư nổi danh vào thời của ông. Ông đã sống trong nhiều thiền viện và giảng dạy tại các tỉnh khác nhau.
Ngôi thiền viện sau cùng ông ghé thăm tụ họp quá nhiều môn sinh cho nên ông nói với họ rằng ông sẽ hoàn toàn từ bỏ hẳn công tác giảng thuyết . Ông khuyên họ nên phân tán ra và đi tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn. Sau đó không một ai còn thấy được chút dấu tích nào của ông nữa.
Ba năm sau một trong số những môn sinh của ông khám phá thấy ông đang sống với một vài người hành khất dưới một cây cầu ở Kyoto. Anh ta lập tức năn nỉ Tosui dạy anh.
"Nếu anh có thể làm được như ta làm dù chỉ trong vài ngày thôi, ta có thể dạy," Tosui trả lời.
Vì thế anh môn sinh cũ ăn mặc như một người hành khất và sống qua một ngày với Tosui. Ngày hôm sau một trong số những người hành khất qua đời. Tosui và môn sinh của ông khiêng cái xác đi vào lúc nửa đêm và chôn xác đó trên một sườn núi. Sau đó họ trở về nơi trú ẩn của họ dưới cây cầu.
Tosui ngủ yên suốt đêm còn lại, nhưng anh môn sinh không thể ngủ được. Khi trời sáng Tosui nói: "Chúng ta không phải xin ăn hôm nay. Ông bạn quá cố của chúng ta đã để lại một ít ở đằng kia" Nhưng anh môn sinh không ăn nổi một miếng nào cả.
"Ta đã bảo là anh không thể làm được như ta mà," Tosui kết luận. "Hãy đi ra khỏi đây và đừng quấy nhiễu ta nữa."
*
* 44 *
KẺ TRỘM TRỞ THÀNH ĐỆ TỬ
Một đêm khi Shichiri Kojun đang tụng kinh thì một tên trộm với một thanh kiếm sắc nhọn bước vào, đòi đưa tiền nếu không ông sẽ mất mạng.
Shichiri bảo hắn: "Đừng quấy rầy ta. Anh có thể tìm thấy tiền trong cái ngăn kéo kia." Rồi ông tiếp tục tụng kinh.
Một lát sau đó ông ngừng lại và kêu lên: "Đừng lấy hết cả đấy nhé. Ta cần một ít để trả tiền thuế ngày mai."
Tên xâm nhập lượm lặt gần hết số tiền và sắp sửa chuồn đi. "Hãy cám ơn người ta khi anh nhận một món quà tặng chứ," Shichiri nói thêm. Tên trộm cảm tạ ông và bỏ đi.
Một vài ngày sau đó tên này bị bắt và thú tội, trong các tội thú nhận này có cái tội liên quan đến Shichiri. Khi Shichiri được mời tới như là một nhân chứng ông nói: "Người này không phải là kẻ trộm, ít nhất là riêng về phần liên quan tới tôi. Tôi đã cho anh ấy tiền và anh ấy đã cảm tạ tôi về chuyện đó."
Sau khi đã mãn thời hạn ở tù, anh chàng tìm đến Shichiri và trở thành đệ tử của ông.
*
* 45 *
ĐÚNG VÀ SAI
Khi Bankei tổ chức những tuần an cư để thiền định, các môn sinh từ nhiều nơi trên nước Nhật Bản tới tham dự. Một lần trong những buổi tụ họp này một môn sinh bị bắt về tội ăn trộm. Công chuyện được trình lên Bankei với lời thỉnh cầu rằng kẻ phạm tội phải bị trục xuất. Bankei đã bỏ qua nội vụ.
Sau đó môn sinh này bị bắt trong một hành động tương tự, và Bankei lại vẫn không quan tâm đến sự việc. Điều này làm những môn sinh khác tức giận, họ liền thảo một tờ thỉnh nguyện đòi đuổi tên trộm cắp ra, tuyên bố rằng nếu không làm vậy thì họ sẽ cùng nhau bỏ đi.
Khi Bankei đọc xong tờ thỉnh nguyện ông gọi tất cả môn sinh lại trước mặt ông. "Các anh là những anh em khôn ngoan," ông nói với họ. "Các anh biết cái gì là đúng và cái gì không đúng. Các anh có thể đi nơi khác để tu học nếu các anh muốn, nhưng người anh em đáng thương này lại không biết đến cả phân biệt đúng với sai. Ai sẽ dạy dỗ anh ấy nếu ta không dạy. Ta sẽ lưu giữ anh ấy ở đây cho dù tất cả các anh còn lại có bỏ đi hết."
Một suối nước mắt đã rửa sạch khuôn mặt người anh em trộm cắp. Mọi tham muốn trộm cắp đều biến mất đi.
*
* 46 *
CỎ VÀ CÂY SẼ GIÁC NGỘ NHƯ THẾ NÀO?
Trong thời đại Kamakura, Shinkan theo học Tendai sáu năm và rồi học Thiền bảy năm; sau đó ông đi tới Trung Hoa và suy tưởng về Thiền thêm mười ba năm nữa.
Khi ông trở về Nhật Bản nhiều người muốn phỏng vấn ông và hỏi những câu bí hiểm. Nhưng khi Shinkan tiếp khách, việc đó cũng không thường xảy ra, ông ít khi trả lời những câu hỏi của họ.
Một ngày một thiền sinh năm mươi tuổi nói với Shinkan: "Tôi đã học hỏi môn phái tư duy Tendai từ khi tôi là một cậu bé, nhưng có một điều trong đó tôi không hiểu nổi. Tendai quan niệm rằng ngay cả cỏ và cây cũng có thể trở nên giác ngộ được. Đối với tôi điều này tỏ ra rất là lạ lùng."
"Có lợi ích chi khi thảo luận xem cỏ và cây sẽ trở nên giác ngộ như thế nào?" Shinkan hỏi. "Vấn đề là làm thế nào để chính ông có thể trở nên như vậy chứ. Ông có bao giờ suy nghĩ đến điều đó không?"
"Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này theo cách đó cả," ông già lấy làm ngạc nhiên.
"Vậy hãy đi về nhà và suy tư về điều này nhé," Shinkan chấm dứt.
*
* 47 *
NGHỆ SỸ KEO BẨN
Gessen là một ông sư nghệ sỹ. Trước khi ông bắt đầu một bức vẽ hay bức họa ông luôn luôn đòi hỏi phải được trả tiền trước, và tiền công của ông thì cao. Ông được người ta biết đến như là "Nghệ Sỹ Keo Bẩn."
Một cô nàng kỹ nữ có một lần đặt ông thực hiện một bức họa. "Cô có thể trả được bao nhiêu tiền?" Gessen hỏi.
"Ông muốn đòi bao nhiêu cũng được," cô gái trả lời, "nhưng tôi muốn ông làm công việc ở trước mặt tôi."
Và rồi tới một ngày nọ Gessen được cô nàng kỹ nữ mời đến. Cô ta đang mở tiệc đãi khách quen của cô.
Gessen với đường nét cây cọ tài tình đã vẽ bức tranh. Khi bức tranh được hoàn thành ông đòi trả cái giá cao nhất vào thời của ông.
Ông đã nhận được tiền công trả cho ông. Rồi cô nàng kỹ nữ quay sang khách quen của cô, cô nói: "Tất cả những cái mà nhà nghệ sỹ này muốn là tiền. Những bức họa của ông ấy thì đẹp đẽ đấy nhưng tâm hồn ông thì nhơ bẩn; tiền bạc đã khiến cho nó trở thành bùn lầy. Được vẽ bởi một tâm hồn nhớp nhúa như thế, tác phẩm của ông ta không xứng đáng để được triển lãm. Nó chỉ đáng vẽ trên một trong những quần áo lót của tôi mà thôi."
Cởi váy ra, cô liền yêu cầu Gessen vẽ một bức tranh khác ở trên phía sau váy lót của cô.
"Cô sẽ trả bao nhiêu nào?" Gessen hỏi.
"Ô, bất cứ giá nào," cô gái trả lời.
Gessen đòi một giá khó tưởng tượng ra nổi, vẽ bức tranh theo cách được yêu cầu, và bỏ đi.
Về sau mọi người mới biết rằng Gessen có những lý do này để mà ham muốn tiền bạc:
Một nạn đói khủng khiếp thường xảy ra trong tỉnh của ông. Người giàu không cứu giúp người nghèo, cho nên Gessen có một nhà kho bí mật, không ai biết, nơi đó ông chứa đầy thóc lúa, chuẩn bị cho những trường hợp khẩn cấp này.
Từ làng của ông tới Lăng Mộ Quốc Gia đường đi ở trong tình trạng rất xấu và nhiều người qua lại bị khốn khổ khi vượt ngang nó. Ông muốn làm một con đường tốt hơn.
Thầy của ông đã qua đời mà không thực hiện được ước nguyện của thầy là xây cất một thiền viện, và Gessen mong ước hoàn thành thiền viện này cho thầy.
Sau khi Gessen đã thực hiện xong ba điều ước nguyện của ông, ông vứt bỏ đi bút cọ cùng những dụng cụ nghệ thuật của mình, và lui vào núi, không bao giờ vẽ nữa.
*
* 48 *
SỰ CÂN ĐỐI CHÍNH XÁC
Sen no Rikyu, một ông thầy về trà, muốn treo một giỏ hoa trên một cột trụ. Ông yêu cầu một người thợ mộc giúp ông, và hướng dẫn cho người thợ treo nó cao hơn hay thấp hơn một chút, qua bên phải hay bên trái, cho đến khi ông tìm ra được đúng cái chỗ chính xác. "Chỗ đó đấy," sau cùng Sen no Rikyu nói.
Người thợ mộc, để thử ông thầy, đánh dấu điểm đó và rồi giả bộ như đã quên mất đi. Phải chỗ này không? "Có lẽ là cái chỗ này đây?" người thợ mộc vừa hỏi, vừa chỉ vào những chỗ khác biệt trên cột trụ.
Nhưng tri giác về sự cân đối của ông thầy về trà chính xác đến mức độ là cho đến khi người thợ mộc chỉ lại đúng ngay vào cái điểm tương đồng trước thì vị trí đó mới được chấp nhận.
*
* 49 *
ÔNG PHẬT MŨI ĐEN
Một ni cô đang mong tìm giác ngộ tạo ra một pho tượng Phật và giát tượng bằng vàng lá. Đi bất cứ chỗ nào cô cũng mang ông Phật vàng này theo với cô.
Nhiều năm trời trôi qua, vẫn mang theo ông Phật của mình, ni cô đến cư trú trong một ngôi chùa nhỏ bé ở một vùng thôn quê, trong đó đã có rất nhiều ông Phật, mỗi ông có một bàn thờ đặc biệt riêng rẽ.
Ni cô muốn đốt hương trước ông Phật vàng của cô. Có ý không muốn cho hương thơm bay lan sang các ông Phật khác, cô mới sáng chế ra một cái miệng phễu xuyên qua đó khói hương chỉ bay lên tới pho tượng của cô thôi. Cách này làm cho cái mũi của ông Phật vàng đen đi, khiến mũi xấu xí một cách đặc biệt.
*
* 50 *
SỰ GIÁC NGỘ MINH BẠCH CỦA RYONEN
Nữ tu Phật giáo được biết đến với tên là Ryonen sinh năm 1797. Cô là một người cháu gái của vị tướng quân Nhật Bản nổi tiếng Shingen. Nhờ đến thiên tài thi phú và sắc đẹp quyến rũ của cô mà vào năm mười bảy tuổi cô được phục dịch hoàng hậu như một trong những mệnh phụ triều đình. Mặc dù hãy còn ở vào một tuổi trẻ như vậy mà danh vọng đã chờ đón cô.
Hoàng hậu kính yêu đột ngột qua đời và những mộng tưởng đầy triển vọng của Ryonen tan biến đi mất. Cô nhận thức được một cách nhạy bén về sự vô thường của cuộc đời trong cõi nhân gian này. Rồi vì thế mà cô muốn học Thiền.
Tuy nhiên những thân nhân của cô không đồng ý và trong thực tế ép cô lập gia đình. Với một lời hứa hẹn là cô có thể trở thành một ni cô sau khi cô sinh được ba con, Ryonen đồng ý. Trước khi được hai mươi lăm tuổi cô đã hoàn tất điều kiện này. Do vậy chồng cô và các thân nhân của cô không thể nào còn ngăn trở được ý muốn của cô nữa. Cô xuống tóc, lấy tên là Ryonen, có nghĩa là giác ngộ minh bạch, và bắt đầu cuộc hành hương của cô.
Cô đến thành phố Edo và thỉnh cầu Tetsugyu thâu nhận cô làm đệ tử. Nhìn thoáng qua, ông thầy không nhận cô vì cô quá đẹp.
Ryonen đi tới một ông thầy khác là Hakuo. Hakuo từ chối cô với cùng một lý do, nói rằng cái sắc đẹp của cô chỉ mang lại phiền toái.
Ryonen bèn lấy một bàn ủi nóng và áp nó lên mặt cô. Trong một chốc lát sắc đẹp của cô biến mất đi vĩnh viễn.
Hakuo do vậy thâu nhận cô làm một đệ tử.
Để kỷ niệm cơ hội này, Ryonen đã viết một bài thơ phía sau một tấm gương nhỏ:
Khi phục dịch Hoàng hậu của ta, ta đã đốt hương để ướp thơm quần áo đẹp đẽ của mình,
Bây giờ làm kẻ khất sĩ không nhà ta đốt mặt mình để vào một thiền viện.
Khi Ryonen sắp từ giã cõi nhân gian này, cô viết một bài thơ khác:
Sáu mươi sáu lần đôi mắt này đã chứng kiến cảnh vật thay đổi của mùa thu.
Ta đã nói đầy đủ về ánh trăng,
Đừng hỏi gì thêm nữa.
Hãy chỉ lắng nghe âm thanh của ngàn thông và bách hương khi không có gió rung động.
(To be continued )
16/7/11
Dhammapada Sutta -The Path of Truth - XXVI (The Brahmana /Phẩm Bà La Môn)
Dhammapada Sutta
(Khuddaka Nikaya - Sutta Pitaka)
The Path of Truth
English translation
by Bhikkhu Khantipalo & Sister Susanna
Sydney, Australia, 1993 Kinh Pháp Cú
Vietnamese translation
by Bhikkhu Thích Minh Châu
Sài Gòn, Việt Nam, 1996
-----------
XXVI- Brahmanavagga
The Brahmana Phẩm Bà La Môn
383. O brahmin, strive and cleave the stream,
desires of sense discard,
knowing conditioned things decay
be Knower-of-the-Uncreated.
383. Hởi này Bà-la-môn,
Hãy tinh tấn đoạn lòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Ngươi là bậc vô vi.
384. When by the twofold Dhamma
a Brahmin's gone beyond
all the bonds of One-who-Knows
have wholly disappeared.
384. Nhờ thường trú hai pháp [1]
Ðến được bờ bên kia.
Bà-la-môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch.
385.
For whom is found no near or far,
for whom's no near and far,
free of fear and fetter-free,
that one I call a Brahmin True.
385. Không bờ này, bờ kia [2]
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà-la-môn.
386. Seated stainless, concentrated,
who's work is done, who's free of taints,
having attained the highest aim,
that one I call a Brahmin True.
386. Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Ðạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
387. The sun is bright by day,
the moon enlights the night,
armoured shines the warrior,
contemplative the Brahmin True.
But all day and night-time too
resplendent does the Buddha shine.
387. Mặt trời sáng ban ngày,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm.
388. By barring-out badness a "brahmin" one's called
and one is a monk by conduct serene,
banishing blemishes out of oneself
therefore one's known as "one who has left home".
388. Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia.
389. One should not a brahmin beat
nor for that should He react.
Shame! Who would a Brahmin beat,
more shame for any should they react.
389. Chớ có đập Phạm chí!
Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí
Ðập trả lại xấu hơn!
390. For brahmin no small benefit
when mind's aloof from what is dear.
As much he turns away from harm
so much indeed does dukkha die.
390. Ðối với Bà-la-môn,
Ðây [3] không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt.
391. In whom there is no wrong-doing
by body, speech or mind,
in these three ways restrained,
that one I call a Brahmin True.
391. Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
392. From whom one knows the Dhamma
by Perfect Buddha taught
devoutly one should honour them
as brahmin sacred fire.
392. Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như Phạm chí thờ lửa.
393. By birth one is no brahmin,
by family, austerity.
In whom are truth and Dhamma too
pure is he, a Brahmin's he.
393. Ðược gọi Bà-la-môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn.
394. Dimwit! What's the coiled hair for?
For what your cloak of skins?
Within you are acquisitive,
you decorate without!
394. Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông.
395. One enduring rag-robes, lean,
with body o'erspread by veins,
lone in the woods who meditates,
that one I call a Brahmin True.
395. Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Ðộc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà-la-môn.
396. I call him a brahmin though
by womb-born mother's lineage,
he's just supercilious
if with sense of ownership,
owning nothing and unattached:
that one I call a Brahmin True.
396. Ta không gọi Phạm chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà-la-môn.
397. Who fetters all has severed
does tremble not at all,
who's gone beyond all bond, unyoked,
that one I call a Brahmin True.
397. Ðoạn kết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà-la-môn.
398. When cutting strap and reins,
the rope and bridle too,
tipping the shaft, he's Waked,
that one I call a Brahmin True.
398. Bỏ đai da [4] bỏ cương [5]
Bỏ dây [6], đồ sở thuộc [7]
Bỏ then chốt [8], sáng suốt,
Ta gọi Bà-la-môn.
399. Who angerless endures abuse,
beating and imprisonment,
with patience's power, an armed might:
that one I call a Brahmin True.
399. Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà-la-môn.
400. Who's angerless and dutiful,
of virtue full and free of lust,
who's tamed, to final body come,
that one I call a Brahmin True.
400. Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn.
401. Like water on a lotus leaf,
or mustard seed on needle point,
whoso clings not to sensual things,
that one I call a Brahmin True. 401. Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
402. Whoso in this world comes to know
cessation of all sorrow,
laid down the burden, freed from bonds,
that one I call a Brahmin True.
402. Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
403. Whose knowledge is deep, who's wise,
who's skilled in ways right and wrong,
having attained the highest aim,
that one I call a Brahmin True.
403. Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
404. Aloof alike from laity
and those gone forth to homelessness,
who wanders with no home or wish,
that one I call a Brahmin True.
404. Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
405. Who blows to beings has renounced
to trembling ones, to bold,
who causes not to kill nor kills,
that one I call a Brahmin True.
405. Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.
406. Among the hostile, friendly,
among the violent, cool
detached amidst the passionate,
that one I call a Brahmin True.
406. Thiên thần giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm giữa, nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn.
407. From whomever lust and hate,
conceit, contempt have dropped away,
as mustard seed from a point of a needle,
that one I call a Brahmin True.
407. Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà-la-môn.
408. Who utters speech instructive,
true and gentle too,
who gives offence to none,
that one I call a Brahmin True.
408. Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà-la-môn.
409. Who in the world will never take
what is not given, long or short,
the great or small, the fair or foul,
that one I call a Brahmin True.
409. Ở đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà-la-môn.
410. In whom there are no longings found
in this world or the next,
longingless and free from bonds,
that one I call Brahmin True.
410. Người không có hy cầu,
Ðời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
411. In whom there is no dependence found,
with Final Knowledge freed from doubt,
who's plunged into the Deathless depths,
that one I call a Brahmin True.
411. Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà-la-môn.
412. Here who's gone beyond both bonds,
to goodness and to evil too,
is sorrowless, unsullied, pure,
that one I call a Brahmin True.
412. Người sống ở đời này,
Không nhiễm cả thiện, ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.
413. Who, like the moon, unblemished, pure,
is clear and limpid, and in whom
delights in being a consumed,
that one I call a Brahmin True.
413. Như trăng sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
414.Who's passed this difficult path,
delusion's bond, the wandering-on,
who's crossed beyond, contemplative,
uncraving with no questioning doubt,
no clinging's fuel so cool become,
that one I call a Brahmin true.
414. Vượt đường nguy hiễm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Ðến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà-la-môn.
415. Who has abandoned lusting here
as homeless one renouncing all,
with lust and being quite consumed,
that one I call a Brahmin True.
415. Ai ở đời đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
416. Who has abandoned lusting here
as homeless one renouncing all,
with lust and being quite consumed,
that one I call a Brahmin True.
416. Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Áí hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
417. Abandoned all human bonds
and gone beyond the bonds of gods,
unbound one is from every bond,
that one I call a Brahmin True.
417. Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cỏi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.
418. Abandoned boredom and delight,
become quite cool and assetless,
a hero, All-worlds-Conqueror,
that one I call a Brahmin True.
418. Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.
419. Who knows how clutching creatures die
to reappear in many a mode,
unclutching then, sublime, Awake,
that one I call a Brahmin True.
419. Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
420. Whose destination is unknown
to humans, spirits or to gods,
pollutions stayed, an Arahant,
that one I call a Brahmin True
420. Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La-hán.
Ta gọi Bà-la-môn.
421. That one who's free of everything
that's past, that's present, yet to be,
who nothing owns, who's unattached,
that one I call a Brahmin True.
421. Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.
422. One noble, most excellent, heroic too,
great sage and one who conquers all,
who's faultless, washed, one Awake,
that one I call a Brahmin True.
422. Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
423. Who so does know of former lives
and sees the states of bliss and woe
and then who's reached the end of births,
a sage supreme with wisdom keen,
complete in all accomplishments,
that one I call a Brahmin True.
423. Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Ðạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà-la-môn.
Chú thích:
[1] Thiền Chỉ và Thiền Quán
[2] 6 nội xứ, 6 ngoại xứ
[3] sự trả đủa, trả thù
[4]Hận.
[5] Ái.
[6] Tà kiến.
[7] Tuỳ miên.
[8] Vô minh.
----------------------------------------------------------------------------
Dhammapadam Nitthitam
(Khuddaka Nikaya - Sutta Pitaka)
The Path of Truth
English translation
by Bhikkhu Khantipalo & Sister Susanna
Sydney, Australia, 1993 Kinh Pháp Cú
Vietnamese translation
by Bhikkhu Thích Minh Châu
Sài Gòn, Việt Nam, 1996
-----------
XXVI- Brahmanavagga
The Brahmana Phẩm Bà La Môn
383. O brahmin, strive and cleave the stream,
desires of sense discard,
knowing conditioned things decay
be Knower-of-the-Uncreated.
383. Hởi này Bà-la-môn,
Hãy tinh tấn đoạn lòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Ngươi là bậc vô vi.
384. When by the twofold Dhamma
a Brahmin's gone beyond
all the bonds of One-who-Knows
have wholly disappeared.
384. Nhờ thường trú hai pháp [1]
Ðến được bờ bên kia.
Bà-la-môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch.
385.
For whom is found no near or far,
for whom's no near and far,
free of fear and fetter-free,
that one I call a Brahmin True.
385. Không bờ này, bờ kia [2]
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà-la-môn.
386. Seated stainless, concentrated,
who's work is done, who's free of taints,
having attained the highest aim,
that one I call a Brahmin True.
386. Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Ðạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
387. The sun is bright by day,
the moon enlights the night,
armoured shines the warrior,
contemplative the Brahmin True.
But all day and night-time too
resplendent does the Buddha shine.
387. Mặt trời sáng ban ngày,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm.
388. By barring-out badness a "brahmin" one's called
and one is a monk by conduct serene,
banishing blemishes out of oneself
therefore one's known as "one who has left home".
388. Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia.
389. One should not a brahmin beat
nor for that should He react.
Shame! Who would a Brahmin beat,
more shame for any should they react.
389. Chớ có đập Phạm chí!
Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí
Ðập trả lại xấu hơn!
390. For brahmin no small benefit
when mind's aloof from what is dear.
As much he turns away from harm
so much indeed does dukkha die.
390. Ðối với Bà-la-môn,
Ðây [3] không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt.
391. In whom there is no wrong-doing
by body, speech or mind,
in these three ways restrained,
that one I call a Brahmin True.
391. Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
392. From whom one knows the Dhamma
by Perfect Buddha taught
devoutly one should honour them
as brahmin sacred fire.
392. Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như Phạm chí thờ lửa.
393. By birth one is no brahmin,
by family, austerity.
In whom are truth and Dhamma too
pure is he, a Brahmin's he.
393. Ðược gọi Bà-la-môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn.
394. Dimwit! What's the coiled hair for?
For what your cloak of skins?
Within you are acquisitive,
you decorate without!
394. Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông.
395. One enduring rag-robes, lean,
with body o'erspread by veins,
lone in the woods who meditates,
that one I call a Brahmin True.
395. Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Ðộc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà-la-môn.
396. I call him a brahmin though
by womb-born mother's lineage,
he's just supercilious
if with sense of ownership,
owning nothing and unattached:
that one I call a Brahmin True.
396. Ta không gọi Phạm chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà-la-môn.
397. Who fetters all has severed
does tremble not at all,
who's gone beyond all bond, unyoked,
that one I call a Brahmin True.
397. Ðoạn kết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà-la-môn.
398. When cutting strap and reins,
the rope and bridle too,
tipping the shaft, he's Waked,
that one I call a Brahmin True.
398. Bỏ đai da [4] bỏ cương [5]
Bỏ dây [6], đồ sở thuộc [7]
Bỏ then chốt [8], sáng suốt,
Ta gọi Bà-la-môn.
399. Who angerless endures abuse,
beating and imprisonment,
with patience's power, an armed might:
that one I call a Brahmin True.
399. Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà-la-môn.
400. Who's angerless and dutiful,
of virtue full and free of lust,
who's tamed, to final body come,
that one I call a Brahmin True.
400. Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn.
401. Like water on a lotus leaf,
or mustard seed on needle point,
whoso clings not to sensual things,
that one I call a Brahmin True. 401. Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
402. Whoso in this world comes to know
cessation of all sorrow,
laid down the burden, freed from bonds,
that one I call a Brahmin True.
402. Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
403. Whose knowledge is deep, who's wise,
who's skilled in ways right and wrong,
having attained the highest aim,
that one I call a Brahmin True.
403. Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
404. Aloof alike from laity
and those gone forth to homelessness,
who wanders with no home or wish,
that one I call a Brahmin True.
404. Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
405. Who blows to beings has renounced
to trembling ones, to bold,
who causes not to kill nor kills,
that one I call a Brahmin True.
405. Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.
406. Among the hostile, friendly,
among the violent, cool
detached amidst the passionate,
that one I call a Brahmin True.
406. Thiên thần giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm giữa, nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn.
407. From whomever lust and hate,
conceit, contempt have dropped away,
as mustard seed from a point of a needle,
that one I call a Brahmin True.
407. Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà-la-môn.
408. Who utters speech instructive,
true and gentle too,
who gives offence to none,
that one I call a Brahmin True.
408. Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà-la-môn.
409. Who in the world will never take
what is not given, long or short,
the great or small, the fair or foul,
that one I call a Brahmin True.
409. Ở đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà-la-môn.
410. In whom there are no longings found
in this world or the next,
longingless and free from bonds,
that one I call Brahmin True.
410. Người không có hy cầu,
Ðời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
411. In whom there is no dependence found,
with Final Knowledge freed from doubt,
who's plunged into the Deathless depths,
that one I call a Brahmin True.
411. Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà-la-môn.
412. Here who's gone beyond both bonds,
to goodness and to evil too,
is sorrowless, unsullied, pure,
that one I call a Brahmin True.
412. Người sống ở đời này,
Không nhiễm cả thiện, ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.
413. Who, like the moon, unblemished, pure,
is clear and limpid, and in whom
delights in being a consumed,
that one I call a Brahmin True.
413. Như trăng sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
414.Who's passed this difficult path,
delusion's bond, the wandering-on,
who's crossed beyond, contemplative,
uncraving with no questioning doubt,
no clinging's fuel so cool become,
that one I call a Brahmin true.
414. Vượt đường nguy hiễm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Ðến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà-la-môn.
415. Who has abandoned lusting here
as homeless one renouncing all,
with lust and being quite consumed,
that one I call a Brahmin True.
415. Ai ở đời đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
416. Who has abandoned lusting here
as homeless one renouncing all,
with lust and being quite consumed,
that one I call a Brahmin True.
416. Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Áí hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
417. Abandoned all human bonds
and gone beyond the bonds of gods,
unbound one is from every bond,
that one I call a Brahmin True.
417. Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cỏi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.
418. Abandoned boredom and delight,
become quite cool and assetless,
a hero, All-worlds-Conqueror,
that one I call a Brahmin True.
418. Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.
419. Who knows how clutching creatures die
to reappear in many a mode,
unclutching then, sublime, Awake,
that one I call a Brahmin True.
419. Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
420. Whose destination is unknown
to humans, spirits or to gods,
pollutions stayed, an Arahant,
that one I call a Brahmin True
420. Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La-hán.
Ta gọi Bà-la-môn.
421. That one who's free of everything
that's past, that's present, yet to be,
who nothing owns, who's unattached,
that one I call a Brahmin True.
421. Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.
422. One noble, most excellent, heroic too,
great sage and one who conquers all,
who's faultless, washed, one Awake,
that one I call a Brahmin True.
422. Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
423. Who so does know of former lives
and sees the states of bliss and woe
and then who's reached the end of births,
a sage supreme with wisdom keen,
complete in all accomplishments,
that one I call a Brahmin True.
423. Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Ðạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà-la-môn.
Chú thích:
[1] Thiền Chỉ và Thiền Quán
[2] 6 nội xứ, 6 ngoại xứ
[3] sự trả đủa, trả thù
[4]Hận.
[5] Ái.
[6] Tà kiến.
[7] Tuỳ miên.
[8] Vô minh.
----------------------------------------------------------------------------
Dhammapadam Nitthitam
Kinh Pháp Cú ( Phần VI: Phẩm 25-6 )
Kinh Pháp Cú
HT. Thích Minh Châu dịch
----------------------------------------------------------------------------
Phần VI: Phẩm 25-6
25. Phẩm Tỷ-kheo
26. Phẩm Bà-la-môn
--------------------------------------------------------------------------------
XXV. PHẨM TỶ KHEO [^]
360. "Lành thay, phòng hộ mắt !
Lành thay, phòng hộ tai.
Lành thay, phòng hộ mũi,
Lành thay, phòng hộ lưỡi."
361. "Lành thay, phòng hộ thân !
Lành thay, phòng hộ lời,
Lành thay, phòng hộ ý.
Lành thay, phòng tất cả.
Tỷ kheo phòng tất cả.
Thoát được mọi khổ đau."
362. "Người chế ngự tay chân,
Chế ngự lời và đầu,
Vui thích nội thiền định.
Độc thân, biết vừa đủ,
Thật xứng gọi tỷ kheo."
363. "Tỷ kheo chế ngự miệng,
Vừa lời, không cống cao,
Khi trình bày pháp nghĩa,
Lời lẽ dịu ngọt ngào."
364. "Vị tỷ kheo thích pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp."
365. "Không khinh điều mình được,
Không ganh người khác được
Tỷ kheo ganh tị người,
Không sao chứng Thiền Định."
366. "Tỷ kheo dầu được ít,
Không khinh điều mình được,
Sống thanh tịnh không nhác,
Chư thiên khen vị này."
367. "Hoàn toàn, đối danh sắc,
Không chấp Ta, của Ta.
Không chấp, không sầu não.
Thật xứng danh Tỷ kheo."
368. "Tỷ kheo trú từ bi,
Tín thành giáo Pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tỉnh.
Các hạnh an tịnh lạc."
369. "Tỷ kheo, tát thuyền này,
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết Bàn."
370. "Đoạn năm, từ bỏ năm
Tụ tập năm tối thượng
Tỷ kheo vượt năm ái
Xứng danh "Vượt bộc lưu"
371. "Tỷ kheo, hãy tu thiền,
Chớ buông lung phóng dật,
Tâm chớ đắm say dục,
Phóng dật, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ !"
372. "Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết Bàn."
373. "Bước vào ngôi nhà trống,
Tỷ kheo tâm an tịnh,
Thọ hưởng vui siêu nhân
Tịnh quán theo chánh pháp."
374. "Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết."
375. "Đây Tỷ kheo có trí,
Tụ tập pháp căn bản
Hộ căn, biết vừa đủ,
Giữ gìn căn bản giới,
Thường gần gũi bạn lành,
Sống thanh tịnh tinh cần."
376. "Giao thiệp khéo thân thiện,
Cử chỉ mực đoan trang.
Do vậy hưởng vui nhiều,
Sẽ dứt mọi khổ đau."
377. "Như hoa Vassikà,
Quăng bỏ cánh úa tàn,
Cũng vậy vị Tỷ kheo,
Hãy giải thoát tham sân."
378. "Thân tịnh, lời an tịnh,
An tịnh, khéo thiền tịnh.
Tỷ kheo bỏ thế vật,
Xứng danh "bậc tịch tịnh".
379. "Tự mình chỉ trích mình,
Tự mình dò xét mình,
Tỷ kheo tự phòng hộ
Chánh niệm, trú an lạc."
380. "Tự mình y chỉ mình,
Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục,
Như khách buôn ngựa hiền."
381. "Tỷ kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc."
382. "Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây."
--------------------------------------------------------------------------------
XXVI.PHẨM BÀ LA MÔN [^]
383. "Hỡi này Bà là môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc vô vi."
384. "Nhờ thường trú hai pháp
Đến được bờ bên kia.
Bà la môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch."
385. "Không bờ này, bờ kia
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà la môn."
386. "Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Đạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà la môn."
387. "Mặt trời sáng ban ngàn,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm."
388. "Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia."
389. "Chớ có đập Phạm chí !
Phạm chí chớ đập lại !
Xấu thay đập Phạm chí
Đập trả lại xấu hơn !"
390. "Đối vị Bà la môn,
Đây không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt,"
391. "Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà la môn."
392. "Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như phạm chí thờ lửa."
393. "Được gọi Bà la môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà la môn."
394. "Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông."
395. "Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Độc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà la môn."
396. "Ta không gọi Phạm Chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà la môn."
397. "Đoạn hết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà la môn
398. "Bỏ đai da, bỏ cương
Bỏ dây, đồ sở thuộc,
Bỏ then chốt, sáng suốt,
Ta gọi Bà la môn."
399. "Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà la môn."
400. "Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà la môn."
401. "Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà la môn."
402. "Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà la môn."
403. "Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà la môn."
404. "Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà la môn."
405. "Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà la môn."
406. "Thân thiện giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm, giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà la môn."
407. "Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà la môn."
408. "Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà la môn."
409. "Ởi đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà la môn."
410. "Người không có hy cầu,
Đời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà la môn."
411. "Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà la môn."
412. "Người sống ở đời này
Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà la môn."
413. "Như trăng, sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái, được đoạn tận,
Ta gọi Bà là môn."
414. "Vượt đường nguy hiểm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Đến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà la môn."
415. "Ai ở đời, đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà la môn."
416. "Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà la môn."
417. "Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà la môn."
418. "Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà la môn."
419. "Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà la môn."
420. "Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La hán.
Ta gọi Bà la môn."
421. "Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà la môn."
422. "Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà la môn."
423. "Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Đạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà la môn."
HT. Thích Minh Châu dịch
----------------------------------------------------------------------------
Phần VI: Phẩm 25-6
25. Phẩm Tỷ-kheo
26. Phẩm Bà-la-môn
--------------------------------------------------------------------------------
XXV. PHẨM TỶ KHEO [^]
360. "Lành thay, phòng hộ mắt !
Lành thay, phòng hộ tai.
Lành thay, phòng hộ mũi,
Lành thay, phòng hộ lưỡi."
361. "Lành thay, phòng hộ thân !
Lành thay, phòng hộ lời,
Lành thay, phòng hộ ý.
Lành thay, phòng tất cả.
Tỷ kheo phòng tất cả.
Thoát được mọi khổ đau."
362. "Người chế ngự tay chân,
Chế ngự lời và đầu,
Vui thích nội thiền định.
Độc thân, biết vừa đủ,
Thật xứng gọi tỷ kheo."
363. "Tỷ kheo chế ngự miệng,
Vừa lời, không cống cao,
Khi trình bày pháp nghĩa,
Lời lẽ dịu ngọt ngào."
364. "Vị tỷ kheo thích pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp."
365. "Không khinh điều mình được,
Không ganh người khác được
Tỷ kheo ganh tị người,
Không sao chứng Thiền Định."
366. "Tỷ kheo dầu được ít,
Không khinh điều mình được,
Sống thanh tịnh không nhác,
Chư thiên khen vị này."
367. "Hoàn toàn, đối danh sắc,
Không chấp Ta, của Ta.
Không chấp, không sầu não.
Thật xứng danh Tỷ kheo."
368. "Tỷ kheo trú từ bi,
Tín thành giáo Pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tỉnh.
Các hạnh an tịnh lạc."
369. "Tỷ kheo, tát thuyền này,
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết Bàn."
370. "Đoạn năm, từ bỏ năm
Tụ tập năm tối thượng
Tỷ kheo vượt năm ái
Xứng danh "Vượt bộc lưu"
371. "Tỷ kheo, hãy tu thiền,
Chớ buông lung phóng dật,
Tâm chớ đắm say dục,
Phóng dật, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ !"
372. "Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết Bàn."
373. "Bước vào ngôi nhà trống,
Tỷ kheo tâm an tịnh,
Thọ hưởng vui siêu nhân
Tịnh quán theo chánh pháp."
374. "Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết."
375. "Đây Tỷ kheo có trí,
Tụ tập pháp căn bản
Hộ căn, biết vừa đủ,
Giữ gìn căn bản giới,
Thường gần gũi bạn lành,
Sống thanh tịnh tinh cần."
376. "Giao thiệp khéo thân thiện,
Cử chỉ mực đoan trang.
Do vậy hưởng vui nhiều,
Sẽ dứt mọi khổ đau."
377. "Như hoa Vassikà,
Quăng bỏ cánh úa tàn,
Cũng vậy vị Tỷ kheo,
Hãy giải thoát tham sân."
378. "Thân tịnh, lời an tịnh,
An tịnh, khéo thiền tịnh.
Tỷ kheo bỏ thế vật,
Xứng danh "bậc tịch tịnh".
379. "Tự mình chỉ trích mình,
Tự mình dò xét mình,
Tỷ kheo tự phòng hộ
Chánh niệm, trú an lạc."
380. "Tự mình y chỉ mình,
Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục,
Như khách buôn ngựa hiền."
381. "Tỷ kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc."
382. "Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây."
--------------------------------------------------------------------------------
XXVI.PHẨM BÀ LA MÔN [^]
383. "Hỡi này Bà là môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc vô vi."
384. "Nhờ thường trú hai pháp
Đến được bờ bên kia.
Bà la môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch."
385. "Không bờ này, bờ kia
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà la môn."
386. "Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Đạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà la môn."
387. "Mặt trời sáng ban ngàn,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm."
388. "Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia."
389. "Chớ có đập Phạm chí !
Phạm chí chớ đập lại !
Xấu thay đập Phạm chí
Đập trả lại xấu hơn !"
390. "Đối vị Bà la môn,
Đây không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt,"
391. "Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà la môn."
392. "Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như phạm chí thờ lửa."
393. "Được gọi Bà la môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà la môn."
394. "Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông."
395. "Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Độc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà la môn."
396. "Ta không gọi Phạm Chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà la môn."
397. "Đoạn hết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà la môn
398. "Bỏ đai da, bỏ cương
Bỏ dây, đồ sở thuộc,
Bỏ then chốt, sáng suốt,
Ta gọi Bà la môn."
399. "Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà la môn."
400. "Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà la môn."
401. "Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà la môn."
402. "Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà la môn."
403. "Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà la môn."
404. "Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà la môn."
405. "Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà la môn."
406. "Thân thiện giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm, giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà la môn."
407. "Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà la môn."
408. "Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà la môn."
409. "Ởi đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà la môn."
410. "Người không có hy cầu,
Đời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà la môn."
411. "Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà la môn."
412. "Người sống ở đời này
Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà la môn."
413. "Như trăng, sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái, được đoạn tận,
Ta gọi Bà là môn."
414. "Vượt đường nguy hiểm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Đến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà la môn."
415. "Ai ở đời, đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà la môn."
416. "Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà la môn."
417. "Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà la môn."
418. "Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà la môn."
419. "Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà la môn."
420. "Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La hán.
Ta gọi Bà la môn."
421. "Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà la môn."
422. "Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà la môn."
423. "Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Đạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà la môn."
Kinh Pháp Cú - Phần V : Phẩm 21-24
Kinh Pháp Cú
HT. Thích Minh Châu dịch
----------------------------------------------------------------------------
Phần V: Phẩm 21-4
21. Phẩm Tạp Lục
22. Phẩm Địa Ngục
23. Phẩm Voi
24. Phẩm Tham Ái
--------------------------------------------------------------------------------
XXI. PHẨM TẠP LỤC [^]
290. 'Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn."
291. "Gieo khổ đau cho người,
Mong cầu lạc cho mình,
Bị hận thù buộc ràng
Không sao thoát hận thù."
292. "Việc đáng làm, không làm,
Không đáng làm, lại làm,
Người ngạo mạn, phóng dật,
Lậu hoặc ắt tăng trưởng."
293. "Người siêng năng cần mẫn,
Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng,
Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh,
Lậu hoặc được tiêu trừ."
294. "Sau khi giết mẹ cha,
Giết hại Vua Sát lỵ,
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, phạm chí sống."
295. "Sau khi giết mẹ cha,
Hai vua Bà la môn,
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu, phạm chí sống."
296. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Phật Đà."
297. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Chánh Pháp"
298. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Tăng Già."
299. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm sắc thân."
300. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui niềm bất hại."
301. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui tu thiền quán."
302. "Vui hạnh xuất gia khó,
Tại gia sinh hoạt khó,
Sống bạn không đồng, khổ,
Trôi lăn luân hồi, khổ,
Vậy chớ sống luân hồi,
Chớ chạy theo đau khổ."
303. "Tín tâm, sống giới hạnh
Đủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính."
304. "Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen."
305. "Ai ngồi nằm một mình.
Độc hành không buồn chán,
Tự điều phục một mình
Sống thoải mái rừng sâu."
--------------------------------------------------------------------------------
XXII. PHẨM ĐỊA NGỤC [^]
306. "Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm,
Cả hai chết đồng đẳng,
Làm người, nghiệp hạ liệt."
307. "Nhiều người khoác cà sa,
Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi Địa ngục."
308. "Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như lửa hừng,
Hơn ác giới, buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ."
309. "Bốn nạn chờ đợi người,
Phóng dật theo vợ người;
Mắc họa, ngủ không yên,
Bị chê là thứ ba,
Đọa địa ngục, thứ bốn."
310. "Mắc họa, đọa ác thú,
Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình.
Vậy chớ theo vợ người."
311. "Như cỏ sa vụng nắm,
Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy,
Tất bị đọa địa ngục."
312. "Sóng phóng đãng buông lung,
Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống Phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn ?
313. "Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng,
Chi tăng loạn bụi đời."
314. "Ác hạnh không nên làm,
Làm xong, chịu khổ lụy,
Thiện hạnh, ắt nên làm,
Làm xong, không ăn năn."
315. "Như thành ở biên thùy,
Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình,
Sát na chớ buông lung.
Giây phút qua, sầu muộn.
Khi rơi vào địa ngục."
316. "Không đáng hổ, lại hổ.
Việc đáng hổ, lại không.
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú."
317. "Không đáng sợ, lại sợ,
Đáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến.
Chúng sanh đi ác thú."
318. "Không lỗi, lại thấy lỗi,
Có lỗi, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú."
319. "Có lỗi, biết có lỗi,
Không lỗi, biết là không,
Do chấp nhận chánh kiến,
Chúng sanh đi cõi lành."
--------------------------------------------------------------------------------
XXIII. PHẨM VOI [^]
320. "Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
Ác giới rất nhiều người."
321. "Voi luyện, đưa dự hội,
Ngựa luyện, được vua cưỡi,
Người luyện, bậc tối thượng
Chịu đựng mọi phỉ báng."
322. "Tốt thay, con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Sin.
Đại tượng, voi có ngà.
Tự điều mới tối thượng."
323. "Chẳng phải loài cưỡi ấy,
Đưa người đến Niết bàn,
Chỉ có người tự điều,
Đến đích, nhờ điều phục."
324. "Con voi tên Tài Hộ,
Phát dục, khó điều phục,
Trói buộc, không ăn uống.
Voi nhớ đến rừng voi."
325. "Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi."
326. "Trước tâm này buông lung,
Chạy theo ái, dục, lạc.
Nay Ta chánh chế ngự,
Như cầm móc điều voi."
327. "Hãy vui không phóng dật,
Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo,
Như voi bị sa lầy."
328. "Nếu được bạn hiền trí
Đáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy
Hoan hỷ sống chánh niệm."
329. "Không gặp bạn hiền trí.
Đáng sống chung, hạnh lành
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi."
330. "Thà riêng sống một mình,
Không kết bạn người ngu.
Độc thân, không ác hạnh
Sống vô tư vô lự,
Như voi sống rừng voi."
331. "Vui thay, bạn lúc cần !
Vui thay, sống biết đủ,
Vui thay, chết có đức !
Vui thay, mọi khổ đoạn."
332. "Vui thay, hiếu kính mẹ,
Vui thay, hiếu kính cha,
Vui thay, kính Sa môn,
Vui thay, kính Hiền Thánh."
333. "Vui thay, già có giới !
Vui thay, tín an trú !
Vui thay, được trí tuệ,
Vui thay, ác không làm."
--------------------------------------------------------------------------------
XXIV. PHẨM THAM ÁI [^]
334. "Người sống đời phóng dật,
Ái tăng như giây leo.
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng."
335. "Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa."
336. "Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen."
337. "Đây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây.
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại,
Như giòng nước cỏ lau."
338. "Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài."
339. "Ba mươi sáu dòng Ái,
Trôi người đến khả ái.
Các tư tưởng tham ái.
Cuốn trôi người tà kiến."
340. "Dòng ái dục chảy khắp,
Như giây leo mọc tràn,
Thấy giây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc."
341. "Người đời nhớ ái dục,
Ưa thích các hỷ lạc.
Tuy mong cầu an lạc,
Chúng vẫn phải sanh già."
342. "Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Chúng sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài."
343. "Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Do vậy vị tỷ kheo,
Mong cầu mình ly tham
Nên nhiếp phục ái dục."
344. "Lìa rừng lại hướng rừng
Thoát rừng chạy theo rừng.
Nên xem người như vậy,
Được thoát khỏi buộc ràng.
Lại chạy theo ràng buộc."
345. "Sắt, cây, gai trói buộc
Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức
Tham vọng vợ và con."
346. "Người có trí nói rằng:
"Trói buộc này thật bền.
Rì kéo xuống, lún xuống,
Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ dục lạc, không màng."
347. "Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng."
348. "Bỏ quá, hiện, vị lai,
Đến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả,
Chớ vướng lại sanh già."
349. "Người tà ý nhiếp phục,
Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng,
Làm giây trói mình chặt."
350. "Ai vui, an tịnh ý,
Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái,
Cắt đứt Ma trói buộc."
351. "Ai tới đích, không sợ,
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử,
Thân này thân cuối cùng."
352. "Ái lìa, không chấp thủ.
Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại,
Hiểu thứ lớp trước sau.
Thân này thân cuối cùng
Vị như vậy được gọi,
Bậc Đại trí, đại nhân."
353. "Ta hàng phục tất cả,
Ta rõ biết tất cả,
Không bị nhiễm pháp nào.
Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát.
Đã tự mình thắng trí,
Ta gọi ai thầy ta ?"
354. "Pháp thí, thắng mọi thí !
Pháp vị, thắng mọi vị !
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ !
Ái diệt, dứt mọi khổ !"
355. "Tài sản hại người ngu.
Không người tìm bờ kia
Kẻ ngu vì tham giàu,
Hại mình và hại người."
356. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời.
Bố thí người ly tham,
Do vậy được quả lớn."
357. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân,
Do vậy được quả lớn."
358. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Si làm hại người đời,
Bố thí người ly si,
Do vậy được quả lớn."
359. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục,
Do vậy được quả lớn."
HT. Thích Minh Châu dịch
----------------------------------------------------------------------------
Phần V: Phẩm 21-4
21. Phẩm Tạp Lục
22. Phẩm Địa Ngục
23. Phẩm Voi
24. Phẩm Tham Ái
--------------------------------------------------------------------------------
XXI. PHẨM TẠP LỤC [^]
290. 'Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn."
291. "Gieo khổ đau cho người,
Mong cầu lạc cho mình,
Bị hận thù buộc ràng
Không sao thoát hận thù."
292. "Việc đáng làm, không làm,
Không đáng làm, lại làm,
Người ngạo mạn, phóng dật,
Lậu hoặc ắt tăng trưởng."
293. "Người siêng năng cần mẫn,
Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng,
Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh,
Lậu hoặc được tiêu trừ."
294. "Sau khi giết mẹ cha,
Giết hại Vua Sát lỵ,
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, phạm chí sống."
295. "Sau khi giết mẹ cha,
Hai vua Bà la môn,
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu, phạm chí sống."
296. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Phật Đà."
297. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Chánh Pháp"
298. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Tăng Già."
299. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm sắc thân."
300. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui niềm bất hại."
301. "Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui tu thiền quán."
302. "Vui hạnh xuất gia khó,
Tại gia sinh hoạt khó,
Sống bạn không đồng, khổ,
Trôi lăn luân hồi, khổ,
Vậy chớ sống luân hồi,
Chớ chạy theo đau khổ."
303. "Tín tâm, sống giới hạnh
Đủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính."
304. "Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen."
305. "Ai ngồi nằm một mình.
Độc hành không buồn chán,
Tự điều phục một mình
Sống thoải mái rừng sâu."
--------------------------------------------------------------------------------
XXII. PHẨM ĐỊA NGỤC [^]
306. "Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm,
Cả hai chết đồng đẳng,
Làm người, nghiệp hạ liệt."
307. "Nhiều người khoác cà sa,
Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi Địa ngục."
308. "Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như lửa hừng,
Hơn ác giới, buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ."
309. "Bốn nạn chờ đợi người,
Phóng dật theo vợ người;
Mắc họa, ngủ không yên,
Bị chê là thứ ba,
Đọa địa ngục, thứ bốn."
310. "Mắc họa, đọa ác thú,
Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình.
Vậy chớ theo vợ người."
311. "Như cỏ sa vụng nắm,
Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy,
Tất bị đọa địa ngục."
312. "Sóng phóng đãng buông lung,
Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống Phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn ?
313. "Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng,
Chi tăng loạn bụi đời."
314. "Ác hạnh không nên làm,
Làm xong, chịu khổ lụy,
Thiện hạnh, ắt nên làm,
Làm xong, không ăn năn."
315. "Như thành ở biên thùy,
Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình,
Sát na chớ buông lung.
Giây phút qua, sầu muộn.
Khi rơi vào địa ngục."
316. "Không đáng hổ, lại hổ.
Việc đáng hổ, lại không.
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú."
317. "Không đáng sợ, lại sợ,
Đáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến.
Chúng sanh đi ác thú."
318. "Không lỗi, lại thấy lỗi,
Có lỗi, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú."
319. "Có lỗi, biết có lỗi,
Không lỗi, biết là không,
Do chấp nhận chánh kiến,
Chúng sanh đi cõi lành."
--------------------------------------------------------------------------------
XXIII. PHẨM VOI [^]
320. "Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
Ác giới rất nhiều người."
321. "Voi luyện, đưa dự hội,
Ngựa luyện, được vua cưỡi,
Người luyện, bậc tối thượng
Chịu đựng mọi phỉ báng."
322. "Tốt thay, con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Sin.
Đại tượng, voi có ngà.
Tự điều mới tối thượng."
323. "Chẳng phải loài cưỡi ấy,
Đưa người đến Niết bàn,
Chỉ có người tự điều,
Đến đích, nhờ điều phục."
324. "Con voi tên Tài Hộ,
Phát dục, khó điều phục,
Trói buộc, không ăn uống.
Voi nhớ đến rừng voi."
325. "Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi."
326. "Trước tâm này buông lung,
Chạy theo ái, dục, lạc.
Nay Ta chánh chế ngự,
Như cầm móc điều voi."
327. "Hãy vui không phóng dật,
Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo,
Như voi bị sa lầy."
328. "Nếu được bạn hiền trí
Đáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy
Hoan hỷ sống chánh niệm."
329. "Không gặp bạn hiền trí.
Đáng sống chung, hạnh lành
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi."
330. "Thà riêng sống một mình,
Không kết bạn người ngu.
Độc thân, không ác hạnh
Sống vô tư vô lự,
Như voi sống rừng voi."
331. "Vui thay, bạn lúc cần !
Vui thay, sống biết đủ,
Vui thay, chết có đức !
Vui thay, mọi khổ đoạn."
332. "Vui thay, hiếu kính mẹ,
Vui thay, hiếu kính cha,
Vui thay, kính Sa môn,
Vui thay, kính Hiền Thánh."
333. "Vui thay, già có giới !
Vui thay, tín an trú !
Vui thay, được trí tuệ,
Vui thay, ác không làm."
--------------------------------------------------------------------------------
XXIV. PHẨM THAM ÁI [^]
334. "Người sống đời phóng dật,
Ái tăng như giây leo.
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng."
335. "Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa."
336. "Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen."
337. "Đây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây.
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại,
Như giòng nước cỏ lau."
338. "Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài."
339. "Ba mươi sáu dòng Ái,
Trôi người đến khả ái.
Các tư tưởng tham ái.
Cuốn trôi người tà kiến."
340. "Dòng ái dục chảy khắp,
Như giây leo mọc tràn,
Thấy giây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc."
341. "Người đời nhớ ái dục,
Ưa thích các hỷ lạc.
Tuy mong cầu an lạc,
Chúng vẫn phải sanh già."
342. "Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Chúng sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài."
343. "Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Do vậy vị tỷ kheo,
Mong cầu mình ly tham
Nên nhiếp phục ái dục."
344. "Lìa rừng lại hướng rừng
Thoát rừng chạy theo rừng.
Nên xem người như vậy,
Được thoát khỏi buộc ràng.
Lại chạy theo ràng buộc."
345. "Sắt, cây, gai trói buộc
Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức
Tham vọng vợ và con."
346. "Người có trí nói rằng:
"Trói buộc này thật bền.
Rì kéo xuống, lún xuống,
Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ dục lạc, không màng."
347. "Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng."
348. "Bỏ quá, hiện, vị lai,
Đến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả,
Chớ vướng lại sanh già."
349. "Người tà ý nhiếp phục,
Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng,
Làm giây trói mình chặt."
350. "Ai vui, an tịnh ý,
Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái,
Cắt đứt Ma trói buộc."
351. "Ai tới đích, không sợ,
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử,
Thân này thân cuối cùng."
352. "Ái lìa, không chấp thủ.
Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại,
Hiểu thứ lớp trước sau.
Thân này thân cuối cùng
Vị như vậy được gọi,
Bậc Đại trí, đại nhân."
353. "Ta hàng phục tất cả,
Ta rõ biết tất cả,
Không bị nhiễm pháp nào.
Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát.
Đã tự mình thắng trí,
Ta gọi ai thầy ta ?"
354. "Pháp thí, thắng mọi thí !
Pháp vị, thắng mọi vị !
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ !
Ái diệt, dứt mọi khổ !"
355. "Tài sản hại người ngu.
Không người tìm bờ kia
Kẻ ngu vì tham giàu,
Hại mình và hại người."
356. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời.
Bố thí người ly tham,
Do vậy được quả lớn."
357. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân,
Do vậy được quả lớn."
358. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Si làm hại người đời,
Bố thí người ly si,
Do vậy được quả lớn."
359. "Cỏ làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục,
Do vậy được quả lớn."
Kinh Pháp Cú - ( Phần IV: Phẩm 17-20)
Kinh Pháp Cú
HT. Thích Minh Châu dịch
----------------------------------------------------------------------------
Phần IV: Phẩm 17-20
17. Phẩm Phẫn Nộ
18. Phẩm Cấu Uế
19. Phẩm Pháp Trụ
20. Phẩm Đạo
--------------------------------------------------------------------------------
XVII. PHẨM PHẪN NỘ [^]
221. "Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc.
Khổ không theo vô sản."
222. "Ai chận được phẫn nộ,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ."
223. "Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy."
224. "Nói thật, không phẫn nộ,
Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này,
Người đến gần thiên giới."
225. "Bậc hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự,
Đạt được cảnh bất tử,
Đến đây, không ưu sầu."
226. "Những người thường giác tỉnh,
Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết Bàn,
Mọi lậu hoặc được tiêu."
227. "A-tu-la, nên biết,
Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều bị người chê.
Nói vừa phải, bị chê.
Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời."
228. "Xưa, vị lai, và nay,
Đâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen."
229. "Sáng sáng, thẩm xét kỹ.
Bậc có trí tán thán.
Bậc trí không tỳ vết,
Đầy đủ giới định tuệ."
230. "Hạnh sáng như vàng ròng,
Ai dám chê vị ấy ?
Chư thiên phải khen thưởng,
Phạm Thiên cũng tán dương".
231. "Giữ thân đừng phẫn nộ,
Phòng thân khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác,
Với thân làm hạnh lành."
232. "Giữ lời đừng phẫn nộ,
Phòng lời, khéo bảo vệ,
Từ bỏ lời thô ác,
Với lời, nói điều lành."
233. "Giữ ý đừng phẫn nộ,
Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Với ý, nghĩ hạnh lành.'
234. "Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói
Bảo vệ cả tâm tư,
Ba nghiệp khéo bảo vệ."
--------------------------------------------------------------------------------
XVIII. PHẨM CẤU UẾ [^]
235. "Ngươi nay giống lá héo,
Diêm sứ đang chờ ngươi,
Ngươi đứng trước cửa chết,
Đường trường thiếu tư lương."
236. "Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Đến Thánh địa chư Thiên."
237. "Đời ngươi nay sắp tàn,
Tiến gần đến Diêm Vương.
Giữa đường không nơi nghỉ,
Đường trường thiếu tư lương."
238. "Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Chẳng trở lại sanh già."
239. "Bậc trí theo tuần tự.
Từng sát na trừ dần.
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình."
240. "Như sét từ sắt sinh,
Sắt sanh lại ăn sắt,
Cũng vậy, quá lợi dưỡng
Tự nghiệp dẫn cõi ác."
241. "Không tụng làm nhớp kinh,
Không đứng dậy, bẩn nhà,
Biếng nhác làm nhơ sắc,
Phóng dật uế người canh"
242. "Tà hạnh nhơ đàn bà,
Xan tham nhớp kẻ thí,
Ác pháp là vết nhơ,
Đời này và đời sau."
243. "Trong hàng cấu uế ấy,
Vô minh, nhơ tối thượng,
Đoạn nhơ ấy, tỷ kheo,
Thành bậc không uế nhiễm."
244. "Dễ thay, sống không hổ
Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huênh hoang,
Sống liều lĩnh, nhiễm ô."
245. "Khó thay, sống xấu hổ,
Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn,
Trong sạch và sáng suốt."
246. "Ai ở đời sát sinh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người."
247. "Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Tự đào bới gốc mình."
248. "Vậy người, hãy nên biết,
Không chế ngự là ác.
Chớ để tham phi pháp,
Làm người đau khổ dài."
249. "Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí.
Ở đây ai bất mãn
Người khác được ăn uống,
Người ấy ngày hoặc đêm,
Không đạt được tâm định ?"
250. "Ai cắt được, phá được,
Tận gốc nhổ tâm ấy.
Người ấy ngày hoặc đêm,
Tất đến được tâm định."
251. "Lửa nào bằng lửa tham !
Chấp nào bằng sân hận !
Lưới nào bằng lưới si !
Sông nào bằng sông ái !"
252. "Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài."
253. "Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt."
254. "Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn,
Chúng sanh thích hý luận,
Như lai, hý luận trừ."
255. "Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn.
Các hành không thường trú,
Chư Phật không giao động."
--------------------------------------------------------------------------------
XIX.PHẨM PHÁP TRỤ [^]
256. "Ngươi đâu phải pháp trụ,
Xử sự quá chuyên chế,
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà !"
257. "Không chuyên chế, đúng pháp,
Công bằng, dắt dẫn người,
Bậc trí sống đúng pháp,
Thật xứng danh pháp trụ."
258. "Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật đáng gọi bậc trí."
259. "Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh trì pháp,
Những ai tuy nghe ít,
Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp,
Mới xứng danh trì pháp."
260. "Không phải là trưởng lão,
Nếu cho có bạc đầu.
Người chỉ tuổi tác cao,
Được gọi là : "Lão ngu."
261. "Ai chân thật, đúng pháp,
Không hại, biết chế phục,
Bậc trí không cấu uế,
Mới xứng danh Trưởng Lão."
262. "Không phải nói lưu loát,
Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện,
Nếu ganh, tham, dối trá."
263. "Ai cắt được, phá được
Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân,
Được gọi người hiền thiện."
264. "Đầu trọc, không sa môn
Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham,
Sao được gọi sa môn ?"
265. "Ai lắng dịu hoàn toàn,
Các điều ác lớn nhỏ,
Vì lắng dịu ác pháp,
Được gọi là Sa môn."
266. "Chỉ khất thực nhờ người,
Đâu phải là tỷ kheo !
Phải theo pháp toàn diện,
Khất sĩ không, không đủ."
267. "Ai vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh tỷ kheo."
268. "Im lặng nhưng ngu si,
Đâu được gọi ẩn sĩ ?
Như người cầm cán cân,
Bậc trí chọn điều lành."
269. "Từ bỏ các ác pháp,
Mới thật là ẩn sĩ.
Ai thật hiểu hai đời
Mới được gọi ẩn sĩ."
270. "Còn sát hại sinh linh,
Đâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình,
Mới được gọi Hiền Thánh."
271. "Chẳng phải chỉ giới cấm
Cũng không phải học nhiều,
Chẳng phải chứng thiền định,
Sống thanh vắng một mình."
272. "Ta hưởng an ổn lạc,
Phàm phu chưa hưởng được.
Tỷ kheo, chớ tự tín
Khi lậu hoặc chưa diệt."
--------------------------------------------------------------------------------
XX. PHẨM ĐẠO [^]
273. "Tám chánh, đường thù thắng,
Bốn cậu, lý thù thắng.
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng."
274. "Đường này, không đường khác
Đưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này,
Ma quân sẽ mê loạn."
275. "Nếu ngươi theo đường này,
Đau khổ được đoạn tận.
Ta dạy ngươi con đường.
Với trí, gai chướng diệt."
276. "Ngươi hãy nhiệt tình làm,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định
Thoát trói buộc Ác ma."
277. "Tất cả hành vô thường"
Với Tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh."
278. "Tất cả hành khổ đau
Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh."
279. "Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh."
280. "Khi cần, không nỗ lực,
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí nhu nhược, biếng nhác.
Với trí tuệ thụ động,
Sao tìm được chánh đạo ?"
281. "Lời nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo thánh nhân dạy."
282. "Tu thiền, trí huệ sanh,
Bỏ Thiền, trí huệ diệt.
Biết con đường hai ngả
Đưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nỗ lực,
Khiến trí tuệ tăng trưởng."
283. "Đốn rừng không đốn cây
Từ rừng, sinh sợ hãi;
Đốn rừng và ái dục,
Tỷ kheo, hãy tịch tịnh."
284. "Khi nào chưa cắt tiệt,
Ái dục giữa gái trai,
Tâm ý vẫn buộc ràng,
Như bò con vú mẹ."
285. "Tự cắt giây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết bàn, Thiện Thệ dạy."
286. "Mùa mưa ta ở đây
Đông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy,
Không tự giác hiểm nguy."
287. "Người tâm ý đắm say
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ."
288. "Một khi tử thần đến,
Không có con che chở,
Không cha, không bà con,
Không thân thích che chở."
289. "Biết rõ ý nghĩa này,
Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh,
Con đường đến Niết Bàn."
HT. Thích Minh Châu dịch
----------------------------------------------------------------------------
Phần IV: Phẩm 17-20
17. Phẩm Phẫn Nộ
18. Phẩm Cấu Uế
19. Phẩm Pháp Trụ
20. Phẩm Đạo
--------------------------------------------------------------------------------
XVII. PHẨM PHẪN NỘ [^]
221. "Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc.
Khổ không theo vô sản."
222. "Ai chận được phẫn nộ,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ."
223. "Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy."
224. "Nói thật, không phẫn nộ,
Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này,
Người đến gần thiên giới."
225. "Bậc hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự,
Đạt được cảnh bất tử,
Đến đây, không ưu sầu."
226. "Những người thường giác tỉnh,
Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết Bàn,
Mọi lậu hoặc được tiêu."
227. "A-tu-la, nên biết,
Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều bị người chê.
Nói vừa phải, bị chê.
Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời."
228. "Xưa, vị lai, và nay,
Đâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen."
229. "Sáng sáng, thẩm xét kỹ.
Bậc có trí tán thán.
Bậc trí không tỳ vết,
Đầy đủ giới định tuệ."
230. "Hạnh sáng như vàng ròng,
Ai dám chê vị ấy ?
Chư thiên phải khen thưởng,
Phạm Thiên cũng tán dương".
231. "Giữ thân đừng phẫn nộ,
Phòng thân khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác,
Với thân làm hạnh lành."
232. "Giữ lời đừng phẫn nộ,
Phòng lời, khéo bảo vệ,
Từ bỏ lời thô ác,
Với lời, nói điều lành."
233. "Giữ ý đừng phẫn nộ,
Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Với ý, nghĩ hạnh lành.'
234. "Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói
Bảo vệ cả tâm tư,
Ba nghiệp khéo bảo vệ."
--------------------------------------------------------------------------------
XVIII. PHẨM CẤU UẾ [^]
235. "Ngươi nay giống lá héo,
Diêm sứ đang chờ ngươi,
Ngươi đứng trước cửa chết,
Đường trường thiếu tư lương."
236. "Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Đến Thánh địa chư Thiên."
237. "Đời ngươi nay sắp tàn,
Tiến gần đến Diêm Vương.
Giữa đường không nơi nghỉ,
Đường trường thiếu tư lương."
238. "Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Chẳng trở lại sanh già."
239. "Bậc trí theo tuần tự.
Từng sát na trừ dần.
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình."
240. "Như sét từ sắt sinh,
Sắt sanh lại ăn sắt,
Cũng vậy, quá lợi dưỡng
Tự nghiệp dẫn cõi ác."
241. "Không tụng làm nhớp kinh,
Không đứng dậy, bẩn nhà,
Biếng nhác làm nhơ sắc,
Phóng dật uế người canh"
242. "Tà hạnh nhơ đàn bà,
Xan tham nhớp kẻ thí,
Ác pháp là vết nhơ,
Đời này và đời sau."
243. "Trong hàng cấu uế ấy,
Vô minh, nhơ tối thượng,
Đoạn nhơ ấy, tỷ kheo,
Thành bậc không uế nhiễm."
244. "Dễ thay, sống không hổ
Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huênh hoang,
Sống liều lĩnh, nhiễm ô."
245. "Khó thay, sống xấu hổ,
Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn,
Trong sạch và sáng suốt."
246. "Ai ở đời sát sinh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người."
247. "Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Tự đào bới gốc mình."
248. "Vậy người, hãy nên biết,
Không chế ngự là ác.
Chớ để tham phi pháp,
Làm người đau khổ dài."
249. "Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí.
Ở đây ai bất mãn
Người khác được ăn uống,
Người ấy ngày hoặc đêm,
Không đạt được tâm định ?"
250. "Ai cắt được, phá được,
Tận gốc nhổ tâm ấy.
Người ấy ngày hoặc đêm,
Tất đến được tâm định."
251. "Lửa nào bằng lửa tham !
Chấp nào bằng sân hận !
Lưới nào bằng lưới si !
Sông nào bằng sông ái !"
252. "Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài."
253. "Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt."
254. "Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn,
Chúng sanh thích hý luận,
Như lai, hý luận trừ."
255. "Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn.
Các hành không thường trú,
Chư Phật không giao động."
--------------------------------------------------------------------------------
XIX.PHẨM PHÁP TRỤ [^]
256. "Ngươi đâu phải pháp trụ,
Xử sự quá chuyên chế,
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà !"
257. "Không chuyên chế, đúng pháp,
Công bằng, dắt dẫn người,
Bậc trí sống đúng pháp,
Thật xứng danh pháp trụ."
258. "Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật đáng gọi bậc trí."
259. "Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh trì pháp,
Những ai tuy nghe ít,
Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp,
Mới xứng danh trì pháp."
260. "Không phải là trưởng lão,
Nếu cho có bạc đầu.
Người chỉ tuổi tác cao,
Được gọi là : "Lão ngu."
261. "Ai chân thật, đúng pháp,
Không hại, biết chế phục,
Bậc trí không cấu uế,
Mới xứng danh Trưởng Lão."
262. "Không phải nói lưu loát,
Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện,
Nếu ganh, tham, dối trá."
263. "Ai cắt được, phá được
Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân,
Được gọi người hiền thiện."
264. "Đầu trọc, không sa môn
Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham,
Sao được gọi sa môn ?"
265. "Ai lắng dịu hoàn toàn,
Các điều ác lớn nhỏ,
Vì lắng dịu ác pháp,
Được gọi là Sa môn."
266. "Chỉ khất thực nhờ người,
Đâu phải là tỷ kheo !
Phải theo pháp toàn diện,
Khất sĩ không, không đủ."
267. "Ai vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh tỷ kheo."
268. "Im lặng nhưng ngu si,
Đâu được gọi ẩn sĩ ?
Như người cầm cán cân,
Bậc trí chọn điều lành."
269. "Từ bỏ các ác pháp,
Mới thật là ẩn sĩ.
Ai thật hiểu hai đời
Mới được gọi ẩn sĩ."
270. "Còn sát hại sinh linh,
Đâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình,
Mới được gọi Hiền Thánh."
271. "Chẳng phải chỉ giới cấm
Cũng không phải học nhiều,
Chẳng phải chứng thiền định,
Sống thanh vắng một mình."
272. "Ta hưởng an ổn lạc,
Phàm phu chưa hưởng được.
Tỷ kheo, chớ tự tín
Khi lậu hoặc chưa diệt."
--------------------------------------------------------------------------------
XX. PHẨM ĐẠO [^]
273. "Tám chánh, đường thù thắng,
Bốn cậu, lý thù thắng.
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng."
274. "Đường này, không đường khác
Đưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này,
Ma quân sẽ mê loạn."
275. "Nếu ngươi theo đường này,
Đau khổ được đoạn tận.
Ta dạy ngươi con đường.
Với trí, gai chướng diệt."
276. "Ngươi hãy nhiệt tình làm,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định
Thoát trói buộc Ác ma."
277. "Tất cả hành vô thường"
Với Tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh."
278. "Tất cả hành khổ đau
Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh."
279. "Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh."
280. "Khi cần, không nỗ lực,
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí nhu nhược, biếng nhác.
Với trí tuệ thụ động,
Sao tìm được chánh đạo ?"
281. "Lời nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo thánh nhân dạy."
282. "Tu thiền, trí huệ sanh,
Bỏ Thiền, trí huệ diệt.
Biết con đường hai ngả
Đưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nỗ lực,
Khiến trí tuệ tăng trưởng."
283. "Đốn rừng không đốn cây
Từ rừng, sinh sợ hãi;
Đốn rừng và ái dục,
Tỷ kheo, hãy tịch tịnh."
284. "Khi nào chưa cắt tiệt,
Ái dục giữa gái trai,
Tâm ý vẫn buộc ràng,
Như bò con vú mẹ."
285. "Tự cắt giây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết bàn, Thiện Thệ dạy."
286. "Mùa mưa ta ở đây
Đông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy,
Không tự giác hiểm nguy."
287. "Người tâm ý đắm say
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ."
288. "Một khi tử thần đến,
Không có con che chở,
Không cha, không bà con,
Không thân thích che chở."
289. "Biết rõ ý nghĩa này,
Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh,
Con đường đến Niết Bàn."
Kinh Pháp Cú ( Phần III: Phẩm 11-16 )
Kinh Pháp Cú
HT. Thích Minh Châu dịch
Phần III: Phẩm 11-16
11. Phẩm Già
12. Phẩm Tự Ngã
13. Phẩm Thế Gian
14. Phẩm Phật đà
15. Phẩm An Lạc
16. Phẩm Hỷ Ái
--------------------------------------------------------------------------------
XI. PHẨM GIÀ [^]
146. "Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu ?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn ?"
147. "Hãy xem bong bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu."
148. "Sắc này bị suy già,
Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,
Chết chấm dứt mạng sống."
149. "Như trái bầu mùa thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì ?"
150. "Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa."
151. "Xe vua đẹp cũng già.
Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện."
152. "Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng."
153. "Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh."
154. "Ôi ! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi !
Ngươi không làm nhà nữa.
Đòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong."
155. "Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá."
156. "Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền;
Như cây cung bị gẫy,
Thở than những ngày qua."
--------------------------------------------------------------------------------
XII. PHẨM TỰ NGÃ [^]
157. "Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh,
Phải luôn luôn tỉnh thức."
158. "Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm."
159. "Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục !"
160. "Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Được y chỉ khó được."
161. "Điều ác tự mình làm,
Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si,
Như kim cương, ngọc báu."
162. "Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước."
163. "Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm."
164. "Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau
Mang quả tự hoại diệt."
165. "Tự mình, điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai !"
166. "Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi.
Hãy chuyên tâm lợi mình."
--------------------------------------------------------------------------------
XIII. PHẨM THẾ GIAN [^]
167. "Chớ theo pháp hạ liệt.
Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần."
168. "Nỗ lực, chớ phóng dật !
Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau."
169. "Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh !
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau."
170. "Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyển !
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp."
171. "Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say."
172. "Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này.
Như trăng thoát mây che."
173. "Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che."
174. "Đời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới."
175. "Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này."
176. "Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm."
177. "Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí,
Đời sau, được hưởng lạc."
178. "Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng."
--------------------------------------------------------------------------------
XIV. PHẨM PHẬT ĐÀ [^]
179. "Vị chiến thắng không bại,
Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích ?"
180. "Ai giải tỏa lưới tham,
Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích ?"
181. "Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm."
182. "Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời !"
183. "Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy."
184. "Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết bàn, quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người."
185. "Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy."
186. "Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí."
187. "Đệ tử bậc chánh giác,
Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên,
Chỉ ưa thích ái diệt."
188. "Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp."
189. "Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau ?"
190. "Ai quy y Đức Phật,
Chánh pháp và chư tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế."
191. "Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Đưa đến khổ não tận."
192. "Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy,
Mới thoát mọi khổ đau."
193. "Khó gặp bậc thánh nhơn,
Không phải đâu cũng có.
Chỗ nào bậc trí sanh,
Gia đình tất an lạc."
194. "Vui thay, Phật ra đời !
Vui thay, Pháp được giảng !
Vui thay, Tăng hòa hợp !
Hòa hợp tu, vui thay !"
195. "Cúng dường bậc đáng cúng,
Chư Phật hoặc đệ tử,
Các bậc vượt hý luận,
Đoạn diệt mọi sầu bi."
196. "Cúng dường bậc như vậy,
Tịch tịnh, không sợ hãi,
Các công đức như vậy,
Không ai ước lường được."
--------------------------------------------------------------------------------
XV. PHẨM AN LẠC [^]
197. "Vui thay, chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù !
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù !"
198. "Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh, giữa ốm đau !
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống, không ốm đau."
199. "Vui thay, chúng ta sống,
Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng,
Ta sống, không rộn ràng."
200. "Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm."
201. "Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại."
202. "Lửa nào sánh lửa tham ?
Ác nào bằng sân hận ?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc."
203. "Đói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết Bàn, lạc tối thượng."
204. "Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng."
205. "Đã nếm vị độc cư,
Được hưởng vị nhàn tịnh,
Không sợ hải, không ác,
Nếm được vị pháp hỷ."
206. "Lành thay, thấy thánh nhân,
Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu,
Thường thường được an lạc."
207. "Sống chung với người ngu,
Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu,
Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí,
Như chung sống bà con."
208. "Do vậy :
Bậc hiền sĩ, trí tuệ
Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân;
Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy,
Như trăng theo đường sao."
--------------------------------------------------------------------------------
XVI. PHẨM HỶ ÁI [^]
209. "Tự chuyên, không đáng chuyên
Không chuyên, việc đáng chuyên.
Bỏ đích, theo hỷ ái,
Ganh tị bậc tự chuyên."
210. "Chớ gần gũi người yêu,
Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ,
Oán phải gặp cũng đau."
211. "Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là ác;
Những ai không yêu ghét,
Không thể có buộc ràng."
212. "Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi ?"
213. "Ái luyến sinh sầu ưu,
Ái luyến sinh sợ hải.
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hải ?"
214. "Hỷ ái sinh sầu ưu,
Hỷ ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát hỷ ái,
Không sầu, đâu sợ hãi ?
215. "Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái,
Không sầu, đâu sợ hãi ?"
216. "Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi."
217. "Đủ giới đức, chánh kiến;
Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình,
Được quần chúng ái kính."
218. "Ước vọng pháp ly ngôn
Ý cảm xúc thượng quả
Tâm thoát ly các dục,
Xứng gọi bậc Thượng Lưu."
219. "Khách lâu ngày ly hương,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng."
220. "Cũng vậy các phước nghiệp,
Đón chào người làm lành,
Đời này đến đời kia.
Như thân nhân, đón chào."
HT. Thích Minh Châu dịch
Phần III: Phẩm 11-16
11. Phẩm Già
12. Phẩm Tự Ngã
13. Phẩm Thế Gian
14. Phẩm Phật đà
15. Phẩm An Lạc
16. Phẩm Hỷ Ái
--------------------------------------------------------------------------------
XI. PHẨM GIÀ [^]
146. "Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu ?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn ?"
147. "Hãy xem bong bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu."
148. "Sắc này bị suy già,
Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,
Chết chấm dứt mạng sống."
149. "Như trái bầu mùa thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì ?"
150. "Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa."
151. "Xe vua đẹp cũng già.
Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện."
152. "Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng."
153. "Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh."
154. "Ôi ! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi !
Ngươi không làm nhà nữa.
Đòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong."
155. "Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá."
156. "Lúc trẻ không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền;
Như cây cung bị gẫy,
Thở than những ngày qua."
--------------------------------------------------------------------------------
XII. PHẨM TỰ NGÃ [^]
157. "Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh,
Phải luôn luôn tỉnh thức."
158. "Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm."
159. "Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục !"
160. "Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Được y chỉ khó được."
161. "Điều ác tự mình làm,
Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si,
Như kim cương, ngọc báu."
162. "Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước."
163. "Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm."
164. "Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau
Mang quả tự hoại diệt."
165. "Tự mình, điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai !"
166. "Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi.
Hãy chuyên tâm lợi mình."
--------------------------------------------------------------------------------
XIII. PHẨM THẾ GIAN [^]
167. "Chớ theo pháp hạ liệt.
Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần."
168. "Nỗ lực, chớ phóng dật !
Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau."
169. "Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh !
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau."
170. "Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyển !
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp."
171. "Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say."
172. "Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này.
Như trăng thoát mây che."
173. "Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che."
174. "Đời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới."
175. "Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này."
176. "Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm."
177. "Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí,
Đời sau, được hưởng lạc."
178. "Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng."
--------------------------------------------------------------------------------
XIV. PHẨM PHẬT ĐÀ [^]
179. "Vị chiến thắng không bại,
Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích ?"
180. "Ai giải tỏa lưới tham,
Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích ?"
181. "Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm."
182. "Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời !"
183. "Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy."
184. "Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết bàn, quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người."
185. "Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy."
186. "Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí."
187. "Đệ tử bậc chánh giác,
Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên,
Chỉ ưa thích ái diệt."
188. "Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp."
189. "Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau ?"
190. "Ai quy y Đức Phật,
Chánh pháp và chư tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế."
191. "Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Đưa đến khổ não tận."
192. "Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy,
Mới thoát mọi khổ đau."
193. "Khó gặp bậc thánh nhơn,
Không phải đâu cũng có.
Chỗ nào bậc trí sanh,
Gia đình tất an lạc."
194. "Vui thay, Phật ra đời !
Vui thay, Pháp được giảng !
Vui thay, Tăng hòa hợp !
Hòa hợp tu, vui thay !"
195. "Cúng dường bậc đáng cúng,
Chư Phật hoặc đệ tử,
Các bậc vượt hý luận,
Đoạn diệt mọi sầu bi."
196. "Cúng dường bậc như vậy,
Tịch tịnh, không sợ hãi,
Các công đức như vậy,
Không ai ước lường được."
--------------------------------------------------------------------------------
XV. PHẨM AN LẠC [^]
197. "Vui thay, chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù !
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù !"
198. "Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh, giữa ốm đau !
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống, không ốm đau."
199. "Vui thay, chúng ta sống,
Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng,
Ta sống, không rộn ràng."
200. "Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm."
201. "Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại."
202. "Lửa nào sánh lửa tham ?
Ác nào bằng sân hận ?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc."
203. "Đói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết Bàn, lạc tối thượng."
204. "Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng."
205. "Đã nếm vị độc cư,
Được hưởng vị nhàn tịnh,
Không sợ hải, không ác,
Nếm được vị pháp hỷ."
206. "Lành thay, thấy thánh nhân,
Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu,
Thường thường được an lạc."
207. "Sống chung với người ngu,
Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu,
Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí,
Như chung sống bà con."
208. "Do vậy :
Bậc hiền sĩ, trí tuệ
Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân;
Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy,
Như trăng theo đường sao."
--------------------------------------------------------------------------------
XVI. PHẨM HỶ ÁI [^]
209. "Tự chuyên, không đáng chuyên
Không chuyên, việc đáng chuyên.
Bỏ đích, theo hỷ ái,
Ganh tị bậc tự chuyên."
210. "Chớ gần gũi người yêu,
Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ,
Oán phải gặp cũng đau."
211. "Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là ác;
Những ai không yêu ghét,
Không thể có buộc ràng."
212. "Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi ?"
213. "Ái luyến sinh sầu ưu,
Ái luyến sinh sợ hải.
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hải ?"
214. "Hỷ ái sinh sầu ưu,
Hỷ ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát hỷ ái,
Không sầu, đâu sợ hãi ?
215. "Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái,
Không sầu, đâu sợ hãi ?"
216. "Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi."
217. "Đủ giới đức, chánh kiến;
Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình,
Được quần chúng ái kính."
218. "Ước vọng pháp ly ngôn
Ý cảm xúc thượng quả
Tâm thoát ly các dục,
Xứng gọi bậc Thượng Lưu."
219. "Khách lâu ngày ly hương,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng."
220. "Cũng vậy các phước nghiệp,
Đón chào người làm lành,
Đời này đến đời kia.
Như thân nhân, đón chào."
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)