Con đường sáng tạo
(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch
Chương thứ hai
Con đường sáng tạo: Con đường tự thể hiện
Con đường tự thể hiện
Niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống không nằm trong của cải tiện nghi.
Niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống hệ tại khả năng, trạng thái, tư thế, thời đại. “Mi hãy trở nên con người của chính mi” (Deviens ce que tu es) không những là một mệnh lệnh tuyệt đối mà còn là một diễm phúc tối cao.
Chất liệu đầu tiên hiến dâng cho kẻ sáng tạo chính là bản thân.
Viết khởi đầu là một cách tự hiện mình, sau đó là cách phát hiện mình và cuối cùng là cách sáng tạo mình. Lý tưởng của cả ba tiến trình đó là thể hiện cái “Tôi” chân thực. Song cái “Tôi” lý tưởng đó không thể là một cá thể đơn lẻ. Cái “Tôi” lý tưởng mà kẻ sáng tạo hướng tới phải là cái “Tôi vũ trụ” (Moi cosmique). Qua tất cả mọi lao khổ sáng tạo, hắn phải học cách nhìn lại tất cả mọi sự bằng “Con mắt vũ trụ”, phải khôn ngoan nhận thức được rằng có một thị kiến khác ở trên thị kiến khác, phải khiêm tốn nhận định rằng hắn chỉ là một dòng sông nhỏ của một mạch nguồn mãnh liệt, phải hân hoan nhận chân được rằng hắn chỉ là một thành phần trong một toàn thể, một dụng cụ trong tay những sức mạnh siêu nhiên: Qua tôi Đấng Sáng Tạo hành động, qua tôi Đấng Sáng Tạo nói. Tôi là một cá thể và đồng thời một tập thể, một người và đồng thời một đám đông. Tôi là một phiến lá trong ngàn cây rậm lá. Hãy trồi lên, hỡi gió. Tôi sẽ rung và sẵn sàng giao chuyển nhịp nhàng. Tôi là hôm nay, hôm mai và đồng thời hôm qua. Hãy tuôn chảy ào ạt qua tôi, hỡi vĩnh cửu! Tôi đang sống như đã sống tự nghìn thu và sẽ còn sống mãi đến thiên thu.
Khúc quanh tất yếu mà bất cứ nhà văn đích thực nào cũng phải đi tới trên bước đường sáng tác là sự khẳng định mình, kẻ duy nhất trên đời mà hắn biết một cách xác thực, kho tàng duy nhất mà hắn độc quyền khai thác. Đó là lúc hắn sáng suốt nhận ra và đồng thời hoàn toàn chấp nhận con người mình. Rất bằng lòng, rất đủ “Tới một điểm nào đó trong cuộc đời tôi, tôi quyết định rằng từ nay tôi viết về chính tôi, bằng hữu của tôi, kinh nghiệm của tôi, điều tôi biết và điều chính mắt tôi đã thấy. Bất cứ điều gì khác, theo ý tôi, chỉ là văn chương và tôi không tha thiết với văn chương. Tôi còn nhận thức được rằng tôi phải học cách bằng lòng với cái ở trong tầm tay tôi, trong phạm vi của tôi, sự hiểu biết của riêng tôi. Tôi học cách không mắc cỡ về mình, tha hồ tự do nói về mình, quảng cáo mình, chen vai thích cánh khi cần thiết.” (At a certain point in my life I decided that henceforth I would write about myself, my friends, my experiences, what I knew and what I had seen with my own eyes. Anything else, in my opinion, is literature and I am not interested in literature. I realized also that I should have to learn to content myself with what was within my grasp, my scope, my personal ken. I learned not to be ashamed of myself, to talk freely about myself, to advertise myself, to elbow my way in here and there when necessary – Henry Miller) Tóm lại:
Tôi hiện hữu như tôi hiện tại, thế là đủ rồi.
Dầu không một ai trên cuộc đời này ý thức được rằng tôi đang an nhiên tự tại.
Và dầu cho mỗi và tất cả mọi người ý thức rằng tôi đang an nhiên tự tại.
(I exist as I am, that is enough.
If nother be aware I sit content.
And if each and all be aware I sit content)
Walt Whitman, “Song of myself”.
Nhưng nếu là kẻ sáng tạo, hắn còn phải biết thực hiện một hành động ngược lại, hắn phải biết coi thường hắn, còn phải biết phủ nhận chính con người của hắn nữa. “Tất cả lòng hăng hái chuyên cần của tôi và tất cả sự hờ hững lạnh lùng của tôi, tất cả sự tự chủ của tôi và tất cả khuynh hướng tự nhiên của tôi, tất cả lòng can trường của tôi và tất cả sự run sợ của tôi, mặt trời của tôi và sấm sét tung ra từ một vòm trời đen tối của tôi, tất cả tâm hồn và trí tuệ của tôi, tất cả khối đá hoa cương nặng trĩu và trang trọng của cái “Tôi” của tôi, tất cả những thứ đó đều có quyền nhắc đi nhắc lại không ngừng: “Thây kệ tôi là gì thì là!” – Nietzsche (Toute mon ardeur laborieuse et toute ma nonchalance, toute ma maîtrise de moi-même et toute mon inclination naturelle, toute ma bravoure et toute mon tremblement, mon soleil et ma foudre jaillissant d’un ciel noir, toute mon âme et tout mon esprit, tout le granit lourd et grave de mon “Moi”, tout cela a le droit de se répéter sans cesse: “Qu’importe ce que je suis!” – Vonlonté de Puissance, II, 4: 4 - 612).
Tôi phải vượt qua cái “ngã ” giả tưởng.
Vượt qua cái “Tôi” và cái “Anh”! Cảm thức một cách vũ trụ! (Dépasser le "Moi” et le “Toi”! Sentir de façon cosmique!) Nietzsche.
Tất cả mọi cá thể đều tham dự vào toàn thể của hữu thể vũ trụ. Cá thể không phải là kết quả mà là tổng số của cuộc tiền hữu. Nó cũng không phải là nhân mà chỉ là trợ duyên cho cuộc sống vị lai.
“Meurs et deviens.”
“Hãy chết đi và tựu thành!” Tâm hồn kẻ sáng tạo sẽ là một chiến trường ghê gớm nơi giao tranh của tất cả những sức mạnh truyền thống, luân lý, xã hội…, những sức mạnh phi ngã với tự ngã. Cuộc chinh phục tự ngã là một chiến thắng lớn lao trên đường tự thể hiện.
“Và chừng nào mi chưa hiểu thấu câu “chết đi và tựu thành”, thì mi sẽ chỉ là một khách lạ tối tăm trên trần gian u tối”. Goethe, Divan occidental – oriental.
(Et tant que tu n’aurais pas compris ce “meurs et deviens”, tu ne seras qu’un hôte obscur sur la terre ténébreuse).
Kẻ đã xô đổ những vật chống đỡ bên ngoài, đã giết chết “con người – người ta” của mình, tự tay xây dựng nơi ẩn trú của mình không còn là một khách lạ tối tăm bơ vơ trên trần gian u tối nữa, hắn trở thành chủ nhân căn nhà của hắn, chủ nhân cuộc đời hắn.
Nhà ta, ta ở lấy,
Theo người, ta chẳng chạy,
Ta cười các bực thầy
Không biết cười mình vậy.
(Nietzsche - Ngô Trọng Anh dịch theo bản Pháp ngữ của Alexandre Vialatte).
J’habite ma propre maison.
N’ai jamais imité personne.
Et me suis moqué de tout maitre,
Qui ne s’est moqué de soi.
Nhưng cái nhà là nhà của ta, do chính tay ta làm ra đó, ta phải xây dựng ở đâu: bằng gì? Dĩ nhiên không thể ở bên ngoài và bằng những chất liệu giả tạm. Ngôi nhà an trú cho mình và đồng thời cho mọi người đó chỉ có thể có trong lòng người thấu suốt, giải thoát, bao la, tam thường bất túc nhưng tự túc mãn kẻ như đại sư Milarepa:
Biết một điều ta cảm nghiệm được mọi điều:
Biết mọi điều ta hiểu chúng là một;
Ta đã cảm nghiệm thực tại chân thực;
Cái giường chật hẹp của ta đủ cho ta duỗi dài và nằm cong queo như con tôm một cách thoải mái;
Bộ quần áo mong manh đủ khiến thân thể ta ấm;
Chút ít đồ ăn đủ thỏa mãn dạ dầy ta;
Ta là mục tiêu của mọi tư tưởng gia vĩ đại;
Ta là chốn tụ hội của tín đồ;
Ta là chỗ quanh co của sinh tử và hư hoại;
Ta chẳng thích bất cứ xứ sở nào;
Ta chẳng có nhà cửa ở bất cứ nơi nào;
Ta chẳng tích chứa thực phẩm cho sự sinh sống của ta;
Ta chẳng ham muốn của cải vật chất;
Ta chẳng phân biệt đồ ăn sạch với dơ;
Ta chẳng bị đau khổ giày vò bao nhiêu;
Ta chẳng thích tự mến mộ mình bao nhiêu;
Ta chẳng buộc ràng hay thành kiến bao nhiêu;
Ta đã tìm thấy tự do giải thoát của Niết Bàn;
Ta là người an ủi kẻ già nua;
Ta là bạn chơi của trẻ em;
Hiền giả, ta lưu đãng qua những vương quốc của trần gian.
Ta cầu cho người và thần thánh được an trú tịnh yên.
Knowing one thing I have Experience of all things;
Knowing all things I conprehend them to be one;
I have experience of true reality;
My narrow bed gives me ease to stretch and bend;
My thin clothing makes my body warm; my scanty fare satisfies my belly.
I am the goal of every great meditator;
I am the meeting place of the faithful;
I am the coil of birth and death and decay;
I have no preference for any country;
I have home in any place;
I have no store of provisions for my livelihood;
I have no fondness for material things;
I make no distinction between clean and unclean in food;
I have little torment of suffering;
I have little desire for self-esteem;
I have little attachment or bias;
I have found the freedom of Nirvanna;
I am the comforter of the aged;
I am the playmate of children;
The sage; I wander through the kingdoms of the world.
I pray that ye men and gods may dwell at ease.
(Milarepa, The Message of Milarepa)
Không những nguyện cầu cho người và thần thánh được an nhiên tự tại, kẻ thực hiện được Chân Ngã còn cầu nguyện cho toàn thể vạn vật được dự phần yên vui:
“Xin nguyện cầu cho vạn vật được hạnh phúc, xin nguyện cầu cho vạn vật được thanh bình: xin nguyện cầu cho vạn vật được hưởng chân phúc.”
(Vivekananda).
Cái ta nhỏ bé đã chết, hay đúng hơn đã thể nhập được vào cái TA tịch nhiên bất động giữa Thiên Nhiên:
TA TĨNH TỊCH
Ta tĩnh tịch tịnh yên,
Thong dong tồn lập giữa Thiên Nhiên
Vương chúa của mọi vật
Hoặc Nữ Vương của mọi đồ
Hoặc Hoàng Đế của doanh hoàn thảy thảy
Tự như tự tại trầm chước vô ngần tại trung tâm cháy bỏng của mọi mọi thứ hỗn độn nhà ma, trớ trêu của qủy
Ta cũng chan hòa tiêm nhiễm mù sương như chúng
Ta cũng lai láng rớt hột thụ động giang hà, đón nhận hoang liêu như chúng
Ta cũng lặng im như chúng.
Nhận thấy công việc của ta, chức nghiệp của ta và nghèo nàn và danh vọng và nhược điểm và tội lỗi và mọi mọi khác khác của ta, thật chẳng quan trọng chi nhiều như ta vốn đã tưởng.
Ta mình ta mẩy, ta thể ta thân, ta thần hồn, ta linh phách, ta lách lau, ta cồn lá, ta cá chim, ta kim tuyền, ta phiền sương hoàng lục thạch, ta song lạch hoàng hạc lâu, ta sơ đầu hoàng lục ngọc, ta dọc dọc hồng lựu ngọc ngang ngang, ta hai hàng đi bước chân chữ bát, ta bình trác cầm đơn nhẫn loan đao, ta chiêm bao thủ trì lục ngọc trượng, ta phương trượng mở bài phương tiện cầm Kim Xà Kiếm rạch đường dọc trên mình mẩy Nữ Thí Chủ Tam Cô Nương, ta lên đường ô lữ vân mồng gieo hai hàng song song lựu tử thạch, ta khai khải anh thần bên trường phát phi kiên, ta khải phát uy quyền bên trường quần vén xiêm duệ địa.
Me toward the Mexican sea.
Ta hướng thân phiêu bồng về phương mây Mễ Tây Cơ đại hải.
Hoặc trong miền rộng rãi Mannahatta,
Hoặc ngoài cõi đằng la Tennessee,
Hoặc giữa một vùng Thanh Cấm Nguyệt phiêu du,
Hoặc hư phù phương Nam phương Bắc
Hoặc ra ngoài bờ tỳ hải réo rắt
Hoặc vào trong lục địa ngủ một trận năm châu
Ta một con người con Giòng Sông Bất Tận
Ta một con kẻ con Triều Động U Sương
Ta một con ma lên đường con gào kêu con Hắc Quỷ
Ta một con mọi túy lúy con thượng thặng huyền lâm bên thừa dư con rừng tía
Ta một con gấu mỉm miệng cười bên tổ mật hoàng phong
Ta một con beo hoặc là một con cọp
Ta một con cọp hoặc là chẳng một cọp chi mô
Ta một con sư tử kim mao u buồn nữ sư vương ủ rũ.
Ta làm thơ thi sĩ màu chanh mọc tam sư muội cô nương
Ta viếng thăm thôn trang tại thôn làng thang lang nông trại
Ta thăm viếng một con người là con kẻ chính ta
Ta con người Trường Giang con ma Đại Hải
Ta con kẻ của lâm tuyền sơn thụ
Hoặc con của sinh hoạt nông trại thôn trang
Hoặc của sinh bình nông trang thôn trại
Hoặc của sinh lý thôn trại nông trang
Hoặc của một nàng mùa thu mang trong mình một trang quốc sắc
Hoặc của một nương tử mùa xuân vòng tay học trò mang tứ chi tìm đông phương thị hậu
A river man, or a man of the woods or any farm-life these States or of the coast, or the lakes of Kanada.
Ta thế là ta tràn làn khắp cõi, từ thôn trại sinh hoạt xứ sở nọ, tới miền duyên hải hoặc giang hồ non nươc Kanada kia.
Ta như vậy là suốt miền ta tại hoạt, tại sinh tại bình, tại bối bất cứ nơi nào cuộc sinh bình ta được sống, ôi được sống mọi bình sinh giữa cuộc! Ôi được cuộc mọi sinh được sống mọi trong cơn… Ôi được tự tại như tự ta đong đưa tự mình tự mẩy, tha hồ cho mặc sức xô đẩy mọi phù động ngẫu nhĩ ngẫu nhiên.
Ta mọi phi tuyền về trong cơn chót vót,
Ta mọi con chim ca hót về tĩnh dạ thâm canh,
Ta mọi thập thành thuần thanh công lực, về trong bão táp đêm tăm,
Ta mọi ăn nằm chịu chơi trong từng cơn đói rét,
Ta mọi hiu hắt trì thủ trước mọi lếu láo lố bịch làm thơ,
Ta mọi bất ngờ đổ ra mọi tai ương tai ách,
Ta mọi đường rạch giữa mọi dọc mọi ngang, mọi trở ngăn mọi tỏa chiết,
Ta mọi kỳ tuyệt giữa mọi gò đống ngổn ngang,
Ta mọi một hàng giữa mọi đoạn nhiên nhi cự tuyệt,
Như y hệt ta là ta như thế, như mọi cây cối và thú vật mọi như như.
Walt Whitman, Leaves of grass.
Bùi Giáng dịch trong Sương Bình Nguyên [1]
Me Imperturbe
Me imperturbe, standing at ease in Nature,
Master of all or mistress of all, aplomb in the midst of irrational thing,
Imbued as they, passive, receptive, silent as they,
Finding my occupation, poverty, notoriety, foibles, crimes, less important than I thought,
Me toward the Mexican sea, or in the Mannahatta or the Tennessee, or far north or inland,
A river man, or a man of the woods or of any farm-life of these
States or of the coast, of the lakes or Kanada,
Me wherever my life is lived, O to be self-balanced for contingencies,
To confront night, storms, hunger, ridicule, accidents, rebuffs, as the trees or animals do.
Bên ngoài, kẻ đã thể hiện được CHÂN NGÃ có thể đón nhận mọi đói khát, giông bão, đêm tối, khước từ, nhục nhã… đó là nơi giao hòa của mọi sự. Mặt hắn như mặt đất, không chối từ một điều gì thì lòng hắn cũng như lòng đất có thể dung nạp và hóa giải được tất cả: đó là nơi chuyển tính mọi sự.
CÁCH NGÔN
Cứng rắn và dịu dàng, thô bạo và tế nhị,
Thân mật và xa lạ, nhơ bẩn và tinh khiết,
Nơi hẹn hò của những cuồng nhân và hiền nhân,
Ta là tất cả điều đó, ta muốn là điều đó,
Vừa là bồ câu, rắn rết đồng thời là lợn heo.
LE PROVERBE DIT:
Apre et doux, grossier et fin,
Familier et étranger, malpropre et pur,
Rendez-vous des fous et des sages,
Je suis tout cela, je veux l’être,
Tout à la fois colombe, et serpent et cochon.
Nietzsche,Tri Thức Hân Hoan
“Thiên tài không có cá tính”, Keats đã viết như vậy trong một thiên khảo cứu về Shakespeare. Cũng vậy, kẻ đã thể hiện được Chân Ngã không có tên. Đó là một hài nhi mới chào đời, chào đời mỗi ngày nên chẳng bao giờ kịp làm giấy khai sinh, tim tươi hồng và mới mẻ như mặt trời mỗi buổi mai mỗi mọc. Có thể gọi tên nó là hân hoan?
NIỀM HÂN HOAN NGÂY THƠ
“Ta không có tên:
Ta ra đời mới có hai ngày.”
Ta sẽ biết gọi ngươi bằng gì?
“Ta hân hoan,
Hân hoan là tên ta.”
Cầu cho hân hoan ngọt ngào ở mãi cùng người!
Niềm hân hoan xinh!
Niềm hân hoan ngọt ngào mới được hai ngày,
Niềm hân hoan ngọt ngào là tên ta đặt cho người:
Ngươi mỉm nụ cười
Khi ta ca hát
Cầu cho niềm hân hoan ngọt ngào ở mãi cùng người.
INFANT JOY
“I have no name:
I am but two days old,”
What shall I call thee?
“I happy am,
Joy is my name.”
Sweet joy befall thee!
Pretty joy!
Sweet joy but two days old,
Sweet joy I call thee:
Thou dost smile,
I sing the while
Sweet joy befall thee.
William Blake, Songs of Innocence.
HÂN HOAN, ta là HÀI NHI HÂN HOAN!
Kẻ sáng tạo khẳng định như vậy.
“Ta có trách nhiệm về số mạng ta, ta là kẻ đem điều thiện đến cho ta, ta là kẻ đem điều ác đến cho ta. Ta là đấng Thanh Khiết và hưởng Chân Phúc” vì ta hiểu thế nào là Chân Ngã, thế nào là Chân Pháp.
NGUYỄN HỮU HIỆU
3 Tháng mười Canh Tuất, ngày cuối cùng ở Hoàng Hạc Lâu.
Mi muốn bao giờ bay lên cũng được, hạc vàng!
Kiên nhẫn là tất cả.
Hãy khoan thai, hãy tin tưởng,
Hãy chín!
Đừng mang cho đời những trái xanh đắng chát chua non, những bông hoa hàm tiếu úa tàn,
Đừng cho đời nếm những đau khổ chưa sâu, những hân hoan chưa cao, những hận thù chưa vơi, những yêu thương chưa đầy,
Đừng cho đời biết những đam mê chưa tỉnh, những thao thức chưa mê, những tuyệt vọng chưa cùng, những khát vọng chưa hết,
Đừng cho đời thấy những niềm tin chưa xanh, những hy vọng chưa đỏ, những ngày tháng chưa thiêng, những thần tượng chưa đổ,
Đừng cho đời hay những tội lỗi chưa giải, những mê cung chưa thoát, những địa ngục chưa khép kín cho trần gian, những thiên đàng chưa mở rộng cho loài người,
Và đừng nói về những con sông đục ngầu phù sa không phảng phất xanh mầu biển mẹ, cũng đừng nói về những nẻo đường nghẽn lối không thênh thang lồng lộng bóng TA về
giải thoát bao dung.
Phải sống và nói về ĐỜI như một TOÀN THỂ, về TA như một thành phần và về TA như là TÂT CẢ.
vô thủy, vô chung
hủy diệt và hồi sinh trong từng
hơi thở mảnh.
TAT TVAM ASI
NGƯỜI LÀ CHÂN NHƯ
OM TAT SAT
TA LÀ ĐẰNG ẤY
Kẻ sáng tạo khẳng định như vậy.
Đó là sự sáng tạo tối thượng mà mỗi người và tất cả mọi người phải thực hiện. Vì sáng tạo là sống và sống là sáng tạo
Sáng tạo miên man.
------------------------------------------------------
[1]Quế Sơn Võ Tánh, 1969, tr. 203-208
Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn.
1/7/07
THƠ : Ai? Tôi! - Chế Lan Viên
Ai? Tôi!
Chế Lan Viên
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó ?
Tôi!
Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận
về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy ?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ
giải đáp về đời,
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
Nguồn : DI CẢO THƠ - CHẾ LAN VIÊN .
Chế Lan Viên
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó ?
Tôi!
Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận
về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy ?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ
giải đáp về đời,
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
Nguồn : DI CẢO THƠ - CHẾ LAN VIÊN .
DUONG XA MAY TRANG - Tran Le Quang Nam
ĐƯỜNG XA MÂY TRẮNG
Trần Hồ Dũng
Mẹ nay tóc bạc phơ rồi
Như mây trắng mãi trên đường con đi
Đã qua suốt tuổi xuân thì
Đường trần phía trước có gì vui đâu
Bao năm để Mẹ héo sầu
Rưng rưng mắt đỏ nguyện cầu trong đêm
Nói gì cho dạ buồn thêm
Tóc xanh ngày ấy nào quên đường về
Nửa đời sực tỉnh cơn mê
công danh tay trắng lời thề xưa đâu ?
" Nhớ thương bạc nữa mái đầu
Hồn nương quán khách nghe màu tà huân (*)
tranhodung - saigon 2003
-----
(*) Thơ : Hồ Dzếnh
Trần Hồ Dũng
Mẹ nay tóc bạc phơ rồi
Như mây trắng mãi trên đường con đi
Đã qua suốt tuổi xuân thì
Đường trần phía trước có gì vui đâu
Bao năm để Mẹ héo sầu
Rưng rưng mắt đỏ nguyện cầu trong đêm
Nói gì cho dạ buồn thêm
Tóc xanh ngày ấy nào quên đường về
Nửa đời sực tỉnh cơn mê
công danh tay trắng lời thề xưa đâu ?
" Nhớ thương bạc nữa mái đầu
Hồn nương quán khách nghe màu tà huân (*)
tranhodung - saigon 2003
-----
(*) Thơ : Hồ Dzếnh
Chiều Lương Sơn - tranlequangnam
CHIỀU LƯƠNG SƠN QUÁN
Trần Hồ Dũng
Tặng Hà Duy Hùng -Osaka-Nhật Bản .
& Hoàng , Thuyên -Lương Sơn Quán . THD.
Lưu lạc bao ngày mới gặp nhau
Hàn huyên chưa trọn một đêm dài
Men sầu vừa thấm qua chung rượu
Đã vội quay đầu giã biệt quê !
*
Ngươi về bên ấy ai tri kỷ
Thổi sáo tặng bài " Phương vũ " xưa
Nụ cười khinh bạc ai chia sẻ
Ly rượu nồng hay nước mắt cay
**
Bạn bè viễn xứ về đây vội
Rồi rẽ dòng đời muôn nhánh chia
Ai ra biển lớn , ai về lại
Ai để buồn vương mỗi bến sông
***
Chiều nay ngồi lại Lương Sơn Quán
Rượu rót ơ hờ ! Bằng hữu xa !
Bạn ơi ! Ta nhơ ngươi phương ấy
Một cánh chim trời mải miết bay
THD. Luong Son Quan , Saigon , 29/8/2006
Trần Hồ Dũng
Tặng Hà Duy Hùng -Osaka-Nhật Bản .
& Hoàng , Thuyên -Lương Sơn Quán . THD.
Lưu lạc bao ngày mới gặp nhau
Hàn huyên chưa trọn một đêm dài
Men sầu vừa thấm qua chung rượu
Đã vội quay đầu giã biệt quê !
*
Ngươi về bên ấy ai tri kỷ
Thổi sáo tặng bài " Phương vũ " xưa
Nụ cười khinh bạc ai chia sẻ
Ly rượu nồng hay nước mắt cay
**
Bạn bè viễn xứ về đây vội
Rồi rẽ dòng đời muôn nhánh chia
Ai ra biển lớn , ai về lại
Ai để buồn vương mỗi bến sông
***
Chiều nay ngồi lại Lương Sơn Quán
Rượu rót ơ hờ ! Bằng hữu xa !
Bạn ơi ! Ta nhơ ngươi phương ấy
Một cánh chim trời mải miết bay
THD. Luong Son Quan , Saigon , 29/8/2006
Dịch thuật: đôi điều cần đào sâu
Dịch thuật: đôi điều cần đào sâu
Nguyễn Đình Thành
Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại nhu cầu giao tiếp và thông tin trên thế giới lại lớn như trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Song song với mối đe dọa đồng nhất hóa đến từ những nền văn hóa mạnh là nhu cầu khẳng định bản sắc của mình và tìm hiểu bản sắc của người khác, trong bối cảnh như vậy dịch thuật đương nhiên giữ một vai trò nổi trội.
Không phải ngẫu nhiên mà chi phí cho việc trao đổi, giao tiếp trong Liên hiệp châu Âu với 20 thứ tiếng khác nhau đã ngốn tới 1 tỷ euro trong năm vừa qua. Vậy 1 tỷ euro đó chi cho những gì? Xin thưa, cho đội ngũ biên phiên dịch. Trước hết ta hãy cùng thống nhất về cách hiểu chữ dịch thuật để tránh việc “ông nói gà, bà nói vịt”.
Dịch thuật gồm phiên dịch (dịch nói) và biên dịch (dịch viết). Chữ thuật cho ta thấy ngay là bộ môn này cần một số kiến thức và kỹ năng nhất định. Từ đó suy ra là không phải ai cũng làm được. Nhiều người quan niệm rằng: cứ thành thạo hai thứ tiếng là dịch được. Xin nói ngay, đây là quan điểm hết sức sai lầm. Trên thế giới có hơn 6 tỷ người có khả năng chơi được bóng đá. Không đến một phần ba trong số đó chơi bóng đá. Trong khi đó giải vô địch thế giới chỉ dành cho vài trăm cầu thủ và chỉ một số ít tỏa sáng. So sánh như vậy để thấy giữa cái ta có thể làm với cái ta làm là rất xa nhau và không phải cứ thành thạo tiếng nước ngoài và tiếng mẹ đẻ là có thể dịch được, không phải cứ viết giỏi, viết hay là đương nhiên trở thành nhà thơ, nhà văn.
Quay trở lại với chữ dịch thuật gồm phiên dịch và biên dịch. Trong phiên dịch lại chia ra thành phiên dịch hội nghị và phiên dịch tiếp xúc. Trong phiên dịch hội nghị lại chia thành dịch đuổi (người dịch nói sau khi diễn giả ngừng lời) và dịch cabin (hay dịch song song). Dịch tiếp xúc có thể được chia thành giao tiếp thông thường và giao tiếp ngoại giao hoặc đàm phán kinh tế… Biên dịch có thể được tạm chia thành dịch văn bản khoa học, báo chí, diễn văn, văn học nghệ thuật. Nói vậy để thấy từ dịch thuật bao gồm những nhánh nhỏ rất khác nhau. Mỗi công việc lại đòi hỏi những kỹ năng riêng mà không phải làm tốt công việc này thì đương nhiên sẽ làm tốt công việc khác. Nhiều người cho rằng đã làm được phiên dịch thì sẽ làm được biên dịch và ngược lại. Ðiều này có thể đúng ở những cấp độ ngôn ngữ đơn giản và không đúng ở dịch thuật đỉnh cao. Cũng giống như không huấn luyện viên nào lại đi xếp Ronaldinho vào vị trí hậu vệ và Maldini vào vị trí tiền đạo. Do trên các diễn đàn trao đổi về chủ đề này, tôi thường xuyên chỉ thấy nói đến việc dịch tác phẩm văn học này, cuốn phê bình nghệ thuật kia có vấn đề (tức là chỉ giới hạn ở dịch viết và cụ thể ở đây là dịch văn học) nên mới mạn phép đặt lại vấn đề chữ dịch thuật và muốn hiểu chữ này trong các ý nghĩa mà nó bao trùm.
Dịch là việc chuyển văn bản hay diễn ngôn từ ngôn ngữ gốc thành văn bản hay diễn ngôn có ý nghĩa tương đương trong ngôn ngữ đích. Ðể làm được điều này, người dịch phảI hiểu nội dung và sắc thái văn bản hay diễn ngôn gốc và tìm được cái tương đương trong ngôn ngữ đích. Người dịch hoàn hảo là người dịch “tàng hình”. Người đọc, nghe văn bản đích không thấy có sự hiện diện của người dịch mà chỉ thấy tác giả hoặc diễn giả mà thôi. Cái khó là ở chỗ mỗi con người đều là độc nhất, không ai nói và viết giống ai, trong khi đó người dịch phải “nhập’’ mình vào diễn giả, tác giả để nói, viết như họ. Ðiều này đòi hỏi người dịch phải có những kỹ năng nhất định và những hiểu biết cơ bản trong lĩnh vực mình dịch. Nhưng dù sao thông điệp sau khi đi qua màng lọc là người dịch cũng vẫn ít nhiều khác với bản gốc. Chưa kể đến năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin của người đọc, người nghe. Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói một bản dịch dù hay đến mấy vẫn là mặt sau của tấm thảm dệt mà thôi.
Quay lại với hiện trạng nền dịch thuật Việt Nam, có lẽ không cần chứng minh nhiều cũng thấy ta không hề có một nền dịch thuật mạnh. Ðiều này bắt nguồn đầu tiên từ vấn đề con người mà trước hết là trong giáo dục và đào tạo. Việc đào tạo ngoại ngữ bấy lâu nay ở ta vẫn không lấy gì đáng làm tự hào. Ai có thể nói là học sinh và thậm chí sinh viên Việt Nam (ngoại trừ một số trường chuyên ở các thành phố lớn) nói tiếng nước ngoài giỏi? Học sinh, sinh viên của ta ít có dịp thực hành tiếng với người bản địa, ít được tiếp xúc với đài báo nước ngoài, ít đi du lịch, ngoài ra còn lười đọc ấn phẩm, thông tin bằng tiếng nước ngoài… Không giỏi là hệ quả đương nhiên. Ðến các trường ngoại ngữ, nơi đào tạo các biên phiên dịch viên tương lai tình hình cũng không khá hơn. Trước hết, phần lớn các sinh viên giỏi ở các trường chuyên, lớp chọn ngoại ngữ đã đi du học (ít người chọn văn học hay ngôn ngữ) hoặc thi vào các trường “lớn” như Ngoại thương, Ngoại giao…, số còn lại vào học ở các trường ngoại ngữ. Sự chênh lệch trình độ trong lớp và thiếu thốn cơ sở vật chất (thư viện nghèo nàn, chỉ thỉnh thoảng mới được lên phòng luyện tiếng đa phương tiện) thiếu giáo viên nước ngoài, phong cách học thụ động như học sinh cấp 4… làm sao có được những biên phiên dịch tài năng. Riêng dịch văn học lại càng khó. Bởi ngoài các kiến thức về ngôn ngữ, người dịch văn học phải có niềm đam mê và khiếu văn học. Hai điều này thì không trường nào đào tạo được. Người dịch có hay không có hai phẩm chất này là do tự nhiên chứ không do đào tạo. Ðó là chưa kể đến việc hoàn nguyên được văn phong của tác giả là một việc rất khó, hoàn toàn phụ thuộc vào cá nhân và sự lựa chọn của người dịch. Ðây là một yếu tố chủ quan nên mỗi người dịch sẽ cho ra một bản dịch (version) của riêng mình (khác với dịch văn bản khoa học: nước sôi ở 100° C, hay trái đất quay xung quanh mặt trời… không thể dịch khác được). Ðó là còn chưa nói đến việc có những yếu tố “không thể dịch được”, hoặc có những yếu tố bắt buộc phải giải thích (chẳng hạn như ai có thể nói là thơ Hồ Xuân Hương, Kiều,… là dịch được?). Ngoài ra, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, dịch sách là một công việc đòi hỏi cao và dành cho một số ít người. Trong hoàn cảnh ấy, thiết tưởng yếu kém của nền dịch thuật Việt Nam là điều dễ hiểu.
Những khó khăn ấy càng trở nên trầm trọng bởi những vấn đề mang tính xã hội. Rõ ràng, văn hóa đọc là rất yếu ở Việt Nam. Phần lớn người đọc tìm mua những tác phẩm dễ đọc, hầu hết các nhà xuất bản tìm sách dễ bán và không sẵn lòng mở hầu bao tìm những dịch giả tốt. Rõ ràng là nhiều người tìm đọc Sidney Sheldon hơn là Jean Paul Sartre, Nhật kí Ðặng Thùy Trâm hơn là Thoạt kì thủy,… Bản quyền bị vi phạm nghiêm trọng làm nản lòng người sáng tác, người dịch. Ngay cả những tác giả lớn còn bị in sách lậu mà không được hỏi ý kiến, không được nhận thù lao, nói gì đến người dịch. Chính người dịch cũng không tôn trọng tên tuổi của chính mình. Ðã không ít trường hợp, một dịch giả ít nhiều có tiếng nhận “đơn đặt hàng’’ rồi giao lại cho sinh viên, hay người dịch thiếu kinh nghiệm “gia công’’ rồi hưởng chênh lệch thù lao dịch, hoặc nhận dịch những ấn phẩm không thuộc chuyên môn của mình, cũng không đầu tư tìm tòi. Trong khi đó, công việc dịch nói chung và dịch viết nói riêng đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Tìm được một từ “đắt” phải mất cả tuần, cả tháng, có khi không tìm được. Trong các văn bản dịch chăng đầy những cạm bẫy của “giao thoa văn hóa’’ đòi hỏi phải có những hiểu biết về những hiện tượng, khái niệm “tham chiếu văn hóa” mà nếu không sống ở nước ngoài hoặc hỏi người bản địa thì không thể hình dung ra nổi (đa số các trường đào tạo dịch đều tuyển những sinh viên nói ít nhất 2 ngoại ngữ và đã sống liên tục ở nước mà mình muốn học tiếng trong khoảng thời gian 1 năm). Ðã không hiểu thì không thể dịch được. Chính những điều này dẫn đến chất lượng dịch không cao, thậm chí giết chết tác phẩm gốc. Không phải ngẫu nhiên mà bài học đầu tiên của người học dịch là câu cảnh báo “traduire, c’est trahir” (traduttore, traditore), dịch là phản.
Có ý kiến cho rằng: sao không tìm biên dịch Việt kiều? Ða phần trong số họ là những người giỏi ngoại ngữ, nhiều người học vấn cao, quan tâm đến văn học lại không dịch? Tôi không phải Việt kiều nên không hiểu lắm tại sao lại như vậy, càng không muốn trả lời thay cho họ. Nhưng như đã phân tích ở trên: không phải cứ giỏi tiếng là dịch được, nhất là dịch văn học. Dịch thuật là một nghề. Ðã là nghề thì có người được đào tạo, có người thiên bẩm tốt, không cần được đào tạo cũng làm nghề được (nhưng số này đương nhiên là rất ít). Hơn nữa, người Việt ở nước ngoài đa phần ai cũng bận làm nghề gì đó để kiếm sống, không mấy người chọn nghiệp văn chương bạc bẽo, càng ít người bỏ hàng năm trời để dịch một cuốn sách (nếu muốn làm công việc có chất lượng cao). Nếu muốn dịch một quyển sách từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt, họ phải đi xin phép nhà xuất bản và tác giả ấy, liên hệ với nhà xuất bản Việt Nam, và phải chắc là quyển sách ấy được phép xuất bản ở Việt Nam và ăn khách. Trong chiều ngược lại, họ phải tìm tác phẩm hay của Việt Nam ở đâu? Ở nước ngoài? Hay đợi tác giả trong nước gửi sang? Có bao nhiêu nhà xuất bản nước ngoài đồng ý in tác phẩm của tác giả đến từ nước thứ ba? Theo tôi được biết, dịch giả của một số tác giả nổi tiếng nhất của Việt Nam được trả tiền cao gấp nhiều lần tác giả, và số tiền đó có được là nhờ trợ cấp của chính phủ nước sở tại, mấy năm lại có một số trợ cấp như vậy? Chưa nói đến việc nhiều người đã xa tổ quốc lâu năm, tôi không hề có ý định xúc phạm họ, trong khi ngôn ngữ phát triển không ngừng, việc viết để hợp với văn phong và từ ngữ của xã hội Việt Nam hiện nay không phải là điều hiển nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare được dịch đến lần thứ tư sang tiếng Pháp và vẫn tiếp tục được dịch. Tôi nghĩ vấn đề dịch hay không dịch không nằm ở chỗ thành thạo tiếng ít hay nhiều mà phần lớn phụ thuộc vào khả năng thiên bẩm và kỹ năng dịch. Dịch văn học không phải là trò chơi, hoặc cái mà người ta làm khi nổi hứng nhất thời. Nếu không chỉ có thể trở thành người dịch amateur mà thôi.
Nguyễn Đình Thành
Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại nhu cầu giao tiếp và thông tin trên thế giới lại lớn như trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Song song với mối đe dọa đồng nhất hóa đến từ những nền văn hóa mạnh là nhu cầu khẳng định bản sắc của mình và tìm hiểu bản sắc của người khác, trong bối cảnh như vậy dịch thuật đương nhiên giữ một vai trò nổi trội.
Không phải ngẫu nhiên mà chi phí cho việc trao đổi, giao tiếp trong Liên hiệp châu Âu với 20 thứ tiếng khác nhau đã ngốn tới 1 tỷ euro trong năm vừa qua. Vậy 1 tỷ euro đó chi cho những gì? Xin thưa, cho đội ngũ biên phiên dịch. Trước hết ta hãy cùng thống nhất về cách hiểu chữ dịch thuật để tránh việc “ông nói gà, bà nói vịt”.
Dịch thuật gồm phiên dịch (dịch nói) và biên dịch (dịch viết). Chữ thuật cho ta thấy ngay là bộ môn này cần một số kiến thức và kỹ năng nhất định. Từ đó suy ra là không phải ai cũng làm được. Nhiều người quan niệm rằng: cứ thành thạo hai thứ tiếng là dịch được. Xin nói ngay, đây là quan điểm hết sức sai lầm. Trên thế giới có hơn 6 tỷ người có khả năng chơi được bóng đá. Không đến một phần ba trong số đó chơi bóng đá. Trong khi đó giải vô địch thế giới chỉ dành cho vài trăm cầu thủ và chỉ một số ít tỏa sáng. So sánh như vậy để thấy giữa cái ta có thể làm với cái ta làm là rất xa nhau và không phải cứ thành thạo tiếng nước ngoài và tiếng mẹ đẻ là có thể dịch được, không phải cứ viết giỏi, viết hay là đương nhiên trở thành nhà thơ, nhà văn.
Quay trở lại với chữ dịch thuật gồm phiên dịch và biên dịch. Trong phiên dịch lại chia ra thành phiên dịch hội nghị và phiên dịch tiếp xúc. Trong phiên dịch hội nghị lại chia thành dịch đuổi (người dịch nói sau khi diễn giả ngừng lời) và dịch cabin (hay dịch song song). Dịch tiếp xúc có thể được chia thành giao tiếp thông thường và giao tiếp ngoại giao hoặc đàm phán kinh tế… Biên dịch có thể được tạm chia thành dịch văn bản khoa học, báo chí, diễn văn, văn học nghệ thuật. Nói vậy để thấy từ dịch thuật bao gồm những nhánh nhỏ rất khác nhau. Mỗi công việc lại đòi hỏi những kỹ năng riêng mà không phải làm tốt công việc này thì đương nhiên sẽ làm tốt công việc khác. Nhiều người cho rằng đã làm được phiên dịch thì sẽ làm được biên dịch và ngược lại. Ðiều này có thể đúng ở những cấp độ ngôn ngữ đơn giản và không đúng ở dịch thuật đỉnh cao. Cũng giống như không huấn luyện viên nào lại đi xếp Ronaldinho vào vị trí hậu vệ và Maldini vào vị trí tiền đạo. Do trên các diễn đàn trao đổi về chủ đề này, tôi thường xuyên chỉ thấy nói đến việc dịch tác phẩm văn học này, cuốn phê bình nghệ thuật kia có vấn đề (tức là chỉ giới hạn ở dịch viết và cụ thể ở đây là dịch văn học) nên mới mạn phép đặt lại vấn đề chữ dịch thuật và muốn hiểu chữ này trong các ý nghĩa mà nó bao trùm.
Dịch là việc chuyển văn bản hay diễn ngôn từ ngôn ngữ gốc thành văn bản hay diễn ngôn có ý nghĩa tương đương trong ngôn ngữ đích. Ðể làm được điều này, người dịch phảI hiểu nội dung và sắc thái văn bản hay diễn ngôn gốc và tìm được cái tương đương trong ngôn ngữ đích. Người dịch hoàn hảo là người dịch “tàng hình”. Người đọc, nghe văn bản đích không thấy có sự hiện diện của người dịch mà chỉ thấy tác giả hoặc diễn giả mà thôi. Cái khó là ở chỗ mỗi con người đều là độc nhất, không ai nói và viết giống ai, trong khi đó người dịch phải “nhập’’ mình vào diễn giả, tác giả để nói, viết như họ. Ðiều này đòi hỏi người dịch phải có những kỹ năng nhất định và những hiểu biết cơ bản trong lĩnh vực mình dịch. Nhưng dù sao thông điệp sau khi đi qua màng lọc là người dịch cũng vẫn ít nhiều khác với bản gốc. Chưa kể đến năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin của người đọc, người nghe. Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói một bản dịch dù hay đến mấy vẫn là mặt sau của tấm thảm dệt mà thôi.
Quay lại với hiện trạng nền dịch thuật Việt Nam, có lẽ không cần chứng minh nhiều cũng thấy ta không hề có một nền dịch thuật mạnh. Ðiều này bắt nguồn đầu tiên từ vấn đề con người mà trước hết là trong giáo dục và đào tạo. Việc đào tạo ngoại ngữ bấy lâu nay ở ta vẫn không lấy gì đáng làm tự hào. Ai có thể nói là học sinh và thậm chí sinh viên Việt Nam (ngoại trừ một số trường chuyên ở các thành phố lớn) nói tiếng nước ngoài giỏi? Học sinh, sinh viên của ta ít có dịp thực hành tiếng với người bản địa, ít được tiếp xúc với đài báo nước ngoài, ít đi du lịch, ngoài ra còn lười đọc ấn phẩm, thông tin bằng tiếng nước ngoài… Không giỏi là hệ quả đương nhiên. Ðến các trường ngoại ngữ, nơi đào tạo các biên phiên dịch viên tương lai tình hình cũng không khá hơn. Trước hết, phần lớn các sinh viên giỏi ở các trường chuyên, lớp chọn ngoại ngữ đã đi du học (ít người chọn văn học hay ngôn ngữ) hoặc thi vào các trường “lớn” như Ngoại thương, Ngoại giao…, số còn lại vào học ở các trường ngoại ngữ. Sự chênh lệch trình độ trong lớp và thiếu thốn cơ sở vật chất (thư viện nghèo nàn, chỉ thỉnh thoảng mới được lên phòng luyện tiếng đa phương tiện) thiếu giáo viên nước ngoài, phong cách học thụ động như học sinh cấp 4… làm sao có được những biên phiên dịch tài năng. Riêng dịch văn học lại càng khó. Bởi ngoài các kiến thức về ngôn ngữ, người dịch văn học phải có niềm đam mê và khiếu văn học. Hai điều này thì không trường nào đào tạo được. Người dịch có hay không có hai phẩm chất này là do tự nhiên chứ không do đào tạo. Ðó là chưa kể đến việc hoàn nguyên được văn phong của tác giả là một việc rất khó, hoàn toàn phụ thuộc vào cá nhân và sự lựa chọn của người dịch. Ðây là một yếu tố chủ quan nên mỗi người dịch sẽ cho ra một bản dịch (version) của riêng mình (khác với dịch văn bản khoa học: nước sôi ở 100° C, hay trái đất quay xung quanh mặt trời… không thể dịch khác được). Ðó là còn chưa nói đến việc có những yếu tố “không thể dịch được”, hoặc có những yếu tố bắt buộc phải giải thích (chẳng hạn như ai có thể nói là thơ Hồ Xuân Hương, Kiều,… là dịch được?). Ngoài ra, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, dịch sách là một công việc đòi hỏi cao và dành cho một số ít người. Trong hoàn cảnh ấy, thiết tưởng yếu kém của nền dịch thuật Việt Nam là điều dễ hiểu.
Những khó khăn ấy càng trở nên trầm trọng bởi những vấn đề mang tính xã hội. Rõ ràng, văn hóa đọc là rất yếu ở Việt Nam. Phần lớn người đọc tìm mua những tác phẩm dễ đọc, hầu hết các nhà xuất bản tìm sách dễ bán và không sẵn lòng mở hầu bao tìm những dịch giả tốt. Rõ ràng là nhiều người tìm đọc Sidney Sheldon hơn là Jean Paul Sartre, Nhật kí Ðặng Thùy Trâm hơn là Thoạt kì thủy,… Bản quyền bị vi phạm nghiêm trọng làm nản lòng người sáng tác, người dịch. Ngay cả những tác giả lớn còn bị in sách lậu mà không được hỏi ý kiến, không được nhận thù lao, nói gì đến người dịch. Chính người dịch cũng không tôn trọng tên tuổi của chính mình. Ðã không ít trường hợp, một dịch giả ít nhiều có tiếng nhận “đơn đặt hàng’’ rồi giao lại cho sinh viên, hay người dịch thiếu kinh nghiệm “gia công’’ rồi hưởng chênh lệch thù lao dịch, hoặc nhận dịch những ấn phẩm không thuộc chuyên môn của mình, cũng không đầu tư tìm tòi. Trong khi đó, công việc dịch nói chung và dịch viết nói riêng đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Tìm được một từ “đắt” phải mất cả tuần, cả tháng, có khi không tìm được. Trong các văn bản dịch chăng đầy những cạm bẫy của “giao thoa văn hóa’’ đòi hỏi phải có những hiểu biết về những hiện tượng, khái niệm “tham chiếu văn hóa” mà nếu không sống ở nước ngoài hoặc hỏi người bản địa thì không thể hình dung ra nổi (đa số các trường đào tạo dịch đều tuyển những sinh viên nói ít nhất 2 ngoại ngữ và đã sống liên tục ở nước mà mình muốn học tiếng trong khoảng thời gian 1 năm). Ðã không hiểu thì không thể dịch được. Chính những điều này dẫn đến chất lượng dịch không cao, thậm chí giết chết tác phẩm gốc. Không phải ngẫu nhiên mà bài học đầu tiên của người học dịch là câu cảnh báo “traduire, c’est trahir” (traduttore, traditore), dịch là phản.
Có ý kiến cho rằng: sao không tìm biên dịch Việt kiều? Ða phần trong số họ là những người giỏi ngoại ngữ, nhiều người học vấn cao, quan tâm đến văn học lại không dịch? Tôi không phải Việt kiều nên không hiểu lắm tại sao lại như vậy, càng không muốn trả lời thay cho họ. Nhưng như đã phân tích ở trên: không phải cứ giỏi tiếng là dịch được, nhất là dịch văn học. Dịch thuật là một nghề. Ðã là nghề thì có người được đào tạo, có người thiên bẩm tốt, không cần được đào tạo cũng làm nghề được (nhưng số này đương nhiên là rất ít). Hơn nữa, người Việt ở nước ngoài đa phần ai cũng bận làm nghề gì đó để kiếm sống, không mấy người chọn nghiệp văn chương bạc bẽo, càng ít người bỏ hàng năm trời để dịch một cuốn sách (nếu muốn làm công việc có chất lượng cao). Nếu muốn dịch một quyển sách từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt, họ phải đi xin phép nhà xuất bản và tác giả ấy, liên hệ với nhà xuất bản Việt Nam, và phải chắc là quyển sách ấy được phép xuất bản ở Việt Nam và ăn khách. Trong chiều ngược lại, họ phải tìm tác phẩm hay của Việt Nam ở đâu? Ở nước ngoài? Hay đợi tác giả trong nước gửi sang? Có bao nhiêu nhà xuất bản nước ngoài đồng ý in tác phẩm của tác giả đến từ nước thứ ba? Theo tôi được biết, dịch giả của một số tác giả nổi tiếng nhất của Việt Nam được trả tiền cao gấp nhiều lần tác giả, và số tiền đó có được là nhờ trợ cấp của chính phủ nước sở tại, mấy năm lại có một số trợ cấp như vậy? Chưa nói đến việc nhiều người đã xa tổ quốc lâu năm, tôi không hề có ý định xúc phạm họ, trong khi ngôn ngữ phát triển không ngừng, việc viết để hợp với văn phong và từ ngữ của xã hội Việt Nam hiện nay không phải là điều hiển nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare được dịch đến lần thứ tư sang tiếng Pháp và vẫn tiếp tục được dịch. Tôi nghĩ vấn đề dịch hay không dịch không nằm ở chỗ thành thạo tiếng ít hay nhiều mà phần lớn phụ thuộc vào khả năng thiên bẩm và kỹ năng dịch. Dịch văn học không phải là trò chơi, hoặc cái mà người ta làm khi nổi hứng nhất thời. Nếu không chỉ có thể trở thành người dịch amateur mà thôi.
Bùi Giáng - nguồn xuân
ĐẶNG TIẾN
Bùi Giáng
nguồn xuân
Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Đán
(Mưa Nguồn, tr. 164)
Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính: một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Đán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn?
Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường: mùng một, mùng hai... mùng ba, mùng bốn... Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại: mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Đán, như Nguyễn Bính năm 1940:
Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân
Nhưng nếu hiểu (đã) theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Vàøtrong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.
Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản: thơ Bùi Giáng là một ‘’dòng nước ngược’’, một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.
Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ:
Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)
Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về:
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
(Mưa Nguồn, tr. 25)
Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với môït Màu Hoa Trên Ngàn: ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy.
Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt:
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn
*
Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.
Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau: buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ: xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.
Và ý tác giả có thể ngược lại: mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một ‘’hiện tượng văn học’’ như gần đây.
Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi:
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)
Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống:
Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến
Ô thiều quang! Làn nước cũ trôi mau
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc
Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc
Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Đà Lạt,1958, Mưa Nguồn, tr. 94)
Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó.
Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi thiều quang! Làn nước cũ trôi mau…
Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ:
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi
(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)
Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn:
Nắng Nguyên Đán
Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 54)
Phong cách nhắc lại một bài thơ trước:
Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …
(Mưa Nguồn, tr. 96)
Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lấy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ mọc hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.
Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân: Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo:
Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích. (Mưa Nguồn, tr. 38-39)
Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én:
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa Nguồn, tr. 62)
Người ta thường nói: xuân về. Chữ veà tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy:
Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
(Mưa Nguồn, tr. 61)
Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì: thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì? Bờ nước ấy: ấy nào? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng... Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể:
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đãê đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)
Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn:
Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau?
Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.
Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Đông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc đôï tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến "bi kịch".
Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký: Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạch Vũ Trụ Ca của Huy Cận:
Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng: vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo Xuân, 1942)
Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề ‘’chết từ sơ ngộ’’, và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng:
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp Biển, tr. 45)
Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân:
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này
(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)
Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian:
Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 22-23)
Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.
Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 11)
Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.
Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ: lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là: tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ: không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.
Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.
*
Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.
Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.
Lại thêm nghĩa bóng: mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, ‘’giáng’’ xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Đà: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.
Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than
Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị:
Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao.
(Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)
Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.
Chữ Nguồøn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là ‘’nguyên’’, là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối: con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).
Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là ‘’cái cửa khe huyền diệu’’ - ‘’huyền tẫn chi môn’’ theo lời Lão Tử. Chữ ‘’tẫn’’ Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người ‘’cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là một nghĩa’’.1
Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles)2 có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngoõ và cửa:
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua
Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác giả, hay độc giả có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973:
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Hoặc:
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Vân vân... Như đã nói: toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.
Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr. 132)
Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đãê khó hiểu hơn: một, hai, ba nghĩa là gì? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử: ‘’Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật’’; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu: không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới: đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn là, là gì? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi.
Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.
Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)
*
Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ ‘’cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng’’, các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại:
‘’Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì ‘’bông hoa rừng’’ nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm’’ 3.
Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.
Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.
Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ:
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)
Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 34)
Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo:
Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi
(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)
Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi.
Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hay Nụ Cười Sơn Cước.
Thậm chí trong thơ Đinh Hùng:
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Đời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân
(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)
Người Gái Thiên Nhiên ở Đinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nưõ, như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Đinh Hùng và nhiều tác gia khác.
Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Đinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Đinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Đinh Hùng:
‘’Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh…’’ (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).
Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau: Nguyên Thủy trong thơ Đinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo.
Đinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ:
Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
(Hờn Giận, Đường vào Tình Sử)
Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Đinh Hùng:
Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa
Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi
Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời
(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)
Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Đinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.
Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân:
Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn
Ngọn nguồn đi trên không ngọn không nguồn
Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn
Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn
Nằm giữa phố giữa trưa tôi vẽ bóng
Con chuồn chuồn cuối hạ đón đầu thu
Con châu chấu cuối thu về lóng cóng
Sắp sang đông từ giã nguyệt hư phù
(Bài thơ Hay Nhất, Chớp Biển, tr.87)
Ở đây, một năm chỉ còn lại ba mùa, vìø rừng đã thiêu rụi mùa xuân:
Em là em mọi
Xưa ở trong rừng
Nay rừng cháy hết
Em lạc ở đâu
(Tặng em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 214)
Trong chủ đề Người em Mọi, đời sống sơ nguyên, Mê Hồn Ca của Đinh Hùng không mang lại ảnh hưởng gì cho nguồn thơ Bùi Giáng lúc đó đã định hình, vững chắc, nhưng có lẽ đã vun đắp thêm vào niềm tự tin trong thi hứng của Bùi Giáng.
Trường hợp tư tưởng phương Tây, như của Heidegger, có lẽ cũng tác dụng như vậy, khi Bùi Giáng tiếp cận Heidegger. Triết gia Đức này bình luận thơ Holderlin, đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, thời Hỗn Mang (Chaos) và Định Danh (Nomos) và tính hoang dã thần thánh (sainte sauvageté) đâm chồi nảy lộc, những hoang dã linh thiêng (sauvagetés sacrées), hoang dã vụng về trong thi tập Les Titans4.
Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi – người chưa thành người:
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr. 198)
Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng u buồn, trong Sa MaÏc Trường Ca)
Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình:
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr. 86)
Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết!
Đười Ươi Thi Sĩ, nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đất Sơ Nguyên.
Thuở Uyên Nguyên ấy, là mùa Xuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người.
Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.
*
Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm, chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngày Tết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng:
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng
(Thơ Bùi Giáng, tr. 85)
Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán:
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
-"Thầy mua giúp! Đầu năm, dịp Tết"
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(...)
Hỡi Thượng Đế! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì? Cho sáng nghĩa Vô Biên?
(Chớp Biển, tr. 127-128)
Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng: khía cạnh xã hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày càng rõ nét về sau. Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ:
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
(Anh vẫn Tưởng, Bài Ca Quần Đảo, tr. 48)
Trong cảnh dân tộc điêu linh và xã hội lầm than, thì những phong tục hình thức ngày xuân trở thành vô nghĩa:
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì
(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo, tr. 44)
Trong chừng mực nào đó – xin nói rõ: trong chừng mực nào đó – Bùi Giáng thuộc về thế hệ thanh niên không có mùa xuân, mà Tạ Ký (1928-1979), một nhà thơ xuýt xoát đồng tuế và đồng hương với Bùi Giáng, gọi làThế Hệ Bốn Lăm:
Chúng tôi:
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ
Bốn lăm! bốn lăm
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng6
Có lần nhà thơ Tạ Ký mô tả làng Trung Phước quê hương mà Bùi Giáng gọi chung làCố Quận, chìm trong khói lửa:
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê6
Và ngày Tết, mùa Xuân với thế hệ ông:
Cười nghiêng núi thẳm xuân gian khổ
Khóc đứng quê xa tết dạn dày
(...) Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây6
Nhà văn Võ Phiến, trên báo Bách Khoa 1963, trong bài viết về Đỗ Tấn, cùng quê, đã mô tả thế hệ này, trong đó có mình:
"Chừng ấy biến đổi dập dồn vào một thế hệ (...) mới lớn lên đã gặp ngay cơn biến động. Trong những năm đáng lẽ nồng nhiệt hăng say nhất của đời họ, thì một niềm tin vừa nhóm lên liền bị phá vỡ, một giấc mơ vừa thành hình vội vàng bị đánh tan. Hy vọng nổ tan tành, liên tiếp, dễ như quả bóng cao su xanh đỏ của trẻ con" 5.
Dĩ nhiên đây là tâm trạng của một lớp trung niên thi sĩ, ở vào một địa phương, chúng ta không nên khái quát. Thiên hạ thiếu gì người lập thân, lập công, lập danh, lập tài sản, nhờ vào cái mà Võ Phiến gọi là "biến động", người khác gọi là Lịch Sử, và Bùi Giáng gọi là Sử Lịch.
Nhà thơ Hoàng Trúc Ly, trong lứa tuổi đó, và thân thiết với Bùi Giáng, có câu thơ được truyền tụng một thời:
Mùa Xuân còn gì thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Và Phạm Công Thiện cũng gần gũi với Bùi Giáng, năm 1964, dạy học ở Đà Lạt, có bài thơ Xuân được bạn bè yêu thích:
Mùa Xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh
Tạ Ký lúc ấy cũng dạy ở Đà Lạt, rất thích bài thơ này, nhưng bực mình khi nghe một bài hát thời thượng, phổ nhạc thơ Kim Tuấn:
Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Mùa Xuân nào nhung nhớ (...)
Ông bực vì cho là thơ xạo và xảo, vì anh làm quái gì có mùa Xuân mà cho ai, hay cho em? (dù rằng ở cõi đời này, yêu nhau có khi là cho nhau những cái mình không có).
Trong tâm trạng này, Tạ Ký có bài thơ Xuân tặng Phạm Công Thiện:
Trời mùa đông rừng núi
Đời mùa đông vô cùng
Hút thuốc trong bóng tối
Khói có bay lên không? 6
Vào thời điểm ấy, Đà Lạt 1964, Phạm Công Thiện, có đọc cho tôi nghe câu thơ mới làm:
Cô đơn về trắng sương rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Pháp, 1984: bài thơ được in lại trong một album đẹp mà anh tặng tôi. Câu thơ xưa đổi lốt:
Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Rắn: vì tác giả tuổi Tỵ (1941).
Giữa hai thoại, không biết câu nào hay hơn. Tôi kể lại chuyện này, vì thấm thoát đã tròn hai mươi năm. Và bốn mươi năm.
Đây là thời gian chúng tôi bắt đầu tiếp cận thơ Bùi Giáng.
Một mùa xuân xa...
Xa.
*
Bùi Giáng là một nghịch lý.
Ông là một tác giả hàng đầu, một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, đã sống, làm thơ và qua đời, bên lề dòng văn học chính thống. Rồi trong những điều kiện lịch sử nhất định, thơ ông được truyền tụng, truyền khẩu, tạo nên một hiện tượng xã hội và chính trị Bùi Giáng, vào ba thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi.
Tác giả Bùi Giáng, và nhà thơ Bùi Giáng đích thực, bị chen lấn giữa những huyền thoại Bùi Giáng. Và những kẻ mến yêu Bùi Giáng đầy thiện chí, đã nhiệt tình viết bài ca ngợi, càng làm rối mù thêm tọa độ của ông trên văn đàn, thêm phần tơ chỉ rối chiêm bao.
Bùi Giáng cả đời chăm chỉ đặt hai bàn chân, chân trái và chân mặt, bên lề chính trị và xã hội, nhưng đã lừng danh - phần nào đó - nhờ những điều kiện xã hội và chính trị. Đây là một nghịch lý, giới hiện sinh một thời có thể gọi là phi lý.
Bài này dĩ nhiên là không có tham vọng giải quyết nghịch lý nói trên. Nó thoạt tiên chỉ là một bài báo Xuân. Nhưng lần theo ý xuân đến thượng nguồn thơ------ Bùi Giáng, người đọc có thể tìm lại được một trong nhiều sợi tơ mành xuyên qua thi phẩm và tư tưởng Bùi Giáng.
*
Niềm xuân cố quận tê tê / Được chăng góp nhặt lời quê dông dài…
Người rằng:
Nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào.
Đặng Tiến
Orléans, Toussaint 2003
'----'-------------------------
Thơ Bùi Giáng trích từ: Mưa Nguồn, 1962; Lá Hoa Cồn, 1963; Bài Ca Quần Đảo, 1973; Thi Ca và Tư Tưởng, bản in lại 1998; Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990; Chớp Biển, 1996; Mười Hai Con Mắt, 2002; Báo Văn, Sài Gòn, 5/1973; Báo Thời Văn, TPHCM, số 19, 1997. Có câu ghi theo trí nhớ.
1 Ngô Tất Tố, Lão Tử, tr. 28, nxb Khai Trí, 1959, Saigon
2 Lao Tseu, Tao Te King, tr. 17, Nxb Declee de Brouwer, 1977, Paris
3 Thơ Điên, nhiều tác giả, tr. 80, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Điên Quấc, Saigon, 1970
4 Martin Heidegger, Approche de Holderlin, tr. 81, nxb Gallimard, 1962, Paris
5 Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, Thơ, tr. 2855, nxb Văn Nghệ, California, 1999.
6 Tạ Ký, Thơ, tr. 82, 86, 72, 30, nxb Hồng Nguyên, California, 2001.
Bùi Giáng
nguồn xuân
Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Đán
(Mưa Nguồn, tr. 164)
Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính: một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Đán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn?
Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường: mùng một, mùng hai... mùng ba, mùng bốn... Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại: mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Đán, như Nguyễn Bính năm 1940:
Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân
Nhưng nếu hiểu (đã) theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Vàøtrong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.
Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản: thơ Bùi Giáng là một ‘’dòng nước ngược’’, một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.
Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ:
Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)
Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về:
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
(Mưa Nguồn, tr. 25)
Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với môït Màu Hoa Trên Ngàn: ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy.
Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt:
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn
*
Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.
Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau: buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ: xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.
Và ý tác giả có thể ngược lại: mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một ‘’hiện tượng văn học’’ như gần đây.
Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi:
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)
Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống:
Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến
Ô thiều quang! Làn nước cũ trôi mau
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc
Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc
Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Đà Lạt,1958, Mưa Nguồn, tr. 94)
Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó.
Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi thiều quang! Làn nước cũ trôi mau…
Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ:
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi
(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)
Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn:
Nắng Nguyên Đán
Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 54)
Phong cách nhắc lại một bài thơ trước:
Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …
(Mưa Nguồn, tr. 96)
Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lấy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ mọc hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.
Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân: Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo:
Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích. (Mưa Nguồn, tr. 38-39)
Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én:
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa Nguồn, tr. 62)
Người ta thường nói: xuân về. Chữ veà tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy:
Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
(Mưa Nguồn, tr. 61)
Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì: thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì? Bờ nước ấy: ấy nào? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng... Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể:
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đãê đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)
Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn:
Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau?
Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.
Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Đông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc đôï tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến "bi kịch".
Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký: Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạch Vũ Trụ Ca của Huy Cận:
Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng: vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo Xuân, 1942)
Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề ‘’chết từ sơ ngộ’’, và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng:
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp Biển, tr. 45)
Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân:
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này
(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)
Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian:
Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 22-23)
Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.
Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 11)
Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.
Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ: lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là: tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ: không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.
Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.
*
Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.
Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.
Lại thêm nghĩa bóng: mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, ‘’giáng’’ xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Đà: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.
Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than
Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị:
Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao.
(Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)
Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.
Chữ Nguồøn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là ‘’nguyên’’, là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối: con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).
Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là ‘’cái cửa khe huyền diệu’’ - ‘’huyền tẫn chi môn’’ theo lời Lão Tử. Chữ ‘’tẫn’’ Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người ‘’cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là một nghĩa’’.1
Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles)2 có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngoõ và cửa:
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua
Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác giả, hay độc giả có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973:
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Hoặc:
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Vân vân... Như đã nói: toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.
Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr. 132)
Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đãê khó hiểu hơn: một, hai, ba nghĩa là gì? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử: ‘’Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật’’; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu: không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới: đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn là, là gì? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi.
Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.
Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)
*
Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ ‘’cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng’’, các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại:
‘’Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì ‘’bông hoa rừng’’ nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm’’ 3.
Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.
Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.
Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ:
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)
Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 34)
Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo:
Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi
(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)
Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi.
Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hay Nụ Cười Sơn Cước.
Thậm chí trong thơ Đinh Hùng:
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Đời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân
(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)
Người Gái Thiên Nhiên ở Đinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nưõ, như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Đinh Hùng và nhiều tác gia khác.
Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Đinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Đinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Đinh Hùng:
‘’Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh…’’ (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).
Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau: Nguyên Thủy trong thơ Đinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo.
Đinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ:
Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
(Hờn Giận, Đường vào Tình Sử)
Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Đinh Hùng:
Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa
Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi
Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời
(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)
Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Đinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.
Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân:
Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn
Ngọn nguồn đi trên không ngọn không nguồn
Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn
Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn
Nằm giữa phố giữa trưa tôi vẽ bóng
Con chuồn chuồn cuối hạ đón đầu thu
Con châu chấu cuối thu về lóng cóng
Sắp sang đông từ giã nguyệt hư phù
(Bài thơ Hay Nhất, Chớp Biển, tr.87)
Ở đây, một năm chỉ còn lại ba mùa, vìø rừng đã thiêu rụi mùa xuân:
Em là em mọi
Xưa ở trong rừng
Nay rừng cháy hết
Em lạc ở đâu
(Tặng em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 214)
Trong chủ đề Người em Mọi, đời sống sơ nguyên, Mê Hồn Ca của Đinh Hùng không mang lại ảnh hưởng gì cho nguồn thơ Bùi Giáng lúc đó đã định hình, vững chắc, nhưng có lẽ đã vun đắp thêm vào niềm tự tin trong thi hứng của Bùi Giáng.
Trường hợp tư tưởng phương Tây, như của Heidegger, có lẽ cũng tác dụng như vậy, khi Bùi Giáng tiếp cận Heidegger. Triết gia Đức này bình luận thơ Holderlin, đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, thời Hỗn Mang (Chaos) và Định Danh (Nomos) và tính hoang dã thần thánh (sainte sauvageté) đâm chồi nảy lộc, những hoang dã linh thiêng (sauvagetés sacrées), hoang dã vụng về trong thi tập Les Titans4.
Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi – người chưa thành người:
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr. 198)
Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng u buồn, trong Sa MaÏc Trường Ca)
Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình:
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr. 86)
Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết!
Đười Ươi Thi Sĩ, nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đất Sơ Nguyên.
Thuở Uyên Nguyên ấy, là mùa Xuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người.
Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.
*
Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm, chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngày Tết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng:
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng
(Thơ Bùi Giáng, tr. 85)
Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán:
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
-"Thầy mua giúp! Đầu năm, dịp Tết"
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(...)
Hỡi Thượng Đế! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì? Cho sáng nghĩa Vô Biên?
(Chớp Biển, tr. 127-128)
Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng: khía cạnh xã hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày càng rõ nét về sau. Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ:
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
(Anh vẫn Tưởng, Bài Ca Quần Đảo, tr. 48)
Trong cảnh dân tộc điêu linh và xã hội lầm than, thì những phong tục hình thức ngày xuân trở thành vô nghĩa:
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì
(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo, tr. 44)
Trong chừng mực nào đó – xin nói rõ: trong chừng mực nào đó – Bùi Giáng thuộc về thế hệ thanh niên không có mùa xuân, mà Tạ Ký (1928-1979), một nhà thơ xuýt xoát đồng tuế và đồng hương với Bùi Giáng, gọi làThế Hệ Bốn Lăm:
Chúng tôi:
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ
Bốn lăm! bốn lăm
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng6
Có lần nhà thơ Tạ Ký mô tả làng Trung Phước quê hương mà Bùi Giáng gọi chung làCố Quận, chìm trong khói lửa:
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê6
Và ngày Tết, mùa Xuân với thế hệ ông:
Cười nghiêng núi thẳm xuân gian khổ
Khóc đứng quê xa tết dạn dày
(...) Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây6
Nhà văn Võ Phiến, trên báo Bách Khoa 1963, trong bài viết về Đỗ Tấn, cùng quê, đã mô tả thế hệ này, trong đó có mình:
"Chừng ấy biến đổi dập dồn vào một thế hệ (...) mới lớn lên đã gặp ngay cơn biến động. Trong những năm đáng lẽ nồng nhiệt hăng say nhất của đời họ, thì một niềm tin vừa nhóm lên liền bị phá vỡ, một giấc mơ vừa thành hình vội vàng bị đánh tan. Hy vọng nổ tan tành, liên tiếp, dễ như quả bóng cao su xanh đỏ của trẻ con" 5.
Dĩ nhiên đây là tâm trạng của một lớp trung niên thi sĩ, ở vào một địa phương, chúng ta không nên khái quát. Thiên hạ thiếu gì người lập thân, lập công, lập danh, lập tài sản, nhờ vào cái mà Võ Phiến gọi là "biến động", người khác gọi là Lịch Sử, và Bùi Giáng gọi là Sử Lịch.
Nhà thơ Hoàng Trúc Ly, trong lứa tuổi đó, và thân thiết với Bùi Giáng, có câu thơ được truyền tụng một thời:
Mùa Xuân còn gì thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Và Phạm Công Thiện cũng gần gũi với Bùi Giáng, năm 1964, dạy học ở Đà Lạt, có bài thơ Xuân được bạn bè yêu thích:
Mùa Xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh
Tạ Ký lúc ấy cũng dạy ở Đà Lạt, rất thích bài thơ này, nhưng bực mình khi nghe một bài hát thời thượng, phổ nhạc thơ Kim Tuấn:
Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Mùa Xuân nào nhung nhớ (...)
Ông bực vì cho là thơ xạo và xảo, vì anh làm quái gì có mùa Xuân mà cho ai, hay cho em? (dù rằng ở cõi đời này, yêu nhau có khi là cho nhau những cái mình không có).
Trong tâm trạng này, Tạ Ký có bài thơ Xuân tặng Phạm Công Thiện:
Trời mùa đông rừng núi
Đời mùa đông vô cùng
Hút thuốc trong bóng tối
Khói có bay lên không? 6
Vào thời điểm ấy, Đà Lạt 1964, Phạm Công Thiện, có đọc cho tôi nghe câu thơ mới làm:
Cô đơn về trắng sương rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Pháp, 1984: bài thơ được in lại trong một album đẹp mà anh tặng tôi. Câu thơ xưa đổi lốt:
Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Rắn: vì tác giả tuổi Tỵ (1941).
Giữa hai thoại, không biết câu nào hay hơn. Tôi kể lại chuyện này, vì thấm thoát đã tròn hai mươi năm. Và bốn mươi năm.
Đây là thời gian chúng tôi bắt đầu tiếp cận thơ Bùi Giáng.
Một mùa xuân xa...
Xa.
*
Bùi Giáng là một nghịch lý.
Ông là một tác giả hàng đầu, một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, đã sống, làm thơ và qua đời, bên lề dòng văn học chính thống. Rồi trong những điều kiện lịch sử nhất định, thơ ông được truyền tụng, truyền khẩu, tạo nên một hiện tượng xã hội và chính trị Bùi Giáng, vào ba thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi.
Tác giả Bùi Giáng, và nhà thơ Bùi Giáng đích thực, bị chen lấn giữa những huyền thoại Bùi Giáng. Và những kẻ mến yêu Bùi Giáng đầy thiện chí, đã nhiệt tình viết bài ca ngợi, càng làm rối mù thêm tọa độ của ông trên văn đàn, thêm phần tơ chỉ rối chiêm bao.
Bùi Giáng cả đời chăm chỉ đặt hai bàn chân, chân trái và chân mặt, bên lề chính trị và xã hội, nhưng đã lừng danh - phần nào đó - nhờ những điều kiện xã hội và chính trị. Đây là một nghịch lý, giới hiện sinh một thời có thể gọi là phi lý.
Bài này dĩ nhiên là không có tham vọng giải quyết nghịch lý nói trên. Nó thoạt tiên chỉ là một bài báo Xuân. Nhưng lần theo ý xuân đến thượng nguồn thơ------ Bùi Giáng, người đọc có thể tìm lại được một trong nhiều sợi tơ mành xuyên qua thi phẩm và tư tưởng Bùi Giáng.
*
Niềm xuân cố quận tê tê / Được chăng góp nhặt lời quê dông dài…
Người rằng:
Nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào.
Đặng Tiến
Orléans, Toussaint 2003
'----'-------------------------
Thơ Bùi Giáng trích từ: Mưa Nguồn, 1962; Lá Hoa Cồn, 1963; Bài Ca Quần Đảo, 1973; Thi Ca và Tư Tưởng, bản in lại 1998; Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990; Chớp Biển, 1996; Mười Hai Con Mắt, 2002; Báo Văn, Sài Gòn, 5/1973; Báo Thời Văn, TPHCM, số 19, 1997. Có câu ghi theo trí nhớ.
1 Ngô Tất Tố, Lão Tử, tr. 28, nxb Khai Trí, 1959, Saigon
2 Lao Tseu, Tao Te King, tr. 17, Nxb Declee de Brouwer, 1977, Paris
3 Thơ Điên, nhiều tác giả, tr. 80, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Điên Quấc, Saigon, 1970
4 Martin Heidegger, Approche de Holderlin, tr. 81, nxb Gallimard, 1962, Paris
5 Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, Thơ, tr. 2855, nxb Văn Nghệ, California, 1999.
6 Tạ Ký, Thơ, tr. 82, 86, 72, 30, nxb Hồng Nguyên, California, 2001.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)