VỆ TUỆ
Mạch Nha chuyển ngữ
Cục cưng Thượng Hải
trích tiểu thuyết Shanghai Baby
Lời dịch giả:Cục Cưng Thượng Hải - xâm phạm húy kỵ, thổi thả khiêu khích, độc tính cao - vừa chào đời đã bị tịch thâu, tiêu hủy không thương tiếc ngay tại quê hương tác giả.
Ðề tựa cho cuốn tiểu thuyết, Vệ Tuệ tự nhận đây là một bán tự truyện, trong đó cô mượn hình ảnh Coco, một thiếu nữ sống như thể ngày mai ta không còn thấy nhau kể lại cuộc tình nước - lửa với hai người đàn ông. Một bên là bạn tình Trung Hoa đớn đuối, bất lực; bên kia, nhân tình từ trời Tây tối hảo.
Lấy Thượng Hải làm nền, xác thân làm nguyên liệu, Vệ Tuệ sử dụng lối viết trực tuyến, hỏi – đáp tắp lự, cốt muốn phát biểu. Cô đã phát biểu hết sức minh bạch cảm nhận của bản thân về cuộc sống mà cụ thể ở đây là sự phân cân giữa hai giá trị Ðông – Tây, kết quả chênh lệch ngay những trang đầu. Trẻ trung, xinh đẹp và biển trào. Khát sống, khát tình, khát tự do. Càng bị phủ lấp, cô càng muốn chòi nhú, hơn thế nữa, mãn khai.
Trong một thời gian rất ngắn, Vệ Tuệ chẳng những trở thành hiện tượng quốc gia mà còn được phương Tây kể tên khi liệt kê các nữ văn sỹ trẻ hàng đầu thế giới hôm nay. Cũng bởi, cho đến bây giờ, chưa một nhà văn nào ‘‘quậy bạo’’ như cô tại Hoa Lục. Mà cô nào viết gì lạ lẫm! Tâm tình tuổi trẻ ở đâu, bao giờ chẳng thế: thích khám phá, ham bay nhảy. Chỉ có điều, là một thiếu nữ da vàng, nói toẹt ra những điều ấy, kiểu ấy thì chỉ có từ chết đến bị thương.
Lý do: Vệ Tuệ đã biểu cảm vô cùng xác thực thời đại mình đang sống, giữa một lục địa vừa thức giấc, vừa tái khám phá Tây Phương kể từ chiến tranh Nha Phiến. Một thế hệ thanh niên Trung Hoa không còn biết đến cách mạng văn hoá nhưng muốn thoả mãn cơn khát thế giới. Thành công trước hết của Vệ Tuệ là đã ghi lại đời sống đô thị hậu Cộng Sản.
Cục Cưng Thượng Hải được chuyển ngữ từ bản dịch Pháp văn Shanghai Baby của Cora Whist, Nxb Philippe Piquier.
Tương ngộ
Dora bảo: «Sanh con đi!»
Mẹ và Betsy bảo: «Tìm việc phước thiện mà làm, đi giúp người nghèo khó, tật nguyền, không thì giành thời giờ cho các công tác môi sinh ấy». Vẫn biết, việc tốt muốn làm đầy khối ra, cả một thế giới để mà khám phá. Thế nhưng, hiện tại, chỉ có mỗi một chuyện là quan trọng đối với tôi, tìm người tình mới!
Joni Mitchell
Tôi tên Ni Ke, bạn bè gọi là Coco (vì tôi rất mê Coco Chanel, người phụ nữ Pháp lẫy lừng, qua đời ở tuổi chín mươi, thần tượng thứ hai của tôi, sau Henry Miller.)
Mỗi sáng thức dậy, tôi tự hỏi hôm nay sẽ làm gì cho nổi đình nổi đám. Tham vọng duy nhất của tôi, ý nghĩa duy nhất khiến tôi thấy cuộc đời đáng sống: Bay bốc lêngiữa bầu trời thành phốvà tóe nổ như một quả pháo hoa rực rỡ.
Sống ở Thượng Hải là rất hay. Sương mù, lời ong tiếng ve, cùng với tính tự tôn vĩnh cửu của dân Thượng Hải từ Thời Vàng Son[1]muôn đời bao trùm thành phố. Cái tính khí ấy áp đặt lên tôi, một đứa con gái son trẻ, mẫn cảm và kiêu hãnh. Vừa yêu quý, tôi vừa căm ghét nó.
Gì thì gì, tôi chỉ mới hai mươi lăm. Năm ngoái, vừa cho ra lò một cuốn tiểu thuyết. Lỗ chỏng gọng, bù lại cũng câu được ít nhiều danh tiếng (độc giả phái mạnh viết thư và gửi cho những tấm ảnh rất «máu»). Ba tháng trước, tôi bỏ quách chân phóng viên tạp chí để đi làm tiếp viên váy cũn tại quán bar Ludi.
Có một thanh niên to vóc, đẹp người thường hay ghé quán. Ngồi hết sáng này qua sáng nọ, một tách cà phê, đọc, đọc và đọc. Tôi ngắm không sót từng điệu bộ, cử chỉ của chàng. Thừa biết được kết độ nhưng hắnkhông mở lời. Rồi một hôm, tự dưng chìa ra mảnh giấy ghi «Yêu em», tên và địa chỉ. Bằng bí quyết gì, chàng trai kém tôi một tuổi này (hắn tuổi Mão) chinh phục được tôi dễ dàng như vậy? Hắn đẹp. Một vẻ đẹp được tác tạo từ chứng chán đời kinh niên và nỗi khát tình mãn tính.
Hai chúng tôi là hai cá thể bề ngoài hoàn toàn tương phản. Tôi, tham vọng bát ngát, sinh lực ngút ngàn, thế gian là quả ngọt trái thơm chỉ mong được cắn cho ngập răng. Hắn, trầm mặc và sầu muộn, nhìn đời như cái bánh rắc thạch tín, ăn một miếng ngộ độc một miếng. Ấy vậy mà, hai tính cách khác nhau một trời một vực ấy, như hai cực từ trường, lại khiến chúng tôi hút phụt vào nhau. Yêu nhau ngon lành.
Vừa mới quen, Thiên Thiên đã quyết định kể tôi nghe chuyện gia đình. Bà mẹ sống ở Cadix, một thành phố nhỏ tận bên Tây Ban Nha, với một gã đàn ông bản xứ. Bà mở nhà hàng đặc sản, bán tôm hùm và hoành thánh, kiếm được bộn tiền.
Ông bố mất sớm, bất đắc kỳ tử trong một kỳ nghỉ mát ngắn hạn của gia đình bên cái xứ Y Pha Nho ấy. Giấy báo tử ghi: «Nhồi máu cơ tim». Hài cốt được di hương bằng máy bay vận tải McDonnell, và hình ảnh bà nội đứng chực tại phi trường dưới cái nắng điên người, nhỏ thó, đẫm lệ, kể từ đó không rời khỏitâm trí anh nữa.
- Với nội, đó là một án mạng. Ba chưa bao giờ đau tim. Và vì mẹ lăng nhăng với người khác nên rõ ràng đó là một vụ mưu sát.
Thiên Thiên cứ chằm chằm khảo tôi:
- Em có tin thế không? Anh chưa bao giờ hiểu được sự thật nó là như thế nào. Có thể nội không sai… Ngặt cái, hàng năm mẹ vẫn đều đăïn gửi tiền về, khá lắm, và anh sống bằng số tiền đó.
Anh nhìn tôi, thở hắt. Tôi bị câu chuyện khác thường của anh cuốn hút. Con người tôi vốn dễ mủi lòng trước những chuyện lâm ly bi đát. Thời còn theo học Hán văn tại đại học Phục Ðán, Thượng Hải, tôi muốn trở thành một tiểu thuyết gia chuyên trị truyện tình cảm. Ðiềm dữ, khúc mắc, ung xơ, đâm chém, sân si, độc dược, điên loạn, trăng sao, từng là những đề tài được tôi xào nấu kỹ lưỡng.
Âu yếm, tôi đưa mắt ngắm Thiên Thiên, đẹp đẽ dường vậy, mong manh dường vậy… và tôi nghĩ mình đã hiểu vì sao anh bị khủng hoảng.
- Cái bóng tử thần theo thời gian cứ dày mãi lên, mà vách kính phân ngăn hiện tại với quá khứ của anh thì mãn đời trong suốt.
Nghe tôi nói, mắt anh đẫm ướt, hai tay co quặp.
- Anh đã tìm thấy em, quyết định sẽ tin tưởng và chung sống với em. Nhưng cưng ơi, đừng chỉ vì tò mò mà sống với anh nhé, anh không thích bị em bỏ rơi quá sớm đâu.
Tôi dọn đến ở với Thiên Thiên, vùng ngoại ô phía tây thành phố.
Căn hộ ba buồng rộng rãi, bài trí giản dị nhưng tiện nghi. Một trường kỷ Ikea bọc vải bày dọc tường. Một dương cầm hiệu Strauss. Bên trên treo bức tranh tự họa - một gương mặt gút nước.
Thú thật, tôi không cảm cái khu này mấy. Ðường xá xuống cấp. Hai bên đường, nhà cửa tồi tàn chật hẹp chen chúc nhau, bảng quảng cáo hoen rỉ, rác rưởi hôi thối chất bãi chất đồng, trạm điện thoại mưa xuống nước ngập không thua gì tàu Titanic.
Từ cửa sổ trông ra, chẳng có lấy một bóng cây, không nam thanh nữ tú, chẳng trời xanh, không ngày mai.
Thiên Thiên vẫn nói tương lai là một cuộc mai phục giăng ngay giữa não bộ chúng ta đây. Sau cái chết của ông bố, anh rơi vào tình trạng cấm khẩu hoàn toàn. Dạo ấy, đang học lớp chín, anh quyết định thôi ngang. Lớn lên trong cô đơn, anh sống cứ hư hư vô vô. Bản năng từ khước thế giới bên ngoài, phân nửa đời sống diễn ra trên giường. Ðọc sách, xem phim, hút thuốc, trầm tư mặc tưởng về sự sống và cái chết, hưũ hình và siêu hình, nối mạng, chơi games và ngủ. Thời giờ còn lại, anh vẽ tranh, đi rong với tôi, ăn uống, mua sắm, lang thang từ thư viện qua cửa hàng băng đĩa, lê la cà phê cà pháo, ra ngân hàng và khi cần thì phóng cái phong bì xanh dương xinh xinh của nhà bưu điện cho bà mẹ.
Anh ít khi đi thăm nội. Nhà nội, dạo anh còn tạm trú, giống cái ổ chuột hôi hám bẩn thỉu. Nội sống toòng teng, cõi lòng tan nát, thần xác xạm xịt, thần hồn lơ lửng. Ám ảnh không nguôi bởi cái chết đứa con trai bên Tây Ban Nha. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, bà vẫn rúc trong cái hóc bò tó cũ kỹ ấy, rấm rứt khổ đau, không thôi nguyền rủa con dâu, nguyền rủa số phận.
Sáng thứ bảy, trời tuyệt đẹp, nhiệt độ lý tưởng. Tôi trở dậy lúc tám giờ rưỡi đúng. Cạnh bên, Thiên Thiên hé mắt. Hai đứa nhìn nhau, hôn nhau trong thinh lặng. Nụ hôn bình minh dịu mềm như cá lượn. Ðó là thứ chúng tôi trao nhau lúc đầu ngày, cũng là cách thức ái ân duy nhất và… chỉ vậy.
Thiên Thiên bị kẹt đạn trên chiến trường chăn gối. Tôi nghĩ ít nhiều do thảm kịch gia đình. Nhớ lần đầu ôm anh và nhận ra vấn nạn, tôi đã thất vọng cùng cực, thậm chí đã tự hỏi liệu có tiếp tục chung sống với anh hay không.
Anh không vào nổi. Cứ câm tịt nhìn tôi, toàn thân buốt lạnh mồ hôi. Ðó là lần đầu tiên trong đời, ở quá tuổi hai mươi, anh động tay vào đàn bà.
Từ đại học, mớ «lý thuyết về Sex» đã ảnh hưởng đến quan niệm sống của tôi, dù bây giờ, với nhiều việc, tôi đã có cái nhìn khác xưa.
Ðối với nam giới, tốt máy hay không là vấn đề sống chết. Một tí trục trặc cũng có thể khiến người đàn ông đau khổ không chịu được. Thiên Thiên khóc, tôi khóc. Suốt đêm, hai đứa nằm hôn hít, vuốt xoa, rủ rỉ rù rì. Tôi đã vội yêu ngay từng mân mê êm ái, từng nụ hôn mềm mại như cà rem tan trên đầu lưỡi ấy. Với anh, lần đầu tiên tôi hiểu nụ hôn tiềm ẩn linh hồn và lóng lánh sắc màu.
Như một chú cá heo bé bỏng, trìu mến chân thành, anh chinh phục trái tim tôi hoang đàng chi địa. Các khoản khác, rên la và tột khoái, tự ái và cực điểm, tất thảy, trong thoáng chốc thật không còn quan trọng.
Trong «Ðời nhẹ khôn kham»[2], Milan Kundera nói về tình yêu rất đúng: «Tình yêu không phát sinh từ ham muốn làm tình - ham muốn này nhắm đến chán vạn phụ nữ. Tình yêu chỉ phát sinh từ ham muốn chung giấc - ham muốn ấy chỉ hướng về một phụ nữ duy nhất.»
Tôi không nghĩ có ngày bản thân lâm vào tình cảnh này. Nhưng rồi, những chuyện xảy ra sau đó cùng với sự xuất hiện của một người đàn ông khác trong đời đã giúp tôi ngộ ra.
Chín giờ. Thiên Thiên chui vào bồn tắm. Tôi đốt điếu thuốc đầu ngày và chuẩn bị bữa ăn sáng trong gian bếp nhỏ gồm bánh ngô, sữa và trứng. Bên ngoài, nắng ram vàng phố. Những buổi sáng mùa hè thơ mộng như vậy thơm ngon như kẹo mật. Thư giãn, tôi lắng nghe tiếng nước chảy trong buồng tắm.
- Anh có cùng đến đằng Ludi với em không?
Vừa hỏi, tôi vừa bước vào không gian mù mịt hơi nước kia với bát sữa trên tay. Nhắm mắt, Thiên Thiên quai miệng ngáp, như cá.
- Coco, anh có chuyện này muốn nói, anh thấp giọng.
- Chuyện gì?
Tôi kê bát sữa sát vào môi cho anh hớp một ngụm.
- Em bỏ việc đi.
- Rồi làm gì sống?
- Mình đủ tiền xài mà, em nên ở nhà viết tiểu thuyết hơn là cứ nhọc xác ngoài quán.
ý tưởng này đã lởn vởn trong đầu Thiên Thiên từ lâu, anh muốn tôi viết được một cuốn truyện khuấy động văn đàn. Ở tiệm sách bây giờ chỉ toàn những cuốn đến lật bìa cũng chẳng buồn. Rặt chuyện bịa đặt, chán ốm người.
- Từ từ rồi tính. Em muốn làm ở quán thêm ít lâu nữa. Ðó là một chốt quan sát. Biết bao nhiêu loại người hay ho ghé qua đó.
- Tùy em, anh lầm bầm.
«Tùy em» là câu nói cửa miệng của chàng. Tuy để tôi quyết định, Thiên Thiên không đóng hồ sơ.
Hai đứa cùng điểm tâm, xong tôi lo sửa soạn. Ðóng bộ «Ban Mai Xinh Tươi», tôi chộn rộn tới tới lui lui, cuối cùng quảy chiếc xắc da báo, nhổ rễ.
Ngồi trên trường kỷ, với lấy một cuốn sách, Thiên Thiên liếc xéo qua tôi: «Anh sẽ gọi em.»
Thành phố giờ cao điểm. Người, xe đủ loại giao nhập vào nhau. Dòng sống cuộn chảy, cuốn hút vào nó sân si vô hình cùng vô số bí mật. Mặt trời đổ lên phố xá, rọi sáng rừng cao ốc nối đất với trời. Tất cả những sáng chế điên loạn của loài người cùng với ba cái trò tầm phào bá láp của đời sống thường nhật giống như hằng hà sa số bụi bậm đong đưa trong không khí, làm nên mớ đề tài nhàm tẻ của kỷ nguyên công nghiệp.
Tân phố
[…]
Ðối với Thiên Thiên, những kẻ không bình thường, những người bị nhốt trong nhà thương điên là đáng kính hơn cả. Xã hội cho họ bất thường vì không hiểu được kiểu thông minh của họ. Cái đẹp duy nhất đáng kể trong mắt anh là cái đẹp liên can đến bệnh não, tuyệt vọng, thậm chí tội lỗi. Anh hay dẫn: Dostoievski động kinh, Van Gogh tự xẻo tai, Dali bất lực, Allen Ginsberg đồng tính, với cả những người bị xem là gián điệp cộng sản được người Mỹ gài vào trong thời chiến tranh lạnh. Và còn, tiểu thư Farmer, minh tinh màn bạc bị cắt mất tiểu não, ngôi sao nhạc pop Ái Nhĩ Lan Gavin Friday với cách trang điểm quái đản, Henry Miller trong những ngày tháng đói nghèo đã phải chực trước cửa nhà hàng xin vét đĩa, tựa cột đèn ngửa tay ăn mày vé tàu điện ngầm. Tất cả đều là những tuyệt mẫu cuồng ngông, tràn trề sức sống, đã ra đi như từng đến bên đời.
Ðêm mềm.
Tựa vào nhau, hai đứa đổ bộ dọc đại lộ Hòa Hải. Ánh đèn, bóng cây, mái nhà kiểu gothique của thương xá Paris - Le Printemps cùng những bước chân uể oải của lữ khách trong trang phục mùa thu tan cả vào trong đêm Thượng Hải. Thành phố ngan ngát hương phù hoa phiếm lệ. Tôi hít thở những làn hương vô hình ấy như đang nhấm nháp thứ rượu được cất bằng châu ngọc. Cố quên đi cảm giác thù ghét cái xã hội kỳ thị người trẻ để đi lút vào lòng phố như con giòi xâm đục sâu tận cái lõi của một quả táo lớn.
Nghĩ vậy thấy lòng hăng hái hẳn lên. Tôi kéo người yêu nhún nhảy ngay trên đường.
- Lại lãng mạn đột xuất rồi, còn dễ sợ hơn một cơn viêm phúc mạc, Thiên Thiên thì thầm vào tai tôi.
- Ðấy là bản Nhàn Du Paris, điệu fox-trot ruột của em đó, tôi thổ lộ, hết sức nghiêm trang.
Khách qua đường kín đáo đưa mắt nhìn chúng tôi.
Hai đứa tà tà đổ bộ về khu Bund. Ðúng là một góc Thiên đường. Theo mật lộ, leo hẳn lên mái khách sạn Hoà Bình. (Phải mượn ngã cửa mái buồng vệ sinh nữ, luồn theo cầu thang cấp cưú, đã thử nhiều phen, chưa bao giờ bị phát hiện).
Từ đỉnh mái, chúng tôi ngồi ngắm những cao ốc sáng trưng dọc hai bên dòng Hoàng Phổ. Ngọc Phương Ðông, niềm tự hào Thượng Hải được mệnh danh «Á Châu Ðệï Nhất Tháp» trông chẳng khác con cu bằng thép dài ngoằng đang chĩa thẳng lên trời, bằng chứng hiển nhiên của một thành phố sùng bái sự truyền giống.
Ðây ngọn sóng con phà, đây bãi cỏ xanh u, đây ánh đèn sáng choang, đây công trình tuyệt tác. Thành phố phô bày phồn hoa, sản phẩm của nền văn minh vật chất đầy kích thích. Con người thì… sống chết mặc bay. Ông có chầu trời vì tai nạn xe cộ, bà có quy tiên do chứng bệnh nan y, bóng phố xa hoa có một không hai kia vẫn cứtồn tại như vô lượng tinh cầu mãi xoay tròn.
Tôi bỗng thấy mình chẳng qua cũng nhỏ nhoi vô nghĩa như con ong cái kiến. Tuy vậy, ý nghĩ đó không làm hỏng mất cái thú được thượngï ngay trên đỉnh toà công thự chứng tích của quá khứ. Trong tiếng nhạc văng vẳng của nhóm jazzmen già, hai đứa phóng mắt đi khắp xa thành phố. Ở nơi khuất cách, cho nhau tình.
Tôi thích được lơi lả phong phanh, trong đêm, khi ngọn gió Hoàng Phổ ẩm ướt lùa ngang da thịt. Con người tôi hình như cũng «hơi» lẳng lơ rửng mỡ, thèm khoe thích phơi, khoái dục ham dâm, ưa bày trò chế món. Mà phải chi như thế có thể khiến Thiên Thiên động tình.
- Ðừng vậy, anh ngoảnh mặt van vỉ.
Tôi tiếp tục cởi bỏ áo quần như một vũ nữ thoát y chuyên nghiệp. Da thịt bung từng cánh đài xanh, cảm giác khinh khoáikhiến mình bỗng chốc quên hẳn dung nhan, nhân cách, bản sắc mình, tâm thân dồn cả vào việc sáng tạo ra huyền thoại bí ẩn, huyền thoại của một đứa con gái và thằng con trai mà nó yêu thương.
Thằng con trai ngồi tựa lan can, vừa thích thú vừa khổ sở, vừa buồn bã vừa biết ơn. Nó nhìn đứa con gái nhảy múa dưới ánh trăng. Lấp lóa cánh thiên nga, sung mãn sức beo báo. Khi chụm khi chồm, khi tít quay, mỗi xoắn xoay của loài miêu nữ đều toát ra vẻ yêu kiều mang nọcđộc, thổi bùng lên cơn hỏa dục cao áp nhất.
- Thử đi, đến đây với em, ôm em đi, thử lại đi anh.
- Không được, không được, thằng con trai rúm người đáp.
- Thế thì em nhảy vào khoảng không nhé? Ðứa con gái tay bấu lan can, miệng cười ha hả. Thằng con trai chộp lấy người yêu, hôn hôn hít hít. Thèm muốn tả tơi không lối thoát. Tình yêu tạo phép màu, gây ảo ảnh nơi thịt da không sao đón bắt được, nơi âm thần săn đuổi những linh hồn chiến bại nhưng vẫn tở mở reo hò. Tất cả như bụi, ào ào thổi vả, bóp nghẹt hai đứa.
Ba giờ sáng. Tôi nằm co như một cái phôitrên chiếc giường mênh mông mịn. Sát bên, Thiên Thiên ngủ, hay chỉ vờ thế. Căn buồng tĩnh mịch lạ thường. Bức tự họa lơ lửng trên dương cầm. Một gương mặt không chút khiếm khuyết. Làm sao có thể cầm lòng trước một dung diện như thế? Tâm hồn mang nặng tình yêu không thôi cấu cào da thịt.
Nằm cạnh người thương, tôi lại thêmmột lần đưa tay lần xuống cửa mình, rồi cất cánh chao bay vào vũng lầy hoan lạc. Tội lỗi và trừng phạt từ đây đeo ám.
Mộng mị
Gái ngoan lên thiên đàng, gái hư hồn phách lạc.
Jim Steinman
Phụ nữ chọn nghề văn thường là để tạo dựng chỗ đứng trong một xã hội do đàn ông cai quản.
Erica Jong
Tôi là ai? Với ba mẹ, một con ranh bất hiếu bất mục(mới lên năm đã nhông ra đường, trên tay cây kẹo mút) ; Với các thầy cô giáo, các vị sếp và đồng nghiệp cũ, một kẻ tâm thần bất định (riêng mình rành rẽ món mình: Mưa nắng thất thường, xem phim đọc truyện bao giờ cũng đoán trước đoạn kết) ; Với bọn đàn ông con trai, một nụ xuân xinh (mắt to như mắt mấy đứa con gái trong phim hoạt họa Nhật, cổ dài như Coco Chanel). Còn với chính tôi, tôi chẳng là cái thá gì, dù cho một ngày nào đó, tôi rất có thể sẽ « bị » nổi tiếng.
Cố tôi vẫn nói: «Số phận con người ta cũng như sợi dây diều, một đầu dưới đất, đầu kia trên mây. Dưới này hay trên ấy, chạy trời không khỏi nắng.» Cụ còn nói: «Ðời người, khúc nào đáng sống?»
Cố người nhỏ nhắn, tóc trắng phau, giống như một cuộn chỉ trắng, quanh năm suốt tháng ngồi đong đưa trên ghế đu. Như có tài tiên tri, cụ từng dự báo trận động đất cấp 3 ở Thượng Hải năm 1987. Li kì hơn nữa, cụ báo ngày chết của mình cho gia đình biết ba ngày trước khi mất. Ảnh cụ luôn được treo ở nhà ba mẹ. Mọi người tin có cụ theo phù hộ. Cũng lời cụ, tôi sẽ trở thành một nhà văn tài hoa. Này Thiên Khôi Thiên Việt, này Văn Xương Văn Khúc, này Tam Thai Bát Tọa tam hợp mệnh, bụng dạ đầy chữ, rồi có ngày tên treo đầu bảng.
Ở đại học, tôi thường viết thư cho những người trong mộng. Bao nhiêu đam mê dồn cả vào chữ nghĩa, tôi không tin mình không thành công.
Ở tòa soạn, tôi viết lách theo chỉ đạo. Tình tiết éo le, lời lẽ cầu kỳ, biến hiện thực thành viễn tưởng và ngược lại.
Chừng nhận ra mình đang lãng phí tài năng, tôi bỏ béng công việc dù thù lao rất khá. Thế là hy vọng cuối cùng ba mẹ đặt vào tôi tiêu tan. Phải nói là dạo đó, ba tôi đã phải chọc trời khuấy đất để tôi có được một công việc ngon cơm như thế.
- Mày có còn là đứa con gái do mẹ sinh ra không? Chẳng giương móng thì xù gai. Tại sao cứ phải phức tạp thế nhỉ?
Mẹ tôi người vốn yêu kiều, thanh tú nhưng rồi hao mòn cùng năm tháng, cả đời cứ lo chắm chúi ủi áo cho chồng và loay hoay làm sao cho con cái được sung sướng. Bà phản đối quan hệ tình dục trước hôn nhân, không chịu nổi chuyện tôi khoác trên người ba cái thứ áo thun bó sát, không xú chiêng, cốt phô đầu vú.
- Có ngày con sẽ hiểu, điều quan trọng nhất ở đời chính là sự bình ổn. Eileen Chang đã chẳng nói đó sao: «Bình yên là nền tảng đời sống con người.», ba điểm huyệt, ông thừa biết tôi mê Eileen (nhà văn Trung Hoa, 1920 – 1995, người gốc Thượng Hải, di dân sang Mỹ).
Ba dạy sử tại đại học. Lỗi lạc, đậm người, thích xì gà, khoái trò chuyệnvới giới trẻ. Bao giờ ông cũng cưng chiều tôi hết mực. Mới lên ba, tôi đã được ông dạy cách thưởng thức opéra, những vở như «Nàng Du Mục». Ông cứ lo, lớn lên, con gái ông sẽ bị mấy thằng cha cà chớn làm hại. Ông bảo tôi là báu vật của ông, rằng tôi phải cẩn thận với bọn người khác phái mới được, đừng bao giờ thèm nhỏ lệ vì chúng.
Ðáp lời ba, tôi nói: «Ba với con cảm nhận mọi việc không giống nhau. Giữa chúng ta có cái hố cách ngăn to tướng, thôi thì hãy tôn trọng nhau, đừng áp đặt nhau. Ðừng tốn nước bọt vô ích. Con năm nay hai mươi lăm và con sẽ trở thành nhà văn, cho dù cái nghề này đã lỗi thời. Con sẽ dồn sức cho văn chương – văn chương thời đại, văn chương thời thượng.»
Gặp Thiên Thiên, tôi quyết định bỏ nhà ra đi. Chuyện động trời.
Mẹ, rụng rời trước lời lẽ con gái, thể như phải đấm giữa mặt, gần như thét lên:
- Mày chẳng bao giờ biết vâng lời. Thôi muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi cho khuất mắt. Mẹ coi như chưa từng đẻ ra mày…
Ba:
- Con làm mẹ con đau khổ và ba rúng động. Con gái con đứa như vậy, có ngày rồi vỡ mặt. Con từng bảo gia đình thằng đó không giống ai, con từng kể ba nó chết bí hiểm lạ lùng, làm sao con biết được nó có đàng hoàng hay không, có đáng để cho con trông cậy?
- Xin tin tưởng con. Con biết con đang làm gì.
Vừa trả lời ba, tôi vừa thu xếp bàn chải, áo quần, đĩa nhạc và sách vở.
[ … ]
Ðôi tay tôi vung vẩy hắt bóng lên khoảng tường trước mặt. Khúc nến cùn dần trên chiếc bàn nhỏ, nơi Thiên Thiên và tôi ngồi chơi ca-rô.
- Bọn người tài giỏi nhưng mang mầm mống phạm pháp trong đầu còn tệ hại hơn chó dại. Chúng có khả năng cướp nhà băng bằng máy điện toán, phá hủy máy bay và tàu thủy bằng bom điện tử, giết người bằng dao vô hình. Tai họa tày đình cỡ nào chúng cũng chơi được, kể cả việc gieo rắc dịch tả. Nếu như 1999 là năm tận thế, anh bảo đảm với em, cũng là tác phẩm của bọn xuất chúng này.
- Em thua rồi! Anh tới này! Thiên Thiên nghiêm mặt nhắc tôi.
- Trí thông minh và máu điên đều là thiên bẩm, không nên dùng những cái vốn trời cho ấy để tư lợi (tới giờ tôi mở máy). Cũng bởi cứ ham thủ lợi mà những kẻ thông minh mới thường gặp phiền toái hơn các anh đần. Ðộ này, không khí đằng Ludi oải quá. Ðến nỗi người này chớp mắt kẻ khác cũng nghe! Cứ u u ám ám, tịch mịch tờ mờ làm sao ấy.
- Vậy thì nghỉ quách đi, ở nhà mà viết văn, Thiên Thiên nói với vẻ hài lòng.
Anh luôn phát âm từ «nhà» một cách hết sức tự nhiên. Bốn căn buồng ngập ngụa mùi quả thối, tàn thuốc lá, nước hoa Pháp, rượu bia, bầy hầy sách vở, đĩa hát, một góc nhỏ – nơi trôi giạtnhững mơ mòng bất tận, khắn khằn bám vào da thịt chúng tôi như lớp sương mù phả ra từ đám rừng ma thiêng nước độc, một làn hơi vĩnh cửu, không cách gì xua đuổi được. Cái cõi mịt mờ này còn tiền định và hiện thực hơn cả cănnhà. Nơi đây không có tình máu mủ ruột rà nhưng từng chứng kiến nhiều díu dan khăng khít, kết se từ tình yêu, tâm hồn, niềm vui, linh cảm, uy lực quyến rũ, những chuyến đi không đích đến và còn bao nhiêu điều khác nữa.
Về nhà, đã đến lúc phải bắt tay vào việc: Cuốn tiểu thuyết của tôi. Văn chương đem ta đến những đỉnh mơ và khát vọng yêu đương. Ta viết nên những câu chuyện đẹp đẽ toàn hảo. Ta động não đưa ra hàng tá vấn đề, tình tiết, cao trào và hóa giải. Ta vất vả khiêu khích ham mê và, cũng giống như bọn pop-stars càng ngày càng rậm đám, ta ngất ngưởng trên đài danh vọng, cất giọng đàn ca hát xướng.
Những ý nghĩ trên bỗng xâm chiếm đầu óc tôi. Thiên Thiên muốn tôi hứa sẽ gọi Lão Dươngngay ngày mai để xin thôi việc.
- Ðược thôi.
Bỏ việc, đá ai đó, đánh mất một món đồ, tất cả những thất thoát này đối với tôi chỉ là trò chơi trẻ con, một khi đã nhắm tới một cái đích khác, tôi sẽ luôn giữ được thế công và sức bật.
- Ngay lần đầu nhìn thấy em ở Ludi, anh đã biết em có văn tài, Thiên Thiên tán. Em có cái nhìn phức tạp, một giọng nói đầy xúc cảm, đôi mắt không thôi quan sát khách hàng, hơn nữa, anh có nghe thấy đoạn đối thoại giữa em với đồng nghiệp về thuyết hiện sinh cùng ba cái trò phù thủy.
Tôi khẽ xiết anh. Những lời lẽ mơn trớn mê hồn đó, chưa có người đàn ông nào biết nói với tôi. Rất nhiều lần, nghe anh nói, nhìn vào mắt môi anh, tôi cảm thấy phần bụng dưới trào lên làn sóng ấm, ướt mèm tại chỗ. Hôn lên trái tai anh, tôi năn nỉ:
- Rồi sao nữa? Anh nói đi, nói nữa cho em nghe đi.
- Rồi sao nữa? …Em là một con người khó dò. Thế nhưng, có lẽ tất cả các nhà văn đều là nạn nhân của nhân cách đúp… có nghĩa là, không đáng tin cậy.
Kinh ngạc, tôi rời tai Thiên Thiên. «Anh lo ngạichuyện gì?»
Lắc đầu. «Anh yêu em», nói rồi Thiên Thiên ôm lấy tôi, ngả đầu lên vai. Nghe từng sợi mi anh lắt lay nơi hẻm cổ, tôi chìm sâu vào âu yếm nhung mềm. Tay trên người nhau, trực diện, chúng tôi nhìn phản ảnh mình trong gương mắt đối, long lanh bóngnước.
Màu da tươi thắm của hai đứa chìm dần vào bóng tối. Thiên Thiên ngủ, người cong chữ S cho tôi ráp tôi vào, đầu nặng trĩu. Anh níu lấy tôi, thật lạ, bằng tất cả sự ngoan cố và yếu đuối. Bỗng không, tôi thấy mình có trách nhiệm với anh, đồng thời lại cứ như mơ, vắng xa vời vợi.
[…]
Một đêm, tôi dâm mộng. Thấy mình trần truồng trong tay một gã đàn ông bịt mắt. Tứ chi quấn quíu, quằn quại vòi bạch tuột. Ôm nhau nhảy. Mấy sợi lông tơ vàng óng của bạn tình kích thích tôi đến nổi da gà. Rồi khúc jazz buồn dấu yêu chấm dứt, tôi tỉnh giấc.
Cảm thấy hơi xấu hổ vì giấc mơ. Rồi thắc mắc. Thiên Thiên linh cảm điều gì vậy? Anh để tâm đến tác phẩm của tôi còn hơn chính tôi lo cho nó. Kể cũng phiền.
Viết lách liệu có là một liều thuốc kích dục mạnh mẽ, khơi dậy những can hệ khó hiểu và hữu hạn trong tình yêu? Liệu nó có là kẻ thừa hành? Một ân hưởng? Hay ngược hẳn lại… Ai biết được? Trực diện với tất cả những sân si của mình, con người phải lựa chọn. Có khi chọn đúng, có khi không.
Vẩn vơ, tôi quay qua, quàng tay ôm Thiên Thiên. Vừa thức, chạm phải da mặt tôi ẩm ướt nhưng anh không hỏi gì, chỉ lẳng lặng lướt tay yêu khắp lối. Chẳng ai bày mà với kỹ thuật kinh người cuả một kiếm sĩ tài ba, anh đẩy tôi lên mây. Hồn tôi hoa nở. Ðừng khóc. Ðừng nói chuyện chia lìa, tôi muốn bay, chỉ muốn bay đến tận cùng đỉnh đêm. Ðời sống ngắn ngủi đến đau đớn mà những khoảnh khắc tươi đẹp thì vụt một cái đã mất bay mất biến. Ngăn tôi làm gì, để tôi say…
Ngoại nhân
Madonna mời chúng tôi đến dự buổi dạ tiệc hoài niệm mang chủ đề «Hồi sinh đại lộ Joffre». Từ những năm 30, đại lộ Joffre lừng danh, đường Hòa Hải bây giờ, là biểu tượng cho giấc mộng tây phương.
Trong bầu không khí hậu thuộc địa cuối thế kỷ này, con đường gắn liền với những năm tháng vinh thăng tà xườn xám, vinh thăng loại bích chương quảng cáo phô bày các mỹ nhân một thời, vinh thăng xe kéo và nhạc jazz. Nó cuốn hút trở lại sự chú ý của dân chúng như chiếc nơ bươm bướm gắn ngay giữa niềm cảm hoài Thượng Hải.
Thiên Thiên chịu đi cùng tôi dù trong người không mấy phấn chấn. Vậy đó, hai đứa gần như lúc nào cũng bám dính vào nhau, như đôi song sinh, người này là chiếc bóng kẻ kia.
Tôi diện xườn xám còn anh mặc áo dài cổ truyền, cả hai đều được đặt may vừa khít người. Ðang đón thang máy, chúng tôi nghe ai đó ới váng từ xa: «Chờ với!». Thiên Thiên giữ cửa thang. Một thằng Tây lực lưỡng sực nức mùi Calvin Klein ba chân bốn cẳng chạy đến.
Ánh sáng xanh xao trong thang máy hắt xuống yếu ớt. Tôi bị o ép giữa hai người đàn ông. Các con số chỉ tầng nhảy từng nấc một. Trong vài giây im ắng, cứ tưởng như mình bị mất trọng lượng. Ðưa mắt liếc vội cái thằng cha đang ngơ ngơ nghểnh nghểnh kia. Cực kỳ khêu gợi! Ðiệu bộ dân chơi thứ thiệt.
Cửa thang mở, mùi thuốc lá lẫn với mùi gì nồng nồng như mùi cầm thú đón chúng tôi ngay ngưỡng cửa. Cây sào di độngmỉm cười mời tôi bước ra trước. Cùng Thiên Thiên, tôi đi ngang qua tấm bảng nhựa chỉ đại lộ Joffre, đưa tay vén bức màn nhung nặng chịch. Trước mặt chúng tôi, cả một biển người muôn màu muôn sắc đang nhảy nhót với thứ nhạc đồi trụy xưa lắc xưa lơ.
Rực rỡ như thủy sinh lấp lánh lân tinh dưới đáy đại dương, Madonna nhào đến mừng chúng tôi, nhấp nhoá hào quang 2000 oát.
- Ðến rồi hả, mấy cưng… Trời! Mark, khỏe không? Vừa hỏi, đôi tay Madonna vừa dang rộng đón thằng cha cao ngất đứng phía sau.
- Này, đến cả đây, giới thiệu nhé, Mark từ Berlin, còn đây là Thiên Thiên và Coco, bạn rất thân. Coco là nhà văn đấy.
Mark lịch sự chìa tay: «Chào em!». Cánh tay hắn lợp lông, khô, mềm, hay hay. Thiên Thiên chưa chi đã quẳêng người lên đệm kỷ, đốt thuốc, mắt nhìn đâu đố ai biết được.
[…]
Mark mấy lần đưa mắt kín đáo nhìn tôi. Sau một thoáng do dự, hắn bước tới mời: «Em muốn nhảy không?» Tôi liếc qua góc ghế. Thiên Thiên đang cắm cúi vấn thuốc. Trên mình anh lúc nào cũng có một túi ny lông nhỏ đựng vài gam bồ đà. Trước khi chìm đắm vào không gian giam tù đầy nghĩa này lý nọ, bao giờ anh cũng hút những thứ thuốc đó. Tôi thở dài, buông: «Ði!».
Chiếc máy hát rè rè phát ra giọng ca vàng của Châu Xuyên với Khúc Ca Bốn Mùa. Giọng hát dù nhẽo nhão vì chất lượng đĩa nhựa tồi tệ vẫn đầy quyến rũ. Hai mắt lim dim, Mark có vẻ thích thúlắm. Còn Thiên Thiên, cuộn mình giữa lòng ghế tổ chảng, cũng đã khép mắt. Rượu đỏ ghém bồ đà, choáng là cái chắc. Anh hẳn đã ngủ khò. Anh lúc nào cũng ngủ như một đứa bé giữa những chốn ồn ã nhất, nơi ảo mộng trùng phùng ảo giác.
- Phiêu diêu? Mark bất chợt hỏi tôi bằng thứ tiếng Anh nặng giọng Ðức.
- Hở? …Tôi ngơ ngác.
Trong bóng tối, cặp mắt hắn sáng rực như mắt thú ẩn giữa lớp lông rậm khiến tôi điếng dại. Hắn diện kẻng từ đầu tới gót. Với mái tóc chải vừa đủ keo, trông hắn như một chiếc ô mới cáo cạnh. Từ đôi mắt phóng đãng phát ra hấp lực nhân cách, bừng bừng sức sống. Ðôi mắt đích thực của một người đàn ông da trắng.
- Ơ…đang lo nhìn anh bạn.
- Hình như chàng của em ngáo rồi, vừa nói hắn vừa tủm ta tủm tỉm.
Tôi thắc mắc:
- Funny dữ vậy sao?
- Em chắc cầu toàn lắm hả? Hắn vặn ngược.
- Ai mà biết! Làm sao hiểu hết được mình. Tại sao?
- Cách em nhảy làm anh nghĩ vậy.
Mark tỏ rõ hắn là một tay bén nhạy và tự tin. Tôi cười khểnh.
Nhạc chuyển. Chúng tôi đổi qua nhảy fox-trot kiểu jazz. Nhung, lụa, vải hoa, màu xanh đồng phục sinh viên chắp ghép vào nhau, tạo nên bức cổ họa tuyệt mỹ. Chúng tôi bị cuốn dần vào cơn lốc hoan lạc.
Nhạc dứt, mọi người rời sàn nhảy, tôi trở về chỗ cũ, ghế gộ trống không. Thiên Thiên biến đi đâu mất tiêu. Madonna cũng không còn ở đó.
Ðộng
[…]
Con trai của mẹ, con có khỏe không? Trong thư trước, con bảo đang sống với một cô bạn gái nhưng lại không kể gì về cô ấy cả – Thư con viết bao giờ cũng kiệm lời! Luôn vắng tin con – Tuy nhiên, mẹ đoán là con yêu cô ấy lắm. Mẹ biết con mẹ không bao giờ vô cớ gắn bó với ai. Quả là như vậy, cuối cùng, con đã tìm được bạn tình.
…Ngày đầu tháng tới đây, mẹ tái giá, dĩ nhiên với dượng Juan. Sống với nhau đã lâu, dượng và mẹ nghĩ rằng có thể tiếp tục một cách tốt đẹp. Công việc làm ăn ở nhà hàng vẫn rất chạy. Chẳng ai tin được, dượng và mẹ đang tính mở một tiệm ăn ở Thượng Hải, chỉ nay mai đây thôi, bán đặc sản Tây Ban Nha. Mẹ nóng lòng gặp lại con dù không hiểu vì sao con không thích qua Tây Ban Nha và vì sao con lại nghi ngại mẹ. Có cái gì đó ngăn trở hai mẹ con ta, nhưng thời gian trôi nhanh quá, mới đây đã mưòi năm. Con đã lớn và dù gì đi nữa, vẫn là con trai yêu quý của mẹ.
- Vậy có nghĩa là cuối cùng mẹ anh và anh sắp gặp được nhau rồi. Trong vòng mười năm, cả hai mẹ con đều không tìm cách gặp nhau. Kể cũng lạ, tôi liếc nhìn Thiên Thiên – mặt mày đang tái me tái mét. Em không tưởng tượng ra nổi lần tái ngộ tới đây sẽ như thế nào.
- Anh không muốn mẹ đến Thượng Hải, vừa nói Thiên Thiên vừa ngã người xuống chiếc gối mềm. Anh mở to mắt nhìn lên trần nhà trắng toát, màu trắng hút mắt vào khoảng không bất tận.
[…]
Lá thư thứ hai là của Mark. Trong phong bì có hai thiệp mời với vài chữ đính kèm: Tối hôm trước, em đã cho anh một ấn tượng vô cùng đặc biệt. Mong gặp lại.
Tôi huơ hai tấm thiệp trước mặt Thiên Thiên.
- Mình đi xem triển lãm nhé, tên Ðức giữ lời hứa đây này.
- Anh không đi. Em đi một mình đi, Thiên Thiên nhắm mắt đáp, rõ ràng không vui.
- Gì kỳ vậy? Anh thích xem triển lãm lắm mà! Tôi ngạc nhiên.
Không sai, Thiên Thiên thường hay quảy máy ảnh đi đó đi đây xem đủ mọi loại triển lãm, từ tranh ảnh đến tượng, bút họa. Anh đến cả các hội chợ sách, đồ nội thất, xe cộ, cây cảnh, thiết bị công nghiệp… Người ta mọt sách, còn đây mọt… hội chợ triển lãm! Anh thích loanh quanh giữa mớ tạp nhạp toàn những thứ quái gở. Ðó là cách anh nhìn đời, và như bác sĩ tâm lý Vũ Ðại Vệ phân tích, những người hướng nội cũng chính là những kẻ ưa dòm ngó.
- Tôi không thích đến đó, anh đột ngột cất giọng, mắt nhìn thẳng vào mắt tôi. Rồi anh hỏi bằng một giọng mai mỉa: Thằng Ðức này vẫn quen thói đi o bế bạn gái người khác như vậy đó hả?
Tôi đáp trả, chẳng kém chua cay: « Ủa, anh thấy vậy sao? »
Những tình huống như thế này hiếm khi xảy ra giữa chúng tôi. Khi ngờ vực, mắt Thiên Thiên trở nên lạnh như tiền. Tròng trắng lấn tròng đen, trông dễ sợ. Tôi phản pháo chỉ bởi tôi bị điểm huyệt. Ðúng vậy, anh vừa dí tay chỉ trúng nhược điểm tôi.
Lặng im. Thiên Thiên câm như hến, bỏ đi vào buồng bên. Tấm lưng anh không ngớt nhắc nhở: «Ðừng tưởng tôi ngốc nhé. Các người đã dán vào nhau nhảy nhót nguyên đêm, đã thế, hắn lại còn mò tận lên đây.»
Ðến lượt tôi nín thinh.
Cuốn
Ðến ngày, tôi đi xem triển lãm một mình. Khách tham quan đến viện bảo tàng theo đoàn. Xanh đỏ tím vàng lũ la lũ lượt chuyển dịch dưới những ánh spot phòng tranh. Giàu, nghèo, ốm yếu, khỏe mạnh, nghệï sĩ, vô công rỗi nghề, ta, tây, thôi thì đủ cả. Tôi nhìn thấy Mark trước một bức tranh mang tên Chữ U Biến Dạng. Hắn đứng đó, cường, tráng, tóc hoe vàng. «Hi! Coco!» vừa chào hắn vừa đặït tay lên lưng tôi, hôn kiểu Pháp, ôm kiểu ý, hồ hởi ra mặt.
- Anh bạn em không đến à?
Tôi lắc đầu cười cười, vờ chăm chú xem tranh. Mang mùi nước hoa phương xa trên người, hắn tò tò đi theo tôi như ráp bóng. Kiểu cách thản nhiên như không của hắn khiến tôi chột dạ, bọn thợ săn cũng hay có thái độ như thế trước một con mồi lớn. Nghĩ vậy, đâm chột dạ, bao nhiêu tranh ảnh bỗng nhòe nhoẹt sắc màu, hỗn độn đường nét, như một mớ bòng bong. Khách viếng càng lúc càng đông. Hai chúng tôi dính sát vào nhau. Tay hắn, chẳng biết từ lúc nào đã quàng ngang eo ếch. Thình lình, tôi nhìn thấy hai gương mặt rất quen. Ðầu kia, ngay bức tranh thứ ba bên trái, Madonna và Dick nổi bật giữa đám đông. Cả hai lộng lẫy như ông hoàng bà chúa. Mắt kính gọng mảnh hợp thời trang, tóc đánh rối đúng kiểu cách… Hết hồn, tôi lẩn ngay vào nhóm người đi ngược chiều. Mark theo tôi bén gót. Bàn tay hắn dán trên hông mà cứ tưởng như gọng kềm bỏng rãy, cực kỳ nguy hiểm.
Sự xuất hiện bất ngờ của đôi trai gái gợi tình kia đột ngột khơi dậy trong tôi thèm muốn được nhảy dù. Ðã hẳn, dây dù em quàng sẵn từ khuya.
- Hình như Madonna với cha bồ kià, Mark nói, kèm theo nụ cười ám muội nhưng quyến rũ.
- Thấy rồi! Dông thôi! Tôi bật đèn xanh, không chút lập lờ.
Trống lệnh chưa dứt, quân tướng đã ào ào xung trận. Như tên đạo chích chính cống đang thụt két, hắn lôi tôi ra khỏi viện bảo tàng, quẳng xoạch vào trong chiếc Buick. Quá phê vì cử chỉ thô bạo, tôi sút dây cương.
Giá như lúc đó, còn làm chủ được mình, tôi nên lánh xa hắn ra, chuồn khỏi chiếc Buick bóng nhoáng. Sự việc chắc sẽ diễn ra khác đi. Nhưng tôi đã không giữ gìn, mà thật ra tôi có định giữ gìn cái quái gì đâu. Hai mươi lăm tuổi đời, miễn bảo trọng. Lời Dali: Nên hay không, con người chưa bao giờ chùng tay trước bất cứ điều gì.
Trợn mắt nhìn thằng đàn ông đang đáp dần xuống mình, tôi phát giác căn hộ thênh thang u ắng chứa đựng nhiều món đồ vô danh này phảng phất dị hương.
Hắn hôn môi tôi xong ngẩng đầu cười:
- Uống chút gì nhé?
Như con nít, tôi gật lia lịa. Thân lạnh, môi buốt, làm một ly cho dễ chịu. Có rượu hâm, tôi sẽ nồng nàn.
Hắn rời giường, trần như nhộng, tiến tới tủ rượu lấp lánh gương, lôi ra chai rum, rót đầy hai ly.
Cạnh tủ rượu dựng dàn máy hát. Mark đút đĩa vào máy, và tôi nhận ra ngay những khúc nhạc của Tô Châu. Một nữ nghệ sỹ không mấy nổi danh, hát thứ nhạc bằng tiếng địa phương êm êm. Tôi nghe lời không ra nhưng lòng thấy lâng lâng kỳ lạ.
Hắn trờ tới. «Thích không?» Thấy tôi ngập ngừng, hắn trao ly rượu: « Không có gì tuyệt hơn là làm tình với thứ nhạc huyền bí này. » Tôi mắc nghẹn, ho sặc sụa. Hắn vuốt lưng cho. Một thoáng buồn phớt ngang nụ cười đàng điếm.
Thêm một nụ hôn mượt mà khai vị. Chẳng nóng nảy, không vội vàng, thứ từ tốn làm tăng cường độ cơn thèm. Lông Mark mịn màng, lấp lánh như muôn ngàn sợi nắng li ti âu yếm nhấm nháp tôi. Chiếc lưỡi đầm đìa rượu rà nghịch cặp chồi hồng rồi từ từ nam hạ... Cái đằm do rượu mang đến pha với hơi ấm mềm mại của lưỡi đẩy tôi ra khơi. Dâm thủy trào, mũi thuyền lướt tới. Súng ống đại cồ, đau.
- Ðừng! Ðừng! Không được đâu! Tôi hét.
Hắn cứ tiếp tục không thương tiếc, buốt nhói đong đưa, tròng trà tròng trành. Tôi mở mắt nhìn hắn, nửa căm thù nửa mê mẩn. Thân thể hắn lõa lồ khoe trọn màu da ngà nắng dọi, càng nhìn càng hứng. Tôi thả trí tưởng tượng đi rong, thấy trước mặt mình là thằng Nhật-nhĩ-man mắt xanh hung dữ trong bộ quân phục quốc xã, áo da, giày ống. Phăng tưởng có tí thế mà da thịt đã căng nống lên. Chợt nhớ Sylvia Plath, nhà thơ, tự sát bằng cách đút đầu vào lò nướng:
Ðàn bà cứ hay mê phát xít
Thích phải đòn, thích bạo, thích thô
Bạo thô như tim ẩn trong mình
Khép mi, lắng nghe Mark rên. Hắn phun ra hai ba câu nhăng nhít gì đấy bằng tiếng Ðức, hồ như tôi đã nghe qua trong những giấc mơ của mình. Trúng tâm điểm. Tôi như chết rồi, thầm nhủ bây giờ thây kệ, hắn muốn bao nhiêu thì bấy nhiêu. Tới. Kết quả của trận cày bao sân và một lượng bạo dâm vừa đủ. Tiếng tôi rống thét.
Hắn nằm vật ra, đầu đè cả lên tóc tôi. Phô thân giữa gối chăn, chúng tôi làm một điếu. Khói phả đúng lúc khỏa lấp khoảng trống phía trước, cho chúng tôi khỏi phải nói năng gì. Có những lúc như vậy, chẳng thiết động tịnh, chỉ muốn được lẩn trốn sau bức bình phong tĩnh lặng – hàng rào bảo an.
- Sao em? Từ trong khói, tiếng nói hắn ló ra, mong manh, đơn điệu.
Ghì quấn. Áp vào nhau, hai đứa như cặp chìa khóa si tình, tỏa ra thứ ánh sáng kim loại băng lạnh. Ðôi tay to kềnh của Mark ngơi nghỉ trên đồi ngực tôi.
Kiệt sức, tôi cất tiếng:
- Em muốn về.
Hôn lên trái tai tôi, hắn bảo:
- Ðể anh đưa đi.
- Khỏi. Em tự lo được, giọng tôi yếu ớt nhưng cương quyết.
Thế nhưng, lúc mặc quần áo, lòng tôi tan tác như sụp đổ tới nơi. Sốt hấp và tột đỉnh đều đã đủ mặt. Hết phim, khán giả lần lượt ra về, bỏ lại sau lưng tiếng ghế va vập. Tiếng chân đi, tiếng ho khàn. Bao nhiêu nhân vật, tình tiết, âm giai đã biến mất khỏi màn ảnh. Gương mặt Thiên Thiên hiện lên ám ảnh, tôi chẳng cách gì lý giải được.
Không thèm để ý đến tên kia (cũng đang cùng động tác), tôi lo tròng đồ thật nhanh. Cái tướng đàn ông lúc mặc vào bao giờ trông cũng xấu hơn khi cởi ra. Tôi chắc các bà các cô đều công nhận như vậy.
«Lần đầu cũng là lần cuối.» Tôi tự nhủ dù không tự tin lắm. Cái kiểu hứa hão thế nàychỉ có giá trị tức thời. Dốc hết can đảm, tôi rời bỏ căn hộ xinh đẹp đầy quyến rũ. Sau cửa kính tắc xi, Mark ra dấu cho tôi, ý bảo sẽ phôn. Tôi cười nhểnh. «Biết đâu đấy… » Chiếc xe lao đi như đào thoát.
Quên không đem theo tấm gương nhỏ, tôi soi tạm vào kính xe. Mặt mũi kỳ quặc, sượng sùng chõng chõi. Nặn câu đầu tiên sẽ nói với Thiên Thiên. «Buổi triển lãm không đến nỗi nào. Em gặp nhiều người lắm. Có cả Mark, đương nhiên… »
Ðàn bà bẩm sinh điêu toa, huống hồ chi những lúc đang hai tay bắt cá. Tình huống càng phức tạp, xảo trá càng tinh vi. Chưa biết nói đã biết dối cơ mà. Thuở bé, có lần đánh vỡ chiếc bình cổ đắt tiền, tôi đổ ngay cho con mèo.
Khổ nỗi, tôi lại không tài nào phét lác trước đôi mắt trong ngần của Thiên Thiên. Phải làm sao đây?
Sải chân dọc hành lang tăm tối. Mùi hành phi và thịt ram bốc lên thơm lừng từ bếp nhà hàng xóm. Ðã là giờ cơm chiều. Mở cửa, bật đèn, kinh ngạc. Thiên Thiên không có ở nhà. Chẳng một chữ để lại trên bàn.
Ngồi phịch xuống trường kỷ. Ðưa mắt nhìn manh quần thun đen rũ dài theo cặp giò thuôn thõn. Có sợi tóc xoăn vàng sót trên gối trái. Tóc Ðức. Lóng lánh lẻ loi. Lại nhớ Mark, lúc ấy, đầu hắn từ từ cúi xuống, sà lên ngực… Hỏa thiêu sợi tóc bằng đầu thuốc. Còn lại nhúm tro tàn. Mệt nhoài. Cơn đại hồng thủy tàn khốc có sức càn quét cả địa cầu vừa cuốn phứa tôi đi. Bây giờ là bình yên, bây giờ là điềm lặng. Ngã người ra ghế, hai tay chắp lên ngực như nữ tu đang cầu nguyện hay thi thể đã vào cõi vĩnh hằng. Tôi ngủ thiếp.
Bay
Tôi không có ý định làm hiền nội.
Elizabeth Taylor
[… ]
Lập thu. Khí trời khô mát, thoang thoảng mùi xăng và thuốc lá. Bên xuất bản gọi điện hối:
- Viết tới đâu rồi?
- Triển vọng lắm. Có lẽ em cần một dịch vụ, chị ạ.
- Dịch vụ gì đây?
- Một dịch vụ có thể giúp em thực hiện mơ ước và tránh tình trạng tác phẩm bị phăng teo như lần trước.
- Nói rõ hơn xem nào.
- Mơ ước của em cũng chính là mơ ước của những phụ nữ thông minh và tham vọng thời nay. Cuốn tiểu thuyết mới này, em viết là viết cho họ. Phải tổ chức một vòng quảng bá toàn quốc. Em sẽ xuất hiện trong trang phục đen hở hang, đeo mặt nạ cổ quái. Sách thì xé vụn ra, rải khắp mặt đất và nhân quần sẽ dẫm đạp lên đó trong mộtvũ điệu cuồng nhiệt.
- Trời đất! Khùng gì khùng dữ vậy cô em!
- Khả thi mà chị… tôi đáp để phản đối tiếng cười chị ta.
Thế giới văn chương thật ra chẳng có gì đẹp đẽ cả. Nó cũng giống như thế giới võ lâm của Kim Dung. Tốt, xấu đủ cả. Bọn người chọn con đường cầm cân nẩy mực, khoác cái vẻ bề trên, lạilà những kẻ tố người không nương tay.
- …Chỉ cần có tiền và có tài.
- Thôi được. Sắp tới có một buổi sinh hoạt văn học. Trong số người đến dự, có một cô bé lớn hơn em một chút, cô nàng lấy một nhà phê bình nổi tiếng và tận dụng triệt để từng sợi tóc vãi trên sàn nhà của lão phu quân để lấy hứng sáng tác. Không phải thứ vừa. Em nên đến dự. Biết đâu có lợi.
Nói rồi, chị ta cho tôi tên nhà hàng và bảo chị sẽ rán đến.
Tôi rủ Thiên Thiên cùng đi nhưng chàng giả điếc. Phải nói là Thiên kinh đám văn sĩ.
Loay hoay vắt óc chọn trang phục. Trong tủ áo của tôi có hai loại quần áo. Loại thứ nhất trai gái gì bận cũng được, thùng thình, màu nhã, mặc vào trông như vừa bước ra từ một bức tranh thời trung cổ. Loại thứ hai bó sát người, hơi điệu đàng, kiểu các vai James Bond girls thường diện. Bốc thăm, chọn 007.
Quét một lớp son tím, đi màu mắt cùng tông. Thêm cái xắc da báo, thế là hoàn hảo, tôi biến thành cô híp pi của thập niên 60 - thứ thời trang đang rộ lên ầm ĩ trong một vài giới tại Thượng Hải lúc này.
Thằng cha tài xế tắc xi chở tôi đi lòng vòng lèo vèo. Chả mới vô nghề có mấy hôm nên hễ sai một ly, đi luôn một dặm. Quanh quẩn một hồi lại trở về chỗ cũ. Bản thân tôi đường hướng cũng chẳng hơn ai, thế là chỉ biết ngoác mồm hét inh ỏi. Rút cuộc cả hai cùng phát cáu. Nhìn cái công tơ cứ nhảy số liên tục, tôi dọa: «Tôi sẽ kiện chú.» Im re. Tôi lớn tiếng hơn:
- Chú đang làm tổn hại quyền lợi khách hàng.
- Ðược rồi, chị Hai, bất quá tôi không tính tiền chị.
- Ê, dừng lại đây đi!
Chúng tôi vừa chạy ngang một dãy đèn đuốc và cửa kiếng trông rất quen, đàng sau các ô cửa ấy thấp thoáng những mái đầu vàng óng.
- Ừ, chỗ này. Cho tôi xuống đây.
Thấy cái ngữ này khó lòng mò ra nơi mình cần đến, tôi đổi ý, hủy bỏ cuộc họp với đám nhà văn. Thôi thì đi vui vẻ đằng bar của Kenny một tị, quán AD ( Âm Dương ).
Quán AD có hai tầng. Xuôi hết cầu thang là xuống tới vũ trường ở tầng hầm. Không khí sôi nổi. Một hoà quyện tuyệt vời của hơi men, nước dãi, nước hoa, đô la và xác thịt. Cứ ngỡ như đang ở Broadway. Tôi nhận ra Christophe Lee, anh chàng DJ người Hồng Kông mà tôi rất mến mộ. Ðang bận tay xào đĩa, trông thấy tôi, hắn nhăn nhăn cái mặt diễu.
Ðến đây là để nghe house, trip-hop, techno-danse cho máu sôi da bỏng, cho thịt xẻ xương phanh. Ðã đời cơm nguội! Giây phút ngụp ngập lẩn sâu giữa chảo người cuồng nhiệt, đại não tiểu não gì cũng đều nhứ nhừ rúng động, chính là giây phút tuyệt kỳ thú ở đời.
Trong cái động này, nhan nhản những anh tây mắt xanh mũi lõ và các em xẩm phô bày nào rốn nào tóc – mái tóc huyền phương đông, cốt để chài khách. Tất cả các em - yuppies[3] quốc tếhay thiếu nữ con nhà lành, có bằng cấp lận lưng hẳn hòi - đều có vẻ thập thành. Có cô thậm chí từng du học nước ngoài, tự lái xe hơi riêng và giữ vai trò quản lý trong các hãng sở. Các cô là tinh hoa của nữ giới Thượng Hải bao gồm tám triệu công dân. Trên sàn nhảy, cô nào cũng có vẻ đáng đáng ngờ như cô nấy. Bên trong những cái đầu đó, chứa gì?
Trong số, hẳn không thiếu gái làng chơi chuyên nghiệp quốc tế. Có thể nhận diện các em này qua mái tóc siêu dài (bọn ngoại quỷ một khi đã nếm qua mùi Nhất Dạ Ðế Vương thường kháo nhau về những mái tóc này). Loại gái này thường thạo vài ba câu tiếng Anh như one hundred for hand job, two hundreds for blow job, three hundreds for quickie, five hundreds for one night (xào khô một trăm, xào ướt hai trăm, ăn xổi ba trăm, bao đêm năm trăm). Hễ nhắm được đối tượng rồi, các em ưỡn lưỡi liếm môi, cực kỳ khiêu gợi (cứ như đang xem một cuốn phim ăn khách mang tên Những Bờ Môi Trung Hoa, kể về các cuộc phiêu lưu tình ái của đám khách phương Tây trong hằng hà sa số những quán bar tại Thượng Hải. Mới đầu vô là cận cảnh lưỡi trườn trên môi, môi bảy món: mọng, thanh, thâm, bạc, đỏ, tím, bôi trét thứ sản phẩm rẻ tiền hay tô điểm bằng Lancôme, CD… Ðể cho đàn lũ các chị em Thượng Hải mỹ miều ta thủ vai, bảo đảm ăn đứt Chinese Box của Hollywood với Củng Lợi và Jeremy Irons, lọt vào 15 phim top).
[…]
Không còn biết mình đang ở đâu nữa. Mùi bồ đà (hay xì gà) nồng nặc tràn ngập khắp nơi đã tìm được chỗ bám trên vùng tóc tôi, bên phải, phía dưới. Chưa chi, bằng lối nhảy của mình, tôi đã lôi kéo được sự chú ý của ít nhất một anh trai. Uốn uốn éo éo, như ái phi ở chốn cấm cung hay Méduse - con nữ quái đầu xù tóc rắn. Bọn đàn ông đâu đó trong đời cũng có lúc mơ được làm tình với quỷ cái, xong, để mặc cho nó hủy hoại mình đi. Chẳng có đấy sao, giống bò cạp cái mang nọc độc, sau trận mây mưa, không nương tay tàn sát bạn tình?
Rốn tôi xỏ khoen bạc lấp lánh, trong ánh sáng dịu êm, trông như một bông hoa độc hại mọc trên thân xác. Bàn tay ai đó vừa đặt lên người tôi, khoảng eo trần. Ai, đối với tôi, giờ khắc này không quan trọng. Vui vẻ tươi cười, tôi quay lại. Mark! Là Mark, măng mởn mời mọc. Mark, bằng xương bằng thịt!
Hắn chồm tới, dí mặt vào mặt. Hơi thở hôi hổi phà theo nhịp nhạc. Kiểu này chắc đã vào mấy ly James-Bon rồi. Không nghe rõ hắn nói gì nhưng tôi hiểu hắn thèm mình, tại đây, ngay lập tức. Tôi nhìn hắn, hơi bối rối.
- Ở đây? Như … vầy?
Chúng tôi vào buồng vệ sinh nữ ở lầu một. Dơ hày. Tiếng nhạc giờ chỉ còn văng vẳng. Cơ thể tôi từ từ hạ nhiệt. Mắt mở không ra, vẫn cố chặn được bàn tay Mark lại. Cất giọng đáy mồ của một kẻ mộng du, tôi hỏi hắn:
- Làm gì vậy?
- Làm tình.
Không có câu trả lời nào hay hơn. Mặt hắn không lộ chút tà ý. Ngược lại, đôi mắt xanh đầy vẻ chân thành đang phát ra những làn sóng êm ái như điệu nhạc Thiên Nga của Saint-Saens. Chỉ có Trời mới hiểu, cách gì, trong cái cầu tiêu công cộng hôi rình, hai con người này lại có thể chết thèm nhau đến thế.
- Bẩn thỉu quá! Cứ như đầu đường xó chợ… như bọn tử tù chính hiệu không bằng… tôi làu bàu.
- Ít ra, bọn công an không mò vào tận đây. Tin anh đi, chỗ này là nhất.
Hệt một tên vô lại đang mót tháo, hắn ép tôi vào tường, giở váy. Cởi xoẹt cái quần lót CK của tôi ra, vò viên, nhét vào túi quần sau của hắn, nhấc bổng tôi lên, đếch thèm nói tiếng nào, xuống cối, chuẩn xác đẹp mắt. Tôi chẳng thấy gì hơn ngoài cảm giác đang ngồi phải lửa, chết bỏng, nguy hiểm.
- Ðồ chó! Tôi văng tục không kềm giữ, thả tao xuống ngay! Không ra làm sao cả! Thấy mình giống con khỉ cái đang bị trưng mẫu trên tường.
Mark nhìn tôi xâu xỏ, hừng hực nhưng miệng vẫn ngậm tăm. Chúng tôi đổi tư thế. Hắn ngồi xuống bàn cầu, tôi cưỡi lên trên. Tha hồ xoay chuyển, cốt sao lái được vào nhạy địa. Có người gõ cửa. Bên trong, đôi trai gian gái dâm vẫn chưa xong chuyện.
Khoái cảm tột đỉnh tiêu phèo, trong tôi chỉ còn lo sợ và khó chịu. Nhưng rồi một đợt kích mới lại đến, đẩy chúng tôi lên tít cao, dữ dội hơn khi nãy mặc cái mùi buồn nôn và tư thế bất tiện. Ðột ngột, hắn đẩy tôi ra, giựt cầu. Một đống phân trôi theo dòng nước xoáy.
Tôi khóc òa. Tất cả vượt quá sức chịu đựng, tôi đâm hoang mang. Mình chẳng bén gót bọn con gái lành nghề dưới kia. Chúng nó ít ra còn có lương tâm nghề nghiệp chính cống và cứ việc phây phây hành nghề. Còn mình, khi không rơi vào một tình cảnh hết sức chật vật, buộc mình phải tự dữ dội đấu đá với chính mình. Kinh khủng hơn nữa, trong suốt quá trình, tôi vẫn liên tục động não rặn chữ nặn câu. Không dám đối diện với bóng hình mình trong tấm gương WC mờ xỉn nữa. Có cái gì đó lại vừa tuột chảy khỏi tôi. Lỗ đen.
Mark dang tay.
- Tha lỗi cho anh! Sorry, sorry… rối ra rối rít, hắn vừa xin lỗi vừa ôm ghì lấy tôi như đang ôm một hài nhi chết yểu. Kết quả, tôi càng khó chịu hơn.
Rứt mình ra khỏi Mark, tôi lấy lại cái quần lót trong túi quần hắn, xỏ vào, xong kéo váy lại cho thẳng thớm.
- Anh không hiếp tôi. Chẳng ai hiếp tôi được. Cho nên câm đi. Ðừng có «Sorry Sorry» như thế, tục lắm. Tôi khóc vì thấy mình gớm ghiếc quá. Tôi cần khóc, hiểu không?
- Nhưng em đâu có xấu, Mark nói, nghiêm chỉnh đúng vẻ Ðức. Tôi phá ra cười.
- ý em muốn nói là tới ngày tận số, chắc em sẽ chết chẳng yên lành. Bởi em chỉ là một con bé hư thân mất nết, mà lại thích mình như vậy mới chết chứ. Ngặt, trời cao kia không ưa thứ đàn bà con gái như thế.
Lảm nhảm một hơi, tôi lại khóc.
- Không đâu, không đâu, em yêu, em không biết được anh trân trọng em đến mức nào. Thật mà Coco, càng ngày anh càng quý em.
Ánh mắt Mark da diết. Dưới ánh sáng của nhà cầu, sự dịu dàng vô bờ bến ấy hoá thành nỗi buồn vô tận. Chúng tôi xiết lấy nhau và, lại lên cơn.
Có người gõ cửa. Rõ cáu. Tôi sợ xanh mặt. Mark ra dấu bảo im rồi hôn tôi, tỉnh bơ. Tiếng chân bỏ đi xa dần. Tôi đẩy hắn ra.
- Ðừng gặp nhau nữa.
- Hữu duyên tương ngộ. Em thừa biết, Thượng Hải chẳng lớn gì.
Chúng tôi gấp rút ra khỏi nhà cầu.
- Em muốn về, tôi hướng thẳng ra cửa.
Hắn đòi đi theo nhưng bị từ chối thẳng thừng.
- Thôi được, Mark vẫy tắc xi.
Hắn rút ví lấy ra một tờ, đưa cho người tài xế. Mặc kệ hắn muốn làm gì thì làm, tôi chui tọt vào xe.
[…]
Thiên Thiên không ngủ. Ngồi lún trên trường kỷvới con mèo Pelote, thếp giấy trên tay, anh đang viết một lá thư dài cho bà mẹ bên Tây Ban Nha. Tôi ngồi xuống bên anh, Pelote chuồn lẹ. Ðột nhiên, Thiên ngẩng đầu, quét mắt qua tôi. Thắt tim. Anh đã đánh hơi ra mùi thằng tây? Mồ hôi Mark hơi bốc, thoang thoảng thôi nhưng đủ đượm để cho tôi chết mê chết mệt. Không chịu nổi cái nhìn hóa đá của Thiên Thiên, tôi đứng dậy, bồn chồn, trực chỉ nhà tắm. Anh tiếp tục viết thư.
Nước nóng xả tràn. Hơi nước táp dần từng mảng gương. Tôi không nhìn thấy ảnh hình tôi nữa. Lấy hơi, hụp sâu vào dòng ấm cuộn khói, thư giãn. Mỗi khi thấy bất an, tôi luôn tìm vào trốn trong bồn nước ấm. Lũ tóc xòa ra như bông súng đen trôi trên mặt nước, những giây phút tuyệt diệu nhất về đầy trong ký ức.
[…]
Duỗi chân. Nhớ về tuổi thơ tựa như đang quan sát từ xa một đời kiếp khác. Ngoài nỗi dịu êm lan toả, tất cả dường như không thực.
Cửa mở. Thiên Thiên bước vào, mắt đỏ ngầu. Anh bước tới ngồi xổm cạnh bồn tắm.
- Xong thư rồi hở? Tôi nhỏ nhẻ, còn anh chỉ lặng thinh tìm đọc mắt tôi.
- Ừ. Anh khuyên mẹ nên rút lại ý định mở nhà hàng ở Thượng Hải. Nội thì bảo mẹ về đúng lúc lắm, nội đang chờ tính sổ với mẹ… Anh không thích gặp lại mẹ ở đây, chỉ muốn một thân một mình tự xoay sở cho tới chết…
Giọng Thiên não nuột, dứt lời, anh khóc.
- Coco, dù cho có chuyện gì xảy ra đi nữa, đừng bao giờ hươu vượnvới anh. Thiên nhìn thẳng vào mắt tôi. Lưỡi lam vô hình lạng rách lớp hồng bì bao quanh trái tim. Câm lặng, dày đặc và đáng sợ, lan tràn như máu chảy. Phải đối diện với một tình yêu vô vọng, người ta chỉ còn cách chúi nhủi xuống tận đáy ước mơ, ẩn núp sau bức tường dối gian kiên cố.
- Em yêu anh, nói rồi, tôi ôm Thiên.
Nhắm mắt, lệ rơi vào bồn tắm. Nước mỗi lúc một nóng, mỗi lúc một đục, y hệt chảo máu đang hứng lấy tất cả những nức nở cùng hãi sợ của hai đứa.
Ðêm đó, tôi thề không bao giờ hé môi với Thiên Thiên về Mark và những người khác. Tuyệt đối không tiết lộ gì hết. Tôi không muốn Thiên chết vì những hẹn hò trăng hoa kia, không muốn anh chết bởi tại tôi.
VỆ TUỆ
Mạch Nha chuyển ngữ
--------------------------------------------------------------------------------
Chú thích của dịch giả:
[1] Thời Vàng Son: Belle Epoque – những năm Châu Âu thịnh vượng đầu thế kỷ 20.
[2] «L’Insoutenable Légèreté de l’être» cuả nhà văn gốc Tiệp Milan Kundera - Tưạ «Ðời nhẹ khôn kham», dùng lại cuả dịch giả Trịnh Y Thư.
[3] Yuppies: Young Urban Professionals – Thanh niên sống ở thành phố lớn, hiện đại, có bằng cấp cao, kiếm bộn, tiêu hoang.
3/7/07
Thanh Tâm Tuyền
Thanh Tâm Tuyền
bài viết của Đặng Tiến
Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền qua đời trưa ngày 22 tháng 3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.
Thanh Tâm Tuyền là một tác gia chính yếu đã làm mới nền văn học Miền Nam, trước 1975, và góp phần tạo nên một khúc quành cho văn học Việt Nam nói chung trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ, ý thơ và quan niệm thi ca Việt Nam. Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ truyện Bếp Lửa.
Ông du nhập nghệ thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn, nhà thơ lo+p trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại, ông có khả năng thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học và nghệ thuật : Thơ, Văn, Nhạc, Họa, như ở các nước phương Tây.
Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật.
Thanh Tâm Tuyền là người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm túc, tư cách và tiết tháo.
*
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ Mừng Năm tuổi, làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử [1]. Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.
Sau đó, 1954 vào Nam hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội di cư , cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau : Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Độc, 1956, và truyện Bếp Lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào « nhóm » Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.
1962, bị động viên vào trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hóa,và làm báo quân đội, « tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch » (1972), cấp bực cuối cùng là Đại úy. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong 7 năm, tại traị Long Giao ( Long Khanhs) và nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuổi cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.
Thanh Tâm Tuyền là tác giả khoảng mười đầu sách ; ba tập thơ : Tôi Không Còn Cô Độc (1956), Liên - Đêm - Mặt Trời Tìm Thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở Đâu Xa (1990, Mỹ). Ba truyện : Bếp Lửa (1957), Khuôn Mặt (1964), Dọc Đường (1967). Bo^n tiểu thuyết : Cát Lầy (1966), Mù Khơi (1970), Tiếng Động (1970) Mot Chủ Nhật Khác (thang 2, 1975). Một vở kịch ngắn : Ba Chị Em (1965). Một phiếm luận Tạp Ghi (1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, như tiểu thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, từ 1964, là một tác phẩm quan trọng.
Miền Nam Việt Nam những năm 1955-1960 bừng lên một sinh khí văn hóa. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam, những người từ nông thôn bước vào, hay trở về thành thị sau chiến tranh, tình hình an ninh và giá cả ổn định, các trường trung và đại học phát triển, sách báo, điã nhạc, nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện. Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện trong bối cảnh đó. Ít người mua và cầm trong tay tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc, nhưng nhiều người, nhất là giới thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng Tạo, bên cạnh thơ hiện đại khác của Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Người Sông Thương.
Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều ; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút.
Mười lăm năm sau, tháng 11-1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đã an vị, báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, đã có hai bài : một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét bỏ đến yêu thích ; một bài giải thích « lối thơ Thanh Tâm Tuyền » qua bài Phục Sinh nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu : Tôi buồn khóc như buồn nôn… Tôi buồn chết như buồn ngủ…
Tôi Không còn Cô Độc có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà thơ nói ‘tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ’, hay ‘có người cầm súng bắn vào đầu / đạn nổ nhịp ba / không chết’. Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như thế thì ít, nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách :
« Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ ».
Lê Huy Oanh kể lại rằng : « trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp nó vào ngực » (báo Văn đã dẫn, tr.8). Dĩ nhiên đây là cách nói tượng trưng.
Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền nhất định phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, Đèo Cả của Hữu Loan, Sáng mát trong như sáng năm xưa của Nguyễn Đình Thi. Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần điệu. Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ : loại trừ vần, không theo nhịp của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc ; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra « diễn ca », còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới.
Dựa trên lời Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật Dionysos đối lập với quan niệm Apollon, « nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm ».
Câu này trong bài Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay, Thanh Tâm Tuyền viết năm 1955 - khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong lý luận về thơ. Trong chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài Mấy Ý Nghĩ về Thơ của Nguyễn Đình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực tiễn sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn.
Chất hiện đại trong thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire, nhất là thơ Siêu Thực của nhóm Breton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không kinh qua nhà trường Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học đúng bài bản như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về già, vẫn mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc, nên tiếp xúc được với nhiều tác giả trên thế giới từ Gorki, Plekhanov, Marx, Trosky đến những tác giả mới hơn như Laưrence Durrell hay Soljenitsyne qua tiếng Pháp. Từ đó, thơ ông có chất quốc tế, trong nền Cộng Hòa Thế Giới :
Các anh Cộng Hòa đã chiến đấu cho Tây Ban Nha
Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca
Một Breton tình điên còn nức nở
Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức
Và mãi Ernest còn tiếc thương
Andalousie đói quên khiêu vũ
Việt Nam ốm yếu quên ca dao
Câu ‘quốc tế ca’ của Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất có lẽ là hai câu đầu dùng làm tựa đề cho bài thơ, đăng trên báo Sáng Tạo, số 4 tháng Giêng 1957 :
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Bài này làm vào tháng 12-1956, một tháng sau khi Hồng Quân Liên Xô, nhân danh khối liên minh quân sự Vác-xô-vi tràn ngâp Hung-ga-ri và thủ đô Bu-đa-pet. Sau đó ông còn làm tiếp Bản Anh Hùng Ca Budapest cũng đăng trên Sáng Tạo.
Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ định cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố : Vác-xô-Vi, Béc-Lin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moscou, Praha, Paris, Madrid, Bruxel, Genève. Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ thành phố : thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị hóa ; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia, Nguyễn Bính đã mơ Phường Chèo làng Đặng ; gần hơn, Đinh Hùng còn nhớ tháng giêng quê bạn hội đêm rằm ; đến Thanh Tâm Tuyền Tôi Không Còn Cô Độc là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng hiện đại, với nhiều giọng hát, và có giọng thi sĩ :
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ
(…)
Hôm nay tôi dự hội
hôm nay dùng mắt nhìn
hôm nay dùng lời dịu
cô độc phút tan tành
tôi không còn cô độc
Ông già : tôi không còn cô độc
Hợp xướng : tôi không còn cô độc
Em gái : tôi không còn cô độc
Hợp xướng : không ai còn cô độc
không ai còn cô độc
Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng kèn đồng :
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những giòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hờn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không
(…)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(Đen, Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957)
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thùy Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam ; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng ; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện : trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.
*
Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện : mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là : người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không ?
Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp Lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác [2].
Tôi còn một chứng từ riêng : bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời hướng dẫn mục Đố Vui Để Học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp Lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp Lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô : Mô ơi, thật à ? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.
*
Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học : sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những Chiếu hoa cạp điều, với Hương gió lướt đi. Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ : tạp chí Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Đoán già đoán non : các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp Lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.
Bếp Lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay[3]. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux : người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn Đại Lộ, nội dung na ná, in lại trong tập truyện Khuôn Mặt, 1964.
Truyện được viết từ ngôi thứ nhất ‘tôi’. Người kể, ‘tôi’ tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp Lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ Dưng, l’Etranger,1942 của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng : hôm nay mẹ tôi mất, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp Lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch thị Kim , ngày nay còn sống, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ Dưng hay Cũng Đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự truyện, nhưng Bếp Lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật : ông Chính, đảng viên Quốc Dân Đảng, còn hoạt động ; Bảo có tham dự phong trào Ngũ Xã nhưng nay đã tuyệt vọng ; Đại say đắm chủ nghĩa mác xít và chuẩn bị ra khu ; Hòa nhân viên phòng nhì ; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm ; Hạnh ; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm ? anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Kẻ Dưng : không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đă quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say (tr.90).
Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả (tr.12).
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. Đến Hà nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn (tr.72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5 :
Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự de dọa của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói :
- Anh có khinh em không ? (tr.76)
Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi : chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao ? Bếp Lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói : « người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm », thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp Lửa trôi xa, không những với Giòng sông Thanh Thủy của Nhất Linh mà còn xa với Khu Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ thôi : không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không ?
Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới ; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Đế. Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết « theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại » (tr.67).
Tại Việt Nam, một giải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ ?
*
Về phong cách, Bếp Lửa là một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao ?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết : « Cùng với Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những Ngày Thơ Ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi » [4].
Một lời tình tự như vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hóa, là một chìa khóa đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp Lửa, rồi đến Khuôn Mặt, Dọc Đường, Cát Lầy, Ung Thư, Mù Khơi, Tiếng Động…
Đối với Thằng Kình (1942, nxbHàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền ; hành văn rậm rạp của Nguyễn đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp Lửa.
Gần nhau hơn là Những Ngày Thơ Ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp Lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau : Những Ngày Thơ Ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội ; Bếp Lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng Kèn) : Những buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…, không hề có trong Bếp Lửa. Và trong một bài báo, Nhân Nghĩ về Hội Họa, 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối « văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò » (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp Lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là « trích diễm ». Kinh nghiệm của tôi : yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung.Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại.
Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ hán việt hay thành ngữ.
Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm : Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh (tr.47). Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc : Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ (tr.11). Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã (tr.28).
Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp Lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi : Bếp Lửa, bếp lửa nghĩa là gì ?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp Lửa là một bài hát.
Bài hát « chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn » [5].
Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ Thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Họa hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội họa như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với họa sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội họa, và thân thiết với các họa sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài Nhân nghĩ về Hội họa viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy.
Họa sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự họa ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là Hóa Thân, Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ : anh vẽ cái gì thì cũng là hóa thân vào bức họa, tranh nào rồi cũng thành chân dung họa sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hóa thân của Apollon – les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài Nhân nghĩ về Hội họa :
« Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính » (Văn, số 11- 1973 đã dẫn, tr. 78).
Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thủy chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp Lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi :
« Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng ».
Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Đặng Tiến
Ngày giỗ Trịnh công Sơn
Orléans, 01-4-2006
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2] Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn.
Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc, qua e-mail tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3] Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa, nxb Nguyễn đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đọan từ bản này.
[4] Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai Phẩm, tháng 6-1974, tr.21-22, Sài Gòn.
[5] Thanh Tâm Tuyền, Buổi sáng Ngoài Bãi Biển, trong Khuôn Mặt, tr.98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
bài viết của Đặng Tiến
Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền qua đời trưa ngày 22 tháng 3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.
Thanh Tâm Tuyền là một tác gia chính yếu đã làm mới nền văn học Miền Nam, trước 1975, và góp phần tạo nên một khúc quành cho văn học Việt Nam nói chung trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ, ý thơ và quan niệm thi ca Việt Nam. Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ truyện Bếp Lửa.
Ông du nhập nghệ thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn, nhà thơ lo+p trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại, ông có khả năng thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học và nghệ thuật : Thơ, Văn, Nhạc, Họa, như ở các nước phương Tây.
Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật.
Thanh Tâm Tuyền là người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm túc, tư cách và tiết tháo.
*
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ Mừng Năm tuổi, làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử [1]. Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.
Sau đó, 1954 vào Nam hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội di cư , cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau : Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Độc, 1956, và truyện Bếp Lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào « nhóm » Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.
1962, bị động viên vào trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hóa,và làm báo quân đội, « tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch » (1972), cấp bực cuối cùng là Đại úy. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong 7 năm, tại traị Long Giao ( Long Khanhs) và nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuổi cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.
Thanh Tâm Tuyền là tác giả khoảng mười đầu sách ; ba tập thơ : Tôi Không Còn Cô Độc (1956), Liên - Đêm - Mặt Trời Tìm Thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở Đâu Xa (1990, Mỹ). Ba truyện : Bếp Lửa (1957), Khuôn Mặt (1964), Dọc Đường (1967). Bo^n tiểu thuyết : Cát Lầy (1966), Mù Khơi (1970), Tiếng Động (1970) Mot Chủ Nhật Khác (thang 2, 1975). Một vở kịch ngắn : Ba Chị Em (1965). Một phiếm luận Tạp Ghi (1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, như tiểu thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, từ 1964, là một tác phẩm quan trọng.
Miền Nam Việt Nam những năm 1955-1960 bừng lên một sinh khí văn hóa. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam, những người từ nông thôn bước vào, hay trở về thành thị sau chiến tranh, tình hình an ninh và giá cả ổn định, các trường trung và đại học phát triển, sách báo, điã nhạc, nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện. Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện trong bối cảnh đó. Ít người mua và cầm trong tay tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc, nhưng nhiều người, nhất là giới thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng Tạo, bên cạnh thơ hiện đại khác của Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Người Sông Thương.
Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều ; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút.
Mười lăm năm sau, tháng 11-1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đã an vị, báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, đã có hai bài : một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét bỏ đến yêu thích ; một bài giải thích « lối thơ Thanh Tâm Tuyền » qua bài Phục Sinh nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu : Tôi buồn khóc như buồn nôn… Tôi buồn chết như buồn ngủ…
Tôi Không còn Cô Độc có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà thơ nói ‘tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ’, hay ‘có người cầm súng bắn vào đầu / đạn nổ nhịp ba / không chết’. Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như thế thì ít, nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách :
« Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ ».
Lê Huy Oanh kể lại rằng : « trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp nó vào ngực » (báo Văn đã dẫn, tr.8). Dĩ nhiên đây là cách nói tượng trưng.
Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền nhất định phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, Đèo Cả của Hữu Loan, Sáng mát trong như sáng năm xưa của Nguyễn Đình Thi. Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần điệu. Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ : loại trừ vần, không theo nhịp của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc ; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra « diễn ca », còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới.
Dựa trên lời Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật Dionysos đối lập với quan niệm Apollon, « nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm ».
Câu này trong bài Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay, Thanh Tâm Tuyền viết năm 1955 - khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong lý luận về thơ. Trong chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài Mấy Ý Nghĩ về Thơ của Nguyễn Đình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực tiễn sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn.
Chất hiện đại trong thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire, nhất là thơ Siêu Thực của nhóm Breton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không kinh qua nhà trường Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học đúng bài bản như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về già, vẫn mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc, nên tiếp xúc được với nhiều tác giả trên thế giới từ Gorki, Plekhanov, Marx, Trosky đến những tác giả mới hơn như Laưrence Durrell hay Soljenitsyne qua tiếng Pháp. Từ đó, thơ ông có chất quốc tế, trong nền Cộng Hòa Thế Giới :
Các anh Cộng Hòa đã chiến đấu cho Tây Ban Nha
Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca
Một Breton tình điên còn nức nở
Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức
Và mãi Ernest còn tiếc thương
Andalousie đói quên khiêu vũ
Việt Nam ốm yếu quên ca dao
Câu ‘quốc tế ca’ của Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất có lẽ là hai câu đầu dùng làm tựa đề cho bài thơ, đăng trên báo Sáng Tạo, số 4 tháng Giêng 1957 :
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Bài này làm vào tháng 12-1956, một tháng sau khi Hồng Quân Liên Xô, nhân danh khối liên minh quân sự Vác-xô-vi tràn ngâp Hung-ga-ri và thủ đô Bu-đa-pet. Sau đó ông còn làm tiếp Bản Anh Hùng Ca Budapest cũng đăng trên Sáng Tạo.
Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ định cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố : Vác-xô-Vi, Béc-Lin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moscou, Praha, Paris, Madrid, Bruxel, Genève. Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ thành phố : thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị hóa ; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia, Nguyễn Bính đã mơ Phường Chèo làng Đặng ; gần hơn, Đinh Hùng còn nhớ tháng giêng quê bạn hội đêm rằm ; đến Thanh Tâm Tuyền Tôi Không Còn Cô Độc là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng hiện đại, với nhiều giọng hát, và có giọng thi sĩ :
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ
(…)
Hôm nay tôi dự hội
hôm nay dùng mắt nhìn
hôm nay dùng lời dịu
cô độc phút tan tành
tôi không còn cô độc
Ông già : tôi không còn cô độc
Hợp xướng : tôi không còn cô độc
Em gái : tôi không còn cô độc
Hợp xướng : không ai còn cô độc
không ai còn cô độc
Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng kèn đồng :
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những giòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hờn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không
(…)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(Đen, Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957)
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thùy Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam ; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng ; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện : trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.
*
Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện : mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là : người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không ?
Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp Lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác [2].
Tôi còn một chứng từ riêng : bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời hướng dẫn mục Đố Vui Để Học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp Lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp Lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô : Mô ơi, thật à ? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.
*
Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học : sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những Chiếu hoa cạp điều, với Hương gió lướt đi. Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ : tạp chí Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Đoán già đoán non : các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp Lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.
Bếp Lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay[3]. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux : người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn Đại Lộ, nội dung na ná, in lại trong tập truyện Khuôn Mặt, 1964.
Truyện được viết từ ngôi thứ nhất ‘tôi’. Người kể, ‘tôi’ tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp Lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ Dưng, l’Etranger,1942 của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng : hôm nay mẹ tôi mất, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp Lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch thị Kim , ngày nay còn sống, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ Dưng hay Cũng Đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự truyện, nhưng Bếp Lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật : ông Chính, đảng viên Quốc Dân Đảng, còn hoạt động ; Bảo có tham dự phong trào Ngũ Xã nhưng nay đã tuyệt vọng ; Đại say đắm chủ nghĩa mác xít và chuẩn bị ra khu ; Hòa nhân viên phòng nhì ; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm ; Hạnh ; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm ? anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Kẻ Dưng : không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đă quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say (tr.90).
Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả (tr.12).
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. Đến Hà nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn (tr.72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5 :
Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự de dọa của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói :
- Anh có khinh em không ? (tr.76)
Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi : chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao ? Bếp Lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói : « người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm », thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp Lửa trôi xa, không những với Giòng sông Thanh Thủy của Nhất Linh mà còn xa với Khu Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ thôi : không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không ?
Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới ; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Đế. Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết « theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại » (tr.67).
Tại Việt Nam, một giải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ ?
*
Về phong cách, Bếp Lửa là một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao ?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết : « Cùng với Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những Ngày Thơ Ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi » [4].
Một lời tình tự như vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hóa, là một chìa khóa đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp Lửa, rồi đến Khuôn Mặt, Dọc Đường, Cát Lầy, Ung Thư, Mù Khơi, Tiếng Động…
Đối với Thằng Kình (1942, nxbHàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền ; hành văn rậm rạp của Nguyễn đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp Lửa.
Gần nhau hơn là Những Ngày Thơ Ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp Lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau : Những Ngày Thơ Ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội ; Bếp Lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng Kèn) : Những buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…, không hề có trong Bếp Lửa. Và trong một bài báo, Nhân Nghĩ về Hội Họa, 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối « văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò » (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp Lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là « trích diễm ». Kinh nghiệm của tôi : yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung.Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại.
Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ hán việt hay thành ngữ.
Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm : Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh (tr.47). Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc : Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ (tr.11). Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã (tr.28).
Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp Lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi : Bếp Lửa, bếp lửa nghĩa là gì ?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp Lửa là một bài hát.
Bài hát « chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn » [5].
Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ Thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Họa hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội họa như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với họa sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội họa, và thân thiết với các họa sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài Nhân nghĩ về Hội họa viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy.
Họa sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự họa ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là Hóa Thân, Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ : anh vẽ cái gì thì cũng là hóa thân vào bức họa, tranh nào rồi cũng thành chân dung họa sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hóa thân của Apollon – les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài Nhân nghĩ về Hội họa :
« Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính » (Văn, số 11- 1973 đã dẫn, tr. 78).
Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thủy chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp Lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi :
« Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng ».
Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Đặng Tiến
Ngày giỗ Trịnh công Sơn
Orléans, 01-4-2006
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2] Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn.
Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc, qua e-mail tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3] Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa, nxb Nguyễn đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đọan từ bản này.
[4] Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai Phẩm, tháng 6-1974, tr.21-22, Sài Gòn.
[5] Thanh Tâm Tuyền, Buổi sáng Ngoài Bãi Biển, trong Khuôn Mặt, tr.98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương - Đặng Tiến
Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương
Gửi chị Thục Oanh
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.
Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.
Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ:
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang ?
Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự:
Xuân có sang mà hoa không tươi
Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời
Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là:
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
Thơ Say gồm có nhiều phần: Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần:
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...
... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở Aựi Aõn
Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
* *
*
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...
là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955; mùa xuân đầu tiên xa xứ:
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....
(...)
Xuân về nhớ thuở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, trĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:
Có nghĩa gì đâu một chữ « về »
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của « ước thề »
Theo Chế Lan Viên, chữ «Về » là « cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa »[1]
Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ « về », trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ “có nghĩa gì đâu”, là phỏng theo Xuân Diệu :
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu cầu một tình cảm riêng tư – có phần nào đó hoang tưởng – « có nghĩa gì đâu » . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến: « Mười năm thôi nhé mộng tan tành » ..., « Tình mười năm còn lại mấy tờ thư »…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : « ước thề » ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc « hát ngao » hơn là một anh hùng ca.
Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung
Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :
Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái
Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ ?
Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân: thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : « loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân » (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
(...)
Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện:
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
(Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
(Mở Bút ghi Điềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên:
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
(Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán:
Kỷ Dậu hồi thanh
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch :
Tiếng vang lịch sử
Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên
Đặng Tiến dịch ké :
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm Ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc:
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài “Xúc Động Cuối Năm” thật buồn:
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ: câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành: « xuân du thử địa vô phương thảo », câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa:
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang
(Đông Hồ)
« Một nụ cười xuân cũng chẳng còn », là nhắc tên tập thơ « Cô Gái Xuân » (1935) của Đông Hồ.
Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc:
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây
Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
(Xuân Đối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
(Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
Ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài « Xuân Quạnh »:
Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim Ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài « Đón Xuân Mười Chín » làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973):
Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày
Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa
(dẫn trọn bài)
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm:
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ “chống cộng” để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.
Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :
Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
Ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ
Ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý Vũ Từ
Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai[2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết « ta đành mất hết để còn nhau »(Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
*
* *
Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :
Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú: Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : « rừng có mạch, vách có tai » ; « xanh vỏ đỏ lòng ». Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : « tranh tối tranh sáng », « mắt xanh », « mắt quáng gà », « gà cùng một mẹ », « lợn âm dương », « con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ». « Khúc tân thanh » ngụ ý « đoạn trường”. Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.
Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, « tam sao », được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.
* *
*
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.
Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
Đặng Tiến
Paris, Tết dương lịch, 1-1-2001
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học, tr. 89, 1962, Hà Nội
[2] Bà Vũ Hoàng Chương – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân :
Cao sâu từng nhập bóng cây già,
Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.
Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,
Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.
Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
Vang tiếng chim xanh về hót đấy,
Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.
Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu :
Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,
Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà
Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,
Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.
Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm
Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.
Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,
Một chị một em tình xót xa Paris, 15/8/1999
(những chữ in nghiêng là tên tác phẩm Vũ Hoàng Chương)
Gửi chị Thục Oanh
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.
Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.
Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ:
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang ?
Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự:
Xuân có sang mà hoa không tươi
Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời
Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là:
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
Thơ Say gồm có nhiều phần: Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần:
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...
... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở Aựi Aõn
Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
* *
*
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...
là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955; mùa xuân đầu tiên xa xứ:
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....
(...)
Xuân về nhớ thuở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, trĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:
Có nghĩa gì đâu một chữ « về »
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của « ước thề »
Theo Chế Lan Viên, chữ «Về » là « cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa »[1]
Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ « về », trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ “có nghĩa gì đâu”, là phỏng theo Xuân Diệu :
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu cầu một tình cảm riêng tư – có phần nào đó hoang tưởng – « có nghĩa gì đâu » . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến: « Mười năm thôi nhé mộng tan tành » ..., « Tình mười năm còn lại mấy tờ thư »…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : « ước thề » ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc « hát ngao » hơn là một anh hùng ca.
Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung
Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :
Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái
Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ ?
Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân: thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : « loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân » (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
(...)
Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện:
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
(Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
(Mở Bút ghi Điềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên:
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
(Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán:
Kỷ Dậu hồi thanh
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch :
Tiếng vang lịch sử
Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên
Đặng Tiến dịch ké :
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm Ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc:
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài “Xúc Động Cuối Năm” thật buồn:
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ: câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành: « xuân du thử địa vô phương thảo », câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa:
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang
(Đông Hồ)
« Một nụ cười xuân cũng chẳng còn », là nhắc tên tập thơ « Cô Gái Xuân » (1935) của Đông Hồ.
Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc:
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây
Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
(Xuân Đối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
(Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
Ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài « Xuân Quạnh »:
Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim Ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài « Đón Xuân Mười Chín » làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973):
Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày
Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa
(dẫn trọn bài)
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm:
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ “chống cộng” để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.
Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :
Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
Ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ
Ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý Vũ Từ
Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai[2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết « ta đành mất hết để còn nhau »(Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
*
* *
Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :
Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú: Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : « rừng có mạch, vách có tai » ; « xanh vỏ đỏ lòng ». Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : « tranh tối tranh sáng », « mắt xanh », « mắt quáng gà », « gà cùng một mẹ », « lợn âm dương », « con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ». « Khúc tân thanh » ngụ ý « đoạn trường”. Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.
Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, « tam sao », được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.
* *
*
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.
Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
Đặng Tiến
Paris, Tết dương lịch, 1-1-2001
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học, tr. 89, 1962, Hà Nội
[2] Bà Vũ Hoàng Chương – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân :
Cao sâu từng nhập bóng cây già,
Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.
Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,
Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.
Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
Vang tiếng chim xanh về hót đấy,
Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.
Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu :
Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,
Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà
Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,
Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.
Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm
Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.
Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,
Một chị một em tình xót xa Paris, 15/8/1999
(những chữ in nghiêng là tên tác phẩm Vũ Hoàng Chương)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)