16/11/08

Đường Xưa Mây Trắng Chương 3 :Mớ cỏ Kusa

truyện dài

Đường Xưa Mây Trắng


Chương 3
Mớ cỏ Kusa


Tối hôm đó trước khi đi ngủ, Svastika ngồi trước gốc tre ôn lại những gì đã xảy ra trong thời gian mấy tháng được gặp Bụt trong rừng để chiều mai kể lại cho thầy Ananda và chú Rahula nghe. Chú có cảm tưởng chú không có chuyện gì nhiều để kể. Hồi đó chú mười một tuổi. Mẹ chú vừa mất, chú phải chăm sóc ba đứa em. Em gái út của chú là bé Bhima chỉ đựơc có mấy tháng, Bhima không có sữa uống. Hồi đó Svastika đã được ông Rambhul trong xóm giao cho công việc chăn trâu.
Hồi đó đàn trâu chỉ có bốn con và một con trâu nghé. Mỗi ngày Svastika đã lén vắt sữa trâu cho em uống. Nó chăm sóc bầy trâu rất cẩn thận vì biết rằng nếu nó không được giữ trâu cho ông Rambhul thì các em nó sẽ đói. Từ ngày ba nó mất, căn nhà chưa lợp lại lần nào. Mái tranh đã nát, hễ trời mưa lớn là nhà dột, và thằng Rupka phải đi lấy mấy cái chậu sành đã mẻ ngoài hiên vào để hứng nước dột. Bé Bala mới có sáu tuổi mà đã phải học nấu cơm, ẳm em và đi nhặt củi ngoài rừng. Có khi nó phải ẳm em ra rừng, để vừa giữ em vừa nhặt củi. Còn nhỏ tuổi nhưng bé Bala đã biết nhồi bột làm bánh Chappati cho cả nhà. Mấy anh em ít khi có đủ tiền để mua bột cà – ri. Có khi lùa trâu về chuồng, đi ngang qua nhà bếp ông Rambhul nghe mùi cà ri bốc lên thơm lừng, Svastika chảy cả nước miếng.
Từ ngày ba chúng nó mất, ít có khi nào chúng nó được ăn bánh chappati cuốn hoặc chấm trong nước cà-ri nấu thịt đâu.
Áo quần của đứa nào cũng tơi tả. Svastika chỉ vận có một cái xà rông khi đi chăn trâu.
Hôm nào trời lạnh lắm, nó mới quấn thêm tấm vải màu nâu lên người. Tấm vải đã bạc màu và mốc thếch nhưng nó quý lắm, Svastika phải tìm những nơi có đủ cỏ cho trâu ăn. Nó biết hễ trâu tới nhà mà bụng còn lép là nó sẽ bị ông Ramhul đánh mắng. Một buổi chiều lùa trâu về, Svastika phải gánh theo một gánh cỏ tươi để cho trâu ăn. Đàn trâu ăn cỏ suốt đêm. Vào những hôm có nhiều muỗi, Svastika còn phải đốt lửa un khói để đuổi muỗi cho trâu trước khi ra về. Ông Rambhul trả lương cho nó bằng gạo, bột mì và muối, cứ ba hôm một lần. Có hôm đi chăn trâu về, Svastika đem được về cho Bala vài ba con cá mà nó câu được ở bờ rông Neranjara.
Một buổi chều sau khi đã tắm xong cho trâu và đã cắt cỏ được đầy gánh, Svastika định vào rừng ngồi chơi một lát trước khi lùa trâu về chuồng. Để bầy trâu ăn ở cửa rừng. Svastika đi tìm một gốc cây để ngồi tựa lưng. Bỗng dưng nó thấy một người đang ngồi yên lặng dưới gốc một cây pippala thật lớn về phía trước, cách nó chừng hai chục sải tay.
Svastika ngạc nhiên đứng lại nhìn. Nó chưa bao giờ thấy có ai ngồi đẹp như vậy. Người ấy ngồi lưng rất thẳng, chân xếp tréo vào nhau, dáng vững chải và hùng mạnh. Mắt người ấy như là đang nhắm lại, và hai tay người ấy đang vào nhau đặt thoải mái phía giữa. Người ấy ăn mặc rất giản dị: một tấm vải màu vàng nhạt một đầu quấn phía dưới và một đầu phủ lên vai. Toàn thân người ấy tỏa chiếu một cái gì vừa thanh thoát, vừa trầm hùng và vừa an bình. Chỉ cần nhìn người ấy, người ta cũng đã cảm thấy khỏe khoắn trong mình. Tự nhiên Svastika cảm thấy một thứ tình cảm nẩy sinh trong nó và làm rung động trái tim nó. Nó không hiểu tại sao nó có cảm tình ngay với một người khi mà nó cũng chưa biết người đó là ai. Nó đứng trân trân nhìn ngắm người ấy một hồi lâu, không dám cử động.
Một lát sau người ấy mở mắt. Nhưng người ấy vẫn không trông thấy Svastika. Người ấy dao động thân thể, rồi tháo chân ra để xoa bóp. Rồi người ấy từ từ đứng dậy và bắt đầu đi từng bước chầm chầm. Vì đi về phía bên kia cho nên người ấy vẫn chưa thấy được em bé chăn trâu. Svastika vẫn đứng lặng yên nhìn người ấy đi những bước chân vững chãi, trầm lặng và nhẹ nhàng trên lối mòn của khu rừng. Đi được bảy tám bước người ấy quay trở lại, và người ấy nhận ra sự có mặt của Svastika. Thấy em bé, người ấy mỉm cười. Nụ cười thật hiền hậu và bao dung. Chưa bao giờ Svastika thấy ai cười với mình như thế. Như bị một sức hút lôi kéo, Svastika chạy về phía người ấy. Nhưng khi còn cách người ấy chừng bốn bước, Svastika ngừng lại. Nó nhớ là nó không được quyền đụng chạm vào những người thuộc giai cấp trên.
Svastika thuộc về giới ngoại cấp, nghĩa là không thuộc giai cấp nào trong bốn giai cấp của xã hội cả. Nó đã từng nghe ba nó nói rằng giai cấp Bà la môn (brahmana) là giai cấp cao quý nhất trong xã hội. Những người trong giai cấp này phần lớn là những giáo sĩ thông hiểu kinh Vệ Đà biết đọc kinh, biết cúng tế, có thể tiếp xúc với thần linh.
Khi Phạm Thiên tạo ra loài người thì Bà la môn được sinh ra từ miệng Ngài. Những người thuộc giai cấp Sát đế lợi (Ksatriya) là những người có quyền bính chính trị và quân sự, họ đã được sinh ra từ hai tay của Phạm Thiên. Những người thuộc giai cấp Phệ xà (Vaisya) là những người trong giới buôn bán, trồng tỉa, chăn nuôi và tiểu công nghệ, họ đã được sinh ra từ bắp đùi của Phạm Thiên. Còn những người thuộc giai cấp Thủ đà (sudra) là những người đã sinh ra từ hai bàn chân của Phạm Thiên. Họ thuộc về giai cấp nghèo nhất, phải làm những nghề cực nhọc mà người trong ba giai cấp trên không làm. Giai cấp ấy là giai cấp thấp nhất rồi mà gia đình Svastika lại thuộc vào một tình trạng thấp kém hơn nữa. Gia đình Svastika ở vào hạng ngoại cấp, nghĩa là không thuộc vào giai cấp nào cả. Nhưng người như Svastika phải làm nhà ở một khu riêng biệt bên ngoài làng. Nghề nghiệp của họ chỉ là những nghề nghiệp thấp kém như đổ phân, đắp đường, nuôi heo, giữ trâu, cày ruộng. Ai sinh ra ở giai cấp nào thì phải chấp nhận hoàn cảnh của mình. Thần linh đã dạy như vậy và kinh điển cũng dạy như vậy.
Những người thuộc giới ngoại cấp như Svastika mà nếu lỡ lầm đụng phải một người thuộc giai cấp cao thì có thể bị trừng phạt nặng. Trong làng Uruvela đã có người bị đánh bầm tím thân thể vì đã lỡ tay đụng nhầm một người Bà la môn. Lỡ tay đụng phải một người Bà-la-môn hay một người Sát-đế-lợi, tức là làm ô nhiễm người ấy, và người ấy phải về ăn chay, nằm đất và sám hối nhiều tuần lễ mới được trong sạch trở lại.
Mỗi khi lùa trâu về chuồng, Svastika phải cẩn thận lắm. Nó không bao giờ dám tới gần một người nào trong cái xã hội cao quý, dù trên đường đi hay là trong sân nhà ông Rambhul. Nhiều lúc Svastika thấy con trâu còn có may mắn hơn mình.
Một người Bà la môn có thể đụng tới con trâu mà không bị ô uế, nhưng nếu người ấy đụng nhầm Svastika là ông ta phải về sám hối cả hai ba tuần lễ. Dù mình không đụng người ta mà người ta đụng nhầm mình thì mình cũng có thể bị đánh đập tàn nhẫn.
Hiện đứng trước Svastika là một người thật dễ thương nhưng theo kiểu cách của người đó thì chắc chắn ông ta không phải là người cùng đẳng cấp với Svastika rồi. Nụ cười ông ấy hiền hậu như thế và cái nhìn của người ấy bao dung như thế thì chắc hẳn người ấy sẽ chẳng nở đánh đập Svastika đâu, dù Svastika có lỡ đụng nhầm. Nhưng Svastika nghĩ rằng nếu lỡ đụng nhầm người ấy thì sẽ làm người ấy ô nhiễm, tội nghiệp. Cho nên nó vội ngừng lại khi khoảng cách giữa hai người chỉ còn ba bước. Thấy Svastika không bước tới, người ấy lại bước gần Svastika. Svastika tự khắc lui một bước, để tránh sự đụng chạm. Nhưng người ấy nhanh nhẹn lắm. Chỉ trong một chớp mắt ông ta đã tóm được Svastika. Tay trái người ấy ôm ngang vai Svastika còn tay phải người ấy xoa lên đầu nó. Svastika đứng yên, ngoài má nó, chưa có ai xoa đầu nó một cách âu yếm như thế bao giờ. Tuy nhiên nó vẫn còn sợ.
- Em đừng sợ. Người ấy nói, giọng nhỏ nhẹ và thân mật.
Svastika rất yên tâm khi nghe người ấy nói. Nó ngửng đầu lên thì lại gặp cái nhìn bao dung và nụ cười hiền hậu của người ấy. Ngập ngừng một lát nó nói:
- Chú dễ thương lắm.
Người ấy lấy tay nâng cằm nó lên và nhìn vào mắt nó:
- Em cũng dễ thương lắm. Nhà em ở gần đây phải không?
Svastika không trả lời. Nó nắm lấy bàn tay trái của người đó trong hai bàn tay của nó.
Nó hỏi cái câu hỏi đang nằm trong đầu nó:
- Con nắm tay chú như thế này thì chú bị ô nhiễm rồi phải không?
Người ấy cười và lắc đầu:
- Không đâu, em. Em là con người, tôi cũng là con người. Em không làm ô nhiễm tôi đâu. Đừng có nghe lời người ta nói.
Người ấy cầm tay Svastika đi ra phía cửa rừng.
Đàn trâu của Svastika còn đó. Gánh cỏ tươi của Svastika cũng còn đó. Người ấy nhìn Svastika hỏi:
- Em chăn những con trâu này phải không? Và đây là gánh cỏ mà em đã cắt cho trâu ăn, phải không? Em tên là gì? Nhà ở gần đây không?
Svastika lễ phép thưa:
- Dạ đây là trâu của con chăn. Bốn con này và con nghé này nữa. Đây là cỏ của con mới cắt. Con tên là Svastika. Nhà con bên kia sông, ở cuối làng Uruvela. Thưa chú, còn chú tên gì, và nhà chú ở đâu, chú nói cho con nghe được không?
Người ấy ôn tồn đáp:
- Được chứ. Chú tên là Siddhatta. Nhà chú ở xa lắm. Hiện giờ chú ở tạm trong rừng này.
- Chú là sa-môn, phải không?
Người ấy gật đầu. Svastika biết rằng sa-môn là những người tu, thường hay cư trú trong núi.
Hai người mới quen nhau, mới trao đổi với nhau có vài câu chuyện mà Svastika đã có cảm tưởng là mình đã rất thân với người bạn mới này.
Trong làng Uruvela, nó chưa thấy có ai đối xử với nó một cách thân ái như thế hay nói chuyện với nó một cách ôn tồn như thế. Nó cảm thấy một niềm hạnh phúc dâng lên trong lòng. Nó muốn bày tỏ nỗi hân hoan của nó. Nó nghĩ giá nó có một cái gì để làm quà tặng cho người này thì hay biết bao. Trong túi nó không có một đồng tiền, cũng không có một cục đường phèn, biết lấy gì làm quà tặng. Nhưng Svastika có can đảm nói ra những gì mình đang nghĩ.
- Thưa chú, con muốn tặng chú một món quà, nhưng con không có gì trong người con hết.
Siddhatta nhìn Svastika rồi mỉm cười nói:
- Có chứ, em có một thứ mà nếu em làm quà cho tôi thì tôi thích lắm.
Svastika ngơ ngác:
- Con có gì đâu?
Siddhatta chỉ gánh cỏ:
- Cỏ của em cắt cho trâu ăn mềm và thơm lắm. Nếu em cho tôi vài nắm để tôi trải dưới gốc cây làm nệm ngồi thì tôi sẽ sung sướng biết bao.
Mắt Svastika sáng lên. Nó chạy tới gánh cỏ, cúi xuống ôm lấy một ôm đầy trong hai vòng tay nhỏ. Rồi nó trở về dâng ôm cỏ cho Siddhatta:
- Cỏ Kusa này con mới cắt bên bờ sông. Con xin biếu chú. Lát nữa con sẽ ra bờ sông cắt thêm cho đầy gánh.
Siddhatta chắp tay cung kính nhận bó cỏ từ tay em bé. Ông nói:
- Em rất dễ thương, tôi cảm ơn em. Thôi bây giờ em ra bờ sông cắt cỏ thêm cho đầy gánh đi, rồi về kẻo muộn. Chiều mai nếu có dịp em ghé vào rừng thăm tôi nhé.
Bé Svastika cúi đầu chào. Nó đứng đợi cho Siddhatta ôm bó cỏ đi khuất vào rừng rồi mới tới gỡ lưỡi liềm gài trên chiếc đòn xóc đặt nghiêng trên gánh cỏ và bước ra phía bờ sông.
Nó thấy ấm áp trong lòng. Trời đầu mùa Hạ, cỏ Kusa còn non và lưỡi liềm của Svastika còn sắt nên cắt rất ngọt. Chẳng mấy chốc mà Svastika đã cắt được đầy một ôm lớn.
Svastika lùa trâu về. Sông Neranjara có một khúc rất cạn gần đó, Svastika cho trâu lội qua khúc ấy. Con nghé con còn lưu luyến đám cỏ non bên bờ sông, Svastika phải tới lùa nó chạy theo đàn trâu. Gánh cỏ trên vai không có gì là nặng, Svastika lội qua sông cùng một lượt với bầy trâu.

Nguồn: quangduc



compiled by Tran Ho Dung

Đường Xưa Mây Trắng - Chương 2

truyện dài

Đường Xưa Mây Trắng


Chương 2
Nghệ thuật chăn trâu


Hôm nay trời mát, sau bữa cơm trưa, ăn trong quán niệm, các vị khất sĩ lặng lẽ đi rửa bát của mình và đem trải tọa cụ ngoài trời ngồi quây quần quanh Bụt. Tu viện Trúc Lâm có rất nhiều sóc. Chúng quanh quẩn bên các thầy, không có vẻ gì sợ hãi. Nhiều con sóc leo lên trên các thân tre, đưa mắt nhìn xuống.
Svastika đưa mắt tìm Rahula. Chú thấy Rahula ngồi ngay trước mặt Bụt. Chú rón rén đến trải tọa cụ bên cạnh Rahula và nghiêm chỉnh ngồi xuống trong tư thế hoa sen. Không khí thật trang nghiêm. Không ai nói với ai lời nào, nhưng Svastika biết rằng ai cũng đang theo dõi hơi thở trong khi chờ đợi Bụt mở lời chỉ dạy.
Bụt ngồi trên một chiếc chõng tre, cao hơn mọi người chừng vai gang tay để mọi người có thể nhìn thấy. Người ngồi ung dung và uy nghiêm như một con sư tử chúa ngồi trong bầy sư tử. Người đưa mắt nhìn đại chúng một cách từ hòa. Rồi cái nhìn của người dừng lại nơi Svastika và Rahula. Bỗng nhiên, Bụt mỉm cười. Người cất tiếng:
- Hôm nay tôi muốn nói chuyện với đại chúng về việc chăn trâu, và thế nào là một em bé chăn trâu giỏi. Một em bé chăn trâu giỏi là một em bé có thể dễ dàng nhận ra được trâu của mình, biết hình tướng của mỗi con, biết cách cọ xát tắm rửa cho trâu, biết thương yêu trâu, biết tìm bến tốt để cho trâu qua sông, biết tìm chỗ có cỏ non và nước uống cho trâu, biết bảo trì những vùng thả trâu và cuối cùng là biết để cho những con trâu lớn làm gương cho nhưng con trâu nhỏ.
Ngưng một lát Bụt tiếp :
- Này các vị khất sĩ! Một vị khất sĩ giỏi cũng phải làm tương tự như một em bé chăn trâu. Nếu em bé chăn trâu biết nhận ra được trâu của mình, thì người xuất gia cũng phải biết nhận ra được những yếu tố tạo nên sắc thân của mình. Nếu em bé chăn trâu biết được hình tướng của mỗi con trâu trong đàn trâu của mình, thì nguời xuất gia cũng phải thấy được những hành động nào của thân, của miệng, và của ý là những hành động đáng làm, và những hành động nào là những hành động không đáng làm. Nếu một em bé chăn trâu biết cách cọ xát tắm rửa cho trâu, thì người xuất gia cũng phải biết buông xả và gột rửa khỏi thân tâm những tham dục, si mê và hờn oán…
Trong khi Bụt nói những lời trên, mắt Bụt không rời Svastika, Svastika có cảm tưởng rằng chú là nguồn cảm hứng cho những lời mà Bụt đang nói. Chú nhớ rằng ngày xưa chú đã được ngồi bên Bụt hàng giờ, và Bụt đã từng hỏi chuyện chú một cách tỉ mỉ về công việc chăn trâu và cắt cỏ. Vốn là một vị hoàng thái tử xuất thân, làm sao Bụt có thể hiểu rõ như thế về nghề chăn trâu, nếu chính chú đã không kể hết những chuyện đó cho người nghe?
Bụt vẫn nói. Tiếng nói người vừa rõ vừa trong.
Tuy người chỉ nói giọng bình thường, tiếng của người vẫn vọng ra rành mạch từng âm, không ai là không nghe thấy:
- Nếu em bé chăn trâu biết chăm sóc các vết thương của trâu, thì người xuất gia cũng phải biết hộ trì sáu căn của mình là mắt, tai, mũi, lưỡi thân và ý, và để cho sáu đối tượng, tức là sáu trần không thể lung lạc được mình.
Nếu em bé chăn trâu biết cách đốt khói un trâu để trâu khỏi bị muỗi đốt, thì người xuất gia cũng phải đem đạo lý giải thoát để dạy cho người chung quanh, để họ tránh được những khổ đau dằn vặt trong thân tâm họ.
Nếu em bé chăn trâu biết tìm đường đi an toàn cho trâu, thì người xuất gia cũng phải biết tránh những con đường đưa tới danh lợi, sắc dục, quán rượu và hí trường. Nếu em bé chăn trâu biết thương yêu trâu, thì người xuất gia cũng phải biết quý trọng những niềm an vui do thiền tập đưa tới. Nếu em bé chăn trâu biết tìm bến tốt cho trâu qua sông, thì người xuất gia cũng phải biết nương vào diệu lý bốn sự thật để biết đến bến bờ. Nếu em bé chăn trâu biết tìm chỗ có cỏ non và nước uống cho trâu, thì người xuất gia cũng phải biết rằng bốn lãnh vực quán niệm là mảnh đất tốt nhất để làm phát sinh giải thoát. Nếu em bé chăn trâu biết bảo trì những vùng thả trâu, không tàn hại phá phách môi trường nuôi trâu, thì người xuất gia cũng phải cẩn thận và dè dặt trong việc tiếp xúc với quần chúng, và thu nhận của cúng dường. Nếu em bé chăn trâu biết dùng những con trâu lớn làm gương cho những con trâu con, thì người xuất gia cũng phải biết nương vào đức hạnh và kinh nghiệm của các bậc thầy đi trước… Một vị khất sĩ biết làm đúng theo mười một điều vừa nói, thì có thể đạt đến quả vị La hán trong vòng sáu năm tu học.
Vị khất sĩ trẻ tuổi Svastika lấy làm kỳ lạ. Những điều chú nói với Bụt cách đây mười năm, Bụt còn nhớ hết. Người đã nhắc lại tất cả những chi tiết, và còn đem áp dụng vào việc tu học của người khất sĩ. Tuy Bụt đang dạy giáo lý chung cho đại chúng, nhưng chú có cảm tưởng là Bụt đang dạy riêng cho một mình chú. Chú nhìn đăm đăm vào mặt Bụt, hai mắt không rời khỏi người.
Những lời Bụt dạy thật hàm súc. Những danh từ như “sáu căn”, “sáu trần”, “bốn sự thật”, và “bốn lãnh vực quán niệm”… mà Bụt đã xử dụng trong bài pháp thoại, Svastika chưa hiểu được tường tận. Chú tự bảo là sẽ nhờ chú Rahula giảng giải cho. Nhưng chú có cảm tưởng là dù sao chú cũng hiểu được khái quát những lời Bụt dạy. Chú sẽ ôn lại những điều học hôm nay với chú Rahula. Nhưng Bụt đã lại lên tiếng, Người giải thích thêm về việc chọn con đường an toàn cho trâu đi. Nếu con đường có quá nhiều gai góc, trâu có thể sẽ bị thương, và những vết thương có thể làm độc. Nếu em bé chăn trâu không biết cách trị thương cho trâu thì trâu có thể lên cơn sốt và lăn ra chết. Sự tu học cũng giống như thế. Không tìm chánh đạo mà đi thì sẽ bị mang thương tích trong thân thể và tâm hồn. Những vết thương do các độc tố tham sân si làm cho ung thối sẽ có thể làm hư hỏng cả sự nghiệp giác ngộ.
Bụt ngừng nói. người ra dấu cho Svastika lại gần người. Svastika vâng lời, đến đứng chấp tay búp sen bên Bụt. Bụt tươi cười giới thiệu chú với đại chúng. Người nói:
- Mười năm trước, tôi đã được gặp chú Svastika tại rừng Gaya, trước ngày thành đạo. Chính chú Svastika đã cho tôi những nắm cỏ Kusa để trải làm tọa cụ mà ngồi dưới gốc cây Bồ Đề. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Những điều mà tôi biết về nghệ thuật chăn trâu là do chú dạy tôi hồi đó. Tôi biết Svastika là một em bé chăn trâu giỏi. Và tôi tin tưởng rằng vị khất sĩ Svastika hôm nay cũng sẽ là một vị khất sĩ giỏi trong ngày mai.
Mọi con mắt đổ dồn về phía Svastika. Chú biết là hai tai và hai má chú đang đỏ bừng.
Mọi người cháp tay búp sen để chào chú. Chú cúi đầu chắp tay đáp lễ.
Bụt kết thúc buổi pháp thoại bằng cách yêu cầu chú Rahula lặp lại những phép quán niệm hơi thở. Chú Rahula đứng dậy chắp tay. Chú đọc rành mạch từng phép. Giọng chú sang sảng như tiếng chuông đồng. Đọc xong, chú lại chắp tay cung kính xá đại chúng. Bụt đứng dậy. Người trở về am tranh. Đại chúng giải tán. Mọi người thu xếp tọa cụ và trở về vị trí mình. Tại tu viện Trúc Lâm không phải ai cũng cư trú trong các tịnh xá. Có nhiều vị khất sĩ ngồi thiền và ngủ ngay dưới các bụi tre. Chỉ khi nào trời mưa các vị mới xếp tọa cụ và tìm vào ẩn mưa ở các tăng xá hoặc ở giảng đường.
Svastika được thầy Sariputta cho phép ở chung một liêu với chú Rahula. Năm nay chú Rahula đã chững chạc rồi nên không còn phải ngủ chung một liêu với thầy y chỉ sư như những năm còn bé. Svastika rất sung sướng được thân cận với Rahula. Chú thầm cảm ơn vị y chỉ sư. Thầy Sariputta hiểu chú không kém gì Bụt. Hèn gì ai cũng nói thầy là học trò lớn của người.
Chiều nay sau giờ thiền tọa, Svastika tập đi kinh hành một mình. Chú chọn một con đường vắng trong tu viện để khỏi phải gặp nhiều người. Trong lúc kinh hành, chú không được nhất tâm cho lắm, bởi vì chú đã bắt đầu cảm thấy nhớ nhà và nhớ các em. Hình bóng con đường làng dẫn ra bờ sông hiện rõ trong trí. Hình bóng của bé Bhima đang cúi mặt xuống gần như khóc. Hình bóng của thằng Rupak một mình chăm sóc đàn trâu đông đảo của ông Rambhul. Chú cố xua đuổi những hình ảnh ấy đi để chú tâm vào bước chân và hơi thở, nhưng thỉnh thoảng các hình bóng ấy lại lảng vảng về.
Chú hơi giận chú là đã không hết lòng tu học đã không xứng đáng với lòng tin cậy của Bụt. Chú định bụng sau giờ thiền hành sẽ đi tìm chú Rahula để hỏi thêm về phương pháp nhiếp tâm. Với lại còn có mấy điều Bụt dạy hồi trưa mà chú ghi nhận chưa được kỹ càng. Rahula chắc chắn là có thể giúp chú. Nghĩ đến Rahula, chú thấy vững tâm hơn và tự nhiên tâm trí chú trở nên định tĩnh. Giờ đây chú có thể tập trung được tâm ý vào hơi thở và bước chân một cách dễ dàng hơn trong việc thực tập thiền hành.
Svastika chưa kịp đi tìm Rahula thì Rahula đã tìm đến chú, Rahula kéo chú ngồi xuống bên một gốc tre.
- Hồi xế trưa tôi có gặp thầy Ananda. Thầy đã được nghe Bụt giới thiệu về chú và thầy muốn gặp chú để được nghe chú kể chuyện ngày xưa, hồi chú còn bé và chú đã được gặp Bụt như thế nào.
- Thầy Ananda là ai vậy hả chú?
- Thầy là một vị vương tử dòng học Sakya, và là em chú bác của Bụt. Thầy xuất gia bảy năm nay. Thầy học giỏi lắm và rất được Bụt thương. Thầy thường để tâm săn sóc đến sức khỏe của Bụt, thầy mời anh em mình chiều mai đến thảo am của thầy đàm đạo. Tôi cũng rất muốn được nghe chú kể chuyện Bụt hồi người còn tu ở rừng Gaya.
- Thế Bụt chưa kể cho chú nghe sao?
- Có chứ, nhưng người chỉ kể sơ lược thôi. Tôi tin chắc là chú có rất nhiều chuyện hay để kể lại.
- Chuyện thì cũng không có gì nhiều đâu, nhưng nhớ được điều gì tôi sẽ kể lại điều ấy. Này chú, thầy Ananda có dễ thương không? Tôi ngại quá.
- Dễ thương lắm, và hiền lắm. Tôi đã có nói sơ lược về chú và về gia đình chú cho thầy ấy nghe, thầy ấy tỏ vẻ ưa thích lắm. Thôi nhé, chúng ta sẽ gặp lại nhau ngày mai vào giờ đi khất thực. Tôi sẽ đi giặt y cho kịp khô.
Rahula đứng dậy, Svastika kéo áo bạn:
- Chú ngồi chơi thêm chút nữa, tôi có mấy điều muốn hỏi chú. Hồi sáng Bụt dạy rất rõ về mười một điều mà một vị khất sĩ cần phải làm theo. Tôi đã không ghi nhớ hết mười một điều. Vậy nhờ chú chỉ bảo lại tôi.
- Hồi chiều tôi cũng có nhẩm lại mười một điều ấy nhưng tôi cũng chỉ nhớ được có chín điều. Thôi thế này nhé, ngày mai gặp thầy Ananda chúng ta sẽ nhờ thầy nhắc lại.
- Có chắc thầy Ananda nhớ được hết không?
- Chắc chứ! Ai chứ thầy Ananda thì một trăm mười một điều thầy cũng nhớ được chứ đừng nói mười một điều. Chú mới tới thành ra không biết thầy Ananda đấy thôi. Thầy có một trí nhớ kinh khiếp lắm; ở đây không có người nào là không phục. Những điều Bụt nói, thầy ấy có thể trùng tuyên lại vanh vách không sót một chi tiết nào. Ai cũng xưng tụng thầy là “đệ nhất đa văn” đấy. Hễ ai quên một điều gì Bụt đã dạy thì người ấy lại tìm đến thầy Ananda. Ở đây lâu lâu đại chúng lại tổ chức một buổi học ôn lại và mời thầy trùng tuyên lại những bài dạy căn bản của Bụt.
- Vậy thì chúng ta may mắn quá. Chúng ta đời đến chiều mai vậy.
À mà quên, tôi lại định hỏi chú: làm thế nào để nhiếp tâm trong khi đi kinh hành?
- Chú muốn nói là khi đi kinh hành chú cứ nghĩ đến những chuyện khác phải không? Hẳn là chú nhớ tới các em chú ở nhà?
Svastika nắm tay bạn:
- Sao chú thông minh quá! Quả thật tôi có nghĩ đến các em ở nhà. Chiều hôm nay sao tôi thấy nhớ nhà thế. Tôi rất hối hận đã không nhất tâm với việc tu học. Tôi cảm thấy xấu hổ với Bụt và với chú lắm.
Rahula cười:
- Chú đừng cảm thấy xấu hổ. Hồi tôi mới đi theo Bụt tôi cũng nhớ mẹ, ông nội và bà dì của tôi lắm. Có nhiều đêm tôi nằm úp mặt vào vách mà khóc một mình. Tôi biết mẹ tôi, ông nội và bà dì tôi cũng nhớ tôi lắm. Nhưng mà lâu ngày thì quen đi.
Rahula kéo Svastika đứng dậy. Chú ôm ngang hông Svastika một cách thân ái:
- Các em chú dễ thương lắm. Chú nhớ nhà là phải. Nhưng rồi chú cũng sẽ quen đi như tôi. Ở đây chúng ta có nhiều chuyện phải làm lắm. Phải tu và phải học. Có dịp tôi sẽ kể chuyện mẹ tôi, ông nội tôi và bà dì cho chú nghe. Chú có muốn nghe không?
Svastika nắm chặt bàn tay của Rahula trong hai tay mình. Chú gật đầu.
Hai bạn chia tay. Rahula đi giặc y.
Svastika đi tìm chổi quét lá tre xung quanh các tịnh xá và gom lá tre lại thành từng đống.

Nguồn: quangduc

Đường Xưa Mây Trắng Chương 1 : Đi để mà đi

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online


193 Phiếu
Đã xem 225937 lần.

truyện dài

Đường Xưa Mây Trắng


Chương 1
Đi để mà đi


Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc trong những chiếc am lá nhỏ dựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh.
Bụt hiện đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ, học trò của Người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tịnh. Đất của tu viện rộng đến bốn chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp khỏe, lấy từ khắp nơi trong vương quốc Magadha. Tu viện tọa lạc ở phía bắc thành Vương Xá. Tu viện này do chính vua Bimbisara hiến tặng cho Bụt, và cho giáo đoàn khất sĩ của Người cách đây bảy năm.
Svastika mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã mỏi. Chú tháo chân ra khỏi tư thế hoa sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân. Svastika năm nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ cách đây ba hôm. Thầy Sariputta, một trong những vi cao đệ của Bụt đã làm lễ truyền giới cho chú.
Svastika quê ở Uruvela gần Gaya, chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành đạo, cách đây đúng mười năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi.
Bụt thương chú lắm, cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Uruvela tìm chú. Bụt đưa chú về đây, và Bụt đã bảo thầy Sariputta truyền giới khất sĩ cho chú. Được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Svastika sung sướng lắm.
Chú nghe nói trong giáo đoàn của Người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ giới quyền quý, như thầy Nanda. Thầy Nanda cũng là hoàng thái tử, em ruột của Bụt. Lại có những vị hoàng thân khác như Bhaddiya, Devadatta, Anuruddha và Ananda. Chú chưa đựơc trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị nầy, tuy chú đã được trông thấy họ.
Các vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người nhưng dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Svastika có cảm tưởng là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị.
Bụt là một vị hoàng tử con vua thật đấy, nhưng Svastika không còn tìm thấy được sự ngăn cách nào giữa Người và chú.
Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt hàng giờ hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cội bồ đề im mát. Chú thuộc về hạng những người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú.
Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay.
Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú đã chung đụng với những người tu thuộc giai cấp quý tộc. Những người này đều là khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm thấy thật sự thỏai mái với họ. Chắc là tại chú chưa quen. Có lẽ phải sống với họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm thấy đây là thế giới của chú.
Nghĩ tới đây, Svastika lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải mới với một người khác nữa. Đó là chú Rahula, con trai Bụt, Rahula năm nay mười tám tuổi, Rahula được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, Rahula đã bước được những bước thật dài. Hiện Rahula là bạn thân nhất của chú. Chính Rahula đã chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở. Rahula giỏi giáo lý và hành trì hơn chú nhiều nhưng sỡ dĩ Rahula chưa được thọ giới khất sĩ vì tuổi Rahula chưa đến hai mươi.
Muốn được thành khất sĩ, muốn được thọ giới bhikkhu, nghĩa là giới khất sĩ thì ít nhất phải là hai mươi tuổi.
Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Uruvela tìm Svastika thì gặp lúc Svastika không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupka. Chỉ có hai đứa em gái của chú là ở nhà.
Bala là chị Rupka năm nay lên mười sáu, còm Bhima là đứa em gái út năm nay mười hai tuổi.
Bla nhận ra ngay được Bụt. Nó đòi ra bờ sông tìm anh, nhưng Bụt nói là để Bụt tự ý đi tìm. Rồi người rủ Rahula cùng đi.
Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa. Ai cũng theo Bụt đi ra bờ sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Svastika. Lúc ấy trời đã chiều, và Svastika đang cùng Rupka tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Svastika chăn có tới tám con trâu lớn và một con nghé. Hai anh em Svastika cũng nhận ra Bụt ngay tức khắc.
Svastika cùng Rupka vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt.
- Các con đã lớn quá, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái.
Svastika đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng ngời ngày xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn hình ốc trên đầu. Bụt khoác một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết lại. Người vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Svastika đưa mắt nhìn các vị xuất gia đứng sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào cũng quấn y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ một tấc. Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Svastika. Vị thầy này cứ nhìn chú mà mỉm cười hoài. Bụt xoa đầu Svastika và Rupak. Người bảo người đang trên đường về thành Vương Xá, tiện đường chiều nầy ghé lại thăm mấy anh em. Người bảo người sẽ đứng trên bờ sông, đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong rồi sẽ cùng về nhà.
Trên đường về làng Bụt giới thiệu chú Rahula với hai anh em. Chú Rahula là vị xuất gia trẻ tuổi nhất hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Svastika mà cười hoài. Rahula thua Svastika ba tuổi nhưng cũng đã cao bắng Svastika. Rahula chưa thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s’ramanera, nghĩa là một vị sa di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. Rahula đi giữa hai anh em. Chú trao chiếc bát cho Rupak giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một cách thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Svastika rồi, và chú có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Svastika cảm nhận ngay được thân tình mà Rahula bộc lộ.
Về tới nhà, Bụt hỏi Svastika có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn khất sĩ không. Đây là một điều mà Svastika mong ước từ lâu. Mười năm trước, Svastika đã từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ thừa nhận chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây Người đã trở lại. Người đã không quên lời hứa. Các em của Svastika đã lớn cả rồi. Rupak em trai của Svastika đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn của Svastika là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.
Bụt ngồi ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cả các vị khất sĩ đều đứng sau lưng người. Nhà của mấy anh em Svastika là một túp lều lụp xụp, vách đất, làm gì có đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupak đi lùa trâu về nhà ông chủ trâu, cũng chưa về. Bala nói với Svastika:
- Anh cứ đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupak nó mạnh lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười năm rồi, không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.
Ngồi bên lu nước, con Bhima ngửng lên nhìn chị, không nói năng gì, Svastika nhìn nó. Con bé năm nay đã lớn. Hồi Svastika mới được gặp Bụt. Bhima còn chưa đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẳm em vừa nấu cơm. Rupak hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha chúng vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em Bhima. Svastika mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được chăn trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó kiếm đủ thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin sữa trâu cho bé Bhima nữa.
Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Anh đi với Bụt đi.
Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã từng nghe anh nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi, nhưng nó lại buồn khi biết anh nó sắp đi.
Vừa lúc ấy, Rupak về tới. Rupak nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả. Nó nhìn Svastika, và nói:
- Anh cứ đi với Bụt đi.
Mọi người im lặng, Rupka nhìn Bụt nói:
- Bụt cho anh con được đi học với Bụt . Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em con rồi.
Và quay sang Svastika, Rupak nháy mắt:
- Nhưng thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em.
Thế là vấn đề của Svastika được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu Bhima và nói:
- Các con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón Svastika cùng lên đường đi Rajagaha. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về cây Bồ Đề và sẽ nghỉ đêm trong ấy.
Ra tới cổng, Bụt quay lại. Người nhìn Svastika và nói:
- Ngày mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con nhé.
Đêm đó, bốn anh em thức khuya. Svastika dặn dò các em đủ điều. Svastika ôm từng đứa em trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng bé lại ngửng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng chiếc đền dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không ai nghĩ đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi xế chiều.
Sáng tinh sương hôm sau, khi Svastika vừa dậy thì đã thấy chị Sujata đến thăm. Chị đến để chào từ giã Svastika, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã được gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Svastika sẽ lên đường theo Bụt Chị Sujata là con gái của ông hương cả. Chị lớn hơn Svastika hai tuổi, ngày xưa, chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp mấy anh em Svastika nhiều lần trong những cơn ốm đau hoạn nạn.
Sujata đem đến tặng Svastika một lọ dầu, nói là để đánh gió những khi bị nhức đầu. Hai chị em mới nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em của Svastika cũng đã dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh.
Chú Rahula đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của Svastika. Chú hứa trong tương lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya thế nào chú cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Sujata và ba đứa em của Svastika đưa Bụt và đoàn khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về phía Đông Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú Rahula và chào Svastika. Svastika thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Svastika rời bỏ quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Rajagaha. Bụt và các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng Svastika cũn chậm bước lại. Bước chân Svastika cũng trở nên khoan thai. Lòng Svastika bây giờ bình yên hơn. Svastika đã một lòng quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Svastika đã có đường đi của mình.
Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Sujata và các em đã khuất sau rừng cây.
Svastika có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như là đi chơi. Không ai tỏ vẻ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa. Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình bát, Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula. Đoàn người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước. Thỉnh thoảng đoàn người dừng lại. Có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ đứng nghiêng mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm lặng hộ niệm cho người thí chủ.
Đoàn khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu rừng hay dưới một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia xẻ thức ăn đã xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên mang theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt chắp tai lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng. Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một tàu là chuối tươi.
Thọ trai xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường. Đoàn người đi chó đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc. Chỗ nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị thiền tọa đến quá nửa đêm mới ngả lưng xuống nghỉ trên áo cà sa xếp tư của mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để đắp khi trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.
Buổi sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Svastika thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng rõ, mọi người lại xếp y, cầm bát và chuẩn bị lên đường.
Ngày đi đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai, nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại để ngắm đoàn khất sĩ. Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất sĩ vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.
Tin Bụt về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát, gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá. Rồi người giao Svastika cho thầy Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ của chú Rahula. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đáng hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là đại đức Kondanna.
Chú Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hàng ngày trong tu viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách thiền hành, cách thiền tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách khoác y, mang bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát.
Nội trong ba hôm, Svastika theo sát chú Rahula để học tất cả những thứ đó. Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng Svastika biết rằng để có thể làm được những việc nầy một cách ung dung và tự nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Svastika về giới luật của người khất sĩ.
Khất sĩ là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho mình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo nghiệp giải thoát, và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cùng đi trên một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhường. Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với dân chúng và hướng dẫn moị người vào con đường của hiểu biết và của thương yêu mà Bụt chỉ dạy.
Mười năm về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy. Nét mặt của thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ ái. Thầy nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộc những câu nói và chú phải nói trong lễ thọ giới.
Trong lễ thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta, là giới sư, truyền giới. Chỉ có khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dữ lễ truyền giới này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ xuống tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới. Svastika được thầy Sariputta trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc nước. Đã học cách quấn y với Rahula rồi nên chú mặc y vào người một cách tự nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ niềm quý kính và lòng biết ơn của chú.
Ngay sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu. Quấn y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú. Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt không đi trong đoàn của Svastika.
Vừa bước ra khỏi tu viện, Svastika thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương thức hành đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan nghiêm, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú Rahula hiện đi ngay phía sau chú. Tuy Svastika có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất rõ là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của Rahula. Và chú thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú.


Source : Quang Duc
posted by Tran Ho Dung

Đường Xưa Mây Trắng - Thich Nhat Hanh




truyện dài

Đường Xưa Mây Trắng


Lời mở đầu
Tác giả kể chuyện xoay quanh việc viết
tác phẩm "Đường xưa mây trắng"


Năm đầu khi mở cửa Làng Mai vào mùa hè, tôi thường hay cư trú trên phòng của cư xá Hồ Đào gần với cây Tilleul. Ở dưới có quán sách và ở trên là phòng tôi ở. Vào năm đầu và năm thứ hai chúng ta có ít phòng lắm nên tôi đã ngủ chung với mấy thiếu nhi. Bốn năm đứa trẻ ngủ chung với tôi và ban đêm các cháu đã nằm lăn ra khắp nơi. Bài hát "Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời..." tôi có chủ ý làm cho thiếu nhi hát. Tôi nghĩ là thiếu nhi phải hát chứ tụng thì chưa đủ. Hôm đó tôi ngồi thiền buổi chiều trong thiền đường Yên Tử. Trước mặt tôi có một tảng đá vì các bức tường của thiền đường Yên Tử đều được xây toàn bằng đá. Đang ngồi thiền thì thấy tự nhiên những nốt nhạc của bài "Con về nương tựa Bụt" đi ra. "Con về nương tựa Bụt, Namo Buddhaya". Sau đó tôi sửa lại "Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời" rồi mới tới "namo Buddhaya".

Tôi tự nghĩ: "Mình đang ngồi thiền chứ đâu phải đang sáng tác nhạc. Thôi để ngồi thiền xong rồi sẽ sáng tác tiếp." Nhưng ngồi một lát nữa thì những nốt nhạc lại trở về. Tôi nghĩ: "Thôi, nếu đã như vậy thì mình sáng tác ngay lúc này." Và trong khi ngồi thiền tôi tiếp tục sáng tác bài "Con về nương tựa Bụt". Ngồi thiền xong thì tôi ra thâu bài hát vào băng nhựa vì sợ quên. Trong thời gian thiền sư Baker Roshi tới thăm Làng Mai, tôi đã khởi thảo tập sách Thiền Hành Yếu Chỉ . Rất nhiều người muốn có một tập sách hướng dẫn về thiền đi. Sau đó thì những bài thi kệ nhật dụng bằng tiếng Việt được sáng tác. Tôi còn nhớ là hồi đó tôi viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết, mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ ba anh em ông Ca Diếp. Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chãi là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Cái chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Mình đã thành Phật rồi, mình đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình mình vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của em. Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.



Thích Nhất Hạnh.


Chương 1


Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

24/10/08

VÔ ĐỀ

Vô đề


Đất trời vô thủy vô chung

Dòng sông vô lượng, phù dung vô tình

Đằng sau ánh mắt em nhìn

Xin cho hỏi nhỏ : có hình bóng tôi ?


Trần Hồ Dũng
saigon , 2008

6/7/07

Một tâm hồn đồi truỵ: Trần Dần

Huy Vân
Một tâm hồn đồi truỵ: Trần Dần

Việc phục hồi cho các văn nghệ sĩ trí thức từng tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm cũng như vinh danh sự nghiệp của họ chỉ thực sự có ý nghĩa cùng với việc thông tin đầy đủ và công khai về chính giai đoạn xảy ra tấn bi kịch của họ 50 năm trước. Nhân 10 năm ngày mất của Trần Dần (17.1.1997-17.1.2007), chúng tôi chọn đăng lại một bài viết về ông trên báo Nhân dân năm 1958, giữa thời điểm “Vụ án Nhân văn-Giai phẩm” vào hồi tuyên án, và một số đoạn về Trần Dần trong tác phẩm chưa được dịch ra tiếng Việt, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (Trăm hoa đua nở trong màn đêm nước Việt), của nhà nghiên cứu người Pháp Georges Boudarel.
talawas


Xưa nay có nhiều người, tuy xuất thân hư hỏng, quá khứ xấu xa, sau nhờ có ánh sáng của Ðảng, của cách mạng và nhờ có tinh thần tự nguyện tự giác cố gắng cải tạo, mà ngày nay đã trở thành những người hữu ích, những người cách mạng. Trần Dần không thuộc vào lớp đó.

Nhiều người ở Nam Ðịnh đều biết Trần Dần là con một nhà địa chủ và tư sản đã dựa vào thế lực thực dân để bóc lột nhân dân lao động. Sống trong một gia đình "ngồi mát ăn bát vàng" như vậy, Trần Dần đã sớm đi vào con đường truỵ lạc, bê tha. Khoảng từ năm 1943, Trần Dần đã là học trò của một bọn văn sĩ tơ-rốt-kít.

Cách mạng tháng Tám thành công, trong lúc số lớn thanh niên ta đều đem trái tim và tuổi trẻ của mình cùng với cha, anh đón chào thắng lợi của cách mạng, thì "trái tim, khối óc" của Trần Dần vẫn ngập trong khói thuốc phiện. Ở Hà Nội cuối năm 1946, cả dân tộc sắp đi vào kháng chiến toàn quốc, thì Trần Dần cùng với Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Ðịch đã lập ra nhóm "thi sĩ tượng trưng" viết báo Dạ Ðài để cho ra cái tuyên ngôn ngày 16-11-1946 với những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ...“. Rồi giữa đêm 19 tháng Chạp, trong lúc bộ đội và nhân dân thủ đô xông vào khói lửa chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, thì Trần Dần và những kẻ cùng nhóm vẫn còn chạy chọt để hòng cho ra số 2 của báo Dạ Ðài sặc mùi thuốc phiện! Những việc kể trên đây có thể tóm tắt phần nào cái thái độ lạc lõng xa lạ của Trần Dần đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn dân ta. Trần Dần cũng đi vào kháng chiến, nhưng vẫn không chịu từ bỏ những quan điểm nghệ thuật sa đoạ của hắn. Trong "Nhóm văn nghệ Sơn La“, hắn đã vẽ toàn lối tối tăm khó hiểu, biến hình ảnh anh dũng và đẹp đẽ của bộ đội ta thành những hình thù rất quái gở, làm thơ cũng vậy. Ở Sơn La, cái lối sống và quan niệm sáng tác đã đưa Trần Dần đến nhiều sai lầm, bị thi hành kỷ luật.

Mặc dù tư tưởng của Trần Dần có nhiều bê bết của cái cũ, Ðảng và quân đội ta vẫn hết lòng giáo dục, cải tạo. Chính vì muốn cải tạo Trần Dần có kết quả hơn, mà sau các kỳ chỉnh huấn, tổ chức của ta đã giúp cho hắn đi vào thực tế chiến đấu của bộ đội, tạo điều kiện cho hắn viết được cuốn Người người lớp lớp với ít nhiều tiến bộ về nội dung, song nghệ thuật vẫn còn non kém. Với cuốn sách đó, đáng lẽ Trần Dần phải tự thấy mình còn phải cố gắng nữa, nhưng trái lại, hắn đã vội dương dương tự đắc, lấy đó làm cái vốn để yêu sách Ðảng và quân đội.

... Khi về Hà Nội mới giải phóng, Trần Dần đã bất chấp cả tám chính sách và mười điều kỷ luật vào thành của chính phủ, bất chấp cả kỷ luật quân đội, tự do bỏ doanh trại ra ngoài sinh hoạt bê tha.

Mỗi lần về đơn vị, Trần Dần và bọn theo hắn dùng cách dương đông kích tây, cô lập người tốt, về hùa nhau đòi tự do, đòi bỏ nội quy để chúng được tự do sống theo cái lối truỵ lạc của chúng.

Giữa lúc những phần tử lạc hậu trong giai cấp tư sản ầm ĩ đòi đảm bảo cái thứ tự do "bóc lột", đầu cơ buôn lậu của chúng, thì trong bộ đội, Trần Dần lên tiếng đòi tự do tuyệt đối, đòi lối sống đồi truỵ và xuất bản những thơ văn chống chế độ. Trần Dần đã dùng lối "bắt rễ xâu chuỗi" tập hợp những phần tử xấu trong văn nghệ quân đội như Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm để kéo bè kéo cánh hoạt động chống đối với cơ quan lãnh đạo. Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Hoàng Yến đã lợi dụng việc phê bình tập thơ Việt Bắc và phong trào phê bình văn học lúc bấy giờ để lôi kéo vây cánh đả vào cán bộ chính trị và đường lối văn nghệ phục vụ chính trị. Lợi dụng thắc mắc của một số anh em văn nghệ quân đội, Trần Dần đã nấp dưới chiêu bài "chống công thức", "đi tìm cái mới", chỉ huy cái bào thai Nhân văn-Giai phẩm trong quân đội, kéo bè kéo cánh đả kích lãnh đạo và tụ tập nhau đề ra cái gọi là "chính sách về văn nghệ trong quân đội", công khai và trắng trợn đòi "văn nghệ phải độc lập với chính trị", "trả quyền lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ". Trước thái độ khiêu khích của bọn Trần Dần, tổ chức trong quân đội đã nhiều lần khuyên răn họ trở lại con đường đúng. Nhưng bọn Trần Dần vẫn tiếp tục ngoan cố. Bọn Trần Dần đã hoạt động như những phần tử tác động tinh thần.

Ðể truyền bá những tư tưởng phản động của mình, Trần Dần đã dự định ra khỏi quân đội, mưu viết báo chống lại chế độ. Sau khi cùng với Nguyễn Hữu Ðang, Lê Ðạt, Văn Cao, Hoàng Cầm mặc cả với những phần tử tư sản phản động về cái chức chủ bút một tờ báo tư với số lương tháng 10 vạn đồng, Trần Dần đã viết đơn xin ra khỏi Ðảng và quân đội. Những phần tử xấu trong văn nghệ bộ đội cũng hùa theo hắn viết thư "xin ra". Mặc dù Trần Dần đã đi đến chỗ rất xấu như vậy, chi bộ vẫn giữ phương châm kiên nhẫn giáo dục. Song hắn vẫn ngoan cố, lại dùng những lời lẽ khiêu khích chi bộ. Toàn thể chi bộ đã nhất trí quyết nghị khai trừ hắn ra khỏi Ðảng.

Trong bài "Con người Trần Dần" đăng ở Nhân văn số 1, để làm ra bộ Trần Dần là kẻ vô tội, bọn Nhân văn đã đưa ra một thứ Trần Dần vô tư không hề biết chuyện bài mình đăng trong cái tập Giai phẩm mùa Xuân năm 1956. Sự thật thì khác hẳn. Sau khi đã ngoan cố chống lại quân đội, Trần Dần đã ra bàn với Văn Cao, Lê Ðạt, Tử Phác, Ðặng Đình Hưng, Hoàng Cầm để âm mưu đẻ ra cái Giai phẩm mùa Xuân năm 1956 với ý định tập họp nhau lại bôi nhọ chế độ ta. Chính từ cái Giai phẩm mùa Xuân này đã bắt đầu thành hình một nhóm chống Ðảng, chống nhân dân. Hồi ấy là lúc quân đội đã cho Trần Dần xuống nông thôn để nhìn thấy thực tế mà sửa mình, nhưng hắn ta chẳng hề tỉnh ngộ, còn viết chuyện "Lão rồng" và chuyện "Anh Cò Lấm" để ám chỉ cán bộ Ðảng và chửi cải cách ruộng đất.

Vừa tích cực tham gia Giai phẩm mùa Xuân, Trần Dần vừa tiếp tục nói những lời chống Ðảng và có những hành động khả nghi bỏ nơi công tác về Hà Nội sinh hoạt truỵ lạc. Hắn đã vi phạm nặng kỷ luật bộ đội. Vì mục đích bảo vệ sự nghiêm chỉnh của kỷ luật quân đội, tổ chức bộ đội đã phải cho giữ Trần Dần để kiểm thảo, đi tới cải tạo. Nhưng vì quen cái lối đập đầu vu vạ của bọn khách nợ địa chủ, Trần Dần đã lấy một lưỡi dao cạo râu kéo da cổ ra, cứa ngoài da, rồi lu loa lên dọa tự tử, hòng gây dư luận xấu đối với quân đội. Trước thái độ kiên quyết của tổ chức bộ đội, Trần Dần đành vờ viết một bản kiểm thảo nhận những sai lầm của hắn và tự đề ra một kế hoạch sửa chữa. Vì thấy thái độ của Trần Dần có biểu hiện chuyển biến, tổ chức đã đưa hắn về đơn vị giữ nguyên chức vụ cũ, và về sau lại cho chuyển ngành theo nguyện vọng. Nhưng liền sau đó, hắn đã tráo trở ngay. Hắn đã mưu mô với Nguyễn Hữu Ðang, Phan Khôi, Trần Duy, Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Văn Cao cho viết ra cái hồi ký "Con người Trần Dần". Ðó là một bài đầy rẫy những chuyện vu cáo. Khi bài "Con người Trần Dần" vừa ló ra, nhiều đồng chí trong và ngoài bộ đội biết chuyện đã từng viết bài muốn vạch sự thật về vụ Trần Dần. Biết cái mưu mô gian tà của mình khó lọt, Trần Dần và Hoàng Cầm đều hứa với các cơ quan có trách nhiệm, xin tự cải chính. Nhưng rồi hắn không cải chính, Trần Dần cũng như Lê Ðạt đã viết rất nhiều bài cho Nhân văn-Giai phẩm ký bằng nhiều tên khác nhau. Trần Dần còn mớm ý cho kẻ khác viết (Như Mai bài "Thi sĩ máy", Mai Hanh bài "Xuống trần", v.v...) hoặc tự tay sửa bài của bọn khác. Nếu lấy tất cả những bài Trần Dần đã viết cho Nhân văn-Giai phẩm (đã đăng, hoặc chưa đăng) đem thống kê lại thì ta thấy Trần Dần đã đả kích vào rất nhiều mặt quan trọng của chế độ ta: từ các đường lối chính trị trong nước đến quan hệ quốc tế, từ sự lãnh đạo của Ðảng trong văn nghệ đến sự lãnh đạo chung của Ðảng. Sau khi âm mưu chuyển mạnh sang hành động chính trị của nhóm Nhân văn bị bại lộ, Trần Dần đã cùng với Văn Cao tìm cách "cứu" cho bè lũ. Ðến khi báo Nhân văn bị cấm và nhóm Nhân văn bị dư luận quần chúng vạch mặt, thì Trần Dần lại ra sức gặp những kẻ cùng nhóm để động viên và giữ vững tinh thần, rồi lại tập hợp nhau tiếp tục hoạt động với những âm mưu mới, tinh vi và nham hiểm hơn...

Nhân dân, ngày 25-4-1958

Nguồn: Trích lại trong cuốn Bọn Nhân văn-Giai phẩm trước toà án dư luận, Nhiều tác giả, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1958. Bản điện tử do talawas thực hiện.