Trịnh Công Sơn và Tham Vọng Chính Trị
Trịnh Cung 1.04.2009
LTS:
“Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị” của họa sĩ Trịnh Cung nhất định sẽ được đón nhận với nhiều phản ứng khác nhau từ nhiều tầng lớp độc giả. Bài viết đưa ra một số nhận xét của cá nhân Trịnh Cung về người nhạc sĩ tài hoa, sống và sáng tác trong một giai đoạn vô cùng điêu linh của đất nước, cùng với một số tư liệu đã được công bố ở một số nơi. Tác giả Trịnh Cung tất nhiên đã dự kiến được những gì bài viết này có thể mang đến cho chính ông khi ông viết: “Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.”
Tạp chí Da Màu trân trọng ghi nhận tinh thần trách nhiệm của hoạ sĩ Trịnh Cung, và bài viết được đăng tải với ước muốn tạo cơ hội làm sáng tỏ những ngóc ngách trong đời sống của một nghệ sĩ tài hoa nay đã thành người thiên cổ.
Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?
Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).
co-nghe-ra-dieu-gi
Thủ bút Trịnh Công Sơn trong bài “Có Nghe Ra Điều Gì”
gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973
Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.
Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.
Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?
Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.
Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.
Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!
Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?
Vỡ mộng chính trị cầm quyền
Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.
Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.
Một chút về Nguyễn Hữu Đống
Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.
Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?
(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).
Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN
Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”
Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: “Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…
Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.
Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.
Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn
Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những “người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.
Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?
Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.
Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2
Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:
- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.
Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:
- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.
Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”
Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh
Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.
Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.
Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…
Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.
Điều Đáng Tiếc
Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.
Ảo Tưởng Cuối Cùng
Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.
Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?
Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt lồn!”.
Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.
Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực
Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.
Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.
Lời Kết
Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.
Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.
Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.
Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.
Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.
Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG
———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).
bài đã đăng của Trịnh Cung
2/4/09
Edward Celeson-Chủ nghĩa tư bản và nền tảng luân lý (1)
Edward Celeson-Chủ nghĩa tư bản và nền tảng luân lý (1)
Vitduc (www.x-cafevn.org) dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính
“Nền kinh tế thị trường, tức chủ nghĩa tư bản, hiện đang bị khinh ghét hơn bất cứ thứ gì khác. Trong điều kiện xã hội hiện tại, khi gặp những gì không hài lòng, người ta thường đỗ lỗi cho chủ nghĩa tư bản.” Ludwig von Mises viết như thế vào tháng Giêng năm 1947(1). Thật ra, chủ nghĩa tư bản đã mang tiếng xấu từ trườc đó rất lâu. John Ruskin từng phỉ báng Adam Smith là “… một gã Xcốtlen nửa người nửa ngợm đang cố tình rao giảng những lời báng bổ thánh thần: nào là ‘Hãy căm thù thượng đế, chúa tể của các ngươi, kệ xác những luật lệ của ông ta, và hãy luôn ngắm nghé tài sản của bọn láng giềng’”(2). Cứ như thế, từ nhiều năm qua, những người theo chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội Fabian đã tạo ra một kho tư liệu tuyên truyền khổng lồ chống lại chủ nghĩa tư bản.
Trong những giai đoạn khủng hoảng kinh tế, chủ nghĩa tư bản phải đương đầu với sự chống đối còn kinh khủng hơn thế nữa. Trong cuộc Đại Khủng Hoảng [giai đoạn 1929-1932 – ND] một quyển sách do nhiều tác giả Cơ Đốc giáo có viết như sau: “Tương lai của các cộng đồng Thiên chúa giáo tùy thuộc hoàn toàn vào việc Thiên chúa giáo, hay đúng ra là những tín đồ Thiên chúa giáo, có quyết tâm chấm dứt ủng hộ chủ nghĩa tư bản và bất công xã hội hay không” (3). Những tuyên bố như thế vào thời đó không phải là ít. Trong quá khứ không xa, mọi người đều có cảm nhận rằng có vẻ như những người càng có khuynh hướng Phúc Âm chính thống (orthodox and evangelical wing) thì càng ủng hộ chủ nghĩa tư bản, và điều này đã được xác nhận qua dữ liệu thống kê. Nhưng ngày nay, một nhóm những người có ảnh hưởng rộng lớn trong giáo phái Phúc Âm đã thẳng thừng phủ nhận quan điểm bảo thủ về kinh tế và chính trị này và cho đó là phi Thiên chúa giáo.
Theo tôi, có lẽ một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của chúng ta hiện nay là tìm hiểu vì sao một số trí thức quan tâm đến những vấn đề xã hội, trong đó có cả những tín đồ Thiên chúa giáo, lại căm thù chủ nghĩa tư bản đến thế. Cũng không loại trừ những thành phần đối kháng theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ muốn hủy diệt chủ nghĩa tư bản cũng như quốc gia của chúng ta [nước Mỹ - ND] nhằm phục vụ cho quyền lợi của họ. Thế nhưng vẫn còn nhiều người tử tế và có thiện chí khác vẫn cứ phản đối nền kinh tế thị trường chỉ vì họ không hiểu được nó là gì.
Không tồn tại xã hội Utopia thời Tiền-Công-Nghiệp
Xét về mặt thời gian, điều ngụy biện đầu tiên cần phải phá bỏ là khái niệm tiền-tư- bản-chủ-nghĩa của xã hội loài người. Người ta rất dễ dàng thêu dệt ra một giai đoạn bình dị như thiên đàng mà ở đó người nông dân có một cuộc sống an lành hoàn toàn gần gũi với thiên nhiên, giống như đem “người man khai lương thiện” (Noble savage) trong thiên đường thời nguyên thủy mà Jean Jacques Rousseau hình dung đến sống trong thời trung cổ vậy. Thomas Hobbes (1588–679) lập luận có cơ sở hơn khi cho rằng cuộc sống hoang dã ngày xưa rất “tồi tệ, tàn bạo và ngắn ngủi”. Adam Smith (1723-1790) còn ghi nhận rằng trong thời kỳ của ông, “người ta thường gặp trên vùng cao nguyên ở Xcốtlen những người mẹ sinh đến 20 con nhưng chưa đến hai trong số đó có thể sống sót” (4). Nên nhớ rằng đây là chuyện xảy ra chỉ mới hai thế kỷ trước. Có nhà văn còn viết rằng tử suất của thị dân thời trung cổ cao hơn cả sinh suất, vì thế các thành phố, nếu muốn tồn tại, phải liên tục chiêu mộ dân nhập cư từ những vùng thôn quê (5). Những trận đói nghiêm trọng cũng thường xảy ra vào thời kỳ này. Gần đây hơn, E.A. Wrigley cho rằng cách đây gần ba thế kỷ, ở một số họ đạo mà ông nghiên cứu, tử suất tỉ lệ thuận với giá lúa mì vào thời đó (6). Ngoài ra còn phải kể đến nạn ô nhiễm môi trường ở mức độ khủng khiếp do mọi thứ rác rưởi đều được thải ra đường. Như vậy, cuộc sống vào cái gọi là thời kỳ tiền công nghiệp không có gì là tuyệt vời cả, thậm chí là tốc độ cải thiện đời sống trong thời kỳ đó chậm hơn nhiều khi so sánh với giai đoạn hiện đại ngày nay. Vì thế, rõ ràng là không có cơ sở lịch sử khi cho rằng mọi thứ đều hoàn hảo trước khi con rắn tư bản chủ nghĩa xuất hiện làm băng hoại cái thiên đàng hạ giới của loài người.
Một quan niệm khác cho rằng sinh hoạt xã hội và chính trị của loài người tương đối đơn giản trong thời kỳ tiền tư bản. Suy diễn đó được hình thành như sau: cuộc sống vào thập niên 1890 đơn giản hơn ngày nay, suy ra nó càng đơn giản hơn vào thập niên 1690 hay 1590 chẳng hạn. Lại sai nữa. Theo như lời kể của một số vị cao niên còn sống, đời sống con người, chỉ có ở giai đoạn sau cùng của thời kỳ Victorian, là tương đối đơn giản mà thôi; còn lại thì cuộc sống ở cuối thế kỷ 17 hay thời kỳ tiền công nghiệp cũng đều không khác mấy với cuộc sống ngày nay. Chẳng hạn như ở Pháp, “những quy định cho nghề dệt trong thời kỳ từ 1666 đến 1730 dài đến 2000 trang giấy in” (7). Hình phạt cho những ai vi phạm những quy định này cũng rất nghiêm khắc. Vô số người bị xử tử vì những vi phạm kinh tế mà lẽ ra không đáng để gán tội hình sự. Và cũng nên nhớ rằng những chuyện như vậy đã diễn ra ngay cả trước khi cuộc sống bị cuộc Cách Mạng Công Nghiệp làm cho rối ren, hay ít ra là như người ta vẫn kể. Rõ ràng không phải vì nhu cầu thực tiễn của cuộc sống mà những quy định cho nghề dệt vào thời kỳ đó lại phức tạp đến vậy - với một ngành dệt thủ công thì việc gì phải cần đến hàng ngàn trang luật lệ như thế - mà chính là do quan điểm cai trị của nhà cầm quyền. Điều này có nghĩa là con người vào thời đó “đã có một lòng tin vững chắc vào nhà nước trong việc sử dụng luật pháp như là một phương tiện hiệu quả để đạt được tất cả cũng như bất kỳ mục tiêu nào mà họ muốn” (8). Quả là hiện đại!
Adam Smith và nguyên tắc pháp trị
Adam Smith thường bị xem là một kẻ vô chính phủ. Thời nay nếu ai tin vào tự do thương mại, người đó hẳn cũng chấp nhận sự hiện hữu tất yếu của nhà nước. Dù là ngày càng có nhiều người theo khuynh hướng vô chính phủ - cũng có thể đó là phản ứng chống lại sự thái quá của chủ nghĩa nhà nước (statism) – nhưng điều này không có nghĩa là mô hình vô chính phủ là một mô hình tất yếu để thay thế cho mô hình nhà nước toàn trị. Smith phân biệt rất rõ ràng khái niệm “luật pháp vì công lý” và những mưu toan lố bịch của những kẻ muốn gây áp lực lên nhà nước để thao túng thị trường nhằm thu lợi cho riêng mình (9). Theo Smith, nhiệm vụ của nhà nước là thực thi công lý chứ không phải quản lý công việc của từng người dân. Ông còn quan niệm rằng nhà nước phải có nhiệm vụ chống ngoại xâm để bảo vệ quốc gia, duy trì “một số công trình công cộng và một số định chế công cộng” vì lợi ích chung của toàn dân, chẳng hạn như những dịch vụ mà nhà nước rất khó thu phí sử dụng từ dân như việc sử dụng hải đăng, lòng đường và lề đường trước nhà của người dân. Rõ ràng là Smith vẫn còn tin vào vai trò của nhà nước, tuy nhiên, cũng như Thomas Jefferson, ông cho rằng “hoạt động của nhà nước nên đơn giản và tiết kiệm.” Ngày nay có nhiều người đang nghiên cứu trở lại hai tác phẩm kinh điển ấn hành năm 1776, The Wealth of Nations [Của cải của các Quốc gia] và “Bản tuyên ngôn độc lập.” Hy vọng mô hình nhà nước hạn chế (limited government) sẽ lại được ưa chuộng trong thời gian sắp tới.
Chủ nghĩa tư bản và lòng tham
Một ngụy biện khác nữa cho rằng Adam Smith là kẻ tôn thờ lòng tham, rằng chấp nhận sự tàn bạo của tự do kinh doanh - “ai cũng giành giật cho mình, khôn sống mống chết.” Xin nhắc lại, đây là nhận định chung của nhiều người, cả phe tư bản lẫn xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên Smith không có ý như thế khi nói về chủ nghĩa tư bản. So với những lên án khác chống lại tự do kinh doanh thì sự ngộ nhận này gây thiệt hại nhiều hơn cả: cả hai phe Cơ Đốc giáo và nhân đạo chủ nghĩa đều lên án tự do kinh doanh là xấu xa và đồi bại. Henry Thomas Buckle, một sử gia người Anh vào thế kỷ 19, đã có một nhận xét đáng chú ý về vấn đề này. Trong tác phẩm The Theory of Moral Sentiments [Lý thuyết về những tình cảm luân lý], Smith nhấn mạnh sự thương cảm, thế nhưng 17 năm sau, tác phẩm The Wealth of Nations lại được viết dựa trên chủ đề “… một động lực phát triển lớn của toàn nhân loại, của mọi lợi ích, giai cấp, ở mọi thời đại, mọi quốc gia, là tính ích kỷ.” Thế là mọi người đều dựa vào đó mà cho rằng Adam Smith chỉ biết sùng bái lòng tham, chớ ít ai hiểu được rằng trước đó Smith cũng đã từng sùng bái tình thương người như thế nào. Buckle mô tả sự thay đổi quan điểm đột ngột của Smith như sau:
“Như thế Adam Smith đã thay đổi hoàn toàn những tiền đề mà ông đã dùng cho những nghiên cứu trước đây. Trước đây, ông cho rằng con người vốn có tính thông cảm, nay thì lại cho rằng con người vốn ích kỷ, luôn làm giàu vì những mục tiêu hèn hạ và bẩn thỉu. Có vẻ như lòng nhân từ và những cảm xúc con người không còn ảnh hưởng gì đến hành động của chúng ta. Quả thực Adam Smith hầu như không hề thừa nhận có lòng nhân đạo trong lý thuyết về động lực phát triển của ông (10).”
Có lẽ vì Buckle quá hâm mộ tác phẩm The Wealth of Nations, thậm chí còn đề cao nó như là “một tác phẩm quan trọng nhất từ trước đến nay”, nên ông không hề có định kiến gì về Adam Smith. Do đó, để giải thích cho sự thay đổi đột ngột trong cơ sở lý luận của Smith, ông cho rằng Smith cố gắng tìm hiểu cả hai mặt của vấn đề, rằng hai tác phẩm này “bổ sung cho nhau chớ không đối chọi”, rằng trong mỗi chúng ta đều có chút vị tha và ích kỷ. Cho dù ý đồ thật sự của Smith là như thế nào thì cái hình ảnh về lòng tham mà ông mô tả trong tác phẩm The Wealth of Nations cũng đã đi vào tiềm thức của quần chúng. Chỉ có điều là tôi không rõ có bao nhiêu người lớn tiếng nhất lên án vấn đề này đã từng đọc qua tác phẩm đó.
Một trong những tác giả cùng thời với chúng ta, Richard C. Cornuelle, cũng đã từng cố gắng giải quyết cái dilemma (song đề trái ngược) này. Ông ta lấy dẫn chứng từ tác phẩm quen thuộc Fable of the Bees [Chuyện Ngụ Ngôn của loài Ong], do Mandeville xuất bản năm 1705, một câu chuyện châm biếm, mà ngay ở tiêu đề của quyển sách này đã chỉ rõ, nhằm chứng tỏ rằng “Thói xấu cá nhân làm lợi cho cộng đồng.” Vấn đề đáng bàn ở đây là liệu lòng tham của một cá nhân có giúp tạo ra phúc lợi xã hội hay không bằng cách kích thích hoạt động kinh tế và từ đó nâng cao mức sống cho mọi người. Quan niệm trước đây thì cho rằng không ai có thể thu lợi ngoại trừ có ai đó chịu thiệt thòi, rằng chúng ta chỉ có thể làm giàu bằng cách bần cùng hóa kẻ khác. Cornuelle viết:
“Mandeville chỉ đơn thuần đưa ra cái dilemma ‘thói xấu cá nhân - lợi ích cộng đồng’. Chính Adam Smith mới là người đi tìm lời giải cho nó. Trong tác phẩm bất hủ The Wealth of Nations, ông đã giải thích một cách rõ ràng và đầy đủ cho cả thế giới nguyên nhân thành công của hoạt động thương mại. Giọng văn của ông chứa đầy sự ngạc nhiên, cứ như là ngay cả ông cũng không thể tin nổi vào những phát hiện của chính mình… (11)”
Smith vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra rằng lợi ích lâu dài thật sự của từng cá thể cũng chính là lợi ích chung của mọi người, rằng điều gì tốt cho một người cũng chính là điều tốt nhất cho tất cả. Nếu thật sự là thế thì có vẻ như không hề có mâu thuẫn gì trong hệ thống tư tưởng trước đấy của Adam Smith dựa trên sự cảm thông hay là dựa trên lòng tham lam như ông đã viết trong tác phẩm The Wealth of Nations sau này. Smith cho rằng người buôn bán trong khi tìm cách kiếm lời, dưới sự điều khiển của một “bàn tay vô hình”, đã vô tình tạo ra phúc lợi xã hội, một kết quả mà anh ta không hề nghĩ đến (12). Ý tưởng này thật thú vị: như vậy, cái gì tốt cho nhà nông thì đều tốt cho người tiêu dùng, cái gì tốt cho công nhân thì cũng tốt cho người quản lý, cái gì tốt cho nước Nga, Trung Hoa Cộng Sản, Cuba, và những quốc gia láng giềng thân thiện hơn thì cũng tốt cho Hoa Kỳ và ngược lại. Nghe thì hay đấy, nhưng liệu có thật như thế không?
Nếu chúng ta cho rằng cái gì tốt cho mỗi người đều sẽ tốt cho mọi người, thì câu hỏi tiếp theo là liệu chúng ta có tự động nhận ra những điều đúng đắn để mà làm hay không. Dĩ nhiên chúng ta cần phải phân biệt giữa sự tham lam mù quáng và sự theo đuổi quyền lợi cá nhân có suy xét. Tuy nhiên ngay cả khi có sự phân biệt đó, lịch sử cũng có rất ít bằng chứng cho thấy con người lúc nào cũng có đủ sáng suốt để làm những điều đúng. Thật đáng tiếc là sau khi tác phẩm này được phát hành, người ta có khuynh hướng tin rằng nếu người kinh doanh hành động một cách “tự nhiên” theo bản năng thì kết quả sẽ chắc chắn có lợi cho xã hội.
Cũng nên nhớ rằng Adam Smith sinh ra vào thời mà Newton đang làm cho cả thế giới chú ý đến “lý thuyết hợp nhất vật lý học và thiên văn học” nổi tiếng của ông, lý thuyết đưa ra giải pháp cho bài toán vũ trụ bí ẩn mà những công trình nghiên cứu của Copernicus, Kepler và Galileo đã đặt ra cho ngành thiên văn và vật lý học từ 1543. Hậu quả công trình đó là làm cho người ta bắt đầu có thói quen đi tìm các qui luật cơ học cho tất cả mọi thứ, từ cách hành vi của con người, cho tới các hành vi của xã hội, của nhà nước, đến tất cả mọi phương diện của cuộc sống. Cứ như con người là một cái máy vậy. Điển hình là bài tiểu luận nổi tiếng vào năm 1798 của Malthus, trong đó ông cảnh báo rằng dân số của loài người sẽ không ngừng tăng và đến một lúc nào đó sẽ vượt quá mọi khả năng cung ứng thực phẩm, khiến cho việc cải thiện đời sống con người trở thành bất khả. Không trách vì sao ông và người bạn tốt của mình là Ricardo đã làm cho ngành kinh tế học phải mang một cái tên nữa là “ngành khoa học sầu bi” (dismal science.)
(còn nữa)
Nguồn: Capitalism and Morality by Edward Celeson
Chú thích:
(1) Ludwig von Mises, Planned Chaos, p. 17.
(2) Robert B. Downs, Books that Changed the World, p. 43.
(3) Christian Message for the World Today. E. Stanley Jones and nine other churchmen are listed as the authors. The quotation from Chapter II, page 45, was apparently written by Basil Mathews.
(4) Adam Smith, The Wealth of Nations (Modern Library edition), p. 79.
(5) Warren S. Thompson, Population Problems, p. 73.
(6) E. A. Wrigley, Population and History, p. 66.
(7) John Chamberlain, The Roots of Capitalism, p. 20.
(8) John M. Ferguson, Landmarks of Economic Thought, p. 36.
(9) Smith, p. 651.
(10) Henry Thomas Buckle, History of Civilization in England, Vol. II, pp. 340-354.
(11) Richard C. Cornuelle, Reclaiming the American Dream, pp. 47-48.
(12) Smith, p. 423.
© talawas 2009
Vitduc (www.x-cafevn.org) dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính
“Nền kinh tế thị trường, tức chủ nghĩa tư bản, hiện đang bị khinh ghét hơn bất cứ thứ gì khác. Trong điều kiện xã hội hiện tại, khi gặp những gì không hài lòng, người ta thường đỗ lỗi cho chủ nghĩa tư bản.” Ludwig von Mises viết như thế vào tháng Giêng năm 1947(1). Thật ra, chủ nghĩa tư bản đã mang tiếng xấu từ trườc đó rất lâu. John Ruskin từng phỉ báng Adam Smith là “… một gã Xcốtlen nửa người nửa ngợm đang cố tình rao giảng những lời báng bổ thánh thần: nào là ‘Hãy căm thù thượng đế, chúa tể của các ngươi, kệ xác những luật lệ của ông ta, và hãy luôn ngắm nghé tài sản của bọn láng giềng’”(2). Cứ như thế, từ nhiều năm qua, những người theo chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội Fabian đã tạo ra một kho tư liệu tuyên truyền khổng lồ chống lại chủ nghĩa tư bản.
Trong những giai đoạn khủng hoảng kinh tế, chủ nghĩa tư bản phải đương đầu với sự chống đối còn kinh khủng hơn thế nữa. Trong cuộc Đại Khủng Hoảng [giai đoạn 1929-1932 – ND] một quyển sách do nhiều tác giả Cơ Đốc giáo có viết như sau: “Tương lai của các cộng đồng Thiên chúa giáo tùy thuộc hoàn toàn vào việc Thiên chúa giáo, hay đúng ra là những tín đồ Thiên chúa giáo, có quyết tâm chấm dứt ủng hộ chủ nghĩa tư bản và bất công xã hội hay không” (3). Những tuyên bố như thế vào thời đó không phải là ít. Trong quá khứ không xa, mọi người đều có cảm nhận rằng có vẻ như những người càng có khuynh hướng Phúc Âm chính thống (orthodox and evangelical wing) thì càng ủng hộ chủ nghĩa tư bản, và điều này đã được xác nhận qua dữ liệu thống kê. Nhưng ngày nay, một nhóm những người có ảnh hưởng rộng lớn trong giáo phái Phúc Âm đã thẳng thừng phủ nhận quan điểm bảo thủ về kinh tế và chính trị này và cho đó là phi Thiên chúa giáo.
Theo tôi, có lẽ một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của chúng ta hiện nay là tìm hiểu vì sao một số trí thức quan tâm đến những vấn đề xã hội, trong đó có cả những tín đồ Thiên chúa giáo, lại căm thù chủ nghĩa tư bản đến thế. Cũng không loại trừ những thành phần đối kháng theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ muốn hủy diệt chủ nghĩa tư bản cũng như quốc gia của chúng ta [nước Mỹ - ND] nhằm phục vụ cho quyền lợi của họ. Thế nhưng vẫn còn nhiều người tử tế và có thiện chí khác vẫn cứ phản đối nền kinh tế thị trường chỉ vì họ không hiểu được nó là gì.
Không tồn tại xã hội Utopia thời Tiền-Công-Nghiệp
Xét về mặt thời gian, điều ngụy biện đầu tiên cần phải phá bỏ là khái niệm tiền-tư- bản-chủ-nghĩa của xã hội loài người. Người ta rất dễ dàng thêu dệt ra một giai đoạn bình dị như thiên đàng mà ở đó người nông dân có một cuộc sống an lành hoàn toàn gần gũi với thiên nhiên, giống như đem “người man khai lương thiện” (Noble savage) trong thiên đường thời nguyên thủy mà Jean Jacques Rousseau hình dung đến sống trong thời trung cổ vậy. Thomas Hobbes (1588–679) lập luận có cơ sở hơn khi cho rằng cuộc sống hoang dã ngày xưa rất “tồi tệ, tàn bạo và ngắn ngủi”. Adam Smith (1723-1790) còn ghi nhận rằng trong thời kỳ của ông, “người ta thường gặp trên vùng cao nguyên ở Xcốtlen những người mẹ sinh đến 20 con nhưng chưa đến hai trong số đó có thể sống sót” (4). Nên nhớ rằng đây là chuyện xảy ra chỉ mới hai thế kỷ trước. Có nhà văn còn viết rằng tử suất của thị dân thời trung cổ cao hơn cả sinh suất, vì thế các thành phố, nếu muốn tồn tại, phải liên tục chiêu mộ dân nhập cư từ những vùng thôn quê (5). Những trận đói nghiêm trọng cũng thường xảy ra vào thời kỳ này. Gần đây hơn, E.A. Wrigley cho rằng cách đây gần ba thế kỷ, ở một số họ đạo mà ông nghiên cứu, tử suất tỉ lệ thuận với giá lúa mì vào thời đó (6). Ngoài ra còn phải kể đến nạn ô nhiễm môi trường ở mức độ khủng khiếp do mọi thứ rác rưởi đều được thải ra đường. Như vậy, cuộc sống vào cái gọi là thời kỳ tiền công nghiệp không có gì là tuyệt vời cả, thậm chí là tốc độ cải thiện đời sống trong thời kỳ đó chậm hơn nhiều khi so sánh với giai đoạn hiện đại ngày nay. Vì thế, rõ ràng là không có cơ sở lịch sử khi cho rằng mọi thứ đều hoàn hảo trước khi con rắn tư bản chủ nghĩa xuất hiện làm băng hoại cái thiên đàng hạ giới của loài người.
Một quan niệm khác cho rằng sinh hoạt xã hội và chính trị của loài người tương đối đơn giản trong thời kỳ tiền tư bản. Suy diễn đó được hình thành như sau: cuộc sống vào thập niên 1890 đơn giản hơn ngày nay, suy ra nó càng đơn giản hơn vào thập niên 1690 hay 1590 chẳng hạn. Lại sai nữa. Theo như lời kể của một số vị cao niên còn sống, đời sống con người, chỉ có ở giai đoạn sau cùng của thời kỳ Victorian, là tương đối đơn giản mà thôi; còn lại thì cuộc sống ở cuối thế kỷ 17 hay thời kỳ tiền công nghiệp cũng đều không khác mấy với cuộc sống ngày nay. Chẳng hạn như ở Pháp, “những quy định cho nghề dệt trong thời kỳ từ 1666 đến 1730 dài đến 2000 trang giấy in” (7). Hình phạt cho những ai vi phạm những quy định này cũng rất nghiêm khắc. Vô số người bị xử tử vì những vi phạm kinh tế mà lẽ ra không đáng để gán tội hình sự. Và cũng nên nhớ rằng những chuyện như vậy đã diễn ra ngay cả trước khi cuộc sống bị cuộc Cách Mạng Công Nghiệp làm cho rối ren, hay ít ra là như người ta vẫn kể. Rõ ràng không phải vì nhu cầu thực tiễn của cuộc sống mà những quy định cho nghề dệt vào thời kỳ đó lại phức tạp đến vậy - với một ngành dệt thủ công thì việc gì phải cần đến hàng ngàn trang luật lệ như thế - mà chính là do quan điểm cai trị của nhà cầm quyền. Điều này có nghĩa là con người vào thời đó “đã có một lòng tin vững chắc vào nhà nước trong việc sử dụng luật pháp như là một phương tiện hiệu quả để đạt được tất cả cũng như bất kỳ mục tiêu nào mà họ muốn” (8). Quả là hiện đại!
Adam Smith và nguyên tắc pháp trị
Adam Smith thường bị xem là một kẻ vô chính phủ. Thời nay nếu ai tin vào tự do thương mại, người đó hẳn cũng chấp nhận sự hiện hữu tất yếu của nhà nước. Dù là ngày càng có nhiều người theo khuynh hướng vô chính phủ - cũng có thể đó là phản ứng chống lại sự thái quá của chủ nghĩa nhà nước (statism) – nhưng điều này không có nghĩa là mô hình vô chính phủ là một mô hình tất yếu để thay thế cho mô hình nhà nước toàn trị. Smith phân biệt rất rõ ràng khái niệm “luật pháp vì công lý” và những mưu toan lố bịch của những kẻ muốn gây áp lực lên nhà nước để thao túng thị trường nhằm thu lợi cho riêng mình (9). Theo Smith, nhiệm vụ của nhà nước là thực thi công lý chứ không phải quản lý công việc của từng người dân. Ông còn quan niệm rằng nhà nước phải có nhiệm vụ chống ngoại xâm để bảo vệ quốc gia, duy trì “một số công trình công cộng và một số định chế công cộng” vì lợi ích chung của toàn dân, chẳng hạn như những dịch vụ mà nhà nước rất khó thu phí sử dụng từ dân như việc sử dụng hải đăng, lòng đường và lề đường trước nhà của người dân. Rõ ràng là Smith vẫn còn tin vào vai trò của nhà nước, tuy nhiên, cũng như Thomas Jefferson, ông cho rằng “hoạt động của nhà nước nên đơn giản và tiết kiệm.” Ngày nay có nhiều người đang nghiên cứu trở lại hai tác phẩm kinh điển ấn hành năm 1776, The Wealth of Nations [Của cải của các Quốc gia] và “Bản tuyên ngôn độc lập.” Hy vọng mô hình nhà nước hạn chế (limited government) sẽ lại được ưa chuộng trong thời gian sắp tới.
Chủ nghĩa tư bản và lòng tham
Một ngụy biện khác nữa cho rằng Adam Smith là kẻ tôn thờ lòng tham, rằng chấp nhận sự tàn bạo của tự do kinh doanh - “ai cũng giành giật cho mình, khôn sống mống chết.” Xin nhắc lại, đây là nhận định chung của nhiều người, cả phe tư bản lẫn xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên Smith không có ý như thế khi nói về chủ nghĩa tư bản. So với những lên án khác chống lại tự do kinh doanh thì sự ngộ nhận này gây thiệt hại nhiều hơn cả: cả hai phe Cơ Đốc giáo và nhân đạo chủ nghĩa đều lên án tự do kinh doanh là xấu xa và đồi bại. Henry Thomas Buckle, một sử gia người Anh vào thế kỷ 19, đã có một nhận xét đáng chú ý về vấn đề này. Trong tác phẩm The Theory of Moral Sentiments [Lý thuyết về những tình cảm luân lý], Smith nhấn mạnh sự thương cảm, thế nhưng 17 năm sau, tác phẩm The Wealth of Nations lại được viết dựa trên chủ đề “… một động lực phát triển lớn của toàn nhân loại, của mọi lợi ích, giai cấp, ở mọi thời đại, mọi quốc gia, là tính ích kỷ.” Thế là mọi người đều dựa vào đó mà cho rằng Adam Smith chỉ biết sùng bái lòng tham, chớ ít ai hiểu được rằng trước đó Smith cũng đã từng sùng bái tình thương người như thế nào. Buckle mô tả sự thay đổi quan điểm đột ngột của Smith như sau:
“Như thế Adam Smith đã thay đổi hoàn toàn những tiền đề mà ông đã dùng cho những nghiên cứu trước đây. Trước đây, ông cho rằng con người vốn có tính thông cảm, nay thì lại cho rằng con người vốn ích kỷ, luôn làm giàu vì những mục tiêu hèn hạ và bẩn thỉu. Có vẻ như lòng nhân từ và những cảm xúc con người không còn ảnh hưởng gì đến hành động của chúng ta. Quả thực Adam Smith hầu như không hề thừa nhận có lòng nhân đạo trong lý thuyết về động lực phát triển của ông (10).”
Có lẽ vì Buckle quá hâm mộ tác phẩm The Wealth of Nations, thậm chí còn đề cao nó như là “một tác phẩm quan trọng nhất từ trước đến nay”, nên ông không hề có định kiến gì về Adam Smith. Do đó, để giải thích cho sự thay đổi đột ngột trong cơ sở lý luận của Smith, ông cho rằng Smith cố gắng tìm hiểu cả hai mặt của vấn đề, rằng hai tác phẩm này “bổ sung cho nhau chớ không đối chọi”, rằng trong mỗi chúng ta đều có chút vị tha và ích kỷ. Cho dù ý đồ thật sự của Smith là như thế nào thì cái hình ảnh về lòng tham mà ông mô tả trong tác phẩm The Wealth of Nations cũng đã đi vào tiềm thức của quần chúng. Chỉ có điều là tôi không rõ có bao nhiêu người lớn tiếng nhất lên án vấn đề này đã từng đọc qua tác phẩm đó.
Một trong những tác giả cùng thời với chúng ta, Richard C. Cornuelle, cũng đã từng cố gắng giải quyết cái dilemma (song đề trái ngược) này. Ông ta lấy dẫn chứng từ tác phẩm quen thuộc Fable of the Bees [Chuyện Ngụ Ngôn của loài Ong], do Mandeville xuất bản năm 1705, một câu chuyện châm biếm, mà ngay ở tiêu đề của quyển sách này đã chỉ rõ, nhằm chứng tỏ rằng “Thói xấu cá nhân làm lợi cho cộng đồng.” Vấn đề đáng bàn ở đây là liệu lòng tham của một cá nhân có giúp tạo ra phúc lợi xã hội hay không bằng cách kích thích hoạt động kinh tế và từ đó nâng cao mức sống cho mọi người. Quan niệm trước đây thì cho rằng không ai có thể thu lợi ngoại trừ có ai đó chịu thiệt thòi, rằng chúng ta chỉ có thể làm giàu bằng cách bần cùng hóa kẻ khác. Cornuelle viết:
“Mandeville chỉ đơn thuần đưa ra cái dilemma ‘thói xấu cá nhân - lợi ích cộng đồng’. Chính Adam Smith mới là người đi tìm lời giải cho nó. Trong tác phẩm bất hủ The Wealth of Nations, ông đã giải thích một cách rõ ràng và đầy đủ cho cả thế giới nguyên nhân thành công của hoạt động thương mại. Giọng văn của ông chứa đầy sự ngạc nhiên, cứ như là ngay cả ông cũng không thể tin nổi vào những phát hiện của chính mình… (11)”
Smith vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra rằng lợi ích lâu dài thật sự của từng cá thể cũng chính là lợi ích chung của mọi người, rằng điều gì tốt cho một người cũng chính là điều tốt nhất cho tất cả. Nếu thật sự là thế thì có vẻ như không hề có mâu thuẫn gì trong hệ thống tư tưởng trước đấy của Adam Smith dựa trên sự cảm thông hay là dựa trên lòng tham lam như ông đã viết trong tác phẩm The Wealth of Nations sau này. Smith cho rằng người buôn bán trong khi tìm cách kiếm lời, dưới sự điều khiển của một “bàn tay vô hình”, đã vô tình tạo ra phúc lợi xã hội, một kết quả mà anh ta không hề nghĩ đến (12). Ý tưởng này thật thú vị: như vậy, cái gì tốt cho nhà nông thì đều tốt cho người tiêu dùng, cái gì tốt cho công nhân thì cũng tốt cho người quản lý, cái gì tốt cho nước Nga, Trung Hoa Cộng Sản, Cuba, và những quốc gia láng giềng thân thiện hơn thì cũng tốt cho Hoa Kỳ và ngược lại. Nghe thì hay đấy, nhưng liệu có thật như thế không?
Nếu chúng ta cho rằng cái gì tốt cho mỗi người đều sẽ tốt cho mọi người, thì câu hỏi tiếp theo là liệu chúng ta có tự động nhận ra những điều đúng đắn để mà làm hay không. Dĩ nhiên chúng ta cần phải phân biệt giữa sự tham lam mù quáng và sự theo đuổi quyền lợi cá nhân có suy xét. Tuy nhiên ngay cả khi có sự phân biệt đó, lịch sử cũng có rất ít bằng chứng cho thấy con người lúc nào cũng có đủ sáng suốt để làm những điều đúng. Thật đáng tiếc là sau khi tác phẩm này được phát hành, người ta có khuynh hướng tin rằng nếu người kinh doanh hành động một cách “tự nhiên” theo bản năng thì kết quả sẽ chắc chắn có lợi cho xã hội.
Cũng nên nhớ rằng Adam Smith sinh ra vào thời mà Newton đang làm cho cả thế giới chú ý đến “lý thuyết hợp nhất vật lý học và thiên văn học” nổi tiếng của ông, lý thuyết đưa ra giải pháp cho bài toán vũ trụ bí ẩn mà những công trình nghiên cứu của Copernicus, Kepler và Galileo đã đặt ra cho ngành thiên văn và vật lý học từ 1543. Hậu quả công trình đó là làm cho người ta bắt đầu có thói quen đi tìm các qui luật cơ học cho tất cả mọi thứ, từ cách hành vi của con người, cho tới các hành vi của xã hội, của nhà nước, đến tất cả mọi phương diện của cuộc sống. Cứ như con người là một cái máy vậy. Điển hình là bài tiểu luận nổi tiếng vào năm 1798 của Malthus, trong đó ông cảnh báo rằng dân số của loài người sẽ không ngừng tăng và đến một lúc nào đó sẽ vượt quá mọi khả năng cung ứng thực phẩm, khiến cho việc cải thiện đời sống con người trở thành bất khả. Không trách vì sao ông và người bạn tốt của mình là Ricardo đã làm cho ngành kinh tế học phải mang một cái tên nữa là “ngành khoa học sầu bi” (dismal science.)
(còn nữa)
Nguồn: Capitalism and Morality by Edward Celeson
Chú thích:
(1) Ludwig von Mises, Planned Chaos, p. 17.
(2) Robert B. Downs, Books that Changed the World, p. 43.
(3) Christian Message for the World Today. E. Stanley Jones and nine other churchmen are listed as the authors. The quotation from Chapter II, page 45, was apparently written by Basil Mathews.
(4) Adam Smith, The Wealth of Nations (Modern Library edition), p. 79.
(5) Warren S. Thompson, Population Problems, p. 73.
(6) E. A. Wrigley, Population and History, p. 66.
(7) John Chamberlain, The Roots of Capitalism, p. 20.
(8) John M. Ferguson, Landmarks of Economic Thought, p. 36.
(9) Smith, p. 651.
(10) Henry Thomas Buckle, History of Civilization in England, Vol. II, pp. 340-354.
(11) Richard C. Cornuelle, Reclaiming the American Dream, pp. 47-48.
(12) Smith, p. 423.
© talawas 2009
THƠ : CUỐI NĂM
Cuối năm
Trần Hồ Dũng
Cuối năm ngồi nhớ dăm thằng bạn
Đứa tận chân trời ,đứa ẩn cư
Đứa cúi rạp mình tìm danh lợi
đứa bỏ trần gian chật hẹp,buồn
Mình ta còn lại như sương khói
Sót chút quê hương cũng nhạt nhòa
Một đời gió tạt sầu trăm hướng
Một tiếng lòng trôi dạt xứ người
Cuối năm cơn gió phương nào lại
Thổi buốt hồn ta ,kẻ viễn phương
nửa đời xiêu tán chưa về xứ
Còn mãi " đê đầu tư cố hương "
Lòng ta ,bãi vắng trên sông lạnh
Như cây khô mục nhớ cành xuân
Như ly rượu đắng đêm trừ tịch
Rót tặng càn khôn trận khóc cười !
tranhodung . saigon . tháng Chạp, Mậu Tý
Trần Hồ Dũng
Cuối năm ngồi nhớ dăm thằng bạn
Đứa tận chân trời ,đứa ẩn cư
Đứa cúi rạp mình tìm danh lợi
đứa bỏ trần gian chật hẹp,buồn
Mình ta còn lại như sương khói
Sót chút quê hương cũng nhạt nhòa
Một đời gió tạt sầu trăm hướng
Một tiếng lòng trôi dạt xứ người
Cuối năm cơn gió phương nào lại
Thổi buốt hồn ta ,kẻ viễn phương
nửa đời xiêu tán chưa về xứ
Còn mãi " đê đầu tư cố hương "
Lòng ta ,bãi vắng trên sông lạnh
Như cây khô mục nhớ cành xuân
Như ly rượu đắng đêm trừ tịch
Rót tặng càn khôn trận khóc cười !
tranhodung . saigon . tháng Chạp, Mậu Tý
THƠ : DẠ CA
DẠ CA
Trần Hồ Dũng
Đêm tàn lay mộng chưa về
Chờ chi cho úa lời thề trăm năm
Buồn chi lệ ướt chỗ nằm
sầu chi héo hắt cho bầm gan nhau
Này em , xin hé niềm đau
Tỏ bày đi nhé , cỏ lau tôi chờ
Thưa rằng ,hồn rất bơ vơ
Đợi em từ thuở ơ thờ nắng phai
Đợi em từ thuở dấu hài
In lên cỏ tiếng thở dài vào đêm
kể từ nguyệt vỡ bên thềm
hồn tôi rét mướt ,môi mềm , đợi em
tranhodung. saigon 2008 .
Trần Hồ Dũng
Đêm tàn lay mộng chưa về
Chờ chi cho úa lời thề trăm năm
Buồn chi lệ ướt chỗ nằm
sầu chi héo hắt cho bầm gan nhau
Này em , xin hé niềm đau
Tỏ bày đi nhé , cỏ lau tôi chờ
Thưa rằng ,hồn rất bơ vơ
Đợi em từ thuở ơ thờ nắng phai
Đợi em từ thuở dấu hài
In lên cỏ tiếng thở dài vào đêm
kể từ nguyệt vỡ bên thềm
hồn tôi rét mướt ,môi mềm , đợi em
tranhodung. saigon 2008 .
1/4/09
Cầm quyền cầm ly và cầm bút
Cầm quyền cầm ly và cầm bút
31/03/2009 | 12:00 chiều |
Tác giả: Tưởng Năng Tiến
Chuyên mục: Tạp văn
Ông Phạm Xuân Nguyên - qua một cuộc phỏng vấn thực hiện bởi talawas, vào ngày 24 tháng 4 năm 2005 - tuyên bố “ở Viện văn chỉ có bà bán nước và tôi là không tiến sĩ.” Tôi cũng thế, cũng thuộc loại “không tiến sĩ,” mẹ tôi cũng bán trà đá - và cũng chả có bằng cấp gì ráo trọi - nên không dưng mà đâm ra thấy gần gũi, yêu mến cái ông họ Phạm này quá xá!
Mối hảo cảm này - tiếc thay - tôi đã không giữ được luôn, và cũng chả giữ được lâu. Chả bao lâu sau, vào ngày 17 tháng 10 năm 2008, trên mạng của Hội Nhà văn Việt Nam, xuất hiện bài viết về “Cái hèn” của người cầm bút của ông Phạm Xuân Nguyên . Đọc xong (cái) tôi… bị quê ngang, và mất gần hết tình cảm (chứa chan) đã dành cho đương sự.
Ông ấy nói, rành rành, thế này đây:
“Cái hèn này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng các tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về ‘cái hèn’ của mình do từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi. Nghĩa là hoàn cảnh, không khí của một thời không thuận lợi cho người cầm bút, buộc họ luôn phải sợ hãi, nơm nớp cho số phận mình, phải dè dặt, canh chừng cho ngòi bút mình, từ đó đưa đến ‘cái hèn’ của nhân cách người viết. Người khác làm cho mình sợ mà trở nên hèn! Hoàn cảnh của đời sống văn học trước đây bị phê phán chính từ phía này. Điều đó đúng nhưng không đủ. Và sẽ là thiếu sót, sẽ là không toàn diện, nếu các bài viết quá khứ chỉ bằng lòng dừng lại ở mức độ phê phán cái bên ngoài, hoàn cảnh bên ngoài như vậy… Nói đến tình trạng kém phát triển của văn học ta giai đoạn trước không thể không đụng chạm đến chính ngay sự kém cỏi của người cầm bút. Sự kém cỏi đây tôi muốn nói là ‘cái hèn’ do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”
Nói cách khác, và nói tóm lại, cứ theo như ông Phạm Xuân Nguyên thì dù lâm vào hoản cảnh nào cũng mặc, người ta vẫn cứ nên sống cho nó thật đàng hoàng (hoặc ít ra thì cũng phải “đàng hoàng chút đỉnh”) chớ không vì lý do gì để có thể trở nên bệ rạc, bết bát, bê tha, bê bối và …hèn nhát quá!
Quan niệm như vậy, tất nhiên, không trật. Tuy thế, khi nhìn kỹ vào bối cảnh xã hội đã gây ra “tình trạng kém phát triển của văn học ta giai đoạn trước,” tôi e rằng ông ấy (có phần) hơi khe khắt với kết luận rằng “cái hèn do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”
Coi: ở cái gọi là “giai đoạn trước” đó, thực phẩm hoàn toàn đều do Đảng CSVN độc quyền quản lý. Và chính nó đã treo bút, cũng như treo niêu, không ít người cầm viết:
“Có một ý kiến (hay chỉ thị) không thành văn nhưng mạnh hơn văn bản mà tất cả các báo, các nhà xuất bản đều thực hiện rất triệt để và nghiêm chỉnh là không in bài của Mặc Lân, Lê Bầu. Nếu hạn hữu có in cũng không được ký tên hai người… không được in đã hẳn, nhuận bút cũng không có nốt.
Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu…
Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc… Tiền tính theo cc còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui…
Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất ngờ nhất:
Chính Yên!
Phan Kế Bảo!
…..
Phương Nam!
Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời gian gấp ruổi“. Viết về bè bạn. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006. 65 - 67)
Và đến “bước đường cùng” thì mới thấm thía hương vị của một tô phở. Nó có thể làm cho khách qua đường phải ứa nước miếng, và (đôi khi)… nước mắt:
“Ngày ấy từ quê ra đèo nhau qua hiệu phở, ngửi mùi thơm ngào ngạt, quyến rũ, hai vợ chồng cùng thấy đói, thấy thèm và bảo nhau vào ăn phở. Nhưng khi lục túi chỉ còn ba trăm. Đúng một bát phở chín. Không hơn. Ai ăn? Bà bảo ông ăn vì trông ông gầy quá. Ông bảo bà ăn. Bà bảo thế thì không ai ăn cả. Cùng về. Nhưng ông biết bà đã nhịn thèm nhịn nhạt, nhường chồng con bao nhiêu năm rồi. Ông quát lên khe khẽ, bắt bà phải ăn. Bà vâng lời ông. Ông còn dặn bà: Nửa bát đầu cứ thế ăn, nửa bát sau hãy cho chanh ớt. Như vậy em được ăn hai thứ phở.” (Bùi Ngọc Tấn. Vũ trụ không cùng. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2007. 32).
Nói tóm lại là… nghèo, túng, và đói. Nghèo đói, thiếu hụt - tất nhiên - phát sinh ra rất nhiều hệ lụy: nghèo khốn, nghèo khó, nghèo khổ, nghèo hèn… Cái nghèo (cùng với những thuộc tính thổ tả của nó) khiến cho người ta phải sống (thường trực) trong một tình trạng hoang mang và bất ổn - theo như nhận xét của bà Phạm Thị Hoài:
“Bởi vì ngoài cái nghèo và lạc hậu, thì đến đầu thế kỷ 21 này xã hội Việt Nam còn là chỗ hội tụ của những dịch bệnh dường như vô phương cứu chữa khác mà bao trùm lên tất cả là một khái niệm, tôi đặt tên khái niệm đó là sự bất an… Người ta có thể nghèo, nhưng nếu người ta có được một cảm giác an toàn nhất định, điều đó quan trọng hơn. Nếu không có cảm giác ấy thì người ta chỉ có thể miễn cưỡng sống tạm cuộc đời của mình và đương nhiên không có một động cơ nào đủ mạnh để sống tiếp cuộc đời của những thế hệ trước, sống trước cuộc đời của những thế hệ sau và sống chung cuộc đời của những kẻ cùng thời. Nói như thế thì xã hội Việt Nam là một tập hợp tạm bợ, rời rạc và hoàn toàn không hữu cơ của những cá nhân hoang mang và bất ổn.”
Sau đây là một hoạt cảnh (tương đối) đỡ “hoang mang” nhất của Hội Nhà văn Việt Nam, vào “giai đoạn trước” đó, qua ngòi bút của Tô Hoài:
“Hội Nhà văn Đức tặng Hội Nhà văn Việt Nam 200 cái xe đạp Diamant mới cứng. Nguyên Hồng được điện khẩn mời xuống công tác. Ấy là việc dắt chiếc xe đạp đứng vườn hoa Cửa Nam trò chuyện với người qua đường. Vô tuyến truyền hình của Việt, của Đức quay giới thiệu nhà văn với tặng phẩm hữu nghị quốc tế.
Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả phương Đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe nào. Hai trăm cái xe lăn cả vào kho Bộ Thương nghiệp. Nguyễn Tuân hỏi mắng Nguyên Hồng:
- Đóng trò xong rồi, dắt mẹ nó cái xe ấy đi, đứa nào làm gì được!
Nguyên Hồng cười vuốt râu, đánh trống lảng…” (Tô Hoài. Cát bụi chân ai. Hà Nội: Hội Nhà văn, 1992)
Dù túng thiếu, nghèo đói, bất ổn, hoang mang đến thế, “các ông mỗi người đã ghánh cây thập ác đi trọn đường trần ai của mình.
Không vứt xuống
Không chạy trốn.
Không ngã gục.
Không dừng bước
Và dẫu không là Chúa, các ông đã được phục sinh“
(Phạm Xuân Nguyên. “Một kiếp bên Trời“. Viết về bè bạn. Ed. Bùi Ngọc Tấn. NXB Hải Phòng, 2003. 296).
Nhưng sức Chúa, cũng như sức người, đều có hạn thôi chớ bộ! Thỉnh thoảng cũng vấp ngã (chút xíu) thì đã sao cơ chứ?
Đã thế, người ta còn phải ngụp lặn trong một bối cảnh xã hội mà “không có nhân cách người ta vẫn sống. Thậm chí còn sống béo tốt hơn” (Hà Sĩ Phu. “Chia tay ý thức hệ“. Tuyển Tập Hà Sĩ Phu. California: Thế Kỷ 21, 1966. 207).
Thời phải thế. Thế thời phải thế. Sĩ mãi để cho chết à. Mà muốn không hèn, không sợ, bộ dễ chắc?
..........
Nói tóm lại sợ là tình trạng chung của cả nước, không loại trừ ai - dù là cầm rìu, cầm rựa, cầm liềm, cầm cầy, cầm quốc, cầm dùi, cầm phấn hay… cầm súng!
Ủa, cầm súng mà còn (phải) sợ gì ai nữa - cha nội ? Tưởng vậy thôi chớ không phải vậy đâu. Tưởng vậy là tưởng năng thối. Cỡ người hùng Điện Biên đang cầm quân mà chúng bắt cầm quần, cũng phải lật đật… cầm liền (và cầm chắc) mà!
Vậy chớ dân cầm ly thì sao?
Sao cái con cặc gì! Đ… mẹ, tụi tui say chớ đâu có điên mà không biết sợ - mấy cha?
Vụ này, ông bạn đồng nghiệp (cầm chai) của tôi - Bùi Minh Quốc - cũng đã thú nhận lâu rồi. Tụi này là dân nhậu, chớ có phải dân biểu (quốc hội) đâu mà phải giấu diếm hay lấp liếm mọi chuyện:
“Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn.”
Mà Nguyệt Nga, nói tình ngay, dù sao cũng là một cô gái đã trưởng thành. Còn biết bao nhiêu đứa bé thơ Việt Nam khác, đang bị dầy vò ở khắp mọi nơi trên thế giới - cũng đau đớn “xé trời kêu chẳng thấu” - nhưng có thấy ông (hay bà) tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, dược sĩ, tu sĩ, nhân sĩ, ca sĩ, chiến sĩ … nào lên tiếng thắc mắc hoặc khiếu nại gì đâu.
Nói tóm lại (lần nữa) thì hèn - “ở giai đoạn trước” - là một cơ hội đồng đều (equal opportunity) không phân biệt giới tính, tuổi tác, tôn giáo, sắc tộc, hay thành phần xã hội. Như thế, cớ sao ông Phạm Xuân Nguyên chỉ lườm nguýt cái đám cầm viết mà lại không nói một lời nào với bọn cầm quyền.
Cái được gọi là “giai đoạn trước” đã qua. Cái thời mà chúng ta phải đổ lỗi cho nạn nhân thay vì chỉ tay vào mặt thủ phạm (tưởng) cũng qua luôn rồi chớ?
© 2009 Tưởng Năng Tiến
Create PDF
Phản hồi
1 phản hồi (bài “Cầm quyền cầm ly và cầm bút”)
1.
Trần Văn Tích nói:
31/03/2009 lúc 3:00 chiều
Sợ là một phản ứng tự vệ, một phản xạ sinh tồn. Sartre từng bảo: “Tất cả mọi người đều sợ hãi, tất cả. Người không biết sợ vốn không bình thường. Điều đó chẳng ăn nhằm gì đến sự can đảm.” Không phải chỉ “giai đoạn trước” mới tạo nên chứng sợ nơi người cầm bút. Thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng nói nhiều đến sợ. Nhưng trong giai đoạn phong kiến phản động và lạc hậu, Nguyễn Du sợ một cách bình thường, Nguyễn Du sợ một cách rất người; còn trong “giai đoạn trước” cách mạng và tiến bộ thì người ta sợ một cách bệnh hoạn, người ta sợ một cách rất gì cũng không biết nữa. Nhưng có khi đó cũng là một cái… may cho dân tộc. Vì theo đông y, khủng thương thận, sợ hãi quá mức háo thương thận khí, khiến tinh khí bị nén xuống không nâng lên được, cho nên dân gian mới nói sợ đến vãi đái, sợ đến són đái. Vì sợ quá thì thận khí suy nên dân ta… bớt được nạn nhân mãn. Âu đó cũng là một thành công trong rất nhiều thành công, đại thành công khác.
source : talawas 2009
31/03/2009 | 12:00 chiều |
Tác giả: Tưởng Năng Tiến
Chuyên mục: Tạp văn
Ông Phạm Xuân Nguyên - qua một cuộc phỏng vấn thực hiện bởi talawas, vào ngày 24 tháng 4 năm 2005 - tuyên bố “ở Viện văn chỉ có bà bán nước và tôi là không tiến sĩ.” Tôi cũng thế, cũng thuộc loại “không tiến sĩ,” mẹ tôi cũng bán trà đá - và cũng chả có bằng cấp gì ráo trọi - nên không dưng mà đâm ra thấy gần gũi, yêu mến cái ông họ Phạm này quá xá!
Mối hảo cảm này - tiếc thay - tôi đã không giữ được luôn, và cũng chả giữ được lâu. Chả bao lâu sau, vào ngày 17 tháng 10 năm 2008, trên mạng của Hội Nhà văn Việt Nam, xuất hiện bài viết về “Cái hèn” của người cầm bút của ông Phạm Xuân Nguyên . Đọc xong (cái) tôi… bị quê ngang, và mất gần hết tình cảm (chứa chan) đã dành cho đương sự.
Ông ấy nói, rành rành, thế này đây:
“Cái hèn này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng các tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về ‘cái hèn’ của mình do từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi. Nghĩa là hoàn cảnh, không khí của một thời không thuận lợi cho người cầm bút, buộc họ luôn phải sợ hãi, nơm nớp cho số phận mình, phải dè dặt, canh chừng cho ngòi bút mình, từ đó đưa đến ‘cái hèn’ của nhân cách người viết. Người khác làm cho mình sợ mà trở nên hèn! Hoàn cảnh của đời sống văn học trước đây bị phê phán chính từ phía này. Điều đó đúng nhưng không đủ. Và sẽ là thiếu sót, sẽ là không toàn diện, nếu các bài viết quá khứ chỉ bằng lòng dừng lại ở mức độ phê phán cái bên ngoài, hoàn cảnh bên ngoài như vậy… Nói đến tình trạng kém phát triển của văn học ta giai đoạn trước không thể không đụng chạm đến chính ngay sự kém cỏi của người cầm bút. Sự kém cỏi đây tôi muốn nói là ‘cái hèn’ do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”
Nói cách khác, và nói tóm lại, cứ theo như ông Phạm Xuân Nguyên thì dù lâm vào hoản cảnh nào cũng mặc, người ta vẫn cứ nên sống cho nó thật đàng hoàng (hoặc ít ra thì cũng phải “đàng hoàng chút đỉnh”) chớ không vì lý do gì để có thể trở nên bệ rạc, bết bát, bê tha, bê bối và …hèn nhát quá!
Quan niệm như vậy, tất nhiên, không trật. Tuy thế, khi nhìn kỹ vào bối cảnh xã hội đã gây ra “tình trạng kém phát triển của văn học ta giai đoạn trước,” tôi e rằng ông ấy (có phần) hơi khe khắt với kết luận rằng “cái hèn do chính người cầm bút tạo nên cho mình. Mình tự làm hèn mình!”
Coi: ở cái gọi là “giai đoạn trước” đó, thực phẩm hoàn toàn đều do Đảng CSVN độc quyền quản lý. Và chính nó đã treo bút, cũng như treo niêu, không ít người cầm viết:
“Có một ý kiến (hay chỉ thị) không thành văn nhưng mạnh hơn văn bản mà tất cả các báo, các nhà xuất bản đều thực hiện rất triệt để và nghiêm chỉnh là không in bài của Mặc Lân, Lê Bầu. Nếu hạn hữu có in cũng không được ký tên hai người… không được in đã hẳn, nhuận bút cũng không có nốt.
Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu…
Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc… Tiền tính theo cc còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui…
Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất ngờ nhất:
Chính Yên!
Phan Kế Bảo!
…..
Phương Nam!
Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời gian gấp ruổi“. Viết về bè bạn. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006. 65 - 67)
Và đến “bước đường cùng” thì mới thấm thía hương vị của một tô phở. Nó có thể làm cho khách qua đường phải ứa nước miếng, và (đôi khi)… nước mắt:
“Ngày ấy từ quê ra đèo nhau qua hiệu phở, ngửi mùi thơm ngào ngạt, quyến rũ, hai vợ chồng cùng thấy đói, thấy thèm và bảo nhau vào ăn phở. Nhưng khi lục túi chỉ còn ba trăm. Đúng một bát phở chín. Không hơn. Ai ăn? Bà bảo ông ăn vì trông ông gầy quá. Ông bảo bà ăn. Bà bảo thế thì không ai ăn cả. Cùng về. Nhưng ông biết bà đã nhịn thèm nhịn nhạt, nhường chồng con bao nhiêu năm rồi. Ông quát lên khe khẽ, bắt bà phải ăn. Bà vâng lời ông. Ông còn dặn bà: Nửa bát đầu cứ thế ăn, nửa bát sau hãy cho chanh ớt. Như vậy em được ăn hai thứ phở.” (Bùi Ngọc Tấn. Vũ trụ không cùng. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2007. 32).
Nói tóm lại là… nghèo, túng, và đói. Nghèo đói, thiếu hụt - tất nhiên - phát sinh ra rất nhiều hệ lụy: nghèo khốn, nghèo khó, nghèo khổ, nghèo hèn… Cái nghèo (cùng với những thuộc tính thổ tả của nó) khiến cho người ta phải sống (thường trực) trong một tình trạng hoang mang và bất ổn - theo như nhận xét của bà Phạm Thị Hoài:
“Bởi vì ngoài cái nghèo và lạc hậu, thì đến đầu thế kỷ 21 này xã hội Việt Nam còn là chỗ hội tụ của những dịch bệnh dường như vô phương cứu chữa khác mà bao trùm lên tất cả là một khái niệm, tôi đặt tên khái niệm đó là sự bất an… Người ta có thể nghèo, nhưng nếu người ta có được một cảm giác an toàn nhất định, điều đó quan trọng hơn. Nếu không có cảm giác ấy thì người ta chỉ có thể miễn cưỡng sống tạm cuộc đời của mình và đương nhiên không có một động cơ nào đủ mạnh để sống tiếp cuộc đời của những thế hệ trước, sống trước cuộc đời của những thế hệ sau và sống chung cuộc đời của những kẻ cùng thời. Nói như thế thì xã hội Việt Nam là một tập hợp tạm bợ, rời rạc và hoàn toàn không hữu cơ của những cá nhân hoang mang và bất ổn.”
Sau đây là một hoạt cảnh (tương đối) đỡ “hoang mang” nhất của Hội Nhà văn Việt Nam, vào “giai đoạn trước” đó, qua ngòi bút của Tô Hoài:
“Hội Nhà văn Đức tặng Hội Nhà văn Việt Nam 200 cái xe đạp Diamant mới cứng. Nguyên Hồng được điện khẩn mời xuống công tác. Ấy là việc dắt chiếc xe đạp đứng vườn hoa Cửa Nam trò chuyện với người qua đường. Vô tuyến truyền hình của Việt, của Đức quay giới thiệu nhà văn với tặng phẩm hữu nghị quốc tế.
Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả phương Đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe nào. Hai trăm cái xe lăn cả vào kho Bộ Thương nghiệp. Nguyễn Tuân hỏi mắng Nguyên Hồng:
- Đóng trò xong rồi, dắt mẹ nó cái xe ấy đi, đứa nào làm gì được!
Nguyên Hồng cười vuốt râu, đánh trống lảng…” (Tô Hoài. Cát bụi chân ai. Hà Nội: Hội Nhà văn, 1992)
Dù túng thiếu, nghèo đói, bất ổn, hoang mang đến thế, “các ông mỗi người đã ghánh cây thập ác đi trọn đường trần ai của mình.
Không vứt xuống
Không chạy trốn.
Không ngã gục.
Không dừng bước
Và dẫu không là Chúa, các ông đã được phục sinh“
(Phạm Xuân Nguyên. “Một kiếp bên Trời“. Viết về bè bạn. Ed. Bùi Ngọc Tấn. NXB Hải Phòng, 2003. 296).
Nhưng sức Chúa, cũng như sức người, đều có hạn thôi chớ bộ! Thỉnh thoảng cũng vấp ngã (chút xíu) thì đã sao cơ chứ?
Đã thế, người ta còn phải ngụp lặn trong một bối cảnh xã hội mà “không có nhân cách người ta vẫn sống. Thậm chí còn sống béo tốt hơn” (Hà Sĩ Phu. “Chia tay ý thức hệ“. Tuyển Tập Hà Sĩ Phu. California: Thế Kỷ 21, 1966. 207).
Thời phải thế. Thế thời phải thế. Sĩ mãi để cho chết à. Mà muốn không hèn, không sợ, bộ dễ chắc?
..........
Nói tóm lại sợ là tình trạng chung của cả nước, không loại trừ ai - dù là cầm rìu, cầm rựa, cầm liềm, cầm cầy, cầm quốc, cầm dùi, cầm phấn hay… cầm súng!
Ủa, cầm súng mà còn (phải) sợ gì ai nữa - cha nội ? Tưởng vậy thôi chớ không phải vậy đâu. Tưởng vậy là tưởng năng thối. Cỡ người hùng Điện Biên đang cầm quân mà chúng bắt cầm quần, cũng phải lật đật… cầm liền (và cầm chắc) mà!
Vậy chớ dân cầm ly thì sao?
Sao cái con cặc gì! Đ… mẹ, tụi tui say chớ đâu có điên mà không biết sợ - mấy cha?
Vụ này, ông bạn đồng nghiệp (cầm chai) của tôi - Bùi Minh Quốc - cũng đã thú nhận lâu rồi. Tụi này là dân nhậu, chớ có phải dân biểu (quốc hội) đâu mà phải giấu diếm hay lấp liếm mọi chuyện:
“Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn.”
Mà Nguyệt Nga, nói tình ngay, dù sao cũng là một cô gái đã trưởng thành. Còn biết bao nhiêu đứa bé thơ Việt Nam khác, đang bị dầy vò ở khắp mọi nơi trên thế giới - cũng đau đớn “xé trời kêu chẳng thấu” - nhưng có thấy ông (hay bà) tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, dược sĩ, tu sĩ, nhân sĩ, ca sĩ, chiến sĩ … nào lên tiếng thắc mắc hoặc khiếu nại gì đâu.
Nói tóm lại (lần nữa) thì hèn - “ở giai đoạn trước” - là một cơ hội đồng đều (equal opportunity) không phân biệt giới tính, tuổi tác, tôn giáo, sắc tộc, hay thành phần xã hội. Như thế, cớ sao ông Phạm Xuân Nguyên chỉ lườm nguýt cái đám cầm viết mà lại không nói một lời nào với bọn cầm quyền.
Cái được gọi là “giai đoạn trước” đã qua. Cái thời mà chúng ta phải đổ lỗi cho nạn nhân thay vì chỉ tay vào mặt thủ phạm (tưởng) cũng qua luôn rồi chớ?
© 2009 Tưởng Năng Tiến
Create PDF
Phản hồi
1 phản hồi (bài “Cầm quyền cầm ly và cầm bút”)
1.
Trần Văn Tích nói:
31/03/2009 lúc 3:00 chiều
Sợ là một phản ứng tự vệ, một phản xạ sinh tồn. Sartre từng bảo: “Tất cả mọi người đều sợ hãi, tất cả. Người không biết sợ vốn không bình thường. Điều đó chẳng ăn nhằm gì đến sự can đảm.” Không phải chỉ “giai đoạn trước” mới tạo nên chứng sợ nơi người cầm bút. Thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng nói nhiều đến sợ. Nhưng trong giai đoạn phong kiến phản động và lạc hậu, Nguyễn Du sợ một cách bình thường, Nguyễn Du sợ một cách rất người; còn trong “giai đoạn trước” cách mạng và tiến bộ thì người ta sợ một cách bệnh hoạn, người ta sợ một cách rất gì cũng không biết nữa. Nhưng có khi đó cũng là một cái… may cho dân tộc. Vì theo đông y, khủng thương thận, sợ hãi quá mức háo thương thận khí, khiến tinh khí bị nén xuống không nâng lên được, cho nên dân gian mới nói sợ đến vãi đái, sợ đến són đái. Vì sợ quá thì thận khí suy nên dân ta… bớt được nạn nhân mãn. Âu đó cũng là một thành công trong rất nhiều thành công, đại thành công khác.
source : talawas 2009
30/3/09
Phạm Quang Tuấn : Giải pháp Biển Đông của Dương Danh Huy và Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Giải pháp Biển Đông của Dương Danh Huy và Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
31/03/2009 | 3:06 sáng |
Tác giả: Phạm Quang Tuấn
Chuyên mục: Quan hệ Việt – Trung, Vấn đề Biển Đông
Trong một loạt bài viết trên các diễn đàn, kể cả BBC tiếng Việt, đăng lại trong một số báo tiếng Anh (ở Phillippines, Nhật) và báo trong nước, ông Dương Danh Huy (một Việt kiều ở Anh, sáng lập viên nhóm Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đưa ra một số đề nghị để giải quyết vấn đề Biển Đông [1-4]. Mới đây, ông Trương Nhân Tuấn đã kịch liệt công kích đề nghị của Dương Danh Huy, thậm chí bảo ông này là tay sai của chính quyền, sửa soạn dư luận để đem Trường Sa và Hoàng Sa cúng cho Trung Quốc.
Để có sự công bằng ta cần đánh giá đề nghị của nhóm Dương Danh Huy một cách khách quan và nghiêm túc. Trước hết xin tóm tắt lại những đề nghị này:
1. TẠM THỜI gác việc tranh giành các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa sang một bên để bàn về việc phân chia các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (continental shelf) ở Biển Đông.
2. Thương lượng với các nước chung quanh Biển Đông (Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Brunei, Phillippines) để chia Biển Đông ra thành những vùng kinh tế của mỗi nước, theo đúng luật biển UNCLOS (United Nations Law of the Sea) [5] và tiền lệ quốc tế, tức là:
(a) Mỗi nước được 1 vùng EEZ 200 hải lý (370 km) tính từ “đường cơ sở” (bờ)
(b) Phía nam Biển Đông có một thềm lục địa rất lớn tên là Sunda Shelf, theo UNCLOS thì các nước quanh đó (kể cả Việt Nam) được tính thêm ra tối đa 350 hải lý.
(c) Khi khu kinh tế hay thềm lục địa của hai nước trùng nhau, thì chia hai theo nguyên tắc vẽ một đường trung tuyến từ ranh giới trên đất liền.
(d) Các đảo (Hoàng Sa, Trường Sa) là đảo nhỏ, không nuôi sống được người, nên không được tính EEZ mà chỉ cho tối đa một lãnh hải (territorial sea) 12 hải lý; tức là, các đảo đó không ảnh hưởng đến việc phân chia EEZ và thềm lục địa.
Xin để ý là nhóm Dương Danh Huy không hề nói là đem Hoàng Sa, Trường Sa “dâng” cho Trung Quốc hay ai khác cả như Trương Nhân Tuấn đã viết. Trái lại, họ luôn luôn nhấn mạnh là Việt Nam vẫn phải bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa [1], chỉ nói là việc phân chia Biển Đông cần làm trước hoặc làm song song.
Đề nghị trên có lợi ở chỗ nào? Trước hết, ta phải nhìn vào cán cân lực lượng của các nước ở Biển Đông và thế giới. Chỉ trong vòng 30 năm nữa, Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường, kể cả trên mặt biển. Muốn thành cường quốc trên biển, phải có sức mạnh kinh tế, khoa học kỹ thuật, phải có tàu lớn và khí giới tối tân và ngân quỹ hàng trăm tỷ đô la. Đánh nhau trên biển không phải như trên đất liền mà có thể dùng “tiêu thổ kháng chiến”, “du kích chiến”, “đường mòn Hồ Chí Minh”, “địa đạo Củ Chi”, “bẫy cọp” hay chỉ dựa vào lòng yêu nước và can đảm hy sinh, như ta đã thấy trong hai trận hải chiến ở Hoàng Sa và Trường Sa. Trong hai trận đó, Việt Nam đã cay đắng thảm bại trước một Trung Quốc chưa là cường quốc, thậm chí còn tụt hậu, huống chi bây giờ và trong tương lai. 30 năm nữa, ngay cả Mỹ cũng sẽ không còn đủ sức và nhất là đủ ý chí để đè nén tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Vì vậy, dùng sức mạnh đối với Trung Quốc hay ỷ vào sức mạnh của Mỹ để đòi lại Hoàng Sa và chiếm lại hết Trường Sa là điều hoàn toàn không tưởng đối với Việt Nam, và mỗi năm lại càng thêm không tưởng. Việt Nam chỉ có thể dùng luật pháp và ngoại giao, và đó là giải pháp của Dương Danh Huy đề nghị.
Về luật pháp thì như đã thấy, đề nghị này dựa trên Luật Biển quốc tế 1982 (UNCLOS) mà chính Trung Quốc đã ký kết, cũng như các nước khác quanh Biển Đông. Còn về ngoại giao thì sao? Hiện các nước Đông Nam Á đang xâu xé nhau về vụ tranh giành Trường Sa, mà như vậy thì chỉ Trung Quốc hưởng lợi theo kiểu ngư ông và nghêu sò. Nếu tạm để Hoàng Sa và Trường Sa sang một bên để giải quyết sau, thì sẽ đỡ được nguồn tranh chấp đó, các nước nhỏ sẽ có cơ đoàn kết với nhau để hợp sức chống lại kẻ thù chung là Trung Quốc. Bởi vì, không như các nước khác quanh Biển Đông, Trung Quốc không chỉ bằng lòng với EEZ 200 hải lý, mà đòi TẤT CẢ Biển Đông, đi dọc suốt gần bờ Việt Nam, thòng xuống phía Nam tận sát bờ Indonesia và Malaysia, và phía Đông thì sát bờ Phillippines! Cái đòi hỏi vô lý và bất hợp pháp này (chẳng hạn xem [6, 7]) được vẽ trên nhiều bản đồ của Trung Quốc. Họ gọi nó là “nine-dotted line” và chúng ta gọi đó là đòi hỏi “vùng biển lưỡi bò”.
Dĩ nhiên, khi phân chia Biển Đông theo đề nghị của Dương Danh Huy thì cái lưỡi bò đó sẽ “tiêu”, sẽ thành petfood, do đó các nước sẽ chia ngay làm hai phe: một bên là Trung Quốc đòi bảo vệ lưỡi bò, bên kia là các nước khác, chắc chắn là với sự ủng hộ của Mỹ và quốc tế (vì không ai có thể chấp nhận cái lưỡi đầy rớt rãi khó ngửi của Tàu). Tình hình sẽ rất thuận lợi cho Việt Nam, ít ra là thuận lợi hơn bây giờ! Dù Trung Quốc có trở thành siêu cường nhưng chắc là sẽ bớt hống hách hơn khi thấy nguyên một khối Đông Nam Á nửa tỉ dân đồng lòng chống mình.
Còn về các đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì sao? Đề nghị của Dương Danh Huy không nói gì về việc này mà chỉ bảo là tạm gác đó. Tuy nhiên, một khi Biển Đông đã chia thành hai phe rõ ràng (Trung Quốc chống the rest) thì lối giải quyết tập thể đó có khả năng được liên minh Việt-Mã-Phi-Brunei đòi áp dụng cho các đảo. Tức là, nếu Trung Quốc và các nước khác đồng ý, có thể ta sẽ mất một số đảo, nhưng sự mất mát đó không quan trọng lắm vì những đảo đó chỉ còn một lãnh hải tối đa 12 hải lý ở quanh mỗi hòn. Dĩ nhiên, sẽ nhiều người quan niệm “tấc đất tấc vàng”, không chấp nhận được sự mất mát đó. Họ muốn Việt Nam phải đòi hết, đòi đến cùng. Như ta đã thấy, thái độ đó sẽ dẫn đến việc mất hết: không những mất hết các đảo, mà còn mất các khu đặc quyền kinh tế, khi mà Trung Quốc trở thành siêu cường trên Biển Đông và các siêu hạm Trịnh Hòa 11, Trịnh Hòa 12 v.v. thường trực tuần tra cái lưỡi bò của họ. Còn, nếu các nước không đồng ý giải quyết theo cách này, thì sẽ lại tiếp tục tranh chấp tiếp như bây giờ, nghĩa là tình hình vẫn như cũ.
Trương Nhân Tuấn và Dương Danh Huy không đồng ý với nhau về việc các hòn đảo của Trường Sa có thực sự là “đảo” không hay chỉ là “cồn đá” (rock), và do đó có được hưởng EEZ 200 hải lý quanh mỗi đảo không. Điều 121/3 của UNCLOS viết: “Rocks which cannot sustain human habitation or economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf” (những cồn đá không thể có người sống hay đời sống kinh tế riêng thì không được hưởng EEZ hay thềm lục địa). Điều này mập mờ và UNCLOS không giải thích thêm gì cả. Dương Danh Huy cho là các đảo quá nhỏ để được EEZ, Trương Nhân Tuấn không tin như thế. Nên để ý rằng đảo lớn nhất của Trường Sa là đảo Ba Bình (Itu Aba), hiện bị Đài Loan chiếm, diện tích chỉ có 0.4 km vuông, bằng 1/10 cái tiêu chuẩn 1 hải lý vuông để được coi là đảo mà Trương Nhân Tuấn bảo là ai đó đang kiến nghị. Theo một số luật gia thì khi luật pháp không nói rõ, các nước liên hệ phải thương thuyết với nhau. Nếu theo phương cách thương thuyết này thì các nước nhỏ như Việt Nam lại càng cần liên minh để có thế khi tranh cãi với Trung Quốc.
Cuối cùng, ta cũng nên tự hỏi tại sao Trương Nhân Tuấn đả kích kịch liệt Dương Danh Huy và gọi ông này là tay sai cộng sản, dọn đường dư luận cho chính quyền để dâng Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung Quốc, mặc dầu Dương Danh Huy đã viết: “Song song với việc thực hiện những mục đích này, Việt Nam vẫn phải tiếp tục cố gắng bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông một cách triệt để”[1]. Lẽ ra khi mà hai người đều lưu tâm về chủ quyền đất nước, họ phải đối xử với nhau như là “đồng chí”, hay ít ra là tranh luận một cách lịch sự tương kính chứ.
Theo tôi, đó là vì khi viết, Dương Danh Huy có một “target audience” rõ ràng là chính quyền, không những chính quyền Việt Nam mà cả chính quyền Philippines, Indonesia, v.v… Do đó, Dương Danh Huy thường viết với một giọng khách quan, không gay gắt, không “nhập đề”, “kết luận” hay “thân bài” bằng cách đay nghiến cái công hàm của Phạm Văn Đồng hay rủa xả nhà nước Việt Nam, vì làm như vậy sẽ phản tác dụng. Khác hẳn lối viết của Trương Nhân Tuấn (ông này nhắc đến Phạm Văn Đồng ít nhất là TÁM lần trong bài và câu kết thúc cũng là nói về cái công hàm “mắc dịch” đó, dường như mối lo chính của ông là sợ người đọc quên cái tội của Phạm Văn Đồng). Có những người có thể coi lối viết của Dương Danh Huy là một kiểu “lập lờ”, ủng hộ cộng sản, không thể tha thứ được.
Theo tôi, nếu quả thật Dương Danh Huy và nhóm Nghiên cứu Biển Đông là cái “loa” của chính quyền Việt Nam như Trương Nhân Tuấn nói, thì ta phải lấy làm mừng rằng chính quyền Việt Nam đã có một chính sách quá hay để giải quyết vấn đề Biển Đông theo chiều hướng thuận lợi nhất có thể được. Chỉ e rằng không được thế!
Những người quen thuộc với UNCLOS và tình hình Biển Đông cũng sẽ thấy ngay một số điểm sai quan trọng trong những luận cứ của Trương Nhân Tuấn. Chẳng hạn, ông Tuấn nói rằng Exxon Mobil rời bỏ Việt Nam vì áp lực của Trung Quốc, một việc chưa hề xảy ra (Exxon Mobil quả đã bị áp lực trong năm 2008 nhưng đã tuyên bố là không rời bỏ hợp đồng khai thác với Việt Nam). Về tiền lệ, ông nói rằng “Anh vẫn giữ nguyên tuyên bố 200 hải lý quyền khai thác” chung quanh hòn đá “Rock All”, trong khi thực ra Anh đã chính thức rút lại đòi hỏi này từ năm 1997 để tuân thủ Luật Biển. (Thực ra là hòn Rockall chứ không phải Rock All, như Trương Nhân Tuấn đã viết sai hai lần!) Vậy tiền lệ này ủng hộ quan điểm của Dương Danh Huy chứ không ủng hộ quan điểm của Trương Nhân Tuấn!
Trương Nhân Tuấn còn viết rằng “nước nào có chủ quyền ở [Trường Sa] (và Hoàng Sa) đương nhiên chiếm lĩnh cả Biển Đông, vì biển giữa quần đảo được coi là nội hải”. Hoàn toàn sai, 100%! Thực ra, điều khoản “nội hải” này của UNCLOS chỉ áp dụng cho các quốc gia quần đảo (archipelagic states) như Philippines, Indonesia, chứ không áp dụng cho những quần đảo không phải là quốc gia, như Trường Sa. Tôi cho rằng đây là một sự cố ý ngụy biện chứ không phải là không biết, vì ngay sau đó thì Trương Nhân Tuấn đã viết nguyên si thành ngữ “quốc gia quần đảo” trong UNCLOS: “Theo Luật Biển 1982: Quốc gia quần đảo có chủ quyền với vùng nước, vùng trời và vùng đáy và lòng đất tương ứng cũng như tài nguyên ở đó”. Trương Nhân Tuấn đã đưa ra những lý lẽ ngụy biện, “luật rừng” mà Trung Quốc dùng để bảo vệ lưỡi bò của mình, và bảo đó là luật biển quốc tế!
Còn nhiều chi tiết sai bậy hay thổi phồng khác, như: “Hầu hết các Atlas nước ngoài đều ghi nhận công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã công nhận HS và TS thuộc chủ quyền của Tàu”. Atlas thường đâu có ghi nhận những công hàm như vậy? Trương Nhân Tuấn đưa ra được đúng… một ví dụ để chứng minh chữ “hầu hết”. “Trước dư luận quốc tế, HS và TS đã là của Trung Quốc”: có thật không vậy? Hầu hết báo chí cũng như giới nghiên cứu quốc tế đều nói rằng những đảo này, nhất là Trường Sa, đang tranh chấp chủ quyền. Chỉ cần xem Wikipedia là biết. “Trường hợp tranh cãi giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về chiếc tàu Impeccable là một thí dụ. Đây là một trong nhiều kẽ hở của Luật Biển 1982″: hoàn toàn sai. UNCLOS (điều 58) nói rõ ràng là ngoài việc khai thác kinh tế, EEZ phải được coi là biển khơi, tàu các nước tự do qua lại.
Tôi nghĩ rằng, ở tư thế một nước yếu phải bảo vệ quyền lợi của mình, người Việt cần có thái độ hợp tác và xây dựng hơn trong những vấn đề có liên quan đến lãnh thổ quốc gia. Dùng thủ đoạn công kích chụp mũ như ông Trương Nhân Tuấn đã làm không ích lợi gì cho quốc gia dân tộc, mà chỉ là tung hỏa mù cho chính mình khi đang tranh đấu trước kẻ thù chung.
Tài liệu
[1] Dương Danh Huy - Phạm Thu Xuân - Nguyễn Thái Linh - Lê Vĩnh Trương - Lê Minh Phiếu, Tranh chấp Biển Đông và vai trò của Liên hiệp quốc: http://tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/6378/index.aspx
[2] BBC (21/1/2008) Philippines đăng thư ngỏ về Biển Đông: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2008/11/081121_manilatimes_asean_sea.shtml
[3] Dương Danh Huy, Bức thư ngỏ trên tờ Manila Times: http://www.minhbien.org/?p=493
[4] Lê Minh Phiếu - Dương Danh Huy, Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông: http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5831/index.aspx. Ghi chú: bản đồ ở bài này có sửa đổi vài chi tiết trong đề nghị phân chia biển Đông cho hợp luật quốc tế hơn, so với bản đồ trước ở BBC.
[5] United Nations Law of the Sea (UNCLOS): http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/convention_overview_convention.htm
[6] Li Jinming, Li Dexia, The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note, Ocean Development & International Law, 34:287-295, 2003: http://www.southchinasea.org/docs/Li%20and%20Li-The%20Dotted%20Line%20on%20the%20Map.pdf
[7] Official Chinese map of the South China Sea with the nine-dotted line, 1999: http://www.southchinasea.org/9-dotted%20map/map_small.gif
© 2009 Phạm Quang Tuấn
© 2009 talawas blog
Create PDF
Phản hồi
2 phản hồi (bài “Giải pháp Biển Đông của Dương Danh Huy và Quỹ Nghiên cứu Biển Đông”)
1.
Hà Minh nói:
31/03/2009 lúc 5:03 sáng
Ý dân thì năm bè bẩy mối, ý lãnh đạo thì đã có khuôn vàng thước ngọc 16 chữ vàng chỉ đường dẫn lối,…thì tóm lại là trước sau gì cũng mất, mất quyền khai thác khoáng sản, mất quyền đánh bắt cá, giao thông vận tải phải xin phép, nhưng dù sao những thảo luận công khai vẫn có giá trị, ít nhất cho người dân biết cái gì đang đến và sẽ đến.
2.
Nghiêm Quang nói:
31/03/2009 lúc 4:09 sáng
Cám ơn bài viết rành mạch của Phạm Quang Tuấn. Hy vọng qua chừng đó ý kiến, ông Trương Nhân Tuấn có thể hiểu lý do tôi và mấy quý vị khác cho rằng ông đã để định kiến/màu sắc/tình cảm chánh trị chi phối ở một số luận điểm, thay vì trưng ra bằng cớ xác đáng/thuyết phục.
Lý giải vì sao 1000 ký tự không thể nào đủ cho các phản hồi độc giả của ông Trương Nhân Tuấn, lại chỉ có thể thấy do ông đặt rất nhiều tình cảm vào những mục nầy:
- vừa bao dung trưởng thượng (”… nhưng không sao”,”nay mai, nếu còn dịp, tôi sẽ gởi lên một vài bài nghiên cứu của tôi để ông Nghiêm Quang phê bình”),
- vừa ỏn ẻn giận lẫy (”Như trong bài đã viết, mà có người nói tôi lặp lại ít ra hai lần, công hàm của ông Đồng…”, “Phía VN nghĩ sao thì nghĩ, tôi chỉ đưa ra một dữ kiện”),
- vừa tranh thủ nói móc (”Về bạn Đông A, xin chào cố nhân. Bạn đã thành công trong việc «sa thải» ban biên tập báo Du Lịch chưa ? Hy vọng là chưa để bầu trời Việt Nam còn màu xanh hy vọng.”).
© talawas 2009
31/03/2009 | 3:06 sáng |
Tác giả: Phạm Quang Tuấn
Chuyên mục: Quan hệ Việt – Trung, Vấn đề Biển Đông
Trong một loạt bài viết trên các diễn đàn, kể cả BBC tiếng Việt, đăng lại trong một số báo tiếng Anh (ở Phillippines, Nhật) và báo trong nước, ông Dương Danh Huy (một Việt kiều ở Anh, sáng lập viên nhóm Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đưa ra một số đề nghị để giải quyết vấn đề Biển Đông [1-4]. Mới đây, ông Trương Nhân Tuấn đã kịch liệt công kích đề nghị của Dương Danh Huy, thậm chí bảo ông này là tay sai của chính quyền, sửa soạn dư luận để đem Trường Sa và Hoàng Sa cúng cho Trung Quốc.
Để có sự công bằng ta cần đánh giá đề nghị của nhóm Dương Danh Huy một cách khách quan và nghiêm túc. Trước hết xin tóm tắt lại những đề nghị này:
1. TẠM THỜI gác việc tranh giành các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa sang một bên để bàn về việc phân chia các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (continental shelf) ở Biển Đông.
2. Thương lượng với các nước chung quanh Biển Đông (Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Brunei, Phillippines) để chia Biển Đông ra thành những vùng kinh tế của mỗi nước, theo đúng luật biển UNCLOS (United Nations Law of the Sea) [5] và tiền lệ quốc tế, tức là:
(a) Mỗi nước được 1 vùng EEZ 200 hải lý (370 km) tính từ “đường cơ sở” (bờ)
(b) Phía nam Biển Đông có một thềm lục địa rất lớn tên là Sunda Shelf, theo UNCLOS thì các nước quanh đó (kể cả Việt Nam) được tính thêm ra tối đa 350 hải lý.
(c) Khi khu kinh tế hay thềm lục địa của hai nước trùng nhau, thì chia hai theo nguyên tắc vẽ một đường trung tuyến từ ranh giới trên đất liền.
(d) Các đảo (Hoàng Sa, Trường Sa) là đảo nhỏ, không nuôi sống được người, nên không được tính EEZ mà chỉ cho tối đa một lãnh hải (territorial sea) 12 hải lý; tức là, các đảo đó không ảnh hưởng đến việc phân chia EEZ và thềm lục địa.
Xin để ý là nhóm Dương Danh Huy không hề nói là đem Hoàng Sa, Trường Sa “dâng” cho Trung Quốc hay ai khác cả như Trương Nhân Tuấn đã viết. Trái lại, họ luôn luôn nhấn mạnh là Việt Nam vẫn phải bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa [1], chỉ nói là việc phân chia Biển Đông cần làm trước hoặc làm song song.
Đề nghị trên có lợi ở chỗ nào? Trước hết, ta phải nhìn vào cán cân lực lượng của các nước ở Biển Đông và thế giới. Chỉ trong vòng 30 năm nữa, Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường, kể cả trên mặt biển. Muốn thành cường quốc trên biển, phải có sức mạnh kinh tế, khoa học kỹ thuật, phải có tàu lớn và khí giới tối tân và ngân quỹ hàng trăm tỷ đô la. Đánh nhau trên biển không phải như trên đất liền mà có thể dùng “tiêu thổ kháng chiến”, “du kích chiến”, “đường mòn Hồ Chí Minh”, “địa đạo Củ Chi”, “bẫy cọp” hay chỉ dựa vào lòng yêu nước và can đảm hy sinh, như ta đã thấy trong hai trận hải chiến ở Hoàng Sa và Trường Sa. Trong hai trận đó, Việt Nam đã cay đắng thảm bại trước một Trung Quốc chưa là cường quốc, thậm chí còn tụt hậu, huống chi bây giờ và trong tương lai. 30 năm nữa, ngay cả Mỹ cũng sẽ không còn đủ sức và nhất là đủ ý chí để đè nén tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Vì vậy, dùng sức mạnh đối với Trung Quốc hay ỷ vào sức mạnh của Mỹ để đòi lại Hoàng Sa và chiếm lại hết Trường Sa là điều hoàn toàn không tưởng đối với Việt Nam, và mỗi năm lại càng thêm không tưởng. Việt Nam chỉ có thể dùng luật pháp và ngoại giao, và đó là giải pháp của Dương Danh Huy đề nghị.
Về luật pháp thì như đã thấy, đề nghị này dựa trên Luật Biển quốc tế 1982 (UNCLOS) mà chính Trung Quốc đã ký kết, cũng như các nước khác quanh Biển Đông. Còn về ngoại giao thì sao? Hiện các nước Đông Nam Á đang xâu xé nhau về vụ tranh giành Trường Sa, mà như vậy thì chỉ Trung Quốc hưởng lợi theo kiểu ngư ông và nghêu sò. Nếu tạm để Hoàng Sa và Trường Sa sang một bên để giải quyết sau, thì sẽ đỡ được nguồn tranh chấp đó, các nước nhỏ sẽ có cơ đoàn kết với nhau để hợp sức chống lại kẻ thù chung là Trung Quốc. Bởi vì, không như các nước khác quanh Biển Đông, Trung Quốc không chỉ bằng lòng với EEZ 200 hải lý, mà đòi TẤT CẢ Biển Đông, đi dọc suốt gần bờ Việt Nam, thòng xuống phía Nam tận sát bờ Indonesia và Malaysia, và phía Đông thì sát bờ Phillippines! Cái đòi hỏi vô lý và bất hợp pháp này (chẳng hạn xem [6, 7]) được vẽ trên nhiều bản đồ của Trung Quốc. Họ gọi nó là “nine-dotted line” và chúng ta gọi đó là đòi hỏi “vùng biển lưỡi bò”.
Dĩ nhiên, khi phân chia Biển Đông theo đề nghị của Dương Danh Huy thì cái lưỡi bò đó sẽ “tiêu”, sẽ thành petfood, do đó các nước sẽ chia ngay làm hai phe: một bên là Trung Quốc đòi bảo vệ lưỡi bò, bên kia là các nước khác, chắc chắn là với sự ủng hộ của Mỹ và quốc tế (vì không ai có thể chấp nhận cái lưỡi đầy rớt rãi khó ngửi của Tàu). Tình hình sẽ rất thuận lợi cho Việt Nam, ít ra là thuận lợi hơn bây giờ! Dù Trung Quốc có trở thành siêu cường nhưng chắc là sẽ bớt hống hách hơn khi thấy nguyên một khối Đông Nam Á nửa tỉ dân đồng lòng chống mình.
Còn về các đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì sao? Đề nghị của Dương Danh Huy không nói gì về việc này mà chỉ bảo là tạm gác đó. Tuy nhiên, một khi Biển Đông đã chia thành hai phe rõ ràng (Trung Quốc chống the rest) thì lối giải quyết tập thể đó có khả năng được liên minh Việt-Mã-Phi-Brunei đòi áp dụng cho các đảo. Tức là, nếu Trung Quốc và các nước khác đồng ý, có thể ta sẽ mất một số đảo, nhưng sự mất mát đó không quan trọng lắm vì những đảo đó chỉ còn một lãnh hải tối đa 12 hải lý ở quanh mỗi hòn. Dĩ nhiên, sẽ nhiều người quan niệm “tấc đất tấc vàng”, không chấp nhận được sự mất mát đó. Họ muốn Việt Nam phải đòi hết, đòi đến cùng. Như ta đã thấy, thái độ đó sẽ dẫn đến việc mất hết: không những mất hết các đảo, mà còn mất các khu đặc quyền kinh tế, khi mà Trung Quốc trở thành siêu cường trên Biển Đông và các siêu hạm Trịnh Hòa 11, Trịnh Hòa 12 v.v. thường trực tuần tra cái lưỡi bò của họ. Còn, nếu các nước không đồng ý giải quyết theo cách này, thì sẽ lại tiếp tục tranh chấp tiếp như bây giờ, nghĩa là tình hình vẫn như cũ.
Trương Nhân Tuấn và Dương Danh Huy không đồng ý với nhau về việc các hòn đảo của Trường Sa có thực sự là “đảo” không hay chỉ là “cồn đá” (rock), và do đó có được hưởng EEZ 200 hải lý quanh mỗi đảo không. Điều 121/3 của UNCLOS viết: “Rocks which cannot sustain human habitation or economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf” (những cồn đá không thể có người sống hay đời sống kinh tế riêng thì không được hưởng EEZ hay thềm lục địa). Điều này mập mờ và UNCLOS không giải thích thêm gì cả. Dương Danh Huy cho là các đảo quá nhỏ để được EEZ, Trương Nhân Tuấn không tin như thế. Nên để ý rằng đảo lớn nhất của Trường Sa là đảo Ba Bình (Itu Aba), hiện bị Đài Loan chiếm, diện tích chỉ có 0.4 km vuông, bằng 1/10 cái tiêu chuẩn 1 hải lý vuông để được coi là đảo mà Trương Nhân Tuấn bảo là ai đó đang kiến nghị. Theo một số luật gia thì khi luật pháp không nói rõ, các nước liên hệ phải thương thuyết với nhau. Nếu theo phương cách thương thuyết này thì các nước nhỏ như Việt Nam lại càng cần liên minh để có thế khi tranh cãi với Trung Quốc.
Cuối cùng, ta cũng nên tự hỏi tại sao Trương Nhân Tuấn đả kích kịch liệt Dương Danh Huy và gọi ông này là tay sai cộng sản, dọn đường dư luận cho chính quyền để dâng Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung Quốc, mặc dầu Dương Danh Huy đã viết: “Song song với việc thực hiện những mục đích này, Việt Nam vẫn phải tiếp tục cố gắng bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông một cách triệt để”[1]. Lẽ ra khi mà hai người đều lưu tâm về chủ quyền đất nước, họ phải đối xử với nhau như là “đồng chí”, hay ít ra là tranh luận một cách lịch sự tương kính chứ.
Theo tôi, đó là vì khi viết, Dương Danh Huy có một “target audience” rõ ràng là chính quyền, không những chính quyền Việt Nam mà cả chính quyền Philippines, Indonesia, v.v… Do đó, Dương Danh Huy thường viết với một giọng khách quan, không gay gắt, không “nhập đề”, “kết luận” hay “thân bài” bằng cách đay nghiến cái công hàm của Phạm Văn Đồng hay rủa xả nhà nước Việt Nam, vì làm như vậy sẽ phản tác dụng. Khác hẳn lối viết của Trương Nhân Tuấn (ông này nhắc đến Phạm Văn Đồng ít nhất là TÁM lần trong bài và câu kết thúc cũng là nói về cái công hàm “mắc dịch” đó, dường như mối lo chính của ông là sợ người đọc quên cái tội của Phạm Văn Đồng). Có những người có thể coi lối viết của Dương Danh Huy là một kiểu “lập lờ”, ủng hộ cộng sản, không thể tha thứ được.
Theo tôi, nếu quả thật Dương Danh Huy và nhóm Nghiên cứu Biển Đông là cái “loa” của chính quyền Việt Nam như Trương Nhân Tuấn nói, thì ta phải lấy làm mừng rằng chính quyền Việt Nam đã có một chính sách quá hay để giải quyết vấn đề Biển Đông theo chiều hướng thuận lợi nhất có thể được. Chỉ e rằng không được thế!
Những người quen thuộc với UNCLOS và tình hình Biển Đông cũng sẽ thấy ngay một số điểm sai quan trọng trong những luận cứ của Trương Nhân Tuấn. Chẳng hạn, ông Tuấn nói rằng Exxon Mobil rời bỏ Việt Nam vì áp lực của Trung Quốc, một việc chưa hề xảy ra (Exxon Mobil quả đã bị áp lực trong năm 2008 nhưng đã tuyên bố là không rời bỏ hợp đồng khai thác với Việt Nam). Về tiền lệ, ông nói rằng “Anh vẫn giữ nguyên tuyên bố 200 hải lý quyền khai thác” chung quanh hòn đá “Rock All”, trong khi thực ra Anh đã chính thức rút lại đòi hỏi này từ năm 1997 để tuân thủ Luật Biển. (Thực ra là hòn Rockall chứ không phải Rock All, như Trương Nhân Tuấn đã viết sai hai lần!) Vậy tiền lệ này ủng hộ quan điểm của Dương Danh Huy chứ không ủng hộ quan điểm của Trương Nhân Tuấn!
Trương Nhân Tuấn còn viết rằng “nước nào có chủ quyền ở [Trường Sa] (và Hoàng Sa) đương nhiên chiếm lĩnh cả Biển Đông, vì biển giữa quần đảo được coi là nội hải”. Hoàn toàn sai, 100%! Thực ra, điều khoản “nội hải” này của UNCLOS chỉ áp dụng cho các quốc gia quần đảo (archipelagic states) như Philippines, Indonesia, chứ không áp dụng cho những quần đảo không phải là quốc gia, như Trường Sa. Tôi cho rằng đây là một sự cố ý ngụy biện chứ không phải là không biết, vì ngay sau đó thì Trương Nhân Tuấn đã viết nguyên si thành ngữ “quốc gia quần đảo” trong UNCLOS: “Theo Luật Biển 1982: Quốc gia quần đảo có chủ quyền với vùng nước, vùng trời và vùng đáy và lòng đất tương ứng cũng như tài nguyên ở đó”. Trương Nhân Tuấn đã đưa ra những lý lẽ ngụy biện, “luật rừng” mà Trung Quốc dùng để bảo vệ lưỡi bò của mình, và bảo đó là luật biển quốc tế!
Còn nhiều chi tiết sai bậy hay thổi phồng khác, như: “Hầu hết các Atlas nước ngoài đều ghi nhận công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã công nhận HS và TS thuộc chủ quyền của Tàu”. Atlas thường đâu có ghi nhận những công hàm như vậy? Trương Nhân Tuấn đưa ra được đúng… một ví dụ để chứng minh chữ “hầu hết”. “Trước dư luận quốc tế, HS và TS đã là của Trung Quốc”: có thật không vậy? Hầu hết báo chí cũng như giới nghiên cứu quốc tế đều nói rằng những đảo này, nhất là Trường Sa, đang tranh chấp chủ quyền. Chỉ cần xem Wikipedia là biết. “Trường hợp tranh cãi giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về chiếc tàu Impeccable là một thí dụ. Đây là một trong nhiều kẽ hở của Luật Biển 1982″: hoàn toàn sai. UNCLOS (điều 58) nói rõ ràng là ngoài việc khai thác kinh tế, EEZ phải được coi là biển khơi, tàu các nước tự do qua lại.
Tôi nghĩ rằng, ở tư thế một nước yếu phải bảo vệ quyền lợi của mình, người Việt cần có thái độ hợp tác và xây dựng hơn trong những vấn đề có liên quan đến lãnh thổ quốc gia. Dùng thủ đoạn công kích chụp mũ như ông Trương Nhân Tuấn đã làm không ích lợi gì cho quốc gia dân tộc, mà chỉ là tung hỏa mù cho chính mình khi đang tranh đấu trước kẻ thù chung.
Tài liệu
[1] Dương Danh Huy - Phạm Thu Xuân - Nguyễn Thái Linh - Lê Vĩnh Trương - Lê Minh Phiếu, Tranh chấp Biển Đông và vai trò của Liên hiệp quốc: http://tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/6378/index.aspx
[2] BBC (21/1/2008) Philippines đăng thư ngỏ về Biển Đông: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2008/11/081121_manilatimes_asean_sea.shtml
[3] Dương Danh Huy, Bức thư ngỏ trên tờ Manila Times: http://www.minhbien.org/?p=493
[4] Lê Minh Phiếu - Dương Danh Huy, Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông: http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5831/index.aspx. Ghi chú: bản đồ ở bài này có sửa đổi vài chi tiết trong đề nghị phân chia biển Đông cho hợp luật quốc tế hơn, so với bản đồ trước ở BBC.
[5] United Nations Law of the Sea (UNCLOS): http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/convention_overview_convention.htm
[6] Li Jinming, Li Dexia, The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note, Ocean Development & International Law, 34:287-295, 2003: http://www.southchinasea.org/docs/Li%20and%20Li-The%20Dotted%20Line%20on%20the%20Map.pdf
[7] Official Chinese map of the South China Sea with the nine-dotted line, 1999: http://www.southchinasea.org/9-dotted%20map/map_small.gif
© 2009 Phạm Quang Tuấn
© 2009 talawas blog
Create PDF
Phản hồi
2 phản hồi (bài “Giải pháp Biển Đông của Dương Danh Huy và Quỹ Nghiên cứu Biển Đông”)
1.
Hà Minh nói:
31/03/2009 lúc 5:03 sáng
Ý dân thì năm bè bẩy mối, ý lãnh đạo thì đã có khuôn vàng thước ngọc 16 chữ vàng chỉ đường dẫn lối,…thì tóm lại là trước sau gì cũng mất, mất quyền khai thác khoáng sản, mất quyền đánh bắt cá, giao thông vận tải phải xin phép, nhưng dù sao những thảo luận công khai vẫn có giá trị, ít nhất cho người dân biết cái gì đang đến và sẽ đến.
2.
Nghiêm Quang nói:
31/03/2009 lúc 4:09 sáng
Cám ơn bài viết rành mạch của Phạm Quang Tuấn. Hy vọng qua chừng đó ý kiến, ông Trương Nhân Tuấn có thể hiểu lý do tôi và mấy quý vị khác cho rằng ông đã để định kiến/màu sắc/tình cảm chánh trị chi phối ở một số luận điểm, thay vì trưng ra bằng cớ xác đáng/thuyết phục.
Lý giải vì sao 1000 ký tự không thể nào đủ cho các phản hồi độc giả của ông Trương Nhân Tuấn, lại chỉ có thể thấy do ông đặt rất nhiều tình cảm vào những mục nầy:
- vừa bao dung trưởng thượng (”… nhưng không sao”,”nay mai, nếu còn dịp, tôi sẽ gởi lên một vài bài nghiên cứu của tôi để ông Nghiêm Quang phê bình”),
- vừa ỏn ẻn giận lẫy (”Như trong bài đã viết, mà có người nói tôi lặp lại ít ra hai lần, công hàm của ông Đồng…”, “Phía VN nghĩ sao thì nghĩ, tôi chỉ đưa ra một dữ kiện”),
- vừa tranh thủ nói móc (”Về bạn Đông A, xin chào cố nhân. Bạn đã thành công trong việc «sa thải» ban biên tập báo Du Lịch chưa ? Hy vọng là chưa để bầu trời Việt Nam còn màu xanh hy vọng.”).
© talawas 2009
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)